









Preview text:
    lOMoAR cPSD| 15962736                                        
LÝ THUYẾT NHÂN HỌC BIỂU TƯỢNG TRONG NGHIÊN  CỨU VĂN HÓA   
Cultural Studies (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố  Hồ Chí Minh)                                                                                                        lOMoAR cPSD| 15962736              
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH   
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN    KHOA VĂN HÓA HỌC    **********       
BÀI THU HOẠCH GIỮA KỲ                                                     
MÔN: VĂN HÓA HỌC ĐẠI CƯƠNG                     
GIẢNG VIÊN: TS. NGUYỄN VĂN HIỆU   
SINH VIÊN: HUỲNH NGUYỄN THẢO MY    MSSV: 2056140002          TP. HCM 07/2021                    lOMoAR cPSD| 15962736              
PHẦN I: NỘI DUNG CHÍNH   
Câu 1: Nêu định nghĩa về văn hóa (trừ định nghĩa của E. B. Tylor), đảm bảo các yêu cầu 
cơ bản từ góc độ khoa học như tầm vóc tác giả, nguồn tài liệu và nêu lý do chọn.   
Có thể nói, kể từ định nghĩa văn hóa đầu tiên của E.B. Tylor trong “Primitive 
Culture” (Văn hóa nguyên thủy) năm 1871, một đối tượng khoa học phức tạp của lĩnh vực 
nghiên cứu khoa học chuyên ngành nghiên cứu văn hóa đã cơ bản được hình thành. Song 
cũng bởi vì tính chất phức tạp, khó bao quát ấy mà ngay sau đó đã có không biết bao nhiêu 
định nghĩa về văn hóa trên khắp thế giới đã được khởi xướng. Tất cả những bộ óc thông 
thái nhất, họ cùng nhau tìm tòi, nghiên cứu, chắt lọc ra những câu từ tinh tế, hàm súc nhất 
cho đối tượng này chỉ với một mục đích duy nhất: rút lại càng ngắn càng tốt nhất khoảng 
cách giữa cái đúng nhất và cái còn đang mơ hồ trong các định nghĩa cũ. Có lẽ vì thế mà rất 
nhiều nhà nghiên cứu khoa học đã miệt mài để có thể tạo ra công trình cho chính mình.   
Một trong số những định nghĩa ấy là định nghĩa về văn hóa của hai Giáo sư nổi tiếng 
đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu truyền thông liên văn hóa và giao tiếp liên văn hóa tại  Bang California – Hoa Kỳ.   
“A deposit of knowledge, experience, beliefs, values, actions, attitudes, meanings, 
hierarchies, religion, notions of time, roles, spatial relations, concepts of the universe, and 
artifacts acquired by a group of people in the course of generations through individual  and group striving.”   
(Theo Larry A. Samovar và Richard E. Porter 1994; được trích dẫn nguyên văn tại 
andrews.edu và trích dẫn gián tiếp tại stanford.edu)(1)   
Theo Samovar và Porter, văn hóa được định nghĩa bằng cách đề cập đến sự lắng đọng 
tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, niềm tin, giá trị, thái độ, ý nghĩa, hệ thống phân cấp, tôn 
giáo, khái niệm về thời gian, vai trò, mối quan hệ không gian, khái niệm về vũ trụ, và các 
đối tượng vật chất hay tài sản có được bởi một nhóm người trong quá trình của các thế hệ 
thông qua phấn đấu cá nhân và nhóm.   
Về tầm vóc của tác giả, Larry A. Samovar và Richard E. Porter đều là Giáo sư đang 
nghiên cứu và giảng dạy tại Bang California của Hoa Kỳ. Cả hai người đều tham gia vào 
quá trình sáng tác hai quyển sách nổi tiếng về vấn đề liên văn hóa đặc biệt là mối liên hệ 
giữa văn hóa và giao tiếp. Đó là quyển “Communication Between Cultures” (tạm dịch: Giao 
tiếp giữa các nền văn hóa) cùng với Edwin R. McDaniel và quyển “Intercultural 
Communication: A Reader” (tạm dịch: Giao tiếp đa văn hóa) cùng với Edwin R. McDaniel 
và Carolyn Sexton Roy. Và đó cũng là chuyên ngành, là thế mạnh của hai vị Giáo sư ấy ở  đất Mỹ.   
