Lý thuyết Nguồn gốc của cái đẹp và nghệ thuật môn Mỹ học đại cương | Trường Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh

Cái đẹp không chỉ là đối tượng nghiên cứu của mỹ học mà nó còn là một lĩnh vực rất đa dạng phong phú của nhiều ngành khoa học khác. Khái niệm cái đẹp được con người sử dụng một cách phổ biến dùng để chỉ ý nghĩa xã hội về mức độ của sự hoàn thiện – hoàn mỹ trong tính đa dạng, phong phú của các quan hệ thẩm mỹ. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
6 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Lý thuyết Nguồn gốc của cái đẹp và nghệ thuật môn Mỹ học đại cương | Trường Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh

Cái đẹp không chỉ là đối tượng nghiên cứu của mỹ học mà nó còn là một lĩnh vực rất đa dạng phong phú của nhiều ngành khoa học khác. Khái niệm cái đẹp được con người sử dụng một cách phổ biến dùng để chỉ ý nghĩa xã hội về mức độ của sự hoàn thiện – hoàn mỹ trong tính đa dạng, phong phú của các quan hệ thẩm mỹ. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

34 17 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 49981208
NGUỒN GỐC CỦA CÁI ĐẸP NGHỆ THUẬT
Huỳnh Thị Kim Trâm
Cái đẹp không chỉ là đối tượng nghiên cứu của mỹ học mà nó còn là một
lĩnh vực rất đa dạng phong phú của nhiều ngành khoa học khác. Khái niệm cái
đẹp được con người sử dụng một cách phổ biến dùng để chỉ ý nghĩa hội về
mức độ của shoàn thiện hoàn mỹ trong tính đa dạng, phong pcủa các
quan hệ thẩm mỹ.
Thật khó khăn để định nghĩa cái đẹp, xây dựng những chuẩn mực của cái
đẹp. Vì thế, mà L.Tônxtôi đã viết: “Sách viết về cái đẹp đã chất lên thành núi,
nhưng cái đẹp vẫn một câu đố giữa cuộc đời”. Hoặc như Hêghen thì hãy đ
mặc cái đẹp trong “vương quốc của cảm giác”. Còn Cantơ: thì hãy dành hoàn
toàn cho sự thưởng ngoạn trực tiếp, để khỏi phá vỡ tính toàn vẹn, đánh mất v
tươi nguyên vốn của nó. Vậy cái đẹp, nguốc gốc, bản chất qui luật của
cái đẹp gì? Trong lịch sử mỹ học những cách thức tiếp cận bản nào
nghiên cứu cái đẹp?
Trước hết, cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực, sở khách quan trong đời
sống, nhưng đồng thời cũng dùng để đánh giá tất cả những hiện tượng thẩm
mỹ tích cực tính hoàn thiện, hoàn mỹ. Cái đẹp được hình thành khi con
người biết đối chiếu, soi sánh với cái xấu. Từ những sự quan sát bình thường
chỉ ra cái đẹp, cái gì xấu, đến chỗ thể định nghĩa về cái đẹp quả một
quá trình lâu dài, khó khăn trong lịch sử mỹ học.
Chính vì vậy, lúc đầu con người đã biết dùng khái niệm cái đẹp để chỉ tất
cả những gì của đời sống thẩm mỹ có khả năng khơi dậy nới tâm hồn những
cảm xúc thẩm mỹ trong quá trình con người đồng hoá, sáng tạo cảm thụ
thẩm mỹ. Người ta coi cái đẹp là sự hài hoà, sự đối xứng, sự tao nhã, sư linh
hoạt, là cái có chất lượng, là cái trật tự. Tiến dần lên, người ta coi cái đẹp gắn
liền với sự tiến bộ, cách mạng và mang tính nhân văn.
Cái xấu cũng bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách quan trong đời sống,
dùng để đánh giá tất cả những hiện tượng thẩm mỹ tiêu cực, hạn chế, thái hoá
bất cập. Chẳng hạn, trong tnhiên: cái gớm ghiếc, cái khủng khiếp, cái quá
cỡ, cái lộn xộn, không hình thù, cái kỳ quái, cái rườm rà, cái mất cân đối, cái
kỳ dị, cái dị dạng. Hoặc trong hội: Tính xu nịnh, gia trưởng, trưởng giả,
đua đòi, bon chen, tham ăn, tục uống, dối trá, lươn lẹo, ích kỷ, vụ lợi, khoa
trương, tầm thường, lố lăng, thô bỉ, thấp hèn.
lOMoARcPSD| 49981208
Cái đẹp một phạm trù trung tâm của mỹ học. Bởi vì, một mặt mỹ học
phải giải thích nguồn gốc, bản chất qui luật chung của cái đẹp; mặt khác,
trong thế giới hiện thực rất nhiều những hiện tượng thẩm mỹ cũng nằm
trong đối tượng nghiên cứu của mỹ học quan hệ với cái đẹp như: cái xấu,
cái bi, cái hài, cái cao cả, cái thấp hèn. Về cơ bản trong lịch sử mỹ học có các
khuynh hướng cơ bản sau đây nghiên cứu về cái đẹp:
Thứ nhất, mỹ học duy tâm khách quan đều coi nguồn gốc của cái đẹp
“thế giới ý niệm” (Platông) hay “ý niệm tuyệt đối” (Hêghen), - đó là cái từ thế
giới thuần túy trừu tượng bên ngoài svật, truyền tính thẩm mỹ vào các sự
vật chứ không có cơ sở khách quan. Nói một cách chính xác hơn, theo họ cái
đẹp không phải thuộc tính của vật chất thuộc tính của tinh thần
trước và quyết định tính thẩm mỹ của hiện thực.
