Lý thuyết ôn tập LSĐ/ Trường đại học Nguyễn Tất Thành

Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, phải quán triệt sâu sắc quan điểm “kiên quyết, kiên trì”. Quan điểm này không chỉ phản ánh ý chí quyết tâm cao, ý chí thép, khí phách anh hùng quật cường của nhân dân ta mà còn thể hiện tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh. Đây cũng là biện pháp đối phó linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:
Trường:

Đại học Nguyễn Tất Thành 1 K tài liệu

Thông tin:
12 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Lý thuyết ôn tập LSĐ/ Trường đại học Nguyễn Tất Thành

Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, phải quán triệt sâu sắc quan điểm “kiên quyết, kiên trì”. Quan điểm này không chỉ phản ánh ý chí quyết tâm cao, ý chí thép, khí phách anh hùng quật cường của nhân dân ta mà còn thể hiện tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh. Đây cũng là biện pháp đối phó linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

11 6 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 46454745
1. Tìm hiểu nguyên nhân chiến tranh Tây Nam
Hơn 40 năm sau chiến thắng đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, chiến tranh biên giới Tây Nam được
xem là một trong những mảnh ghép đặc biệt trong lịch sử chống giặc của Việt Nam. Vậy nguyên nhân
dẫn tới Chiến tranh biên giới Tây Nam là gì?
1.1. Nguyên nhân
Việt Nam - Campuchia đã xây dựng nh hữu nghị, đoàn kết cùng chống kẻ thù chung là thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ nhằm giành lại độc lập, tự do. Tuy nhiên, sau khi Pôn Pốt trở thành Tổng bí thư
Đảng Công nhân Campuchia vào năm 1963 và bị các thế lực phản động nước ngoài kích động, lợi
dụng, từ những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ (1970 - 1975) thì tập đoàn Pôn Pốt đã phản bội
lại sự nghiệp cách mạng và xem Việt Nam là kẻ thù số một. Chúng bắt đầu ến hành một số vụ ến
công, bắt cóc giết hại cán bộ, bộ đội Việt Nam ở chiến trường Campuchia đồng thời gây chia rẽ nội bộ
những người cộng sản Campuchia, cướp hàng chục tấn lương thực và vũ khí của quân đội ta. Hơn thế
nữa, chúng phạm sai lầm nghiêm trọng khi thực thi chính sách diệt chủng tàn khốc, cưỡng bức lao
động khổ sai, tra tấn hành hạ người dân Campuchia, biến trường học, nhà chùa thành nhà tù, khắp
mọi nơi đầy những hố chôn người tập thể. Chúng đã giết hại gần 3 triệu người dân Campuchia vô tội.
Không dừng lại ở đó, Pôn Pốt đã cho quân xâm lược các đảo, biên giới đất liền Tây Nam khi đất nước
ta vừa được thống nhất. Sau hàng loạt hành động tàn nhẫn mà Pôn Pốt đã làm với nhân dân
Campuchia và bộ đội Việt Nam, chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ trong những năm 1975 – 1978
1.2. Diễn biến
Chiến tranh biên giới Tây Nam diễn ra Campuchia, biên giới Tây Nam của Việt Nam biên giới
phía đông Thái Lan. Cuộc chiến bao gồm 2 giai đoạn a. Giai đoạn 1
30/4/1977: chúng đánh vào 14/16 xã biên giới thuộc tỉnh An Giang
19/5/1977: quân Pôn Pốt đã giết hại tổng cộng 222 người và làm 614 người dân Việt Nam bị thương,
phá nhiều nhà cửa, tài sản của nhân dân
25/9/1977: chúng tập trung 9 sư đoàn chủ lực mở cuộc ến công lớn thứ 2 đánh sang địa bàn các
tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp lên hướng Tây Ninh, gây nhiều tội ác đối với nhân dân
Việt Nam
15/11/1977: quân Pôn Pốt lại mở cuộc ến công mới nhằm đánh chiếm thị xã
Tây Ninh. Trước nh hình đó Quân ủy Trung ương của ta đã chỉ thị Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu
9, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 điều chỉnh lực lượng, phương ện, xây dựng phương án, sẵn sàng
chiến đấu cùng với các Quân đoàn 4, Quân đoàn 3 và Quân khu 7, Quân khu 9 tập trung 8 sư đoàn
mở đợt phản công truy kích quân Pôn Pốt sâu vào Campuchia 20 – 30km làm thất bại kế hoạch đánh
chiếm thị xã Tây Ninh.