Chi tiết hơn về hai vị Giáo sư ấy, Larry A. Samovar(2) là một Giáo sư, nhà nghiên cứu 
khoa học, nhà tư vấn truyền thông chuyên nghiệp, giảng viên, diễn giả, học giả và tác giả của 
hơn 100 bài báo học thuật trên thế giới. Và đặc biệt hơn hết, ông là người đi tiên phong                  lOMoAR cPSD| 15962736          
trong lĩnh vực truyền thông liên văn hóa. Vì thế nên hầu hết các cuốn sách và bài báo của 
ông đều nói về vấn đề giao tiếp liên văn hóa, giao tiếp nhóm nhỏ, giao tiếp giữa các cá 
nhân và việc nói chuyện trước đám đông.   
Về tác giả Richard E. Porter(2), ông là một Giáo sư danh dự tại Khoa Nghiên cứu 
Truyền thông tại Đại học Bang California. Porter đã phát triển mối quan tâm của mình 
trong giao tiếp liên văn hóa vào năm 1967 trước khi có một lĩnh vực nghiên cứu về vấn đề 
đó được thành lập. Ông đã góp phần đặt nền tảng cấu trúc cơ bản cho lĩnh vực nghiên cứu 
này và đã được nhiều học giả sau này sử dụng để nghiên cứu và phát triển. Trong vòng 30 
năm, ông đã tạo ra và giảng dạy các khóa học đại học và sau đại học về giao tiếp liên văn 
hóa. Và đương nhiên ông cũng là đồng tác giả, biên tập viên cho hàng loạt các đầu sách về 
chủ đề giao tiếp liên văn hóa.   
Nhưng có thể thấy một điều rằng, dù định nghĩa ấy chưa hẳn là một định nghĩa xuất 
sắc nhất và chưa hẳn đã được chấp nhận đối với đa số các quốc gia có công trình nghiên 
cứu về khía cạnh này, nhưng đây là một định nghĩa mà ta không thể nào bác bỏ được. Có rất 
nhiều lý do hết sức thuyết phục cho việc chọn định nghĩa này.   
Thứ nhất, định nghĩa này ra đời vào khoảng năm 1994 giữa khá nhiều tranh cãi của 
các nhà nghiên cứu khoa học để tìm ra một định nghĩa hoàn mỹ về văn hóa, cũng là sau 
123 năm kể từ khi định nghĩa đầu tiên về văn hóa của Tylor ra đời. Nói cách khác, lúc này 
thuật ngữ “văn hóa”, “văn hóa học” (hay “Science of Culture”, “Culturology”, “Cultural 
Studies”) đã được cộng đồng nghiên cứu khoa học cả thế giới chấp nhận và nghiên cứu như 
một đối tượng khoa học mới mẻ và phức tạp. Nên sẽ không có sự nhẫm lần giữa các thuật 
ngữ trong định nghĩa, thuật ngữ “văn hóa” đã được đánh giá đúng bản chất, đặc trưng của  mình.   
Thứ hai, tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê nhằm để phân định, chỉ điểm cụ thể, khách 
quan những yếu tố thuộc về văn hóa như: “a deposit of knowledge, experience, beliefs, 
values, actions, attitudes, meanings, hierarchies, religion, notions of time, roles, spatial 
relations, concepts of the universe, and artifacts acquired”. Qua đó, người tiếp nhận có thể 
có được hình dung rõ ràng nhất về văn hóa, không bị mông lung, mơ hồ, không hề có tình 
trạng sử dụng quá nhiều thuật ngữ khoa học khó lí giải khiến cho việc hiểu định nghĩa trở 
nên khó khăn. Có thể thấy, dù được viết bằng tiếng Anh nhưng khi dịch sang tiếng Việt, 
định nghĩa trên vẫn không xảy ra tình trạng bất đồng ngôn ngữ dẫn đến khó hiểu quá nhiều. 
Điều này giúp cho tất cả những đọc giả kể cả những sinh viên mới tiếp cận với lĩnh vực 
nghiên cứu này cũng có thể hiểu được ý tác giả muốn diễn đạt.   
Thứ ba, định nghĩa trên đã khái quát tương đối đầy đủ các ý niệm về văn hóa, đó là 
“sự lắng đọng tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, niềm tin, giá trị, thái độ, ý nghĩa, hệ thống 
phân cấp, tôn giáo, khái niệm về thời gian, vai trò, mối quan hệ không gian, khái niệm về 
vũ trụ, và các đối tượng vật chất hay tài sản”. Và đặc biệt là yếu tố “by a group of people 
in the course of generations through individual and group striving” – “bởi một nhóm người 
trong quá trình của các thế hệ thông qua phấn đấu cá nhân và nhóm”. Có thể thấy, định 
nghĩa của Samovar và Porter cũng có một số điểm tương đồng với định nghĩa của Tylor.                  lOMoAR cPSD| 15962736          
Nhưng khi đặt cạnh định nghĩa đầu tiên của văn hóa, ta mới có thể thấy được sự dễ hiểu, dễ 
hình dung, dễ nắm bắt, hay những yếu tố mới mẻ và thậm chí là cả những hạn chế trong câu 
từ của Samovar và Porter.   
