Lý thuyết môn Triết học Mác - Lênin về Vai trò của quan điểm Triết học Mác – Lênin | Trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh

Triết học Mác - Lênin, một trong những dòng chảy tư tưởng mạnh mẽ nhất của thế kỷ XIX và XX, vẫn tiếp tục phát huy tác động sâu rộng đến không chỉ trên bình diện tư duy mà còn đánh dấu ấn hữu ích trong thực tiễn cuộc sống hiện đại.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

1.3. Vai trò của quan điểm Triết học Mác – Lênin
Triết học Mác - Lênin, một trong những dòng chảy tư tưởng mạnh mẽ nhất của thế kỷ
XIX và XX, vẫn tiếp tục phát huy tác động sâu rộng đến không chỉ trên bình diệnduy
mà còn đánh dấu ấn hữu ích trong thực tiễn cuộc sống hiện đại.
1.3.1. Vai trò của thế giới quan và phương pháp luận:
1.3.1.1. Nguồn gốc và quá trình hình thành:
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nhu cầu khách quan của phong trào công nhân
những người cách mạng tiến bộ trong việc giải phóng giai cấp công nhân khỏi áp bức bóc
lột. Đức khởi nguồn từ các tác phẩm của C.Mác F.Engels như "Tư bản luận", "Gia
đình tư sản", "Gốc gác gia đình, tư hữu tư nhân và nhà nước"... Được V.I.Lênin phát triển
bổ sung trong các tác phẩm như "Chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa kinh viễn lịch sử",
"Nhà nước và Cách mạng"...
1.3.1.2. Đối tượng nghiên cứu:
Vật lý học duy vật biện chứng: Nghiên cứu các quy luật vận động và phát triển của tự
nhiên, vật chất. Lịch sử triết học: Nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của
hội loài người. luận nhận thức: Nghiên cứu các quy luật của duy, quá trình nhận
thức chân lý.
1.3.1.3. Nội dung cơ bản:
Quan điểm duy vật biện chứng về thế giới tự nhiên và xã hội: Thế giới vật chất khách
quan tồn tại độc lập với ý thức, không ngừng vận động phát triển theo quy luật biện
chứng. luận về sự vận động phát triển của tự nhiên, hội, duy theo quy luật
biện chứng: thái độ phủ định của phủ định, lượng và chất, đấu tranh của các mâu thuẫn,...
Lý luận về vai trò của quần chúng nhân dân lao động trong sự vận động và phát triển của
hội, về cách mạng hội xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Phương pháp luận biện
chứng duy vật trong nhận thức cải tạo thực tiễn: Đứng trên quan điểm giai cấp công
nhân, kết hợp lý luận với thực tiễn, phê phán và hoàn thiện.
1.3.1.4. Đặc trưng và vai trò:
Đạt tới tầm cao mới về mặt luận so với triết học trước kia, bao quát được toàn bộ
thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Cung cấp thế giới quan,
phương pháp luận khoa học để nhận thứccải tạo thế giới theo hướng tiến bộ, phục vụ
sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân. Trở thành khí luận cho phong trào cách
mạng của giai cấp công nhâncác lực lượng hội tiến bộ nhằm xóa bỏ chế độ tư bản
và xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
1.3.2. Tư duy phê phán và Cái nhìn biện chứng:
1.3.2.1. Tư duy phê phán:
duy phê phán khả năng then chốt trong phương pháp luận của Triết học Mác -
Lênin, thể hiện tinh thần khoa học cách mạng của hệ tưởng này. không chấp
nhận một cách ngây thơ những điều được coi tự nhiên, đơn thuần hay máy móc,
luôn đặt ra nghi vấn, phân tích và đánh giá lại các quan niệm, lý thuyết một cách sâu sắc,
toàn diện. Với tư duy phê phán, con người không bị ràng buộc bởi những kiến giải có sẵn
thường xuyên đặt câu hỏi, tự vấn lại chính mình duy trì thái độ hoài nghi đối với
những gì đã được coi là chân lý. Quá trình đó giúp con người liên tục khám phá, vượt qua
giới hạn tri thức hiện tại để tiến tới những nhận thức mới, sâu sắc hơn về bản chất của sự
vật hiện tượng. duy phê phán động lực giúp vượt qua chủ nghĩa duy kinh
viện cũ kỹ, khơi dậy sự sáng tạo để nhận thức chân lý khách quan một cách khoa học.
1.3.2.2. Cái nhìn biện chứng:
Cái nhìn biện chứng phương pháp tiếp cận độc đáo để nhận thứcgiải thích bản
chất vận động, phát triển của thực tiễn trong Triết học Mác - Lênin. Phương pháp này
khám phá ra những mối liên hệ nội tại, mối quan hệ tương tác, đấu tranh giữa những mặt
đối lập bên trong sự vật, hiện tượng để từ đó hiểu được nguồn gốc, bản chất thực sự cũng
như quy luật vận động nội tại của chúng. Khác với cách nhìn một chiều, đơn giản chỉ
nhìn vào bề ngoài, cái nhìn biện chứng giúp con người quan sát sự vật một cách tổng thể,
đa chiều, nhìn thấy sự thống nhất giữa các mâu thuẫn, vấn đề và mối liên hệ phức tạp của
chúng trong mối tương quan biện chứng. Qua đó, cái nhìn biện chứng đưa ra cách hiểu
sâu sắc hơn về nguồn gốc, bản chất của sự vận động, thay đổi phát triển trong tự
nhiên, hội cũng như duy. Chính cái nhìn biện chứng đã mở ra lối duy mới, giải
phóng duy khỏi những khuôn khổ cứng nhắc, máy móc của chủ nghĩa duy vật siêu
hình.
1.3.2.3. Ứng dụng của Triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênin, được hình thành từ những ý tưởng của Karl Marx và Friedrich
Engels, đã trở thành một tầng lớp căn bản trong việc hướng dẫn hành động duy
trong nhiều lĩnh vực. Không chỉ giới hạn trong khái niệm lý thuyết, triết học này đã thâm
nhập vào nền tảng của khám phá khoa học và xã hội, cung cấp một công cụ để phân tích
hiểu sâu rộng các quá trình sự vận động của thực tiễn. Trong khoa học nghiên
cứu, phương pháp biện chứng là chìa khóa giúp khám phá ra bản chất và những mối liên
kết phức tạp ẩn dấu sau các hiện tượng nghiên cứu. Bằng việc áp dụng cái nhìn biện
chứng, chúng ta thể đi sâu vào cấu trúc của một vấn đề, từ đó phát hiện giải quyết
nó một cách toàn diện hơn.
Trong đời sống xã hội và kinh tế, triết học này đóng vai trò như một lăng kính để quan
sát đánh giá quá trình phát triển hội, giúp chúng ta cái nhìn tổng quát nhưng
không kém phần sắc bén về các tương tác biến chuyển trong cấu kinh tế môi
trường xã hội. Về mặt cá nhân, triết học Mác - Lênin khích lệ tư duy phê phán, đặt vấn đề
và tìm kiếm các câu trả lời có tính cách mạng, phá bỏ lối mòn tư duy cũ kỹ. Nó giúp mỗi
người chúng ta ngày càng ý thức và tự cải tiến bản thân thông qua việc phản chiếu và phê
phán một cách sâu sắc. Ở phương diện chính trị và cách mạng, triết học này cung cấp một
bộ công cụduy cho việc định hình chiến lược và hành động cách mạng, từ việc đưa ra
quan điểm phân tích xã hội đến việc xác định vai trò của các giai cấp và định hình lộ trình
cách mạng. Cuối cùng, triết học Mác - Lênin không chỉ giới hạn trong việc tạo ra các
luận điểm hay xây dựng lập luận, còn được ứng dụng trong việc tìm kiếm triển
khai giải pháp cho những vấn đề cụ thể, xoay quanh những thách thức thực tế mà chúng
ta đối mặt trong đời sống và phát triển xã hội.
1.3.3. Lý luận và Thực hành xã hội:
1.3.3.1. Ứng dụng Thực tiễn của triết học Mác – Lê Nin:
Triết học Mác - Lênin với những nguyên tắc bản của mình đã trở thành bàn đạp
cho nhiều hành động cải cách xây dựng hội. Không chỉ dừng lại việc một hệ
thống luận, triết học này còn một công cụ thực tiễn, nhất trong việc định hình
phương hướng cách mạng phát triển kinh tế - hội của các quốc gia theo hình
chủ nghĩa xã hội. Nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin là sự phân tích và xác định
vai trò của các lực lượng sản xuất trong mọi quá trình lịch scủa hội loài người. Sự
đấu tranh giai cấp, dưới ảnh hưởng của lối tư duy này, không chỉ được xem xét dưới góc
độ lịch sử còn qua cái nhìn của sự đối đầu giữa các giai cấp lợi ích kinh tế
quyền lực khác biệt. Vấn đề sở hữu liệu sản xuất, theo triết học Mác - Lênin, đặt ra
một cách thuần túy không phải chỉ là một quyền lợi kinh tế còn yếu tố quyết định
đến bản chất của quan hệ hội chính trị. Lý luận này đã trở thành căn cứ cho nhiều
cải cách nhằm mục đích xóa bỏ bất bình đẳng, cải thiện điều kiện làm việc, và phân phối
thu nhập một cách công bằng hơn.