31/12/1977: Với bản nh “vừa ăn cướp, vừa la làng ” chúng ra vu khống Quân đội Việt Nam “ến
công xâm lược Campuchia dân chủ” nhằm cô lập Việt Nam với quốc tếứng trước hành động của tp
đoàn Pôn Pốt, chính phủ ta ra tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia và vạch trần âm
mưu thủ đoạn và những tội ác man rợ của tập đoàn Pôn Pốt với đồng bào ta ở các tỉnh biên giới Tây
Nam. b. Giai đoạn 2
Tháng 1-1978: Đưa thêm 2 sư đoàn ra biên giới, liên tục ến công lấn chiếm, gây nhiều tội ác với
đồng bào ta
5/2/1978: Chính phủ ớc ta ra tuyên bố Chấm dứt mọi hoạt động quân sự, rút lực lượng vũ trang ra
cách biên giới 5km; Hội đàm ến tới ký hiệp ước hữu nghị và không xâm lược, kí hiệp ước về biên
Thông n tuyên truyền tháng 1 - 2019 7 giới; (3) Thỏa thuận về một hình thức thích hợp bảo đảm
thông lệ quốc tế và giám sát quốc tế.
26/3/1978: Các đơn vị quân đội ta chuyển sang ến công, đẩy quân Pôn Pốt lùi xa dần biên giới và
dồn đối phương vào thế bị động, đối phó
lOMoARcPSD| 46454745
15/6/1978: Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn về chống lại cuộc chiến tranh xâm lược
biên giới Tây Nam và nh hình căng thẳng ở biên giới phía Bắc
Từ tháng 5 đến tháng 11-1978: Việt Nam đã giúp lực lượng Campuchia phát triển 15 ểu đoàn, 5
khung ểu đoàn, 24 đội công tác, xây dựng được các t chức đảng, chuẩn bị thành lập mặt trận và b
máy lãnh đạo
2/12/1978: Tại vùng giải phóng thuộc tỉnh Krae (Campuchia) Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia ra mắt nhân dân Campuchia
6 và 7 tháng 12/1978: Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm tổng phản công -
ến công chiến lược êu diệt quân địch, hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam
23/12/1978: Quân nh nguyện Việt Nam cùng với lực lượng vũ trang
Campuchia đã mở cuộc tổng phản công - ến công trên toàn tuyến biên giới
26/12/1978: Toàn bộ hệ thống phòng thủ vòng ngoài của quân Pôn Pốt bị phá vỡ.
31/12/1978: Quân và dân ta đã hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi quân Pôn Pốt 7/1/1979: Thủ đô
Phnôm Pênh hoàn toàn được giải phóng.
8/1/1979: Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập
23/12/1978 - 17/1/1979: Quân nh nguyện Việt Nam cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia
đã êu diệt 8 sư đoàn quân Pôn Pốt, diệt 12.000 tên, bắt 8.800 tên, gọi hàng 3.200 tên và làm tan rã
tại chỗ 44.000 tên; giải phóng trên 4 triệu dân Campuchia
1.3. Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng
a. Đối với Việt Nam
Khẳng định nhân dân Việt Nam với ý chí độc lập, tự chnh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế trong sáng, đập tan bất kỳ âm mưu và hành động chống phá của các thế lực phản động b.
Đối với nhân dân Campuchia
Xóa bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của tập đoàn Pôn Pốt, thành lập chế độ Cộng hòa nhân dân
Campuchia; cứu nhân dân Campuchia ra khỏi thảm họa diệt chủng c. Đối với quốc tế
Thhiện sức mạnh của nh thần đoàn kết quốc tế, sự thủy chung, trọn nghĩa vẹn nh giữa hai dân
tộc Việt Nam - Campuchia
Góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; đấu tranh vạch trn
bản chất của chế độ phân biệt chủng tộc, sắc tộc, chế độ độc tài
2. Nguyên nhân chiến tranh biên giới phía bắc 1979
2.1. Tổng quan cuộc chiến
Xuyên suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân ta,
không thể ph nhận rằng Trung Quốc đã dành sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn cho Việt Nam. Tuy nhiên, sau
khi nước ta giành được độc lập, Trung Quốc đã trở mặt, tăng cường các hoạt động tuyên truyền, kích
động tâm lý thù hằn dân tộc, khiêu khích vũ trang, xâm lấn lãnh thổ… và cuối cùng Trung Quốc đã
đem quân tràn vào miền Bắc nước ta và một cuộc chiến tranh bùng nổ ( tháng 2/1979) buộc chúng ta
phải đứng lên tự vệ.
Ngày 17/2/1979, thực hiện kế hoạch vạch ra từ trước, nhà cầm quyền Trung Quốc đã phát động cuộc
ến công quy mô lớn xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc từ Phong Thổ
lOMoARcPSD| 46454745
(Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh). Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, quân và dân Việt Nam anh
dũng chiến đấu, giáng trả quyết liệt.
Chịu nhiều tổn thất mà chưa đạt được mục êu ban đầu đề ra, đồng thời bị dư luận thế giới lên án
mạnh mẽ do nh chất phi nghĩa của cuộc ến công, phía Trung Quốc rút hết quân về ớc vào ngày
18/3/1979.