Trước tiên, có thể nói định nghĩa của hai Giáo sư đến từ Mỹ có phần dễ hiểu, dễ tiếp 
cận hơn đối với đại đa số những người đang bắt đầu nghiên cứu về lĩnh vực này. Nó vừa 
bao quát được các yếu tố về vật chất và cả tinh thần thuộc về văn hóa, vừa có yếu tố con 
người và sự duy trì, phấn đấu của cá nhân và tập thể trong xã hội đó. Bên cạnh đó, với định 
nghĩa này, Samovar và Porter còn nhạy cảm và thông suốt hơn khi đưa ra “notions of time”, 
“spatial relations” và “concepts of the universe” (khái niệm về thời gian, mối quan hệ 
không gian và khái niệm về vũ trụ). Có thể nói, đó là điểm mới mẻ hơn so với định nghĩa 
của Tylor hơn 100 năm trước, khi cả hai Giáo sư đều nhận thấy được yếu tố thời gian, 
không gian, và rộng lớn hơn là vũ trụ trong định nghĩa của mình.   
Thế nhưng, như đã nhận xét, thủ pháp liệt kê đôi lúc cũng có thể dẫn đến thiếu sót ý, 
hay thậm chí là chưa thể bao quát được toàn bộ vấn đề, và điều này đối với nghiên cứu khoa 
học là điều khó có thể chấp nhận được. Nhưng ở đây ta vẫn có thể hiểu rằng, tác giả đã rất 
cố gắng trong việc diễn giải định nghĩa về văn hóa của mình một cách rõ ràng, ít sử dụng 
các thuật ngữ khoa học trừu tượng nhất nhưng vẫn không thay đổi sự đúng đắn trong diễn 
đạt của mình. Và có thể, bản thân hai Giáo sư ấy cũng đã liệt kê hết tất cả những khía cạnh 
về văn hóa mà bản thân họ có thể tìm ra thời bấy giờ. Dưới góc độ là một đọc giả tiếp thu, ta 
vẫn nên tôn trọng chính kiến của họ.   
Tóm lại, giữa hàng trăm định nghĩa về văn hóa, thế giới vẫn chưa thể thống nhất được 
đâu là định nghĩa chính xác tuyệt đối. Phần lớn chỉ có thể là mỗi định nghĩa một chút, góp phần 
xây dựng góc nhìn ngày càng rõ hơn về đối tượng nghiên cứu khoa học vốn đã rất phức tạp này. 
Thế nhưng ta vẫn không thể phủ định được đóng góp của hai Giáo sư người Mỹ – Larry A. 
Samovar và Richard E. Porter đã mang đến một điểm nhìn mới hơn về văn hóa.   
Câu 2: Chọn tài liệu (nguồn), tóm tắt một lý tuyết nghiên cứu văn hóa và nêu nhận thức 
về đóng góp và hạn chế của nó.   
SYMBOLIC AND INTERPRETIVE ANTHROPOLOGIES(3)   
NHÂN HỌC BIỂU TƯỢNG/ DIỄN GIẢI   
1. Tiền đề cơ bản   
Nhân học biểu tượng nghiên cứu cách mọi người hiểu môi trường xung quanh họ, 
cũng như hành động và lời nói của các thành viên khác trong xã hội của họ. Cách giải thích 
này tạo thành một hệ thống văn hóa chung về ý nghĩa - tức là những hiểu biết được chia sẻ,   
ở những mức độ khác nhau, giữa các thành viên của cùng một xã hội. Ngoài ra, Nhân học 
biểu tượng còn nghiên cứu các biểu tượng và các quá trình, chẳng hạn như thần thoại và 
nghi lễ, qua đó con người gán ý nghĩa cho các biểu tượng này để giải quyết các câu hỏi cơ 
bản về đời sống xã hội của con người.                  lOMoAR cPSD| 15962736          
Theo Clifford Geertz, con người cần những “nguồn chiếu sáng” mang tính biểu 
tượng để định hướng bản thân đối với hệ thống ý nghĩa vốn là bất kỳ nền văn hóa cụ thể nào. 