Platông coi cái đẹp thuộc về thế giới tinh thần, nó tồn tại ở thế giới giới ý
niệm chi phối cái đẹp trong tất cả các sự vật cảm tính. Platông đã nêu hai
vấn đề của cái đẹp: cái đẹp cái đẹp? Platông nêu những quan
niệm duy vật về cái đẹp, - như cái đẹp một đồ vật, một sự vật, một động vật,
một con người nào đó để thấy rằng cái đẹp nằm trong những thể thống nhất,
đa dạng, cái đẹp mang tính tương đối trong sự so sánh, cái đẹp cái ích.
Sau khi nêu ra những quan điểm đó, ông đã bác bỏ chúng đề xuất, giải thích
những quan điểm của mình về cái đẹp. Ông khẳng định nguồn gốc, bản chất
và qui luật của cái đẹp là thế giới ý niệm.
Như vậy, theo quan điểm của Platông cái đẹp một ý niệm có sẵn, sản
sinh ra cái đẹp của mọi sự vật và soi sáng cái đẹp nơi tâm hồn con người. Cái
đẹp tồn tại vĩnh cửu, nó không bị hủy diệt, không tăng không giảm, nó không
đẹp ở chỗ này mà xấu ở chỗ khác. Đối với cái gọi là sáng tạo thẩm mỹ chẳng
qua chỉ s“Thần nhập” hay “sự “mách bảo” của thần linh. tưởng này
được các nhà thần học thời trung cổ khẳng định lại. Đó tư tưởng của Tômát
Đacanh, khi ông cho rằng: cái đẹp là sự nhận thức mang lại sthích thú. Cái
đẹp chân chính Chúa. Vì thế muốn nhận thức được cái đẹp phải hòa mình
vào Chúa.
Ở một hình thức khác, Hêghen cho rằng “ý niệm tuyệt đối” vận động đến
một trình độ nào đó thì nảy sinh cái đẹp (cái đẹp trong nghệ thuật). Cái đẹp
chính sự thể hiện đầy đủ của ý niệm trong một một sinh thể riêng lẻ, rằng
cần phải loại bỏ cái đẹp trong tự nhiên và nếu có cái đẹp trong tự nhiên thì nó
chỉ là sự phản ánh cái đẹp tinh thần.
lOMoARcPSD| 49981208
Thứ hai, mỹ học duy tâm chủ quan cho rằng cái đẹp phụ thuộc vào ý thức
chủ quan của con người cụ thể hơn ý thức chủ quan của mỗi nhân sản
sinh ra cái đẹp. Trong quá trình cảm thụ thẩm mỹ của các hiện tượng, sự vật
cảm tính, con người mang tính thẩm mỹ truyền vào nó và làm cho nó trở nên
đẹp.
Một trong những đại diện tiêu biểu của mỹ học duy tâm chủ quan Cantơ.
Theo Cantơ, vấn đề chủ yếu không phải cái gì cái đẹp, phán đoán về cái
đẹp gì. Phán đoán về cái đẹp phán đoán về thị hiếu, không phải sự phán
đoán về nhận thức, phán đoán về lôgíc phán đoán tình cảm chủ quan.
Phán đoán thị hiếu thuần túy là sự thưởng ngoạn thẩm mỹ của cá nhân, là cái
không vụ lợi tdo. Cho nên, không khái niệm về cái đẹp cũng không
có qui tắc phán đoán về cái đẹp. Vì vậy, mỹ học duy tâm chủ quan về cái đẹp
coi tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp sẵn có trong mỗi cá nhân, cái gì đó gợi lên
khoái cảm thẩm mỹ thì đó là cái đẹp. Ông nói: “cái đẹp không tồn tại trên đôi
má hồng của người thiếu nữ, nó chỉ tồn tại trong mắt của những kẻ si tình”.
Thứ ba, mỹ học duy vật trước thế kỷ XIX. Từ Arixtốt đến Điđơrô đến
Tsécnưsépxki đều khẳng định cái đẹp không phải sản phẩm của ý niệm tuyệt
đối hay ý muốn chquan của con người, không tồn tại thuần túy, chính
thộc tính khách quan vốn của c sự vật hiện tượng. Tuy nhiên, do
những nguyên nhân về mặt lịch sử thì mhọc duy vật trước đây đã không giải
thích đúng đắn bản chất của cái đẹp.
Trước hết, họ coi bản chất của cái đẹp thể hiện quan hhình thức giữa
các yếu tố tự nhiên như vật lý, sinh học, hoá học tồn tại khách quan, có trước
con người. Chính vậy cái đẹp thường được coi cái “tính tỷ lệ”, “sự cân
xứng”, “sự hài hoà” hoặc s“thống nhất trong đa dạng”. Một số nhà mỹ
học Anh thế kỷ XVIII cố gắng xác định những dấu hiệu chung của cái đẹp.