1.3.3.2. Nhà nước qua góc độ Triết học Mác – Lênin:
Vai trò của nhà nước, dưới cái nhìn của triết học Mác - Lênin, không chỉ giới hạn
trong việc quản điều tiết còn đối tượng chủ đạo của sự thay đổi hội theo
hướng chủ nghĩa hội. Nhà nước được xem công cụ của giai cấp công nhân, nhằm
mục đích xây dựng một xã hội mà ở đó, quyền lực chính trị và kinh tế được điều chỉnh để
phục vụ lợi ích của đông đảo nhân dân, không chỉ một bộ phận nhỏ giàu có. Những
nguyên tắc này, khi được áp dụng vào thực tiễn, đã trải qua quá trình thích ứng biến
đổi để phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia và khu vực. Tuy nhiên, điểm chung
các chính đảng tổ chức cách mạng đã dùng luận này như một chỉ dẫn phát
triển các chiến lược nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội, với mục tiêu xây dựng một cấu trúc xã
hội công bằng và phát triển.
1.3.4. Tư tưởng chính trị và Quản lý kinh tế:
1.3.4.1. Mục tiêu và phương pháp quản lý kinh tế trong tư tưởng của Marx và Lenin:
tưởng chính trị quản kinh tế của Marx Lenin chủ yếu tập trung vào việc
tái phân chia quyền lực kinh tế từ tay một số ít người giàu sang tay của cộng đồng.
Theo quan điểm của họ, các nguồn lực kinh tế - bao gồm cả phương tiện sản xuất như đất
đai, nhà máy, máy móc các nguyên liệu thô - những tài sản quốc gia n được
kiểm soát bởi tập thể, thay vì là tư hữu cá nhân hay tư bản riêng rẽ. Mục tiêu cuối cùng là
tạo dựng một hội đó mọi thành viên đều quyền tiếp cận bình đẳng tới những
phương tiện này, đảm bảo việc phân bổ tài nguyên một cách công bằng theo nhu cầu
đóng góp của mỗi người.
Trong tâm của Marx Lenin, ý nghĩa của sự quản kinh tế tập trung không chỉ
dừng lại việc tiêu diệt các hình thái bất bình đẳng còn hướng tới việc tối ưu hóa
tiềm năng sản xuất thông qua kế hoạch hóa kinh tế. Theo thuyết, khi một nhà nước
quản tất cả các nguồn lực, họ có thể lập kế hoạch phân phối nguồn lực hiệu quả,
tránh lãng phí tài nguyên và anh hùng trong các lĩnh vực sản xuất không cần thiết. Điều
này giúp xóa bỏ tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, định giá cả thị trường hình
thành một xã hội sản xuất dựa trên nguyên tắc tập thể chung thay vì lợi ích cá nhân.
1.3.4.2. Ứng dụng Thực tế của tưởng Quản kinh tế Marx Lenin trong mục
tiêu xã hội:
Trong thực tiễn, một số quốc gia đã áp dụng quan điểm này để xây dựng nên các hình
thức quảnkinh tế như chủ nghĩa hội và sau đó chủ nghĩa cộng sản. Trong những
hình thái hội này, nhà nước hoặc những hợp tác kinh tế giữ vai trò chủ chốt trong
việc xác định mục tiêu phát triển, phân phối nguồn lực quản hoạt động sản xuất.
Những quyết định này thường được căn cứ trên những phân tích kỹ lưỡng lớn lao,
thay vì qua các cơ chế cung cầu tự do trên thị trường. Các chính sách và quyết định trong
quản lý kinh tế theo tư tưởng Marx và Lenin luôn hướng tới việc phục vụ lợi ích của quần
chúng lao động và nhằm mục tiêu đạt được sự tiến bộ xã hội chung
1.3.5. Triết học Mác – Lênin và ảnh hương đối với Nghệ thuật và văn hóa:
1.3.5.1. Nghệ thuật và văn hóa:
Triết học Mác - Lênin đã những ảnh hưởng không nhỏ đến lĩnh vực nghệ thuật
văn hóa, mở ra một góc nhìn mới mẻ về vị trí chức năng của chúng trong hội.
Không chỉ coi nghệ thuật văn hóa như những phản ánh của đời sống hàng ngày, triết
học này còn nhấn mạnh vai trò tích cực của chúng trong việc hình thànhmở rộng tầm
nhìn, cũng như ý thức chính trị và xã hội cho quần chúng.
Theo quan điểm của Marx Lenin, mọi tác phẩm nghệ thuật hay biểu hiện văn hóa
không chỉ phát sinh từ cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội mà còn chứa đựng năng lực để tác
động và chuyển hóa nhận thức cũng như quan điểm của người tiếp nhận. Điều này được
thể hiện qua ý tưởng rằng nghệ thuật văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với các giá trị
hội, phản ánh và phê phán các thực tiễn xã hội đồng thời nâng cao nhận thức và khích lệ
sự tiến bộ trong tư duy của công chúng.
1.3.5.2. Đôi nét về nghệ thuật văn hóa trong Triết học Mác – Lênin:
Nghệ thuật được coi là công cụ để truyền bá tư tưởng, đặc biệt là những ý tưởng về sự
công bằng và bình đẳng. Trong thời kỳ hưng thịnh của triết học Mác - Lênin, không ít tác
phẩm nghệ thuật - từ tranh ảnh, điêu khắc cho đến phim ảnh, âm nhạc văn học - đã
được tạo ra nhằm mục đích đề cao cuộc sống của người lao động chiến đấu chống lại
áp bức và bất công.
Văn hóa, theo tưởng của Marx Lenin, không chỉ tổng hòa của các sản phẩm
nghệ thuật còn toàn bộ lối sống truyền thống của một cộng đồng. Một hội
tiến bộ theo hướng Mác - Lênin sẽ phấn đấu không chỉ cho sự phát triển kinh tế còn
cho sự phát triển toàn diện của con người, bao gồm nghệ thuật và văn hóa. Thậm chí cả
kiến trúc thiết kế đô thị cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởngy - xây dựng không
gian sống làm việc sao cho phản ánh được nguyên tắc bình đẳng cộng đồng, từ đó
hỗ trợ và nuôi dưỡng nhu cầu văn hóa và tinh thần của người dân.
Mặc tưởng thực hành nghệ thuật dưới ảnh hưởng của triết học Mác -
Lênin thể đối diện với chỉ trích về sự giáo điều hay hạn chế sự sáng tạo tự do, không
thể phủ nhận rằng nó đã góp phần tạo dựng một nền tảng vững chắc cho việc quan sát và
hiểu biết hội từ nhiều góc độ khác nhau cũng như đặt nền móng cho một số trường
phái nghệ thuật cụ thể.
1.3.6. Triết học Mác – Lênin và ảnh hưởng đến khoa học công nghệ:
1.3.6.1. Khoa học công nghệ:
Tư tưởng của Mác - Lênin đã đặt nền móng lý thuyết cho sự phát triển đối với các
hội hội chủ nghĩa. Trong đó, việc chấp nhận đẩy mạnh tiến bộ khoa học công
nghệ là một phần không thể tách rời của quá trình tiến bộ xã hội. Theo tư tưởng này, khoa
học và công nghệ được xem là những lực lượng sản xuất chính yếu có khả năng thúc đẩy
cách mạng trong sản xuất, qua đó tối ưu hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.
Mác - Lênin nhấn mạnh rằng công nghệ cao khoa học tiên tiến không chỉ công
cụ để tăng năng suất lao động mà còn là yếu tố quan trọng giúp thúc đẩy sự tiến bộ của xã
hội thông qua việc giải phóng lực lượng lao động khỏi những công việc nặng nhọc và lạc
hậu. Điều này nghĩa sử dụng máy móc công nghệ thông minh để tự động hóa
nhiều khâu trong sản xuất, từ đó giảm thiểu sức lao động cần thiết nâng cao hiệu quả
công việc.
Trong thời đại hiện đại, áp dụng các phát minh mới trong các ngành công nghiệp chế
tạo và sản xuất đã giúp tăng tỷ lệ sản lượng mà không cần thêm nhiều nhân công, qua đó
giúp giảm chi phí lao động tăng tỷ suất lợi nhuận. Đồng thời, sự phát triển của công
nghệ thông tin viễn thông đã giúp thông tin lan truyền nhanh chóng, hỗ trợ quá trình
quản lý và điều phối sản xuất diễn ra mạch lạc và hiệu quả hơn.
1.3.6.2. Công nghệ và góc độ xã hội:
Từ góc độ hội, việc áp dụng các công nghệ mới cũng gián tiếp thúc đẩy đổi mới
trong giáo dục, đào tạo nghiên cứu khoa học, bởi lẽ nhu cầu của công việc tương lai
đòi hỏi một lực lượng lao động trình độ cao khả năng thích ứng với sự thay đổi
không ngừng. Khoa học công nghệ còn góp phần phát triển các ngành công nghiệp
sạch, đem lại lợi ích cho môi trường tạo ra những giải pháp bền vững cho các vấn đề
như biến đổi khí hậu và ô nhiễm.
Cần nhận thức được rằng, trong bất kỳ hệ thống hội nào, việc áp dụng những tiến
bộ công nghệ một cách hợp lợi đều phải đi đôi với sự quản điều chỉnh
chính sách sao cho phù hợp, nhằm đảm bảo công nghệ phục vụ lợi ích của người lao
động và xã hội nói chung. Đồng thời, việc này cũng cần đến sự góp sức của cả cộng đồng
khoa học, cũng như sự ủng hộ của cácchế chính trị và pháp luật, để công nghệ không
chỉ đạt được hiệu quả kinh tế mà còn hướng tới mục tiêu hội hóa, góp phần xây dựng
một tương lai công bằng và tiến bộ cho tất cả mọi người.