Mặt khác, Victor Turner tuyên bố rằng các biểu tượng bắt đầu hành động xã hội và là 
“những ảnh hưởng có thể xác định để thúc đẩy mọi người và các nhóm hành động”. Ở đây, 
Geertz minh họa cách tiếp cận diễn giải đối với nhân học biểu tượng, trong khi Turner minh 
họa cách tiếp cận biểu tượng.   
1.1. Các tiền đề chính về lý thuyết nhân học biểu tượng   
Có hai tiền đề chính liên quan đến nhân học biểu tượng:   
Thứ nhất là "niềm tin, tuy nhiên nó hơi khó hiểu, chỉ có thể hiểu khi ta xem nó 
như một phần của hệ thống văn hóa ý nghĩa".   
Thứ hai là các hành động được hướng dẫn bằng cách giải thích, cho phép biểu tượng 
hỗ trợ giải thích các hoạt động khái niệm cũng như vật chất.   
Vậy có thể thấy, nhân học biểu tượng là một lý thuyết xem văn hóa như một hệ thống   
ý nghĩa độc lập được giải mã bằng cách diễn giải các biểu tượng và nghi lễ chính. Theo 
truyền thống, nhân học biểu tượng tập trung vào tôn giáo, vũ trụ học, hoạt động nghi lễ và 
các phong tục biểu đạt như thần thoại và nghệ thuật biểu diễn. Bên cạnh đó các nhà nhân 
học biểu tượng cũng đã nghiên cứu các hình thức tổ chức xã hội khác như thân tộc và chính 
trị. Việc nghiên cứu các loại hình xã hội này cho phép các nhà nghiên cứu nghiên cứu vai trò 
của các biểu tượng trong cuộc sống hàng ngày của một nhóm người.   
1.2. Cách tiếp cận lý thuyết nhân học biểu tượng   
Và như đã ngụ ý ở trên, nhân học biểu tượng có thể được chia thành hai cách tiếp cận chính:   
Cách 1: liên kết với Clifford Geertz và Đại học Chicago.   
Cách 2: liên kết với Victor W. Turner tại Comell.   
Ngoài hai nhân vật trên, David Schneider cũng là người có công lớn trong sự phát 
triển của nhân học biểu tượng, nhưng ông không hoàn toàn thuộc một trong hai trường phái 
tư tưởng trên. Tuy nhiên, có một điều đặc biệt là Turner, Geertz và Schneider đã cùng nhau 
học tại Đại học Chicago vào những năm 1970 và cả ba cùng là những người khởi xướng và 
có ảnh hưởng lớn đối với lý thuyết này.   
Từ đó ta nhận thấy được rằng, nhân học biểu tượng ra đời và phát triển mạnh mẽ từ 
thập kỷ 70 của thế kỉ XX, khởi đầu tại Đại học Chicago, Hoa Kỳ và sau đó phổ biến tới 
nhiều nơi trên thế giới.   
1.3. Sự khác biệt giữa các trường phái thuộc lý thuyết nhân học biểu tượng                        lOMoAR cPSD| 15962736          
Sự khác biệt chính giữa hai trường phái đó nằm ở ảnh hưởng tương ứng của chúng:   
Geertz bị ảnh hưởng nhiều nhất từ nhà xã hội học Max Weber, và bị phụ thuộc vào 
các hoạt động của “văn hóa” hơn là cách thức mà các biểu tượng ảnh hưởng đến quá trình 
xã hội. Geertz tập trung nhiều vào các cách thức mà các biểu tượng liên quan với nhau trong 
văn hóa và cách các cá nhân “nhìn, cảm nhận và suy nghĩ về thế giới”.   
Trong khi Turner chịu ảnh hưởng của Emile Durkheim, quan tâm đến các hoạt động 
của “xã hội” và cách thức mà các biểu tượng hoạt động bên trong nó. Turner quan tâm hơn 
nhiều trong việc điều tra xem, liệu, các biểu tượng có thực sự hoạt động trong quá trình xã 
hội như cách mà các nhà nhân loại học biểu tượng tin rằng họ đã làm hay không.   