Chẳng hạn, nBớccơ coi cái đẹp có những dấu hiệu căn bản như: kích thước
không lớn của đối tượng, sự nhịp nhàng của hình dáng, tính chất trình tự trong
sự thay đổi hình thức và mầu sắc của sự vật, hiện tượng. Ngược lại W. Hôga
lại cho rằng những đường lượn sóng là đẹp nhật uyển chuyển trong sự
thay đổi ví như nhưng con sóng, mái tóc gợi sóng. Theo ông bố cục đẹp nhất
bcục kim tự tháp, n trong điêu khắc hình tượng con người đẹp nhất
giống như chữ S, là hình tượng phổ biến của các vị thần Hy Lạp.
Đáng lưu ý nhất là quan điểm của nhà mỹ học cách mạng dân chủ Nga
Tsécnưsépxki. Ông định nghĩa cái đẹp: “Cái đẹp là cuộc sống”. Khi định nghĩa
cái đẹp cuộc sống thì Tcsépnưsépxki ý nói đến không chỉ nguồn gốc của cái
lOMoARcPSD| 49981208
đẹp nằm trong bản thân hình thức thực tại, trong cuộc sống, ông còn lưu ý
rằng, chúng ta chỉ thể coi một sự vật, hiện tượng cụ thể đẹp nếu nó, các
đặc tính của cuộc sống được biểu lộ rực rỡ và đầy đủ nhất. Cho nên, theo ông
cái đẹp không phải đơn thuần một hiện tượng tính chất sinh học trong
cái đẹp có mối quan hệ biện chứng giữa cái tính sinh vật và cái tính
hội, giữa cái khách quan cái chủ quan, giữa cái thuộc hiện thực cái thuộc
lý tưởng. Song hạn chế của ông là ở chỗ, mặc dầu ông có cho rằng con người
cuộc sống của con người tiêu chuẩn cao nhất của cái đẹp, nhưng ông
nhìn con người một cách chung chung, phi lịch sử, không đánh giá đúng
vai trò của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên hội chính bản
thân con người.
Các nhà mỹ học duy vật trước XIX đã tách rời tính lịch sử cụ thể của các
hiện tượng thẩm mcủa cái đẹp khi họ đi tìm bản chất của cái đẹp mối quan
hệ nội tại giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành của sự vật hiện tuợng trong
khi lẽ ra phải tìm cái đẹp, cũng như mọi hiện tượng thẩm mỹ khác, mối quan
hệ giữa các sự vật, hiện tượng với xã hội.
Trước khi loài người, thì đã sự tồn tại khách quan của các sự vật,
hiện tượng, hệ thống vật chất trong tính vô tận vĩnh viễn của nó. Tất cả các
hiện tượng tự nhiên ấy đều có những thuộc tính đa dạng, phong phú và chúng
không phải vì loài người hay không loài người mà thay đổi cấu trúc t
nhiên của nó.
Trải qua một quá trình lâu dài, thông qua lao động con người phát hiện ra
những thuộc tính thẩm mỹ của svật hiện tượng đồng hoá các thuộc tính
ấy trong đời sống thẩm mỹ. Sự đồng hoá này không chỉ giới hạn sự chiêm
nguỡng còn bao hàm cả sự sáng tạo thẩm mỹ nói chung của con người.
Chính vì vậy, trước mặt chúng ta giả sử có một bông hoa; nhưng nó được thể
hiện dưới nhiều hình thức giá trị khác nhau: thể bông hoa sinh học,
bông hoa y học, bông hoa thương mại bông hoa thẩm mỹ. Trong đó bông
hoa thẩm mỹ gtrị thẩm mỹ của tính xã hội của con người. Không
con người thì không cái đẹp của bông hoa cái đẹp của bông hoa không
phải do mầu đỏ, mầu trắng, mầu vàng, hay sự đắt giá của quyết định mà do
ý nghĩa xã hội trong quá trình đồng hoá thẩm mỹ của con người.
Thứ tư, mỹ học hiện đại, nhất quan điểm mácxít đã khắc phục được
những thiếu sót trong những quan điểm siêu hình của tưởng mỹ học duy vật
trước đó; đồng thời cũng phê phán những quan điểm không đúng của mỹ học
duy tâm về cái đẹp. Ý nghĩa cách mạng trong quan niệm của mỹ học hiện đại
lOMoARcPSD| 49981208
đã khẳng định bản chất của cái đẹp trong tính biện chứng lịch sử
hội của nó.
Cái đẹp là một trong những thuộc tính thẩm mỹ của hiện thực. chính
một giá trị hội mang tính khách quan, rộng rãi của các sự vật, hiện tượng
toàn vẹn, cụ thể, cảm tính được con người xã hội cảm thụ đánh giá và sáng
tạo. Tiêu chuẩn khách quan của cái đẹp thể hiện ở chỗ những thuộc tính thẩm
mỹ của trong các svật, hiện tượng đẹp phải phù hợp với tình cảm thị
hiếu và lý tưởng thẩm mỹ – xã hội của một thời đại nhất định.