1.3.7. Triết học Mác – Lênin và ảnh hưởng đến Giáo dục và đào tạo:
1.3.7.1. Hình thành nhận thức xã hộ trong giáo dục và đào tạo:
Triết học Mác - Lênin quan niệm rằng giáo dục không chỉ là một quá trình truyền đạt
kiến thức mà còn là phương tiện cơ bản để hình thành nhận thức lịch sử và xã hội cho các
thế hệ lao động tương lai. Tầm quan trọng của giáo dục được coi là một trong những yếu
tố quyết định đến sự phát triển toàn diện của xã hội.
Ý tưởng về một nền giáo dục phổ cập công bằng đặt ra mục tiêu mở rộng hội
học tập đến mọi tầng lớp nhân dân. Điều này đảm bảo rằng mọi người, dù là giai cấp nào,
đều có cơ hội tiếp cận tri thức, qua đó thúc đẩy tính dân chủ và công bằng trong giáo dục.
Phổ cập giáo dục không những nâng cao trình độ dân trí, còn tạo ra những điều kiện
cần thiết để hình thành một lực lượng lao động kỹ năng hiểu biết chuyên sâu, sẵn
sàng đáp ứng các yêu cầu của xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nền giáo dục mà Mác - Lênin đề xuất nhấn mạnh không chỉ vào kiến thức vững chắc
mà còn coi trọng việc phát triển tư duy phản biện và khả năng sáng tạo. Điều này bộc lộ ở
việc khuyến khích giới trẻ nghiên cứu, đặt câu hỏi và tìm hiểu sâu rộng, không ngừng tìm
tòi và khám phá. Thông qua quá trình này, giới trẻ không chỉ được trang bị kiến thức
còn hình thành khả năng phân tích, đánh giáđưa ra giải pháp cho các vấn đề phức tạp
của thực tiễn.
1.3.7.2. Mục tiêu và vai trò của giáo dục:
Mục tiêu giáo dục theo tư tưởng Mác - Lênin còn bao gồm việc giáo dục ý thức lớp và
giác ngộ chính trị, giúp giới trẻ nhận thức được vị trí, quyền lợi, và nghĩa vụ của bản thân
trong hội. Nền giáo dục này hướng tới việc xóa bỏ mọi hình thức bất bình đẳng
phân biệt đối xử, từ đó phấn đấu cho một xã hội công bằng và minh bạch.
Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, cần phải sự đầumạnh mẽ vào hệ thống
giáo dục từ cơ sở vật chất cho đến phương pháp giảng dạy, đồng thời liên tục cải cách
cập nhật chương trình giáo dục để phản ánh sự phát triển không ngừng của khoa học - kỹ
thuật và thực tiễnhội. Thế mới thấy, giáo dục theotưởng Mác - Lênin không chỉ là
nền tảng để phát triển kinh tế mà còn là công cụ để chuẩn bị và hình thành nhựa sống mới
của hội, những người trẻ tuổi với lòng yêu nước, trình độ hiểu biết sâu sắc, lòng
nhiệt huyết thúc đẩy xã hội tiến lên phía trước.
1.3.7. Triết học Mác – Lênin trong thời đại toàn cầu hóa:
Trong khuôn khổ toàn cầu hóa thời đại thông tin như hiện nay, Triết học Mác -
Lênin không chỉ giữ nguyên còn cần được hiểu vận dụng một cách linh hoạt để
phản ánh đúng đắn những thách thức mới tình hình phát triển đa dạng của thế giới.
Các quan điểm và phân tích truyền thống về lịch sử hội cần được cập nhật để phù
hợp với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh tế, văn hóa và chính trị toàn cầu.
Thời đại toàn cầu thời đại của sự vận động không ngừng, nơi các quốc gia kết
nối với nhau chặt chẽ hơn qua mạng lưới kinh tếthông tin phức tạp. Điều này đòi hỏi
sự thích ứng của triết học Mác - Lênin, không chỉ trong khía cạnh luận còn trong
cách tiếp cận giải quyết các vấn đề thực tiễn. Cách mạng công nghiệp 4.0 sự phát
triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đặt ra những yêu cầu mới cho việc phát triển lực
lượng sản xuất hình thái hội, tạo hội thách thức mới cho việc tìm kiếm công
bằng và tiến bộ xã hội.
Sự thâm nhập của triết học Mác - Lênin trong việc phân tách các quan hệ kinh tế
hội ngày nay không thể giản đơn như trước đây, mà cần được phân tích dưới góc độ toàn
cầu, xét đến các yếu tố như chủ nghĩa bản đa quốc gia, các khối kinh tế vùng liên
khu vực, cũng như tác động đối với môi trường vấn đề nguồn lực. Những nguyên tắc
về quyền lực, tài sản và phân phối lại cần được xem xét lại trong bối cảnh mới, nơi mà sự
chia sẻ thông tin và cộng đồng mạng đóng vai trò quan trọng.
Rõ ràng là sự toàn cầu hoá đã và đang tạo ra cả cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi một
sự điều chỉnh tư duy trong việc áp dụng và kiên trì với các nguyên tắc của Triết học Mác
- Lênin. Kinh tế thị trường tự do hoá kinh tế, sự phát triển của các công ty đa quốc,
cũng như sự mở cửa phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế điều không thể tránh
khỏi, nhưng cách thức áp dụng và điều chỉnh chính sách để vẫn giữ vững được những giá
trị cốt lõi là một thách thức lớn.
1.3.8. Đổi mới tư duy lý luận của Đảng:
1.3.8.1. Tư duy đổi mới trong Triết học Mác – Lênin :
duy luận tiền đề vững chắc đỉnh cao của quá trình duy, nhấn mạnh sự
tái tạo hiện thực khách quan cùng sự vận dụng luận thành các giả thuyết bản chất
liên kết chắc chắn. Đảng lực lượng lãnh đạo độc nhất nhị, được giao trọng trách
lãnh đạo Nhà nước hội Việt Nam hướng tới mục tiêu chủ nghĩa hội, đã nhận
thức sâu sắc về sự cần thiết của việc đổi mới không ngừng nghỉ, thông qua việc cải thiện
và nâng cao trình độ lý luận của mình.
Trong một thế giới đấy những biến động khó lường, với những thờivà thách thức
đặt ra, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi một bước tiến mạnh mẽ trong việc
đổi mới duy luận. Đây tiêu chí cốt lõi của Đảng nhằm đáp ứng kịp thời linh
hoạt với các yêu cầu không ngừng phát triển của thực tiễn cả những dự báo về tương
lai. luận, theo đó, không chỉ sự phản ánh của thực tiễn còn phải trở thành ánh
đèn hướng dẫn, cần phải luôn khả năng tiên phong và song hành cùng những sự kiện
thực tiễn, cùng với một tầm nhìn xa vượt ra khỏi hiện tại, có khả năng dự đoán và thể chế
hóa được những đổi thay sắp tới.
Hơn 36 năm của quá trình đổi mới đã chứng minh củng cố vị thế lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc điều hành các chính sách dẫn dắt đất nước. Từ
việc nắm bắt điều chỉnh Cương lĩnh xây dựng đất nước, Đảng đã thể hiện stiếp cận
diễn dịch thuyết phù hợp với điều kiện đặc thù quốc gia, đồng thời phản ánh đúng
xu thế thời đại. Tất cả những điều này sự khẳng định việc vận dụng phát triển
thuyết Mác - Lê-nin tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện một cách sáng tạo linh
hoạt trên mảnh đất Việt Nam, phù hợp với loạt quy luật khách quan.
Thực tiễn đất nước bài học từ sự phát triển cũng như những trở ngại từ hình
chủ nghĩahội trên thế giới đã đóng góp vào việc hình thành mộtluận phong phú,
thuyết thực tiễn không ngừng đối thoại, từ đó trau dồi đổi mới không ngừng.
thuyết chủ nghĩa xã hội và con đường tiếp tục phát triển của Việt Nam đã luôn luôn được
thích ứng với thực tế quốc gia yêu cầu của thời đại, trên nền tảng văn hoá những
tiến bộ của nhân loại được kế thừa và chọn lọc một cách khôn ngoan. Tư duy lý luận của
Đảng không chỉ thể hiện mình qua sự giàu về mặt nghiên cứu mà còn chứng tỏ được
tính ứng dụng cao trong việc đáp ứng giải quyết các thách thức thực tế, như minh
chứng cho sức sống, sự phát triển không ngừng của thuyết chính trị trong thời đại
mới.
1.3.8.2. Đổi mới và phát triền lý thuyết trong Đảng:
Mục tiêu và những nền tảng cơ bản của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và việc bảo vệ
Tổ quốc quá trình dài hạn cùng quan trọng. Trên hành trình xác định phương
hướng đích đến, việc không ngừng bổ sung phát triển thuyết dựa trên những
nhận thức quan trọng đã trở thành một điều cực kỳ cần thiết. Việc này đòi hỏi một cái
nhìn tổng quát và sâu sắc hơn về những mục tiêu và đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, đồng
thời cũng cần có sự đánh giá và phân tích về những phương hướng cơ bản, xác lập những
mối quan hệ mang tính quy luật trong quá trình chuyển đổi này.
Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa được coi hình phát triển tổng
quát của nền kinh tế Việt Nam, và việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội
và công bằng xã hội chính là nhân tố quyết định. Đây không chỉ là cách tiếp cận sáng tạo
trong quản lý kinh tế, mà còn là bản lề nâng cao chất lượng cuộc sống, với việc phát huy
nhân tố con người đặt quyền lợi của nhân dân ngay tại trung tâm. Văn hóa, như được
nhấn mạnh, là nền tảng tinh thần của xã hội và là động lực thúc đẩy phát triển.
Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam được khẳng định Nhà nước của
dân, do dân dân, và việc đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng
hoàn thiện các thể chế, phát huy dân chủ quyền làm chủ của nhân dân không thể
thiếu. Đây tiến trình yêu cầu sự phát triển của hình tổ chứcràng hóa vai trò
của các quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực trên sở các nguyên tắc pháp
quyền.
Về phần Đảng, việc nhận thức sâu sắc hơn bản chất, tính cách mạng tính tiên
phong của Đảng nền tảng cho vai trò lãnh đạo cầm quyền, với yêu cầu cao đối với
việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện. Không chỉ dừng lại việc nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, việc này còn yêu cầu một đội ngũ cán
bộ có phẩm chất, năng lực và uy tín.
Việc bảo đảm quốc phòng, an ninh được xem nhiệm vụ trọng yếu, với sự kết hợp
chặt chẽ giữa việc đảm bảo quốc phòng, an ninh phát triển kinh tế - hội. luận
quốc phòng, an ninh, cũng như tư duy về bảo vệ Tổ quốc cần phải được hoàn thiện để đối
phó với các nguy tiềm ẩn, trên sở xây dựng thế trận lòng dân vững chắc lực
lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại.
phương diện đối ngoại, sự hoàn thiện nhận thức sâu sắc hơn về đường lối độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác phát triển rất quan trọng. Việt Nam không chỉbạn
bè, đối tác tin cậy mà còn là thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Chủ động tích cực trong hội nhập quốc tế toàn diện, điều không thể thiếu để bảo
đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.
Cuối cùng, việc nghiên cứu, bổ sung nhiệm vụ xây dựng Đảng về mọi mặt từ chính
trị, tưởng, đạo đức, tổ chức đến cán bộ, cùng với việc nghiên cứu cụ thể hoá các biểu
hiện của sự suy thoái, kiểm soát quyền lực bảo vệ tưởng của Đảng vô cùng cần
thiết. Thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và bảo đảm kỷ cương
hội, cùng với việc nghiên cứu, tiếp thu các tư tưởng tiến bộ trên thế giới cũng là một phần
không thể thiếu trong quá trình đổi mới và phát triển của Đảng.
Việc cụ thể hóa những ý tưởng và lý thuyết này thành những chính sách và hành động
cụ thể là một thách thức đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng từ phía Đảng cũng như chính phủ
và toàn thể nhân dân, trong nỗ lực chung để xây dựng một Việt Nam giàu mạnh, dân chủ,
công bằng và văn minh.
1.3.8.3. Tư duy lý luận của Đảng, đổi mới, phát triển và thực hiện nhiệm vụ, yêu cầu:
Tăng cường nhận thức về vai trò của công tác nghiên cứu luận bước đầu tiên
không thể thiếu trong quá trình củng cố hệ thống quản hướng dẫn tưởng của
Đảng. Đây chính yêu cầu đặt ra đối với các cấp ủy Đảng, từ Trung ương đến địa
phương, nhằm mục tiêu mở rộng sâu rộng ảnh hưởng của phạm trùluận trong việc
thúc đẩy sự phát triển của cả một hệ thống hành chínhcác chủ trương, chính sách của
Đảng Nhà nước. Thực hiện theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, yêu cầu
này đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ
nghiên cứu luận, vận dụng sáng tạo luận vào việc hoạch định các chiến lược phát
triển kinh tế - hội cho cả những mục tiêu dài hạn đến năm 2030, tầm nhìn xa hơn
nữa đến năm 2045.
Việc cầm cương, điều phối tổng quan nhiệm vụ này yêu cầu Bộ Chính trị Ban
thư phải giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm sự thống nhất trong định hướng nghiên cứu để phục
vụ mục tiêu tổng thể. Cần phảisự tổng kết sâu sắc các nội dung luận chủ đạo, tăng
cường sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan nghiên cứu lý luận tại Trung ương với những
yêu cầu thực tiễn tại cấp địa phương, nhằm phát huy trách nhiệm lớn lao của cấp ủy
người đứng đầu.
Không chỉ giới hạn việc nâng cao nhận thức, Đảng còn cần phải chú trọng đẩy
mạnh công tác tổng kết thực tiễn, qua đó nâng tầm duy luận của Đảng. Điều này
đồng nghĩa với việc thu hẹp khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn để đem lại lợi ích thiết
thực và hiệu quả trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Sự gắn kết này yêu cầu
phải thấu đáo và sâu sắc giữa việc tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, giữa cơ quan
khoa học và quản lý xã hội, và giữa các cấp, các ngành.
Học tập quán triệt nghị quyết của Đảng cũng cần phải sự đổi mới về chương
trình, nội dung phương pháp, hướng tới việc xây dựng luận phải khoa học thực
tiễn. Cách tiếp cận này phải được cập nhật, sáng tạo hiện đại, đảm bảo quá trình học
tập của cán bộ, đảng viên, bảo đảm tính thiết thực, phù hợp từng đối tượng và chất lượng,
hiệu quả trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng.
Để thực hiện hiệu quả những mục tiêu trên, việc củng cố và nâng cao chất lượng hoạt
động của các cơ quan nghiên cứu lý luận chính trị của Đảng và Nhà nướcvô cùng cần
thiết. Sự đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các cơ quan nghiên cứu là
yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả công việc, đặc biệt cần hoàn thiện chế lãnh
đạo, chỉ đạo, phối hợp hoạt động giữa các quan chức năng liên quan đến công
tác luận chính trị, từ việc tham mưu, vấn, nghiên cứu đến tuyên truyền, giáo dục.
Đặc biệt, cần phải có sự đẩy mạnh cơ chế đặt hàng, vận dụng linh hoạt các nguồn lực để
hỗ trợ cho công tác nghiên cứu, đáp ứng kịp thời và hiệu quả những yêu cầu mới của thực
tiễn và đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước.
Để thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra, việc nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng ở các
cấp về vai trò của công tác nghiên cứu lý luậnhết sức quan trọng. Điều này không chỉ
là việc tăng cường công tác lãnh đạochỉ đạo sự tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm
vụ và giải pháp nghiên cứu theo tinh thần của Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, mà còn là
nâng cao nhận thức để từ đó tiến hành các hoạt động nghiên cứu một cách sáng tạo và hệ
thống.
Cụ thể hơn việc nâng cao nhận thức này đòi hỏi sự quan tâm, điều hành chỉ đạo
một cách thống nhất từ Bộ Chính trị Ban thư trong lĩnh vực nghiên cứu luận.
Việc định hướng nghiên cứu phải đáp ứng nhu cầu xây dựng, hoạch định đường lối, chủ
trương của Đảng cũng như các chính sách pháp luật của Nhà nước từ nay đến năm
2030 tầm nhìn xa hơn đến năm 2045. Các quan nghiên cứu luận Trung
ương cần phối hợp chặt chẽ để tổng kết và nghiên cứu những vấn đề lý luận lớn, đáp ứng
nhu cầu của thực tiễn. Đồng thời, cần tăng cường vai trò của người đứng đầu các địa
phương, đơn vị trong việc lãnh đạo và chỉ đạo công tác lý luận.
Quá trình học tập quán triệt nghị quyết của Đảng cũng cần được đổi mới để bảo
đảm sự thiết thực và hiệu quả. Việc đào tạo và bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị cũng
đòi hỏi sự cải tiến về chương trình, nội dung phương pháp giáo dục, nhằm đảm bảo
thông điệp khoa học, thực tiễn và sáng tạo. Các chương trình giáo dục lý luận cho cán bộ,
đảng viên và cán bộ lãnh đạo ở các cấp, đặc biệt là cấp chiến lược, cần được xây dựng và
vận hành một cách nhất quán và phù hợp với từng đối tượng.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận chính
trị của Đảng và Nhà nước qua việc đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động là
điểm then chốt. Cần có sự hoàn thiệnchế lãnh đạo, chỉ đạophối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan có chức năng trong lĩnh vực lý luận chính trị.
Thực hiện dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị chính là việc tạo điều kiện để cá
nhân và tổ chứcthể tự do sáng tạo, độc lập suy nghĩ thực hiện các nghiên cứu một
cách đầy đủ phong phú, phản ánh đa dạng ý kiến quan điểm. Việc này không chỉ
giúp phát triển lý luận chính trị mà còn đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển đất
nước. Điều cần thiếtcần có cơ chế bảo vệkhuyến khích những người có tư duy đổi
mới, sáng tạo trong lĩnh vực này.
Không thể bỏ qua tầm quan trọng của việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trao đổi
luận với các đảng cầm quyền, đảng tham chính và các tổ chức chính trị trên thế giới. Việc
này không chỉ giúp học hỏi tiếp thu kinh nghiệm từ các nước khác, mà còn giúp giới
thiệu và quảng bá những lý luận đặc sắc của Đảng ta ra thế giới.