2. Các phản ứng tiêu biểu về nhân học biểu tượng   
Đầu tiên, nhân học biểu tượng có thể được coi là một sự phản ứng lại đối với chu 
nghĩa cấu trúc được đặt nền tảng trong ngôn ngữ học và ký hiệu học, được Claude Levi-
Strauss đi tiên phong trong lĩnh vực nhân học. Lí do bởi vì các nhà cấu trúc đã hạ thấp vai 
trò của các “tác nhân riêng lẻ” (actor-centric) trong các phân tích của họ, trong khi các nhà 
nhân học biểu tượng tin vào cách diễn giải “lấy cá nhân làm trung tâm”. Hơn nữa, chủ 
nghĩa cấu trúc chỉ sử dụng các biểu tượng liên quan đến vị trí của chúng trong “hệ thống” 
chứ không phải là một phần không thể thiếu của việc hiểu hệ thống.   
Và phản ứng thứ hai cho thấy nhân học tượng trưng hay nhân học biểu tượng cũng là 
một phản ứng chống lại chu nghĩa duy vật và chu nghĩa Mác. Các nhà duy vật định nghĩa 
văn hóa dưới dạng các mô hình hành vi có thể quan sát được, trong đó “các yếu tố môi 
trường công nghệ là chính và đồng thời cũng là nguyên nhân”. Thay vào đó, các nhà nhân 
học biểu tượng xem văn hóa như biểu tượng và cấu trúc tinh thần.   
3. Những nhân vật hàng đầu   
Clifford Geertz (1926-2006) học tại Đại học Harvard vào những năm 1950. Đối với 
Geertz, các biểu tượng là “phương tiện của ‘văn hóa’”, và ông khẳng định rằng các biểu 
tượng không nên được nghiên cứu về bản thân chúng, mà là về những gì chúng có thể tiết lộ 
về văn hóa. Mối quan tâm chính của Geertz là cách mà các biểu tượng định hình được, cách 
mà các chủ thể xã hội nhìn, cảm nhận và suy nghĩ về thế giới. Trong suốt các tác phẩm của 
mình, Geertz đã mô tả văn hóa như một hiện tượng xã hội và một hệ thống chung các biểu 
tượng và ý nghĩa liên quan đến nhau.   
Victor Witter Turner (1920-1983) sinh ra ở Scotland, đã sớm bị ảnh hưởng bởi cách 
tiếp cận cấu trúc – chức năng của nhân học xã hội Anh. Tuy nhiên, khi bắt tay vào nghiên 
cứu Ndembu ở Châu Phi, trọng tâm của Turner bắt đầu chuyển từ kinh tế học và nhân khẩu 
học sang chủ nghĩa biểu tượng nghi lễ. Thế nên cách tiếp cận của Turner đối với các biểu 
tượng rất khác so với cách tiếp cận của Geertz. Turner không quan tâm đến các biểu tượng 
như phương tiện của văn hóa, thay vào đó, ông đã điều tra các biểu tượng là “người vận 
hành trong quá trình xã hội”. Turner cảm thấy rằng những “người vận hành” này, bằng sự 
sắp xếp và bối cảnh của họ, tạo ra “sự biến đổi xã hội” gắn kết mọi người trong một xã hội 
với các chuẩn mực của xã hội, giải quyết xung đột và hỗ trợ thay đổi tình trạng của các cá  nhân.                lOMoAR cPSD| 15962736          
David Schneider (1918-1995) đã không phá vỡ hoàn toàn chủ nghĩa cấu trúc đã 
được thực hiện bởi Geertz và Turner, thay vào đó ông giữ lại và sửa đổi ý tưởng văn hóa của 
Levi-Strauss như một tập hợp các mối quan hệ. Ông lập luận rằng sự đều đặn trong hành vi 
không nhất thiết là “văn hóa”, cũng không thể suy ra từ một mô hình hành vi thông thường. 
Schneider quan tâm đến mối liên hệ giữa các biểu tượng văn hóa và các sự kiện có thể quan 
sát được và cố gắng xác định các biểu tượng và ý nghĩa chi phối các quy tắc của một xã hội.   
4. Các khái niệm chính liên quan   
4.1. Mô tả dày – Thick Description   
“Mô tả dày” là một thuật ngữ Geertz mượn từ Gilbert Ryle để mô tả và xác định mục 
đích của nhân học diễn giải.“Mô tả dày” là một cách giải thích về những gì mà người bản 
địa đang nghĩ, được thực hiện bởi một người ngoài không thể suy nghĩ như một người bản 
địa nhưng được hướng dẫn bởi lý thuyết nhân học.   