Bản chất của cái đẹp sẽ được làm hơn, khi chúng ta phân tích những
dấu hiệu đặc trưng của cái đẹp ở ba phương diện sau:
Cái đẹp là cái gây nên ở tâm hồn con người khoái cảm tinh thần. Khoái
cảm sự thỏa mãn nhu cầu nói chung của con người về các phương diện khác
nhau của đời sống. Từ đó quan điểm mỹ học đã đồng nhất cái đẹp với cái
gây khoái cảm và họ đi tìm qui luật của cái đẹp trên mặt tâm sinh lý. Thực ra
cái đẹp cái khả năng gây khoái cảm nhưng không đồng nhất với khoái
cảm nói chung của con người, khoái cảm tinh thần khoái cảm thẩm
mỹ. Sự đồng nhất cái đẹp với cái gây khoái cảm dẫn đến chủ nghĩa hình thức
và chủ nghĩa tự nhiên trong mỹ học.
Khoái cảm lành mạnh về mặt tinh thần chưa phải khoái cảm thẩm mỹ.
Nhiều hứng tthể nảy sinh trong quá trình say trong học tập, lao động,
nghiên cứu khoa học; đây là niềm vui tinh thần, nhưng không phải niềm
vui do qui luật của cái đẹp chi phối, chúng mới chỉ là sở đầu tiên của
khoái cảm thẩm mỹ. Khoái cảm thẩm mỹ cũng rung động cảm xúc biểu hiện
tình cảm thẩm mỹ. Tình cảm thẩm mỹ hơn bất cứ tình cảm nào, mối
liên hệ sâu xa với lợi ích hội con người với những giá trị đích thực cho
cuộc sống tốt đẹp, phù hợp với tâm nguyện vọng của những giai cấp, những
dân tộc và các thời đại khác nhau.
Khi cảm thụ, chiêm ngưỡng những hiện tượng đẹp của tự nhiên hội
và nghệ thuật đều tác động nơi tâm hồn con người những phản ứng cảm xúc -
cảm nghĩ tích cực. Trước hết làm cho con người hân hoan, vui sướng và đồng
thời mang khơi dậy nguồn thích thú, đam mê, khát vọng, m tòi khám phá,
phát huy năng lực sáng tạo của con người.
Cái đẹp liên quan chặt chẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đến cái có ích nhưng
lOMoARcPSD| 49981208
không đồng nhất với cái ích. ràng quan hệ thẩm mỹ đối với hiện thực
không phải là quan hệ trực tiếp tiêu dùng. Môt bức tranh tĩnh vật vẫn đẹp mặc
dầu trái cam, trái quít vẽ trong tranh không thể đáp ứng nhu cầu ăn uống của
con người. Tuy nhiên, cái đẹp cái ích không mâu thuẫn không tách
rời nhau; nhưng đồng nhất cái đẹp với cái có ích thì rơi vào chủ nghĩa vụ lợi,
thực dụng. Cái ích, lợi ích ẩn dấu trong cái đẹp và được cái đẹp biểu hiện
không phải là lợi ích vật chất trực tiếp mà lợi ích tinh thần.
Cái đẹp là cái có ích là nhờ vào ý nghĩa giáo dục của nó xét về nhiều khiá
cạnh khác nhau của đời sống tinh thần con người, như chính trị, đạo đức, pháp
quyền, khoa học, tôn giáo. Cantơ đã tuyên truyền cho chủ nghĩa hình thức
trong nghệ thuật cho rằng quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” là sai lầm.
Cái đẹp phải dựa trên cái thật và cái tốt. Từ lâu người ta đã có quan niệm
cho rằng chân – thiện – mỹ là hệ giá trị cao nhất trong đời sống tinh thần của
con người cái mà con người cần phải vươn đến, phải đạt được để khẳng định
sự hoàn thiện và phát triển của con người. Quả thực cái giả không thể đep, cái
xấu không thể đẹp. Một tác phẩm nghệ thuât chỉ đẹp giá trị đích thực
khi phản ánh sự thật của cuộc sống, giải quyết những yêu cầu, nhiệm vụ
của thực tiễn hội. Cái đẹp dựa trên cái thật, cái tốt (khiá cạnh đạo đức);
nhưng có những cái thật cái tốt chưa phải là cái đẹp, chúng chỉ trở thành đẹp
khi hiện ra trong hình tượng cảm tính – cụ thể và là một giá trị thẩm mỹ được
xã hội thừa nhận.
Cái đẹp giữ vị ttrung tâm của quan hệ thẩm mỹ, dùng để khái quát những
giá trị xã hội tích cực, khách quan, rộng rãi của hiện thực thẩm mỹ, xuất phát
từ thực tiễn, tồn tại dưới dạng hình tượng toàn vẹn, cthể – cảm tính phù hợp
với tình cảm, thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ của xã hội nhất định.