Cuối cùng, việc tạo ra chế môi trường thuận lợi cho công tác nghiên cứu
luận, bao gồm việc được đầu nguồn lực tài chính cần thiết sự đặc biệt chú ý đến
việc thu hút và đãi ngộ đội ngũ làm nghiên cứu, tuyên truyền và giáo dục lý luận chính trị
phải được đưa thành nền tảng vững chắc để thúc đẩy công tác luận tiến xa hơn, đáp
ứng yêu cầu mới trong thời đại hiện nay.
| 1/12

Preview text:

1.3. Vai trò của quan điểm Triết học Mác – Lênin
Triết học Mác - Lênin, một trong những dòng chảy tư tưởng mạnh mẽ nhất của thế kỷ
XIX và XX, vẫn tiếp tục phát huy tác động sâu rộng đến không chỉ trên bình diện tư duy
mà còn đánh dấu ấn hữu ích trong thực tiễn cuộc sống hiện đại.
1.3.1. Vai trò của thế giới quan và phương pháp luận:
1.3.1.1. Nguồn gốc và quá trình hình thành:
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nhu cầu khách quan của phong trào công nhân và
những người cách mạng tiến bộ trong việc giải phóng giai cấp công nhân khỏi áp bức bóc
lột. Đức khởi nguồn từ các tác phẩm của C.Mác và F.Engels như "Tư bản luận", "Gia
đình tư sản", "Gốc gác gia đình, tư hữu tư nhân và nhà nước"... Được V.I.Lênin phát triển
và bổ sung trong các tác phẩm như "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh viễn lịch sử",
"Nhà nước và Cách mạng"...
1.3.1.2. Đối tượng nghiên cứu:
Vật lý học duy vật biện chứng: Nghiên cứu các quy luật vận động và phát triển của tự
nhiên, vật chất. Lịch sử triết học: Nghiên cứu các quy luật vận động và phát triển của xã
hội loài người. Lý luận nhận thức: Nghiên cứu các quy luật của tư duy, quá trình nhận thức chân lý. 1.3.1.3. Nội dung cơ bản:
Quan điểm duy vật biện chứng về thế giới tự nhiên và xã hội: Thế giới vật chất khách
quan tồn tại độc lập với ý thức, không ngừng vận động và phát triển theo quy luật biện
chứng. Lý luận về sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy theo quy luật
biện chứng: thái độ phủ định của phủ định, lượng và chất, đấu tranh của các mâu thuẫn,...
Lý luận về vai trò của quần chúng nhân dân lao động trong sự vận động và phát triển của
xã hội, về cách mạng xã hội và xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Phương pháp luận biện
chứng duy vật trong nhận thức và cải tạo thực tiễn: Đứng trên quan điểm giai cấp công
nhân, kết hợp lý luận với thực tiễn, phê phán và hoàn thiện.
1.3.1.4. Đặc trưng và vai trò:
Đạt tới tầm cao mới về mặt lý luận so với triết học trước kia, bao quát được toàn bộ
thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Cung cấp thế giới quan,
phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới theo hướng tiến bộ, phục vụ
sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân. Trở thành vũ khí lý luận cho phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân và các lực lượng xã hội tiến bộ nhằm xóa bỏ chế độ tư bản
và xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
1.3.2. Tư duy phê phán và Cái nhìn biện chứng: 1.3.2.1. Tư duy phê phán:
Tư duy phê phán là khả năng then chốt trong phương pháp luận của Triết học Mác -
Lênin, thể hiện tinh thần khoa học và cách mạng của hệ tư tưởng này. Nó không chấp
nhận một cách ngây thơ những điều được coi là tự nhiên, đơn thuần hay máy móc, mà
luôn đặt ra nghi vấn, phân tích và đánh giá lại các quan niệm, lý thuyết một cách sâu sắc,
toàn diện. Với tư duy phê phán, con người không bị ràng buộc bởi những kiến giải có sẵn
mà thường xuyên đặt câu hỏi, tự vấn lại chính mình và duy trì thái độ hoài nghi đối với
những gì đã được coi là chân lý. Quá trình đó giúp con người liên tục khám phá, vượt qua
giới hạn tri thức hiện tại để tiến tới những nhận thức mới, sâu sắc hơn về bản chất của sự
vật và hiện tượng. Tư duy phê phán là động lực giúp vượt qua chủ nghĩa duy lý và kinh
viện cũ kỹ, khơi dậy sự sáng tạo để nhận thức chân lý khách quan một cách khoa học.
1.3.2.2. Cái nhìn biện chứng:
Cái nhìn biện chứng là phương pháp tiếp cận độc đáo để nhận thức và giải thích bản
chất vận động, phát triển của thực tiễn trong Triết học Mác - Lênin. Phương pháp này
khám phá ra những mối liên hệ nội tại, mối quan hệ tương tác, đấu tranh giữa những mặt
đối lập bên trong sự vật, hiện tượng để từ đó hiểu được nguồn gốc, bản chất thực sự cũng
như quy luật vận động nội tại của chúng. Khác với cách nhìn một chiều, đơn giản chỉ
nhìn vào bề ngoài, cái nhìn biện chứng giúp con người quan sát sự vật một cách tổng thể,
đa chiều, nhìn thấy sự thống nhất giữa các mâu thuẫn, vấn đề và mối liên hệ phức tạp của
chúng trong mối tương quan biện chứng. Qua đó, cái nhìn biện chứng đưa ra cách hiểu
sâu sắc hơn về nguồn gốc, bản chất của sự vận động, thay đổi và phát triển trong tự
nhiên, xã hội cũng như tư duy. Chính cái nhìn biện chứng đã mở ra lối tư duy mới, giải
phóng tư duy khỏi những khuôn khổ cứng nhắc, máy móc của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
1.3.2.3. Ứng dụng của Triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênin, được hình thành từ những ý tưởng của Karl Marx và Friedrich
Engels, đã trở thành một tầng lớp căn bản trong việc hướng dẫn hành động và tư duy
trong nhiều lĩnh vực. Không chỉ giới hạn trong khái niệm lý thuyết, triết học này đã thâm
nhập vào nền tảng của khám phá khoa học và xã hội, cung cấp một công cụ để phân tích
và hiểu sâu rộng các quá trình và sự vận động của thực tiễn. Trong khoa học và nghiên
cứu, phương pháp biện chứng là chìa khóa giúp khám phá ra bản chất và những mối liên
kết phức tạp ẩn dấu sau các hiện tượng nghiên cứu. Bằng việc áp dụng cái nhìn biện
chứng, chúng ta có thể đi sâu vào cấu trúc của một vấn đề, từ đó phát hiện và giải quyết
nó một cách toàn diện hơn.
Trong đời sống xã hội và kinh tế, triết học này đóng vai trò như một lăng kính để quan
sát và đánh giá quá trình phát triển xã hội, giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát nhưng
không kém phần sắc bén về các tương tác và biến chuyển trong cơ cấu kinh tế và môi
trường xã hội. Về mặt cá nhân, triết học Mác - Lênin khích lệ tư duy phê phán, đặt vấn đề
và tìm kiếm các câu trả lời có tính cách mạng, phá bỏ lối mòn tư duy cũ kỹ. Nó giúp mỗi
người chúng ta ngày càng ý thức và tự cải tiến bản thân thông qua việc phản chiếu và phê
phán một cách sâu sắc. Ở phương diện chính trị và cách mạng, triết học này cung cấp một
bộ công cụ tư duy cho việc định hình chiến lược và hành động cách mạng, từ việc đưa ra
quan điểm phân tích xã hội đến việc xác định vai trò của các giai cấp và định hình lộ trình
cách mạng. Cuối cùng, triết học Mác - Lênin không chỉ giới hạn trong việc tạo ra các
luận điểm hay xây dựng lập luận, mà còn được ứng dụng trong việc tìm kiếm và triển
khai giải pháp cho những vấn đề cụ thể, xoay quanh những thách thức thực tế mà chúng
ta đối mặt trong đời sống và phát triển xã hội.
1.3.3. Lý luận và Thực hành xã hội:
1.3.3.1. Ứng dụng Thực tiễn của triết học Mác – Lê Nin:
Triết học Mác - Lênin với những nguyên tắc cơ bản của mình đã trở thành bàn đạp
cho nhiều hành động cải cách và xây dựng xã hội. Không chỉ dừng lại ở việc là một hệ
thống lý luận, triết học này còn là một công cụ thực tiễn, nhất là trong việc định hình
phương hướng cách mạng và phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia theo mô hình
chủ nghĩa xã hội. Nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin là sự phân tích và xác định
vai trò của các lực lượng sản xuất trong mọi quá trình lịch sử của xã hội loài người. Sự
đấu tranh giai cấp, dưới ảnh hưởng của lối tư duy này, không chỉ được xem xét dưới góc
độ lịch sử mà còn qua cái nhìn của sự đối đầu giữa các giai cấp có lợi ích kinh tế và
quyền lực khác biệt. Vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, theo triết học Mác - Lênin, đặt ra
một cách thuần túy không phải chỉ là một quyền lợi kinh tế mà còn là yếu tố quyết định
đến bản chất của quan hệ xã hội và chính trị. Lý luận này đã trở thành căn cứ cho nhiều
cải cách nhằm mục đích xóa bỏ bất bình đẳng, cải thiện điều kiện làm việc, và phân phối
thu nhập một cách công bằng hơn.