Để minh họa, Geertz sử dụng ví dụ của Ryle thảo luận về sự khác biệt giữa “chớp 
mắt” và “nháy mắt”. Mặc dù các chuyển động vật lý đều giống hệt nhau, nhưng mỗi cái đều 
có một ý nghĩa riêng biệt “như bất kỳ ai không may có lần đầu tiên thực hiện lần thứ hai 
đều biết”. Mỗi kiểu nháy mắt có thể được coi là một phạm trù văn hóa riêng. Sự kết hợp 
giữa chớp mắt và các kiểu nháy mắt đã thảo luận ở trên tạo ra “ một hệ thống phân cấp cấu  trúc có ý nghĩa”.   
4.2. Thông diễn học – Hermeneutics   
“Thông diễn học” là một thuật ngữ lần đầu tiên được áp dụng cho việc giải thích phê 
phán các văn bản tôn giáo. Việc sử dụng thuật ngữ này hiện đại là một “sự kết hợp của điều 
tra thực nghiệm và sự hiểu biết chủ quan tiếp theo về các hiện tượng của con người”. Geertz 
đã sử dụng thông diễn học trong các nghiên cứu của mình về các hệ thống ký hiệu để có thể 
hiểu những cách mà mọi người “hiểu và hành động trong bối cảnh xã hội, tôn giáo và kinh  tế”.   
Hệ thống phân cấp bao quanh trận đấu gà Bali cung cấp cho ta một ví dụ điển hình. 
Geertz xác định đấu gà là một hình thức nghệ thuật đại diện cho sự sắp xếp tình trạng trong 
cộng đồng và tự thể hiện bản sắc cộng đồng. Còn Turner sử dụng thông diễn học như một 
phương pháp để hiểu ý nghĩa của “các buổi biểu diễn văn hóa” như khiêu vũ, kịch, v.v.   
4.3. Kịch xã hội – Social Drama   
“Kịch xã hội” là một khái niệm được Victor Turner nghĩ ra để nghiên cứu biện chứng 
của sự chuyển đổi xã hội và tính liên tục. Một bộ phim truyền hình xã hội là “một đơn vị tự phát 
của quá trình xã hội và thực tế là kinh nghiệm của mọi người trong mọi xã hội loài người”. 
Kịch xã hội xảy ra trong một nhóm chia sẻ các giá trị và sở thích và có một lịch sử chung chung. 
Vở kịch này có thể được chia thành bốn màn. Cảnh đầu tiên là một sự rạn nứt trong các mối 
quan hệ xã hội, hoặc vi phạm. Cảnh thứ hai là một cuộc khủng hoảng không                    lOMoAR cPSD| 15962736          
thể được xử lý bằng các chiến lược bình thường. Cảnh thứ ba là một biện pháp khắc phục 
vấn đề ban đầu, hoặc khắc phục và tái thiết lập các mối quan hệ xã hội. Và cảnh cuối cùng 
có thể xảy ra theo hai cách: tái hòa nhập, trở lại hiện trạng hoặc công nhận sự phân ly, một 
sự thay đổi trong các thỏa thuận xã hội.   
Trong cả hai quyết định đều có những màn trình diễn mang tính biểu tượng, trong đó 
các diễn viên thể hiện sự thống nhất của họ dưới hình thức nghi lễ . Trong lý thuyết của 
Turner, nghi lễ là một loại cốt truyện có một chuỗi tập hợp là tuyến tính, không phải hình  tròn.   
5. Phương pháp nghiên cứu   
Giống như nhiều hình thức nhân học văn hóa, nhân học biểu tượng dựa trên sự so 
sánh giữa các nền văn hóa. Và một trong những thay đổi lớn ở đây là sự chuyển dịch sang 
cách tiếp cận dựa trên văn học hơn là dựa trên khoa học.   
Ngoài ra, nhân học biểu tượng xem xét các biểu tượng từ các khía cạnh khác nhau 
của đời sống xã hội, chứ không phải từ một khía cạnh tại một thời điểm bị cô lập với phần 
còn lại. Và điều này thì trái ngược với cách tiếp cận chủ nghĩa cấu trúc. Nhân học biểu 
tượng tập trung phần lớn vào văn hóa nói chung chứ không phải vào các khía cạnh cụ thể 
của văn hóa mà bị cô lập với nhau.    6. Thành tựu   
Thành tựu lớn của nhân học biểu tượng là biến nhân học thành các vấn đề văn hóa và 
giải thích rõ hơn về sự phát triển của các lý thuyết lớn. Geertz, nhờ các tài liệu tham khảo 
của mình từ các nhà khoa học xã hội như khác, ông đã trở thành nhà nhân học thường được 
trích dẫn nhiều nhất bởi các ngành khác. Tuy nhiên, đóng góp chính của Geertz đối với kiến 
thức nhân học là thay đổi cách mà các nhà nhân học Mỹ nhìn nhận về văn hóa, họ đã chuyển 
mối quan tâm từ các hoạt động của văn hóa sang cách mà các biểu tượng hoạt động như 
“phương tiện của văn hóa”.   