Như vậy, ngọn nguồn của bản chất vươn tới cái đẹp, sáng tạo theo qui luật
của cái đẹp, đầu tiên nằm trong bản chất tự nhiên, sinh học rồi phát triển rộng
ra hội trong tiến trình lịch scủa con người. hiểu như vậy mới khắc
phục được tính phiến diện trong sự cảm thụ, đánh giá và sáng tạo cái đẹp.
| 1/6

Preview text:

lOMoAR cPSD| 49981208
NGUỒN GỐC CỦA CÁI ĐẸP VÀ NGHỆ THUẬT Huỳnh Thị Kim Trâm
Cái đẹp không chỉ là đối tượng nghiên cứu của mỹ học mà nó còn là một
lĩnh vực rất đa dạng phong phú của nhiều ngành khoa học khác. Khái niệm cái
đẹp được con người sử dụng một cách phổ biến dùng để chỉ ý nghĩa xã hội về
mức độ của sự hoàn thiện – hoàn mỹ trong tính đa dạng, phong phú của các quan hệ thẩm mỹ.
Thật khó khăn để định nghĩa cái đẹp, xây dựng những chuẩn mực của cái
đẹp. Vì thế, mà L.Tônxtôi đã viết: “Sách viết về cái đẹp đã chất lên thành núi,
nhưng cái đẹp vẫn là một câu đố giữa cuộc đời”. Hoặc như Hêghen thì hãy để
mặc cái đẹp trong “vương quốc của cảm giác”. Còn Cantơ: thì hãy dành hoàn
toàn cho sự thưởng ngoạn trực tiếp, để khỏi phá vỡ tính toàn vẹn, đánh mất vẻ
tươi nguyên vốn có của nó. Vậy cái đẹp, nguốc gốc, bản chất và qui luật của
cái đẹp là gì? Trong lịch sử mỹ học có những cách thức tiếp cận cơ bản nào nghiên cứu cái đẹp?
Trước hết, cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách quan trong đời
sống, nhưng đồng thời nó cũng dùng để đánh giá tất cả những hiện tượng thẩm
mỹ tích cực có tính hoàn thiện, hoàn mỹ. Cái đẹp được hình thành khi con
người biết đối chiếu, soi sánh với cái xấu. Từ những sự quan sát bình thường
chỉ ra cái gì đẹp, cái gì xấu, đến chỗ có thể định nghĩa về cái đẹp quả là một
quá trình lâu dài, khó khăn trong lịch sử mỹ học.
Chính vì vậy, lúc đầu con người đã biết dùng khái niệm cái đẹp để chỉ tất
cả những gì của đời sống thẩm mỹ có khả năng khơi dậy ở nới tâm hồn những
cảm xúc thẩm mỹ trong quá trình con người đồng hoá, sáng tạo và cảm thụ
thẩm mỹ. Người ta coi cái đẹp là sự hài hoà, sự đối xứng, sự tao nhã, sư linh
hoạt, là cái có chất lượng, là cái trật tự. Tiến dần lên, người ta coi cái đẹp gắn
liền với sự tiến bộ, cách mạng và mang tính nhân văn.
Cái xấu cũng bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách quan trong đời sống,
dùng để đánh giá tất cả những hiện tượng thẩm mỹ tiêu cực, hạn chế, thái hoá
bất cập. Chẳng hạn, trong tự nhiên: cái gớm ghiếc, cái khủng khiếp, cái quá
cỡ, cái lộn xộn, không hình thù, cái kỳ quái, cái rườm rà, cái mất cân đối, cái
kỳ dị, cái dị dạng. Hoặc trong xã hội: Tính xu nịnh, gia trưởng, trưởng giả,
đua đòi, bon chen, tham ăn, tục uống, dối trá, lươn lẹo, ích kỷ, vụ lợi, khoa
trương, tầm thường, lố lăng, thô bỉ, thấp hèn. lOMoAR cPSD| 49981208
Cái đẹp là một phạm trù trung tâm của mỹ học. Bởi vì, một mặt mỹ học
phải giải thích nguồn gốc, bản chất và qui luật chung của cái đẹp; mặt khác,
trong thế giới hiện thực có rất nhiều những hiện tượng thẩm mỹ cũng nằm
trong đối tượng nghiên cứu của mỹ học có quan hệ với cái đẹp như: cái xấu,
cái bi, cái hài, cái cao cả, cái thấp hèn. Về cơ bản trong lịch sử mỹ học có các
khuynh hướng cơ bản sau đây nghiên cứu về cái đẹp:
Thứ nhất, mỹ học duy tâm khách quan đều coi nguồn gốc của cái đẹp ở
“thế giới ý niệm” (Platông) hay “ý niệm tuyệt đối” (Hêghen), - đó là cái từ thế
giới thuần túy trừu tượng bên ngoài sự vật, truyền tính thẩm mỹ vào các sự
vật chứ không có cơ sở khách quan. Nói một cách chính xác hơn, theo họ cái
đẹp không phải là thuộc tính của vật chất mà là thuộc tính của tinh thần có
trước và quyết định tính thẩm mỹ của hiện thực.