2.2. Bối cảnh quốc tế
Cuộc xung đột vũ trang giữa quân đội 2 nước Xô – Trung (1969) và quan hệ Mĩ –
Trung có bước đột phá
Trong khoảng thời gian 1945 – 1991, trật tự hai cực và nh trạng chiến tranh lạnh là nét chủ đạo
xuyên suốt. Mâu thuẫn cơ bản chi phối toàn cục vẫn là mâu thuẫn giữa hai chế độ chính trị đối lập
nhau - chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản do hai siêu cường đứng đầu là Liên Xô và Mỹ. Nhưng từ
cuối thập niên 50 bắt đầu xuất hiện cuộc tranh luận nội bộ, sau đó đã dẫn đến cuộc đối đầu công
khai giữa Liên Xô và Trung Quc - hai đảng cộng sản, hai quốc gia lớn trong khối xã hội chủ nghĩa.
Đỉnh điểm của mâu thuẫn Xô - Trung là cuộc xung đột vũ trang giữa quân đội hai nước ở vùng đảo
Trân Bảo kéo dài hơn 6 tháng (2/3 - 11/9/1969). Trung Quốc cũng đưa ra thuyết “ba thế giới”, mà
theo lập luận này, các nước nghèo, đã từng là thuộc địa và nửa thuộc địa hợp lại thành thế giới thứ
ba, trong đó Trung Quốc phải là nước lãnh đạo thế giới này. Quan điểm đó thể hiện trong đường lối
chính trị của Bắc Kinh khi coi Liên Xô là kẻ thù. Trung Quốc đã nói rõ: “Kẻ địch chính yếu nhất này
trên 2.000km đường biên giới với Trung Quốc, không cách xa Trung Quốc bởi một Thái Bình Dương
rộng lớn như nước Mỹ xa xôi kia. Do đó cần phải liên kết gây dựng đồng minh với kẻ địch không đe
dọa trực ếp tới mình để đối phó với kẻ địch đang là mối đe dọa trực ếp của mình” Và từ đó Trung
Quốc đã bắt tay với Mỹ để chống Liên Xô.
2.3. Nguyên nhân
a. Nguyên nhân sâu xa
- Quan hệ Liên Xô – Trung Quốc: Mâu thuẫn trong mối quan hệ của Liên Xô và Trung Quốc bắt đầu
căng thẳng trong những năm 60 của thế kỉ XX. Không chấp nhận vị trí lãnh đạo của Liên Xô trong khối
xã hội chủ nghĩa theo thuyết “thế giới hai cực” (Mĩ – Liên Xô), nguời đứng đầu Trung Quốc đưa ra
luận thuyết v “ba thế giới”.Quá trình mâu thuẫn ếp tục đến nửa cuối thập kỉ 60 của thế kỉ XX và
ngày càng gay gắt hơn khi mâu thuẫn không chỉ diễn ra về mặt chính trị giữa hai Đảng của hai nước
mà dần chuyển sang xung đột diện rộng. Ngoài ra, vụ việc Liên Xô kéo quân qua biên giới Tiệp Khắc
năm 1968 càng làm cho Trung Quốc cảnh giác hơn. Năm 1969, mâu thuẫn giữa hai nước đã gia tăng
thành những cuộc xung đột biên giới và sau đó là Mĩ – Trung bắt tay chống lại Liên Xô tay năm 1972.
Trong khi hai nước Xô – Trung đối đầu nhau nhưng họ đều muốn lãnh đạo phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong khi đó Việt Nam lại là ngọn cờ đầu của phong trào này.
Do đó Việt Nam cũng có tác động không nhỏ đến quan hệ ấy. Như vậy, những thay đổi trong quan hệ
Xô – Trung (từ quan hệ đồng minh chuyển sang đối đầu) đã tạo những khó khăn trong vấn đề ngoại
giao giữa các nước anh em trong hthống xã hội chủ nghĩa. Cùng nhận viện trợ của cả Liên Xô và
lOMoARcPSD| 46454745
Trung Quốc trong chống Mĩ, Việt Nam phải hết sức khôn khéo tránh mất lòng cả hai nước trên. Tuy
nhiên, sau khi Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, thống nhất đất nước
(tháng
4/1975), những mâu thuẫn giữa hai nước lớn vẫn ếp tục, và đặc biệt khi quan hệ giữa ViệtNam –
Liên Xô khăng khít hơn cũng là lúc Trung Quốc thực hiện hàng loạt những hành động quân sự và
chính trị gây tổn hại đến quan hệ Vit – Trung.
- Quan hệ Việt Nam – Liên Xô
Mối quan hệ Việt Nam và Liên Xô chính thức bắt đầu vào ngày 30/01/1950, khi Liên
Xô chấp nhận thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, sự kiên này không những công nhận nền độc
lập và chủ quyền của nước Việt Nam mà còn thừa nhận Việt Nam là một nước nằm trong khối xã hội
chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu.