1.3.3.2. Nhà nước qua góc độ Triết học Mác – Lênin:
Vai trò của nhà nước, dưới cái nhìn của triết học Mác - Lênin, không chỉ giới hạn
trong việc quản lý và điều tiết mà còn là đối tượng chủ đạo của sự thay đổi xã hội theo
hướng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước được xem là công cụ của giai cấp công nhân, nhằm
mục đích xây dựng một xã hội mà ở đó, quyền lực chính trị và kinh tế được điều chỉnh để
phục vụ lợi ích của đông đảo nhân dân, không chỉ là một bộ phận nhỏ giàu có. Những
nguyên tắc này, khi được áp dụng vào thực tiễn, đã trải qua quá trình thích ứng và biến
đổi để phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia và khu vực. Tuy nhiên, điểm chung
là các chính đảng và tổ chức cách mạng đã dùng lý luận này như một chỉ dẫn và phát
triển các chiến lược nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội, với mục tiêu xây dựng một cấu trúc xã
hội công bằng và phát triển.
1.3.4. Tư tưởng chính trị và Quản lý kinh tế:
1.3.4.1. Mục tiêu và phương pháp quản lý kinh tế trong tư tưởng của Marx và Lenin:
Tư tưởng chính trị và quản lý kinh tế của Marx và Lenin chủ yếu tập trung vào việc
tái phân chia quyền lực kinh tế từ tay một số ít người giàu có sang tay của cộng đồng.
Theo quan điểm của họ, các nguồn lực kinh tế - bao gồm cả phương tiện sản xuất như đất
đai, nhà máy, máy móc và các nguyên liệu thô - là những tài sản quốc gia và nên được
kiểm soát bởi tập thể, thay vì là tư hữu cá nhân hay tư bản riêng rẽ. Mục tiêu cuối cùng là
tạo dựng một xã hội mà ở đó mọi thành viên đều có quyền tiếp cận bình đẳng tới những
phương tiện này, đảm bảo việc phân bổ tài nguyên một cách công bằng theo nhu cầu và
đóng góp của mỗi người.
Trong tâm tư của Marx và Lenin, ý nghĩa của sự quản lý kinh tế tập trung không chỉ
dừng lại ở việc tiêu diệt các hình thái bất bình đẳng mà còn hướng tới việc tối ưu hóa
tiềm năng sản xuất thông qua kế hoạch hóa kinh tế. Theo lý thuyết, khi một nhà nước
quản lý tất cả các nguồn lực, họ có thể lập kế hoạch và phân phối nguồn lực hiệu quả,
tránh lãng phí tài nguyên và anh hùng trong các lĩnh vực sản xuất không cần thiết. Điều
này giúp xóa bỏ tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, định giá cả thị trường và hình
thành một xã hội sản xuất dựa trên nguyên tắc tập thể chung thay vì lợi ích cá nhân.
1.3.4.2. Ứng dụng Thực tế của Tư tưởng Quản lý kinh tế Marx và Lenin trong mục tiêu xã hội:
Trong thực tiễn, một số quốc gia đã áp dụng quan điểm này để xây dựng nên các hình
thức quản lý kinh tế như chủ nghĩa xã hội và sau đó là chủ nghĩa cộng sản. Trong những
hình thái xã hội này, nhà nước hoặc những hợp tác xã kinh tế giữ vai trò chủ chốt trong
việc xác định mục tiêu phát triển, phân phối nguồn lực và quản lý hoạt động sản xuất.
Những quyết định này thường được căn cứ trên những phân tích kỹ lưỡng và lớn lao,
thay vì qua các cơ chế cung cầu tự do trên thị trường. Các chính sách và quyết định trong
quản lý kinh tế theo tư tưởng Marx và Lenin luôn hướng tới việc phục vụ lợi ích của quần
chúng lao động và nhằm mục tiêu đạt được sự tiến bộ xã hội chung
1.3.5. Triết học Mác – Lênin và ảnh hương đối với Nghệ thuật và văn hóa:
1.3.5.1. Nghệ thuật và văn hóa:
Triết học Mác - Lênin đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến lĩnh vực nghệ thuật và
văn hóa, mở ra một góc nhìn mới mẻ về vị trí và chức năng của chúng trong xã hội.
Không chỉ coi nghệ thuật và văn hóa như những phản ánh của đời sống hàng ngày, triết
học này còn nhấn mạnh vai trò tích cực của chúng trong việc hình thành và mở rộng tầm
nhìn, cũng như ý thức chính trị và xã hội cho quần chúng.
Theo quan điểm của Marx và Lenin, mọi tác phẩm nghệ thuật hay biểu hiện văn hóa
không chỉ phát sinh từ cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội mà còn chứa đựng năng lực để tác
động và chuyển hóa nhận thức cũng như quan điểm của người tiếp nhận. Điều này được
thể hiện qua ý tưởng rằng nghệ thuật và văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với các giá trị xã
hội, phản ánh và phê phán các thực tiễn xã hội đồng thời nâng cao nhận thức và khích lệ
sự tiến bộ trong tư duy của công chúng.
1.3.5.2. Đôi nét về nghệ thuật văn hóa trong Triết học Mác – Lênin:
Nghệ thuật được coi là công cụ để truyền bá tư tưởng, đặc biệt là những ý tưởng về sự
công bằng và bình đẳng. Trong thời kỳ hưng thịnh của triết học Mác - Lênin, không ít tác
phẩm nghệ thuật - từ tranh ảnh, điêu khắc cho đến phim ảnh, âm nhạc và văn học - đã
được tạo ra nhằm mục đích đề cao cuộc sống của người lao động và chiến đấu chống lại áp bức và bất công.
Văn hóa, theo tư tưởng của Marx và Lenin, không chỉ là tổng hòa của các sản phẩm
nghệ thuật mà còn là toàn bộ lối sống và truyền thống của một cộng đồng. Một xã hội
tiến bộ theo hướng Mác - Lênin sẽ phấn đấu không chỉ cho sự phát triển kinh tế mà còn
cho sự phát triển toàn diện của con người, bao gồm nghệ thuật và văn hóa. Thậm chí cả
kiến trúc và thiết kế đô thị cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng này - xây dựng không
gian sống và làm việc sao cho phản ánh được nguyên tắc bình đẳng và cộng đồng, từ đó
hỗ trợ và nuôi dưỡng nhu cầu văn hóa và tinh thần của người dân.
Mặc dù tư tưởng và thực hành nghệ thuật dưới ảnh hưởng của triết học Mác -
Lênin có thể đối diện với chỉ trích về sự giáo điều hay hạn chế sự sáng tạo tự do, không
thể phủ nhận rằng nó đã góp phần tạo dựng một nền tảng vững chắc cho việc quan sát và
hiểu biết xã hội từ nhiều góc độ khác nhau cũng như đặt nền móng cho một số trường
phái nghệ thuật cụ thể.
1.3.6. Triết học Mác – Lênin và ảnh hưởng đến khoa học công nghệ:
1.3.6.1. Khoa học công nghệ:
Tư tưởng của Mác - Lênin đã đặt nền móng lý thuyết cho sự phát triển đối với các xã
hội xã hội chủ nghĩa. Trong đó, việc chấp nhận và đẩy mạnh tiến bộ khoa học và công
nghệ là một phần không thể tách rời của quá trình tiến bộ xã hội. Theo tư tưởng này, khoa
học và công nghệ được xem là những lực lượng sản xuất chính yếu có khả năng thúc đẩy
cách mạng trong sản xuất, qua đó tối ưu hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.
Mác - Lênin nhấn mạnh rằng công nghệ cao và khoa học tiên tiến không chỉ là công
cụ để tăng năng suất lao động mà còn là yếu tố quan trọng giúp thúc đẩy sự tiến bộ của xã
hội thông qua việc giải phóng lực lượng lao động khỏi những công việc nặng nhọc và lạc
hậu. Điều này có nghĩa là sử dụng máy móc và công nghệ thông minh để tự động hóa
nhiều khâu trong sản xuất, từ đó giảm thiểu sức lao động cần thiết và nâng cao hiệu quả công việc.
Trong thời đại hiện đại, áp dụng các phát minh mới trong các ngành công nghiệp chế
tạo và sản xuất đã giúp tăng tỷ lệ sản lượng mà không cần thêm nhiều nhân công, qua đó
giúp giảm chi phí lao động và tăng tỷ suất lợi nhuận. Đồng thời, sự phát triển của công
nghệ thông tin và viễn thông đã giúp thông tin lan truyền nhanh chóng, hỗ trợ quá trình
quản lý và điều phối sản xuất diễn ra mạch lạc và hiệu quả hơn.
1.3.6.2. Công nghệ và góc độ xã hội:
Từ góc độ xã hội, việc áp dụng các công nghệ mới cũng gián tiếp thúc đẩy đổi mới
trong giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, bởi lẽ nhu cầu của công việc tương lai
đòi hỏi một lực lượng lao động có trình độ cao và khả năng thích ứng với sự thay đổi
không ngừng. Khoa học và công nghệ còn góp phần phát triển các ngành công nghiệp
sạch, đem lại lợi ích cho môi trường và tạo ra những giải pháp bền vững cho các vấn đề
như biến đổi khí hậu và ô nhiễm.
Cần nhận thức được rằng, trong bất kỳ hệ thống xã hội nào, việc áp dụng những tiến
bộ công nghệ một cách hợp lý và có lợi đều phải đi đôi với sự quản lý và điều chỉnh
chính sách sao cho phù hợp, nhằm đảm bảo công nghệ phục vụ lợi ích của người lao
động và xã hội nói chung. Đồng thời, việc này cũng cần đến sự góp sức của cả cộng đồng
khoa học, cũng như sự ủng hộ của các cơ chế chính trị và pháp luật, để công nghệ không
chỉ đạt được hiệu quả kinh tế mà còn hướng tới mục tiêu xã hội hóa, góp phần xây dựng
một tương lai công bằng và tiến bộ cho tất cả mọi người.