Một đóng góp khác là củng cố tầm quan trọng của việc nghiên cứu văn hóa từ quan 
điểm của các cá nhân (actors) được hướng dẫn bởi nền văn hóa đó. Quan điểm “emic” này 
có nghĩa là người ta phải xem các cá nhân như một cách giải thích các tình huống để hành 
động. Và Schneider đã phát triển các khía cạnh có hệ thống của văn hóa, tách văn hóa ra 
khỏi cá nhân nhiều hơn Geertz đã từng.   
Còn đóng góp của Turner cho nhân học là nghiên cứu về cách các biểu tượng thực sự 
thực hiện “công việc” xã hội. Đây là một khía cạnh của nhân học biểu tượng mà Geertz và 
Schneider chưa từng đề cập trước đó.   
7. Những lời phê bình, đánh giá cua nhân học biểu tượng                        lOMoAR cPSD| 15962736          
Đáng chú ý nhất là từ những người Theo chủ nghĩa Mác. Theo Talal Asad, điểm yếu 
của Geertz nằm ở sự khác biệt giữa các biểu tượng bên ngoài và khuynh hướng bên trong, 
tương ứng với khoảng cách giữa “hệ thống văn hóa” và “thực tế xã hội”, khi ông cố gắng 
xác định khái niệm tôn giáo theo thuật ngữ phổ quát. Ông cho rằng các nhà nhân học thay 
vào đó nên tập trung vào các điều kiện lịch sử vì đó là điều rất quan trọng đối với sự phát 
triển của một số thực hành tôn giáo. Việc tránh xa định nghĩa về tôn giáo nói chung là quan 
trọng trên hết, lí do là bởi vì sự phát triển của các thực hành tôn giáo khác nhau giữa xã hội 
với xã hội là khác nhau.   
Ngoài ra, những người theo chủ nghĩa Mác còn cáo buộc rằng, nhân học biểu tượng 
trong khi mô tả hành vi xã hội và các hệ thống biểu tượng, đã không cố gắng giải thích các 
hệ thống này, mà tập trung quá nhiều vào các biểu tượng riêng lẻ.   
Một cuộc tấn công khác vào nhân học biểu tượng đến từ sinh thái học văn hóa. Các 
nhà sinh thái học văn hóa coi các nhà nhân học biểu tượng là “những nhà tâm thần học đầu 
mờ tham gia vào các cuộc tranh luận giải thích chủ quan và không thể kiểm chứng”. Nói 
cách khác, nhân học biểu tượng đã không cố gắng thực hiện nghiên cứu của họ theo cách để 
các nhà nghiên cứu khác có thể tái tạo kết quả của họ.   
Các nhà sinh thái học văn hóa cho rằng, việc các nhà nhân học biểu tượng lập luận 
các hiện tượng tinh thần và giải thích tượng trưng, là hoàn toàn không có kiểm chứng về mặt 
khoa học. Ngoài ra, vì các nhà nhân học khác nhau có thể xem cùng một biểu tượng theo 
những cách khác nhau, điều này đã làm cho họ bị chỉ trích vì quá chủ quan.   
8. Nhận thức cá nhân về đóng góp và hạn chế của nhân học biểu tượng    8.1. Về đóng góp   
Mở rộng phạm vi nghiên cứu và lí giải của nhân học từ trước đến nay, không chỉ 
dừng lại ở các lĩnh vực truyền thống như tôn giáo, tín ngưỡng, biểu diễn nghệ thuật truyền 
thống,… mà mở rộng ra đến cả các vấn đề về thân tộc, hệ thống chính trị, sinh thái văn hóa, 
không chỉ là những biểu hiện văn hoá bí ẩn và tinh vi nhất mà còn là những thứ trần tục 
trong xã hội, bởi họ cho rằng đó cũng là những chiều kích biểu tượng đối với tất cả các hình  mẫu tổ chức xã hội.   
Biến nhân học thành các vấn đề văn hóa, và từ đó kế thừa cũng như phát triển những 
lý thuyết lớn trước đây. Geertz với trường phái diễn giải đã thay đổi cách các nhà nhân học 
Mỹ nhìn nhận về văn hóa từ các hoạt động của văn hóa sang cách các biểu tượng đóng vai 
trò là phương tiện của văn hóa.   