Nhìn chung, trong khoảng thời gian từ năm 1950 đến năm 1964, quan hệ Vit
Nam –
Liên Xô chưa sâu sắc, vì lúc này Liên Xô đang thực hiện “chung sống hòa bình với phương Tây” và tập
trung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu. Quan hệ Vit
Xô đã có
sự thay đổi k từ khi Mĩ leo thang chiến tranhViệt Nam, đưa máy bay ném bom miền
Bắc. Tuyên bố chung được hai bên đưa ra ngày 10/02/1965, khẳng định Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa là ền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á, vai trò của Việt
Nam
trong cuộc chiến chống đế quốc Mĩ và đóng góp của Việt Nam vào nền hòa bình của thế giới. Cho
nên, trong suốt những năm 1965-1975, Liên Xô ủng hộ cả về chính trị lẫn quân sự cho Việt Nam
đánh Mĩ.
Sau khi Việt Nam thực hiện thành công công cuộc thống nhất đất nước và trở thành một đất
ớc hoàn toàn độc lập, toàn vẹn về chủ quyền, Liên Xô muốn tăng cường quan hệ
mọi mặt với Việt Nam. Như vậy, từ năm 1965 đến năm 1978, quan hệ Việt Nam – Liên Xô ngày càng
thắt chặt, Liên Xô viện trợ nhiều vũ khí hạng nặng cho Việt Nam đánh Mĩ cũng như giúp đỡ Việt Nam
y dựng và kiến thiết đất nước sau ngày thống nhất (tháng 4/1975). Nguyên nhân của mối quan hệ
Vit – Xô ngày càng chặt chẽ này là do Việt Nam đứng đầu trong ngọn cờ giải phóng dân tộc ở châu Á,
tạo ra nhiều uy n với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Cả ba nước Mĩ – Xô – Trung đều muốn có được Việt Nam, do đó trong quan hệ quốc tế thời kì này
xuất hiện các mối quan hệ chồng chéo giữa các nước, trong đó nổi trội là quan hệ Xô – Trung, chi phối
hệ thống XHCN lúc bấy giờ. Chính sự mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đã gây tác động không
nhỏ đến cuộc kháng chiến chống Mĩ của Việt Nam. Sau khi nước Việt Nam thống nhất, do tác động
của mối quan hê Xô – Trung mà quan hệ Vit – Trung không được tốt đẹp như giai đoạn trước. Đó
lOMoARcPSD| 46454745
cũng có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc mà Trung
Quốc gây ra cho Việt Nam năm 1979.
- Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
Việt Nam – Trung Quốc là hai nước láng giềng và có mối quan hệ lâu đời về kinh tế, văn hóa trong lịch
sử. Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công (tháng
10/1949), và đến ngày
18/01/1950, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Xuyên suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam, Trung
Quốc giúp đỡ về vật chất và nh thần cho cách mạng nước ta.
Trong kháng chiến chống Mĩ (1954-1975), Trung Quốc vẫn ếp tục ủng hộ Việt Nam đánh Mĩ. Việt
Nam là đồng minh thân thiết của Trung Quốc từ sau ngày cách mạng Trung Quốc thành công. Trung
Quốc giúp Việt Nam vừa là nghĩa vụ đối với đồng minh vừa vì lợi ích chiến lược, kiềm chế ngăn chặn
Mĩ, làm cho Mĩ suy yếu, bảo đảm an ninh của Trung Quốc.
Tuy nhiên, đến năm 1965, Liên Xô quan tâm hơn đến chiến tranh Việt Nam và giúp đỡ những vũ khí
tối tân cho quân đội Việt Nam như đã nêu trên. Được cả hai nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa ủng
hộ là động lực và tạo thế mạnh cho Việt Nam đánh Mĩ. Nhưng lúc bấy giờ, quan hệ giữa Liên Xô và
Trung Quốc không suôn sẻ, mâu thuẫn, cạnh tranh, đối kháng lẫn nhau tạo ra nh thế khó khăn trong
ứng xử của Việt Nam.
Do mâu thuẫn với Liên Xô cùng với những âm mưu nh toán riêng, Trung Quốc đã xích lại gần hơn với
Mĩ, bên cạnh đó, còn có những hành đông đàm phán với Mĩ lơi dụng Viêt Nam để trục lợi cho mı h.
Sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam giảm dần từ năm 1969 đến năm 1975 không viện trợ
nữa.