Platông coi cái đẹp thuộc về thế giới tinh thần, nó tồn tại ở thế giới giới ý
niệm và chi phối cái đẹp trong tất cả các sự vật cảm tính. Platông đã nêu hai
vấn đề của cái đẹp: cái đẹp là gì và cái gì là đẹp? Platông nêu những quan
niệm duy vật về cái đẹp, - như cái đẹp là một đồ vật, một sự vật, một động vật,
một con người nào đó để thấy rằng cái đẹp nằm trong những thể thống nhất,
đa dạng, cái đẹp mang tính tương đối trong sự so sánh, cái đẹp là cái có ích.
Sau khi nêu ra những quan điểm đó, ông đã bác bỏ chúng và đề xuất, giải thích
những quan điểm của mình về cái đẹp. Ông khẳng định nguồn gốc, bản chất
và qui luật của cái đẹp là thế giới ý niệm.
Như vậy, theo quan điểm của Platông cái đẹp là một ý niệm có sẵn, nó sản
sinh ra cái đẹp của mọi sự vật và soi sáng cái đẹp nơi tâm hồn con người. Cái
đẹp tồn tại vĩnh cửu, nó không bị hủy diệt, không tăng không giảm, nó không
đẹp ở chỗ này mà xấu ở chỗ khác. Đối với cái gọi là sáng tạo thẩm mỹ chẳng
qua chỉ là sự “Thần nhập” hay “sự “mách bảo” của thần linh. Tư tưởng này
được các nhà thần học thời trung cổ khẳng định lại. Đó là tư tưởng của Tômát
Đacanh, khi ông cho rằng: cái đẹp là sự nhận thức mang lại sự thích thú. Cái
đẹp chân chính là Chúa. Vì thế muốn nhận thức được cái đẹp phải hòa mình vào Chúa.
Ở một hình thức khác, Hêghen cho rằng “ý niệm tuyệt đối” vận động đến
một trình độ nào đó thì nảy sinh cái đẹp (cái đẹp trong nghệ thuật). Cái đẹp
chính là sự thể hiện đầy đủ của ý niệm trong một một sinh thể riêng lẻ, rằng
cần phải loại bỏ cái đẹp trong tự nhiên và nếu có cái đẹp trong tự nhiên thì nó
chỉ là sự phản ánh cái đẹp tinh thần. lOMoAR cPSD| 49981208
Thứ hai, mỹ học duy tâm chủ quan cho rằng cái đẹp phụ thuộc vào ý thức
chủ quan của con người mà cụ thể hơn là ý thức chủ quan của mỗi cá nhân sản
sinh ra cái đẹp. Trong quá trình cảm thụ thẩm mỹ của các hiện tượng, sự vật
cảm tính, con người mang tính thẩm mỹ truyền vào nó và làm cho nó trở nên đẹp.
Một trong những đại diện tiêu biểu của mỹ học duy tâm chủ quan là Cantơ.
Theo Cantơ, vấn đề chủ yếu không phải cái gì là cái đẹp, mà phán đoán về cái
đẹp là gì. Phán đoán về cái đẹp là phán đoán về thị hiếu, không phải là sự phán
đoán về nhận thức, phán đoán về lôgíc mà phán đoán là tình cảm chủ quan.
Phán đoán thị hiếu thuần túy là sự thưởng ngoạn thẩm mỹ của cá nhân, là cái
không vụ lợi và tự do. Cho nên, không có khái niệm về cái đẹp và cũng không
có qui tắc phán đoán về cái đẹp. Vì vậy, mỹ học duy tâm chủ quan về cái đẹp
coi tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp sẵn có trong mỗi cá nhân, là cái gì đó gợi lên
khoái cảm thẩm mỹ thì đó là cái đẹp. Ông nói: “cái đẹp không tồn tại trên đôi
má hồng của người thiếu nữ, nó chỉ tồn tại trong mắt của những kẻ si tình”.
Thứ ba, mỹ học duy vật trước thế kỷ XIX. Từ Arixtốt đến Điđơrô đến
Tsécnưsépxki đều khẳng định cái đẹp không phải là sản phẩm của ý niệm tuyệt
đối hay ý muốn chủ quan của con người, nó không tồn tại thuần túy, mà chính
là thộc tính khách quan vốn có của các sự vật và hiện tượng. Tuy nhiên, do
những nguyên nhân về mặt lịch sử thì mỹ học duy vật trước đây đã không giải
thích đúng đắn bản chất của cái đẹp.
Trước hết, họ coi bản chất của cái đẹp thể hiện ở quan hệ hình thức giữa
các yếu tố tự nhiên như vật lý, sinh học, hoá học tồn tại khách quan, có trước
con người. Chính vì vậy cái đẹp thường được coi là cái “tính có tỷ lệ”, “sự cân
xứng”, “sự hài hoà” hoặc là sự “thống nhất trong đa dạng”. Một số nhà mỹ
học Anh thế kỷ XVIII cố gắng xác định những dấu hiệu chung của cái đẹp.