Nhân học biểu tượng cung cấp cho thế giới cách giải thích văn hóa thông qua những 
biểu tượng bằng cách tiếp cận “quan điểm của người bản địa” (native point of view) để tìm 
hiểu tính chất trừu tượng và đa nghĩa của biểu tượng. Có nghĩa là muốn hiểu được biểu 
tượng ta phải tiếp cận “tiếng nói – emic” của người trong cuộc; và đó cũng là lí do mà 
Geertz đã tạo ra khái niệm “mô tả dày” – hiểu đơn giản là ghi chép lại càng nhiều càng tốt                    lOMoAR cPSD| 15962736          
về người trong cuộc và thông qua đó giải thích một nền văn hóa bất kì gắn với xã hội đó, 
con người đó. Việc nghiên cứu các biểu tượng văn hoá có thể nói còn giúp chúng ta tiếp cận 
được với quá trình tồn tại và phát triển của xã hội và của nhân loại. Từ đó, có thể suy ra 
rằng, nghiên cứu nhân học biểu tượng cũng đồng thời là khai thác và tìm hiểu về con người,  văn hóa và xã hội.   
Ngoài ra, phương pháp “Mô tả dày” của Geertz cho chúng ta nhận thức được một 
điều là cần tìm hiểu và giải thích bối cảnh ra đời và tồn tại của biểu tượng để thông qua đó ta 
có thể hiểu một cách sâu sắc về biểu tượng, và văn hóa. Từ đó nhận ra rằng bất kỳ hành vi 
nào cũng bắt nguồn từ những ràng buộc xã hội và văn hóa phức tạp.    8.2. Về hạn chế   
Trước tiên với Clifford Geertz, mặc dù quan điểm lấy cá nhân làm trung tâm của ông 
luôn là đề tài chính trong cách tác phẩm của mình, nhưng nó chưa bao giờ được phát triển 
một cách có hệ thống thành một lý thuyết hoặc mô hình thực tế.   
Còn một hạn chế nữa, đó là, các biểu tượng sẽ không phải luôn đúng đắn với mọi 
người và mọi xã hội, nó chỉ có ý nghĩa nhất định trong một hoặc một vài xã hội cụ thể. Lấy 
ví dụ như ở một số nước trên thế giới, việc một người giơ ngón cái lên có nghĩa là họ muốn 
thể hiện sự tán thưởng, xem trọng, đề cao, đồng tình hay khen ngợi đối phương, nhưng ở 
một số quốc gia, biểu tượng đó lại bị cho là tự cao, thiếu tôn trọng người khác vì nó có nghĩa 
là tự cho mình là số một. Qua ví dụ trên, có thể nhận thức rằng, việc sử dụng biểu tượng 
cũng rất cần phải cân nhắc đối với những nền văn hóa khác nhau.   
Vì vậy, việc nghiên cứu văn hóa từ các biểu tượng cũng cần phải chú ý, tránh việc 
nhìn nhận chủ quan, gán ghép một ý nghĩa cho một biểu tượng nào đó mà không nghiên cứu 
rõ hơn về tính đa nghĩa của biểu tượng. Điều đó cũng giống như lời đánh giá trên của các 
nhà sinh thái học văn hóa. Vì thế, dẫu được cho là mang lại nhiều đóng góp nhưng nhân học 
biểu tượng vẫn bị phê phán vì quá chủ quan và không có nhiều cơ sở khoa học; vì nhìn 
chung, phương pháp luận của lý thuyết này vẫn dựa trên văn học để tiếp cận biểu tượng  nhiều hơn là khoa học.   
PHẦN II: TRÍCH DẪN NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO   
(1): định nghĩa được trích dẫn nguyên văn tại www.andrews.edu/~tidwell/Culture.html, và 
tham khảo trích dẫn gián tiếp tại   
web.stanford.edu/~hakuta/www/archives/syllabi/E_CLAD/sfusd_cult_03/melissa/Culture    %20Defined.htm   
(2): về tầm vóc của tác giả: tham khảo từ trang iii của quyển “Intercultural Communication: 
A Reader” chỉnh sửa lần thứ 14 – tham khảo thêm tại sách điện tử books.google.com.vn/   
(3): nguồn tài liệu tham khảo của lý thuyết nhân học biểu tượng (câu 2) 
anthropology.ua.edu/theory/symbolic-and-interpretive-anthropologies/          