Trung Quốc không muốn một Việt Nam thống nhất vì khi đó ý thức giữ gìn chủ quyền quốc gia sẽ lớn
hơn, nó sẽ ảnh hưởng đến các kế hoạch chi phối Đông Dương của Trung Quốc sau này. Thất bại trong
việc lôi kéo Việt Nam và mẫu thuẫn với Liên Xô đã khiến Trung Quốc có những hành động chống phá
Việt Nam: ủng hộ quân Pol Pot và đỉnh điểm là mang quân đánh chiếm hầu hết các tỉnh biên giới phía
Bắc của Việt Nam
- Mâu thuẫn quan hệ tam giác Mĩ – Xô – Trung
Tóm lại, nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc Việt Nam do nhiều nhân tố tác
động và diễn ra lâu dài, nhưng yếu tố rõ nhất chính là mâu thuẫn về quyền lợi của các nước lớn, êu
biểu là Mĩ – Xô – Trung trong vấn đề Đông Dương. Cả ba nước trên đều muốn nâng cao tm nh
ởng và quyền kiểm soát của mình trên bán đảo Đông Dương, do đó việc ng hộ Việt Nam đánh
của Liên Xô và Trung Quốc là nhằm phục vụ cho những mưu đồ riêng của mình. Trong quá trình giúp
đỡ Việt Nam, sự toan nh của họ đã làm cho những mâu thuẫn vốn có từ trước càng trở nên sâu sắc.
Việt Nam vẫn duy trì đường lối độc lập, tự chủ, ếp nhận sự giúp đỡ nhưng không phụ thuộc, điều
này làm cho Trung Quốc không hài lòng. Thêm vào đó, sau năm 1975, quan hệ Vit – Xô nâng lên tm
cao mới khi hai nước kí kết các hoạt động tương trợ lẫn nhau về kinh tế, quân sự, cùng với mối quan
lOMoARcPSD| 46454745
hệ căng thẳng của Liên Xô- Trung Quốc cũng có thể xem là lý do Trung Quốc gây khó khăn cho Vit
Nam. b. Nguyên nhân trực ếp
- Sự bành trướng trắng trợn của Trung Quốc đối với Việt Nam
Ngày 19-20/1/1974, lợi dụng quân đội Việt Nam Cộng hòa yếu thế, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để
chiếm một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Hành động này gây nên sự bất bình với
thế giới cũng như nhân dân Việt Nam, đây có thể xem là sự xâm lược trắng trợn trên lãnh thổ Vit
Nam.
- Campuchia trong mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc những năm cuối thập niên 70 của thế kỉ XX
Những năm 1975-1978, Trung Quốc đã viện trợ kinh tế, khí và chuyên gia quân sự cho Campuchia.
Trong hai năm 1975-1976, khi những cuộc đụng độ quân sự giữa Việt Nam và Campuchia bắt đầu
diễn ra, Trung Quốc vẫn cố gắng làm trung gian hòa giải vì họ muốn giữ mối quan hệ và duy trì ảnh
ởng của mình tại Việt Nam, nhằm lôi kéo Việt Nam chống lại Liên Xô. Nhưng đầu năm 1977, khi
quan hệ Việt Nam và Campuchia trở nên gay gắt, đi đến cắt đứt quan hệ thì quan hệ Việt Nam –
Trung Quốc trở nên phức tạp hơn. Trung Quốc luôn coi Campuchia là một mắt xích quan trọng để to
ảnh hưởng của mình tại Đông Nam Á. Việc lôi kéo Việt Nam tách khỏi Liên Xô và đứng về phía Trung
Quốc đã không thành công nên Trung Quốc ến đến công khai chống Việt Nam. Các văn kiện của
Trung Quốc từ năm 1977 luôn tuyên truyền: “Việt Nam là tay sai của Liên Xô, có tham vọng xâm lược
Campuchia, Lào, chiếm Đông Nam Á, thực hiện bá quyền khu vực, phải đánh cho bọn xét lại Việt
Nam, không đánh là không thể được và phải đánh lớn” Trong khi chế độ Pol Pot gây rối biên giới Tây
Nam của Việt Nam, Trung Quốc cũng công khai chống Việt Nam và c gắng tranh thủ sự đồng nh của
Mĩ cũng như các nước trong khu vực đứng về phía Trung Quốc. Tháng 01/1979, khi Việt Nam đưa
quân vào Campuchia lật đổ chế độ Pol Pot, Trung Quốc đã kịch liệt phản đối, tố cáo Việt Nam vào
chiếm Phnom Penh, kêu gọi nhân dân Campuchia chiến đấu lâu dài và hứa sẽ ếp tục ủng hộ vật cht
và nh thần cho nước này. Hành động này của Trung Quốc làm cho mối quan hệ Vit – Trung ngày
càng đi xuống
Vấn đề Campuchia có thể gọi là “giọt nước tràn li” trong quan hệ Vit – Trung, khi chế độ diệt chủng
Pol Pot gây tội ác tại Campuchia và Việt Nam, giết vô số người dân vô tội, Trung Quốc không những
không lên án mà còn bênh vực và cổ vũ cho những việc làm sai trái của quân Pol Pot, đồng thời tuyên
bố sẽ trừng phạt Việt Nam nếu tấn công lại. Chính vì vậy, sau khi Việt Nam đánh bại Pol Pot, mang lại
sự bình yên cho biên giới Tây Nam của Việt Nam và Campuchia thì Trung Quốc thực hiện chiến lược
biển người, mang quân xâm lược biên giới phía Bắc của Việt Nam năm 1979.