Chẳng hạn, như Bớccơ coi cái đẹp có những dấu hiệu căn bản như: kích thước
không lớn của đối tượng, sự nhịp nhàng của hình dáng, tính chất trình tự trong
sự thay đổi hình thức và mầu sắc của sự vật, hiện tượng. Ngược lại W. Hôga
lại cho rằng những đường lượn sóng là đẹp nhật vì nó uyển chuyển trong sự
thay đổi ví như nhưng con sóng, mái tóc gợi sóng. Theo ông bố cục đẹp nhất
là bố cục kim tự tháp, còn trong điêu khắc hình tượng con người đẹp nhất
giống như chữ S, là hình tượng phổ biến của các vị thần Hy Lạp.
Đáng lưu ý nhất là quan điểm của nhà mỹ học cách mạng dân chủ Nga
Tsécnưsépxki. Ông định nghĩa cái đẹp: “Cái đẹp là cuộc sống”. Khi định nghĩa
cái đẹp là cuộc sống thì Tcsépnưsépxki ý nói đến không chỉ nguồn gốc của cái lOMoAR cPSD| 49981208
đẹp nằm trong bản thân hình thức thực tại, trong cuộc sống, mà ông còn lưu ý
rằng, chúng ta chỉ có thể coi một sự vật, hiện tượng cụ thể là đẹp nếu ở nó, các
đặc tính của cuộc sống được biểu lộ rực rỡ và đầy đủ nhất. Cho nên, theo ông
cái đẹp không phải đơn thuần là một hiện tượng có tính chất sinh học mà trong
cái đẹp có mối quan hệ biện chứng giữa cái có tính sinh vật và cái có tính xã
hội, giữa cái khách quan và cái chủ quan, giữa cái thuộc hiện thực và cái thuộc
lý tưởng. Song hạn chế của ông là ở chỗ, mặc dầu ông có cho rằng con người
và cuộc sống của con người là tiêu chuẩn cao nhất của cái đẹp, nhưng ông
nhìn con người một cách chung chung, phi lịch sử, và không đánh giá đúng
vai trò của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên – xã hội và chính bản thân con người.
Các nhà mỹ học duy vật trước XIX đã tách rời tính lịch sử cụ thể của các
hiện tượng thẩm mỹ của cái đẹp khi họ đi tìm bản chất của cái đẹp ở mối quan
hệ nội tại giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành của sự vật hiện tuợng trong
khi lẽ ra phải tìm cái đẹp, cũng như mọi hiện tượng thẩm mỹ khác, ở mối quan
hệ giữa các sự vật, hiện tượng với xã hội.
Trước khi có loài người, thì đã có sự tồn tại khách quan của các sự vật,
hiện tượng, hệ thống vật chất trong tính vô tận và vĩnh viễn của nó. Tất cả các
hiện tượng tự nhiên ấy đều có những thuộc tính đa dạng, phong phú và chúng
không phải vì có loài người hay không có loài người mà thay đổi cấu trúc tự nhiên của nó.
Trải qua một quá trình lâu dài, thông qua lao động con người phát hiện ra
những thuộc tính thẩm mỹ của sự vật hiện tượng và đồng hoá các thuộc tính
ấy trong đời sống thẩm mỹ. Sự đồng hoá này không chỉ giới hạn ở sự chiêm
nguỡng mà còn bao hàm cả sự sáng tạo thẩm mỹ nói chung của con người.
Chính vì vậy, trước mặt chúng ta giả sử có một bông hoa; nhưng nó được thể
hiện dưới nhiều hình thức và giá trị khác nhau: có thể là bông hoa sinh học,
bông hoa y học, bông hoa thương mại và bông hoa thẩm mỹ. Trong đó bông
hoa thẩm mỹ là giá trị thẩm mỹ của nó có tính xã hội của con người. Không
có con người thì không có cái đẹp của bông hoa và cái đẹp của bông hoa không
phải do mầu đỏ, mầu trắng, mầu vàng, hay sự đắt giá của nó quyết định mà do
ý nghĩa xã hội trong quá trình đồng hoá thẩm mỹ của con người.
Thứ tư, mỹ học hiện đại, nhất là quan điểm mácxít đã khắc phục được
những thiếu sót trong những quan điểm siêu hình của tư tưởng mỹ học duy vật
trước đó; đồng thời cũng phê phán những quan điểm không đúng của mỹ học
duy tâm về cái đẹp. Ý nghĩa cách mạng trong quan niệm của mỹ học hiện đại lOMoAR cPSD| 49981208
là đã khẳng định bản chất của cái đẹp trong tính biện chứng và lịch sử – xã hội của nó.
Cái đẹp là một trong những thuộc tính thẩm mỹ của hiện thực. Nó chính
là một giá trị xã hội mang tính khách quan, rộng rãi của các sự vật, hiện tượng
toàn vẹn, cụ thể, cảm tính được con người xã hội cảm thụ – đánh giá và sáng
tạo. Tiêu chuẩn khách quan của cái đẹp thể hiện ở chỗ những thuộc tính thẩm
mỹ của nó trong các sự vật, hiện tượng đẹp phải phù hợp với tình cảm – thị
hiếu và lý tưởng thẩm mỹ – xã hội của một thời đại nhất định.