1.3.7. Triết học Mác – Lênin và ảnh hưởng đến Giáo dục và đào tạo:
1.3.7.1. Hình thành nhận thức xã hộ trong giáo dục và đào tạo:
Triết học Mác - Lênin quan niệm rằng giáo dục không chỉ là một quá trình truyền đạt
kiến thức mà còn là phương tiện cơ bản để hình thành nhận thức lịch sử và xã hội cho các
thế hệ lao động tương lai. Tầm quan trọng của giáo dục được coi là một trong những yếu
tố quyết định đến sự phát triển toàn diện của xã hội.
Ý tưởng về một nền giáo dục phổ cập và công bằng đặt ra mục tiêu mở rộng cơ hội
học tập đến mọi tầng lớp nhân dân. Điều này đảm bảo rằng mọi người, dù là giai cấp nào,
đều có cơ hội tiếp cận tri thức, qua đó thúc đẩy tính dân chủ và công bằng trong giáo dục.
Phổ cập giáo dục không những nâng cao trình độ dân trí, mà còn tạo ra những điều kiện
cần thiết để hình thành một lực lượng lao động có kỹ năng và hiểu biết chuyên sâu, sẵn
sàng đáp ứng các yêu cầu của xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nền giáo dục mà Mác - Lênin đề xuất nhấn mạnh không chỉ vào kiến thức vững chắc
mà còn coi trọng việc phát triển tư duy phản biện và khả năng sáng tạo. Điều này bộc lộ ở
việc khuyến khích giới trẻ nghiên cứu, đặt câu hỏi và tìm hiểu sâu rộng, không ngừng tìm
tòi và khám phá. Thông qua quá trình này, giới trẻ không chỉ được trang bị kiến thức mà
còn hình thành khả năng phân tích, đánh giá và đưa ra giải pháp cho các vấn đề phức tạp của thực tiễn.
1.3.7.2. Mục tiêu và vai trò của giáo dục:
Mục tiêu giáo dục theo tư tưởng Mác - Lênin còn bao gồm việc giáo dục ý thức lớp và
giác ngộ chính trị, giúp giới trẻ nhận thức được vị trí, quyền lợi, và nghĩa vụ của bản thân
trong xã hội. Nền giáo dục này hướng tới việc xóa bỏ mọi hình thức bất bình đẳng và
phân biệt đối xử, từ đó phấn đấu cho một xã hội công bằng và minh bạch.
Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, cần phải có sự đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống
giáo dục từ cơ sở vật chất cho đến phương pháp giảng dạy, đồng thời liên tục cải cách và
cập nhật chương trình giáo dục để phản ánh sự phát triển không ngừng của khoa học - kỹ
thuật và thực tiễn xã hội. Thế mới thấy, giáo dục theo tư tưởng Mác - Lênin không chỉ là
nền tảng để phát triển kinh tế mà còn là công cụ để chuẩn bị và hình thành nhựa sống mới
của xã hội, những người trẻ tuổi với lòng yêu nước, trình độ hiểu biết sâu sắc, và lòng
nhiệt huyết thúc đẩy xã hội tiến lên phía trước.
1.3.7. Triết học Mác – Lênin trong thời đại toàn cầu hóa:
Trong khuôn khổ toàn cầu hóa và thời đại thông tin như hiện nay, Triết học Mác -
Lênin không chỉ giữ nguyên mà còn cần được hiểu và vận dụng một cách linh hoạt để
phản ánh đúng đắn những thách thức mới và tình hình phát triển đa dạng của thế giới.
Các quan điểm và phân tích truyền thống về lịch sử và xã hội cần được cập nhật để phù
hợp với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh tế, văn hóa và chính trị toàn cầu.
Thời đại toàn cầu là thời đại của sự vận động không ngừng, nơi mà các quốc gia kết
nối với nhau chặt chẽ hơn qua mạng lưới kinh tế và thông tin phức tạp. Điều này đòi hỏi
sự thích ứng của triết học Mác - Lênin, không chỉ trong khía cạnh lý luận mà còn trong
cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề thực tiễn. Cách mạng công nghiệp 4.0 và sự phát
triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đặt ra những yêu cầu mới cho việc phát triển lực
lượng sản xuất và hình thái xã hội, tạo cơ hội và thách thức mới cho việc tìm kiếm công
bằng và tiến bộ xã hội.
Sự thâm nhập của triết học Mác - Lênin trong việc phân tách các quan hệ kinh tế xã
hội ngày nay không thể giản đơn như trước đây, mà cần được phân tích dưới góc độ toàn
cầu, xét đến các yếu tố như chủ nghĩa tư bản đa quốc gia, các khối kinh tế vùng và liên
khu vực, cũng như tác động đối với môi trường và vấn đề nguồn lực. Những nguyên tắc
về quyền lực, tài sản và phân phối lại cần được xem xét lại trong bối cảnh mới, nơi mà sự
chia sẻ thông tin và cộng đồng mạng đóng vai trò quan trọng.
Rõ ràng là sự toàn cầu hoá đã và đang tạo ra cả cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi một
sự điều chỉnh tư duy trong việc áp dụng và kiên trì với các nguyên tắc của Triết học Mác
- Lênin. Kinh tế thị trường và tự do hoá kinh tế, sự phát triển của các công ty đa quốc,
cũng như sự mở cửa và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế là điều không thể tránh
khỏi, nhưng cách thức áp dụng và điều chỉnh chính sách để vẫn giữ vững được những giá
trị cốt lõi là một thách thức lớn.
1.3.8. Đổi mới tư duy lý luận của Đảng:
1.3.8.1. Tư duy đổi mới trong Triết học Mác – Lênin :
Tư duy lý luận là tiền đề vững chắc và đỉnh cao của quá trình tư duy, nhấn mạnh sự
tái tạo hiện thực khách quan cùng sự vận dụng lý luận thành các giả thuyết có bản chất
liên kết chắc chắn. Đảng là lực lượng lãnh đạo độc nhất vô nhị, được giao trọng trách
lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội, đã nhận
thức sâu sắc về sự cần thiết của việc đổi mới không ngừng nghỉ, thông qua việc cải thiện
và nâng cao trình độ lý luận của mình.
Trong một thế giới đấy những biến động khó lường, với những thời cơ và thách thức
đặt ra, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi một bước tiến mạnh mẽ trong việc
đổi mới tư duy lý luận. Đây là tiêu chí cốt lõi của Đảng nhằm đáp ứng kịp thời và linh
hoạt với các yêu cầu không ngừng phát triển của thực tiễn và cả những dự báo về tương
lai. Lý luận, theo đó, không chỉ là sự phản ánh của thực tiễn mà còn phải trở thành ánh
đèn hướng dẫn, cần phải luôn có khả năng tiên phong và song hành cùng những sự kiện
thực tiễn, cùng với một tầm nhìn xa vượt ra khỏi hiện tại, có khả năng dự đoán và thể chế
hóa được những đổi thay sắp tới.
Hơn 36 năm của quá trình đổi mới đã chứng minh và củng cố vị thế lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc điều hành các chính sách và dẫn dắt đất nước. Từ
việc nắm bắt và điều chỉnh Cương lĩnh xây dựng đất nước, Đảng đã thể hiện sự tiếp cận
và diễn dịch lý thuyết phù hợp với điều kiện đặc thù quốc gia, đồng thời phản ánh đúng
xu thế thời đại. Tất cả những điều này là sự khẳng định việc vận dụng và phát triển lý
thuyết Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện một cách sáng tạo và linh
hoạt trên mảnh đất Việt Nam, phù hợp với loạt quy luật khách quan.
Thực tiễn đất nước và bài học từ sự phát triển cũng như những trở ngại từ mô hình
chủ nghĩa xã hội trên thế giới đã đóng góp vào việc hình thành một lí luận phong phú, lý
thuyết và thực tiễn không ngừng đối thoại, từ đó trau dồi và đổi mới không ngừng. Lý
thuyết chủ nghĩa xã hội và con đường tiếp tục phát triển của Việt Nam đã luôn luôn được
thích ứng với thực tế quốc gia và yêu cầu của thời đại, trên nền tảng văn hoá và những
tiến bộ của nhân loại được kế thừa và chọn lọc một cách khôn ngoan. Tư duy lý luận của
Đảng không chỉ thể hiện mình qua sự giàu có về mặt nghiên cứu mà còn chứng tỏ được
tính ứng dụng cao trong việc đáp ứng và giải quyết các thách thức thực tế, như là minh
chứng cho sức sống, sự phát triển không ngừng của lý thuyết và chính trị trong thời đại mới.
1.3.8.2. Đổi mới và phát triền lý thuyết trong Đảng:
Mục tiêu và những nền tảng cơ bản của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và việc bảo vệ
Tổ quốc là quá trình dài hạn và vô cùng quan trọng. Trên hành trình xác định phương
hướng và đích đến, việc không ngừng bổ sung và phát triển lý thuyết dựa trên những
nhận thức quan trọng đã trở thành một điều cực kỳ cần thiết. Việc này đòi hỏi một cái
nhìn tổng quát và sâu sắc hơn về những mục tiêu và đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, đồng
thời cũng cần có sự đánh giá và phân tích về những phương hướng cơ bản, xác lập những
mối quan hệ mang tính quy luật trong quá trình chuyển đổi này.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được coi là mô hình phát triển tổng
quát của nền kinh tế Việt Nam, và việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội
và công bằng xã hội chính là nhân tố quyết định. Đây không chỉ là cách tiếp cận sáng tạo
trong quản lý kinh tế, mà còn là bản lề nâng cao chất lượng cuộc sống, với việc phát huy
nhân tố con người và đặt quyền lợi của nhân dân ngay tại trung tâm. Văn hóa, như được
nhấn mạnh, là nền tảng tinh thần của xã hội và là động lực thúc đẩy phát triển.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được khẳng định là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân, và việc đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng
hoàn thiện các thể chế, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân là không thể
thiếu. Đây là tiến trình yêu cầu sự phát triển của mô hình tổ chức và rõ ràng hóa vai trò
của các cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền.