2.4. Tổng kết nguyên nhân
- Thnhất, xuất phát từ tham vọng bá quyền, bành trướng, xâm lược Việt Nam nói riêng và
Đông Dương nói chung của giới cầm quyền Trung Quốc.
- Thứ hai, Trung Quốc phát động chiến tranh là để tranh thủ sự ủng hộ của các nước đang
chống phá và đối đầu Việt Nam lúc đó vì những lợi ích cá nhân. - Thứ ba, quan hệ của Liên Xô và
lOMoARcPSD| 46454745
Trung Quốc dần xấu đi mà quan hệ Việt Nam và Liên Xô lại ngày càng khắng khít, vì vậy việc gây ra
cuộc chiến còn là hành động trả đũa của Trung Quốc đối với các động thái ngoại giao của Việt Nam
với Liên Xô.
2.5. Vai trò của Đảng trong cuộc chiến tranh biên giới
Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán chủ trương giải quyết nh hình biên giới Tây
Nam bằng con đường hòa bình, hữu nghị; thế nhưng, chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari không những
không hợp tác, mà còn ếp tục cho quân ến công lấn chiếm lãnh thổ dọc tuyến biên giới Tây Nam.
Trước nh hình đó, Bộ Chính trị đồng ý với đề xuất của Quân ủy Trung ương đưa một số đơn vị ch
lực vào phối hợp với lực lượng vũ trang các Quân khu 5, 7, 9 kiên quyết đánh trả, trừng trị đích đáng
quân xâm lược. Mặc dù bị đánh thiệt hại nặng nề, nhưng với bản chất hiếu chiến, tư tưởng dân tộc
cực đoan, đầu năm 1978, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari vẫn khước từ mọi nỗ lực thiện chí hòa bình và
những đề nghị có nh, có lý của Chính phủ Việt Nam; huy động phần lớn lực lượng chủ lực áp sát
biên giới, liên ếp mở các cuộc ến công vào lãnh thổ Việt Nam, gây cho ta nhiều thiệt hại lớn về
người và tài sản. Trước nh hình đó, Trung ương Đảng ta ra nghị quyết về nh hình nhiệm vụ mới, chỉ
rõ nguồn gốc, nh chất, đặc điểm của cuộc chiến tranh bảo vệ Tquc ở biên giới Tây Nam và đề ra
chủ trương phương hướng giành thắng lợi sớm. Đồng thời, để đáp ứng đề nghị khẩn thiết của Mặt
trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campu-chia, tháng 12-1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương
thông qua quyết tâm mở cuộc tổng phản công, ến công chiến lược trên tuyến biên giới Tây Nam,
đồng thời sẵn sàng phương án hỗ trợ các lực lượng vũ trang yêu nước Cam-pu-chia đánh đổ tập
đoàn Pôn Pt - Iêng Xari, giành chính quyền về tay nhân dân. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, kịp
thời của Trung ương Đảng, do có sự chuẩn bị tốt về lực lượng, thế trận. Sau 25 ngày đêm ến hành
tổng phản công, ến công thần tốc (từ 23-12-1978 đến 17-01-1979) quân và dân ta đã đánh đuổi
quân Pôn Pốt ra khỏi lãnh thổ Tquốc; đồng thời, đáp ứng đề nghị của Mặt trận Đoàn kết dân tộc
cứu nước Cam-pu-chia, quân nh nguyện Việt Nam đã phối hợp với lực lượng của Bạn giải phóng
Phnôm Pênh (07-01-1979) và toàn bộ đất nước Cam-pu-chia (17-01-1979), đánh đổ chế độ dit
chủng Pôn Pt - Iêng Xari, giúp Bạn thành lập Hội đồng Nhân dân Cách mạng Cam-pu-chia (08-01-
1979) - đại diện chân chính, hợp pháp duy nhất của nhân dân Cam-pu-chia.
Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tquc ở biên giới Tây Nam và sự giúp đỡ chí nh, chí nghĩa,
có hiệu quả của Việt Nam, giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng và từng bước hồi
sinh, một lần nữa khẳng định sự lãnh đạo sáng suốt, tài nh của Đảng - nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh đó, Đảng ta đã nhận định, đánh giá đúng nh
hình, đề ra chủ trương, đường lối, mục êu chính trị, có chiến lược, sách lược đúng đắn, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc đập tan hành động xâm lược của các thế lực phản động, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyn, thống nhất, toàn vn lãnh thổ của Tquc; đồng thời làm tròn nghĩa vụ quc tế
cao cả. Thắng lợi đó để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, cần ếp tục nghiên cứu, vận dụng phù
hợp trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tquc.
lOMoARcPSD| 46454745
Hiện nay, trong bối cảnh nh hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, để ếp
tục bảo vệ vững chắc Tquốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tập
trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, thường xuyên quán triệt, nắm vững quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng;
nắm chắc nh hình, đề cao cảnh giác cách mạng, không để bị động, bất ngờ trong mọi nh huống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Để ngăn chặn âm mưu của kẻ địch, thì cán bộ, bộ đội và nhân dân ta
cần phải luôn luôn nâng cao cảnh giác. Đó là một nghĩa vụ quan trng mà mọi người công dân phải
làm trọn để chống lại âm mưu của đế quốc và bè lũ tay sai, để bảo vệ nhân dân và bảo vệ Tquc”
1
.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tăng cường học tập, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tquốc. Đồng
thời, phải đẩy mạnh giáo dục lòng yêu nước truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc và quân
đội cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.
Thường xuyên nắm chắc nh hình, thời cơ và thách thức; phân biệt rõ “đối tượng” và “đối tác”; không
hồ, mất cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; làm tốt công
tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ gìn mật, nhất là mật quân sự, bí mật quốc gia. Giữ vững định hướng
chính trị, đẩy mạnh công tác thông n, tuyên truyền; kịp thời định hướng tưởng, luận cho cán
bộ, chiến sĩ và nhân dân vnhững vấn đề mới, phức tạp nảy sinh từ thực ễn, góp phần tăng cường sự
đồng thuận trong xã hội về nhiệm vụ xây dựng bảo vệ Tquốc; chủ động trước mọi diễn biến của
nh hình, không để bị động, bất ngờ trong mọi nh huống, bảo vệ vững chắc độc lập chquyn, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tquốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa...
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực ếp về mọi mặt của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng,
quân sự, bảo vệ Tquc.
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực ếp về mọi mặt của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng, quân sự, bảo vệ T
quốc, nhất là đối với lực lượng vũ trang là nguyên tắc bất di bất dịch. Trong nh hình hiện nay, cần tập
trung thực hiện tốt Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011); Nghquyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến
lược bảo vệ Tquốc trong nh hình mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 229-2008 của Bộ Chính trị về
ếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong
nh hình mới; Luật Quốc phòng (sửa đổi), Luật Biên giới quốc gia; Chiến lược Quốc phòng Việt Nam;
Chiến lược Quân sự Việt Nam; Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045; các kế hoạch phòng thquốc gia các vùng; kế hoạch xử trí trong các nh
huống xung đột, bạo loạn, xảy ra chiến tranh xâm lược... Đng thời, ếp tục hoàn thiện quan điểm, chủ
trương, nguyên tắc, chính sách, cơ chế vận hành mối quan hgiữa các tchức, con người hoạt động
trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng; cơ chế Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực ếp về mọi mặt đối vi quân
đội, công an lĩnh vực quân sự, quốc phòng bảo vệ Tquốc. Coi trọng công tác tổng kết thực ễn,
nghiên cứu lý luận trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng và phát triển nền khoa học nghệ thuật quân sự
Việt Nam.
Tiếp tục tăng cường công tác y dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, êu cực,
củng cố lòng n của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến
đấu của các cấp ủy và tổ chức đảng; đề cao nh ền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là
người đứng đầu; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính
trị, tưởng; gắn việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng với
lOMoARcPSD| 46454745
thực hiện Chỉ th05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh... góp phần y dựng Đảng Nnước ta ngày càng trong sạch,
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tquốc trong nh hình mới.
Ba là, phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tquốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối
với sự nghiệp bảo vệ Tquc.
Trong quản , điều hành đất nước, Nhà nước căn cứ vào quan điểm, đường lối quốc phòng, quân s
của Đảng những quy định của Hiến pháp để từng bước bsung, hoàn thiện hệ thng văn bản quy
phạm pháp luật v quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tquc, tạo hành lang pháp cho các tổ chức toàn
dân thực hiện. Chú trng hoàn thiện các chương trình, mục êu, kế hoạch quân sự, quốc phòng; kế
hoạch động viên quân đội, phòng thủ quốc gia... Quản lý chặt chẽ, thống nhất các hoạt động quân sự,
quốc phòng theo pháp luật. Phát huy nh chủ động, sáng tạo của các tổ chức, nhân trong bộ máy
nhà nước để quản , điều hành các hoạt động quân sự, quốc phòng phù hợp với đặc điểm, yêu cầu
nhiệm vụ trong lĩnh vực này...