Bản chất của cái đẹp sẽ được làm rõ hơn, khi chúng ta phân tích những
dấu hiệu đặc trưng của cái đẹp ở ba phương diện sau:
Cái đẹp là cái gây nên ở tâm hồn con người – khoái cảm tinh thần. Khoái
cảm là sự thỏa mãn nhu cầu nói chung của con người về các phương diện khác
nhau của đời sống. Từ đó có quan điểm mỹ học đã đồng nhất cái đẹp với cái
gây khoái cảm và họ đi tìm qui luật của cái đẹp trên mặt tâm sinh lý. Thực ra
cái đẹp là cái có khả năng gây khoái cảm nhưng không đồng nhất với khoái
cảm nói chung của con người, mà là khoái cảm tinh thần – khoái cảm thẩm
mỹ. Sự đồng nhất cái đẹp với cái gây khoái cảm dẫn đến chủ nghĩa hình thức
và chủ nghĩa tự nhiên trong mỹ học.
Khoái cảm lành mạnh về mặt tinh thần chưa phải là khoái cảm thẩm mỹ.
Nhiều hứng thú có thể nảy sinh trong quá trình say mê trong học tập, lao động,
nghiên cứu khoa học; ở đây là niềm vui tinh thần, nhưng không phải là niềm
vui do qui luật của cái đẹp chi phối, vì chúng mới chỉ là cơ sở đầu tiên của
khoái cảm thẩm mỹ. Khoái cảm thẩm mỹ cũng là rung động cảm xúc biểu hiện
ở tình cảm thẩm mỹ. Tình cảm thẩm mỹ hơn bất cứ tình cảm nào, nó có mối
liên hệ sâu xa với lợi ích xã hội – con người với những giá trị đích thực cho
cuộc sống tốt đẹp, phù hợp với tâm tư nguyện vọng của những giai cấp, những
dân tộc và các thời đại khác nhau.
Khi cảm thụ, chiêm ngưỡng những hiện tượng đẹp của tự nhiên – xã hội
và nghệ thuật đều tác động nơi tâm hồn con người những phản ứng cảm xúc -
cảm nghĩ tích cực. Trước hết làm cho con người hân hoan, vui sướng và đồng
thời mang khơi dậy nguồn thích thú, đam mê, khát vọng, tìm tòi khám phá,
phát huy năng lực sáng tạo của con người.
Cái đẹp liên quan chặt chẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đến cái có ích nhưng lOMoAR cPSD| 49981208
nó không đồng nhất với cái có ích. Rõ ràng quan hệ thẩm mỹ đối với hiện thực
không phải là quan hệ trực tiếp tiêu dùng. Môt bức tranh tĩnh vật vẫn đẹp mặc
dầu trái cam, trái quít vẽ trong tranh không thể đáp ứng nhu cầu ăn uống của
con người. Tuy nhiên, cái đẹp và cái có ích không mâu thuẫn và không tách
rời nhau; nhưng đồng nhất cái đẹp với cái có ích thì rơi vào chủ nghĩa vụ lợi,
thực dụng. Cái có ích, lợi ích ẩn dấu trong cái đẹp và được cái đẹp biểu hiện
không phải là lợi ích vật chất trực tiếp mà lợi ích tinh thần.
Cái đẹp là cái có ích là nhờ vào ý nghĩa giáo dục của nó xét về nhiều khiá
cạnh khác nhau của đời sống tinh thần con người, như chính trị, đạo đức, pháp
quyền, khoa học, tôn giáo. Cantơ đã tuyên truyền cho chủ nghĩa hình thức
trong nghệ thuật và cho rằng quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” là sai lầm.
Cái đẹp phải dựa trên cái thật và cái tốt. Từ lâu người ta đã có quan niệm
cho rằng chân – thiện – mỹ là hệ giá trị cao nhất trong đời sống tinh thần của
con người cái mà con người cần phải vươn đến, phải đạt được để khẳng định
sự hoàn thiện và phát triển của con người. Quả thực cái giả không thể đep, cái
xấu không thể đẹp. Một tác phẩm nghệ thuât chỉ đẹp và có giá trị đích thực
khi nó phản ánh sự thật của cuộc sống, giải quyết những yêu cầu, nhiệm vụ
của thực tiễn xã hội. Cái đẹp dựa trên cái thật, cái tốt (khiá cạnh đạo đức);
nhưng có những cái thật cái tốt chưa phải là cái đẹp, chúng chỉ trở thành đẹp
khi hiện ra trong hình tượng cảm tính – cụ thể và là một giá trị thẩm mỹ được xã hội thừa nhận.
Cái đẹp giữ vị trí trung tâm của quan hệ thẩm mỹ, dùng để khái quát những
giá trị xã hội tích cực, khách quan, rộng rãi của hiện thực thẩm mỹ, xuất phát
từ thực tiễn, tồn tại dưới dạng hình tượng toàn vẹn, cụ thể – cảm tính phù hợp
với tình cảm, thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ của xã hội nhất định.
Như vậy, ngọn nguồn của bản chất vươn tới cái đẹp, sáng tạo theo qui luật
của cái đẹp, đầu tiên nằm trong bản chất tự nhiên, sinh học rồi phát triển rộng
ra xã hội trong tiến trình lịch sử của con người. Có hiểu như vậy mới khắc
phục được tính phiến diện trong sự cảm thụ, đánh giá và sáng tạo cái đẹp.