Về phần Đảng, việc nhận thức sâu sắc hơn bản chất, tính cách mạng và tính tiên
phong của Đảng là nền tảng cho vai trò lãnh đạo và cầm quyền, với yêu cầu cao đối với
việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện. Không chỉ dừng lại ở việc nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, việc này còn yêu cầu một đội ngũ cán
bộ có phẩm chất, năng lực và uy tín.
Việc bảo đảm quốc phòng, an ninh được xem là nhiệm vụ trọng yếu, với sự kết hợp
chặt chẽ giữa việc đảm bảo quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội. Lý luận
quốc phòng, an ninh, cũng như tư duy về bảo vệ Tổ quốc cần phải được hoàn thiện để đối
phó với các nguy cơ tiềm ẩn, trên cơ sở xây dựng thế trận lòng dân vững chắc và lực
lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại.
Ở phương diện đối ngoại, sự hoàn thiện và nhận thức sâu sắc hơn về đường lối độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển là rất quan trọng. Việt Nam không chỉ là bạn
bè, đối tác tin cậy mà còn là thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Chủ động và tích cực trong hội nhập quốc tế toàn diện, là điều không thể thiếu để bảo
đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.
Cuối cùng, việc nghiên cứu, bổ sung nhiệm vụ xây dựng Đảng về mọi mặt từ chính
trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức đến cán bộ, cùng với việc nghiên cứu cụ thể hoá các biểu
hiện của sự suy thoái, kiểm soát quyền lực và bảo vệ tư tưởng của Đảng là vô cùng cần
thiết. Thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và bảo đảm kỷ cương xã
hội, cùng với việc nghiên cứu, tiếp thu các tư tưởng tiến bộ trên thế giới cũng là một phần
không thể thiếu trong quá trình đổi mới và phát triển của Đảng.
Việc cụ thể hóa những ý tưởng và lý thuyết này thành những chính sách và hành động
cụ thể là một thách thức đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng từ phía Đảng cũng như chính phủ
và toàn thể nhân dân, trong nỗ lực chung để xây dựng một Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
1.3.8.3. Tư duy lý luận của Đảng, đổi mới, phát triển và thực hiện nhiệm vụ, yêu cầu:
Tăng cường nhận thức về vai trò của công tác nghiên cứu lý luận là bước đầu tiên
không thể thiếu trong quá trình củng cố hệ thống quản lý và hướng dẫn tư tưởng của
Đảng. Đây chính là yêu cầu đặt ra đối với các cấp ủy Đảng, từ Trung ương đến địa
phương, nhằm mục tiêu mở rộng và sâu rộng ảnh hưởng của phạm trù lý luận trong việc
thúc đẩy sự phát triển của cả một hệ thống hành chính và các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Thực hiện theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, yêu cầu
này đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt và tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ
nghiên cứu lý luận, vận dụng sáng tạo lý luận vào việc hoạch định các chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội cho cả những mục tiêu dài hạn đến năm 2030, và tầm nhìn xa hơn nữa đến năm 2045.
Việc cầm cương, điều phối tổng quan nhiệm vụ này yêu cầu Bộ Chính trị và Ban Bí
thư phải giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm sự thống nhất trong định hướng nghiên cứu để phục
vụ mục tiêu tổng thể. Cần phải có sự tổng kết sâu sắc các nội dung lý luận chủ đạo, tăng
cường sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan nghiên cứu lý luận tại Trung ương với những
yêu cầu thực tiễn tại cấp địa phương, nhằm phát huy trách nhiệm lớn lao của cấp ủy và người đứng đầu.
Không chỉ giới hạn ở việc nâng cao nhận thức, Đảng còn cần phải chú trọng đẩy
mạnh công tác tổng kết thực tiễn, qua đó nâng tầm tư duy lý luận của Đảng. Điều này
đồng nghĩa với việc thu hẹp khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn để đem lại lợi ích thiết
thực và hiệu quả trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Sự gắn kết này yêu cầu
phải thấu đáo và sâu sắc giữa việc tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, giữa cơ quan
khoa học và quản lý xã hội, và giữa các cấp, các ngành.
Học tập và quán triệt nghị quyết của Đảng cũng cần phải có sự đổi mới về chương
trình, nội dung và phương pháp, hướng tới việc xây dựng lý luận phải khoa học và thực
tiễn. Cách tiếp cận này phải được cập nhật, sáng tạo và hiện đại, đảm bảo quá trình học
tập của cán bộ, đảng viên, bảo đảm tính thiết thực, phù hợp từng đối tượng và chất lượng,
hiệu quả trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng.
Để thực hiện hiệu quả những mục tiêu trên, việc củng cố và nâng cao chất lượng hoạt
động của các cơ quan nghiên cứu lý luận chính trị của Đảng và Nhà nước là vô cùng cần
thiết. Sự đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các cơ quan nghiên cứu là
yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả công việc, đặc biệt là cần hoàn thiện cơ chế lãnh
đạo, chỉ đạo, và phối hợp hoạt động giữa các cơ quan có chức năng liên quan đến công
tác lý luận chính trị, từ việc tham mưu, tư vấn, nghiên cứu đến tuyên truyền, giáo dục.
Đặc biệt, cần phải có sự đẩy mạnh cơ chế đặt hàng, vận dụng linh hoạt các nguồn lực để
hỗ trợ cho công tác nghiên cứu, đáp ứng kịp thời và hiệu quả những yêu cầu mới của thực
tiễn và đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước.
Để thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra, việc nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng ở các
cấp về vai trò của công tác nghiên cứu lý luận là hết sức quan trọng. Điều này không chỉ
là việc tăng cường công tác lãnh đạo và chỉ đạo sự tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm
vụ và giải pháp nghiên cứu theo tinh thần của Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, mà còn là
nâng cao nhận thức để từ đó tiến hành các hoạt động nghiên cứu một cách sáng tạo và hệ thống.
Cụ thể hơn việc nâng cao nhận thức này đòi hỏi sự quan tâm, điều hành và chỉ đạo
một cách thống nhất từ Bộ Chính trị và Ban Bí thư trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận.
Việc định hướng nghiên cứu phải đáp ứng nhu cầu xây dựng, hoạch định đường lối, chủ
trương của Đảng cũng như các chính sách và pháp luật của Nhà nước từ nay đến năm
2030 và có tầm nhìn xa hơn đến năm 2045. Các cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung
ương cần phối hợp chặt chẽ để tổng kết và nghiên cứu những vấn đề lý luận lớn, đáp ứng
nhu cầu của thực tiễn. Đồng thời, cần tăng cường vai trò của người đứng đầu ở các địa
phương, đơn vị trong việc lãnh đạo và chỉ đạo công tác lý luận.
Quá trình học tập và quán triệt nghị quyết của Đảng cũng cần được đổi mới để bảo
đảm sự thiết thực và hiệu quả. Việc đào tạo và bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị cũng
đòi hỏi sự cải tiến về chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục, nhằm đảm bảo
thông điệp khoa học, thực tiễn và sáng tạo. Các chương trình giáo dục lý luận cho cán bộ,
đảng viên và cán bộ lãnh đạo ở các cấp, đặc biệt là cấp chiến lược, cần được xây dựng và
vận hành một cách nhất quán và phù hợp với từng đối tượng.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận chính
trị của Đảng và Nhà nước qua việc đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động là
điểm then chốt. Cần có sự hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan có chức năng trong lĩnh vực lý luận chính trị.
Thực hiện dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị chính là việc tạo điều kiện để cá
nhân và tổ chức có thể tự do sáng tạo, độc lập suy nghĩ và thực hiện các nghiên cứu một
cách đầy đủ và phong phú, phản ánh đa dạng ý kiến và quan điểm. Việc này không chỉ
giúp phát triển lý luận chính trị mà còn đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển đất
nước. Điều cần thiết là cần có cơ chế bảo vệ và khuyến khích những người có tư duy đổi
mới, sáng tạo trong lĩnh vực này.
Không thể bỏ qua tầm quan trọng của việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trao đổi lý
luận với các đảng cầm quyền, đảng tham chính và các tổ chức chính trị trên thế giới. Việc
này không chỉ giúp học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm từ các nước khác, mà còn giúp giới
thiệu và quảng bá những lý luận đặc sắc của Đảng ta ra thế giới.
Cuối cùng, việc tạo ra cơ chế và môi trường thuận lợi cho công tác nghiên cứu lý
luận, bao gồm việc được đầu tư nguồn lực tài chính cần thiết và sự đặc biệt chú ý đến
việc thu hút và đãi ngộ đội ngũ làm nghiên cứu, tuyên truyền và giáo dục lý luận chính trị
phải được đưa thành nền tảng vững chắc để thúc đẩy công tác lý luận tiến xa hơn, đáp
ứng yêu cầu mới trong thời đại hiện nay.