Tăng cường định hướng và tạo mọi điều kiện để Mặt trận Tquốc Việt Nam, các tổ chức chính trị -
hội xác định đúng mục êu, phương thức tham gia y dựng thực hiện chủ trương, định hướng,
quan điểm, giải pháp về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của Đảng và Nhà nước; tham gia vào các hoạt
động quân sự, quốc phòng theo quy định của pháp luật; đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia bo
vệ Tquốc, bảo vchủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia...
Bốn là, chú trọng xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng.
Trên sở cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách, nguyên tắc, chế lãnh đạo, chế độ công tác,
quy chế làm việc, êu chuẩn cán bcủa Đảng và thực ễn quân sự, quốc phòng để điều chỉnh, quyết
định sự tăng, giảm các tổ chức quân sự; biên chế, đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ, nhất đội ngũ cán
bộ chchốt; xây dựng phong cách làm việc của tổ chức, cán bộ... Đồng thời, ếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện chế lãnh đạo của cấp ủy địa phương đối với công tác quốc phòng, quân sự. Phát huy trách
nhiệm của tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đoàn thể, cơ quan quân sự địa phương người đứng
đầu trong tham mưu, quản lý và tổ chức các hoạt động quân sự, quốc phòng.
Chú trọng nâng cao năng lực quán triệt, cụ thhóa quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của
Đảng tổ chức thực hiện trong thực ễn; tăng cường công tác phối hợp giữa các tổ chức, các lực
lượng trên sở nguyên tắc, chức năng, nhiệm vụ. Thường xuyên làm tốt công tác nắm, dự báo nh
hình, phát hiện, giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh, đặc biệt những vấn đề mới, nhạy cảm liên
quan đến n định chính trị - xã hội; những bất đồng, tranh chấp trong vn đề biên giới, lãnh thổ.
Năm là, ếp tục xây dựng quân đội vững mạnh vchính trị làm sở nâng cao chất lượng tổng hợp,
sức mạnh chiến đấu, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.
Để quân đội ếp tục lực lượng nòng cốt bảo vệ Tquốc, chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia;
công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, n cậy của
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa thì vấn đề hàng đầu là tập trung xây dựng Đảng
bộ quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trong đó, chú trọng xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; tự phê bình, pbình; phát huy bản chất giai cấp công nhân và nh ền phong của Đảng;
nâng cao kiến thức, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên. Chấp hành
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường kỷ luật và sự đoàn kết thống nhất...
lOMoARcPSD| 46454745
Cần đặc biệt chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh v chính trị trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng,
chính sách, pháp luật... định hướng việc ếp nhận và xử lý thông n; quản lý chặt chẽ và phát huy sức
mạnh tổng hợp của các phương ện thông n đại chúng, các hình thức, phương pháp công tác
ng, văn hóa; tăng cường thông n thời sự, chính sách, thông n nghiên cứu... làm cho cán bộ, chiến
sĩ giác ngộ sâu sắc mục êu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trung thành vô hn
với Đảng, Tquốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, luôn đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân;
có phẩm chất đạo đức trong sáng; luôn kiên định, vững vàng, tuyệt đối n tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng. Tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết s35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về tăng
ờng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong
nh hình mới; kiên quyết đấu tranh làm thất bại chiến lược diễn biến hòa bình”, âm mưu “phi chính
trhóa”, dân sự hóa” quân đội của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Tiếp tục xây đựng quân đội “cách mạng, chính quy, nh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân, binh
chủng, lực lượng ến thẳng lên hiện đại. Tập trung, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến
lược. Phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương địa phương xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Nâng cao chất lượng xây
dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thvững chắc. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc
phòng. Nắm vững đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, tăng cường hợp tác đối ngoại quốc phòng
với các nước, nhất các nước láng giềng, y dựng biên giới hòa bình hữu nghị phát triển; đẩy mạnh
phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia”.
3. Bài học rút ra
Nhìn lại cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc, ta đã rút ra được nhiều bài học xương máu quý giá. Nhân dân
ta phải luôn đoàn kết và y dựng đất nước giàu mạnh để đủ sức đối phó với mọi nh huống, bất trc
xảy ra bất ngờ. Cũng tđó đất nước ta rút ra một số bài học kinh nghiệm, làm snghiên cứu,
kế thừa, phát triển trong sự nghiệp y dựng và bảo vệ Tquốc từ sớm, từ xa; chủ động ngăn ngừa các
nguy cơ chiến tranh, xung đột; phát huy truyền thống "giữ ớc từ khi nước chưa nguy"đó là:
Thnhất, luôn nêu cao nh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của kthù để
nhanh chóng điều chỉnh lực lượng, xây dựng thế trận phù hợp.
Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyn, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tquốc, phải quán
triệt sâu sắc quan điểm “kiên quyết, kiên trì”. Quan điểm này không chỉ phản ánh ý chí quyết tâm cao,
ý chí thép, khí phách anh hùng quật cường của nhân dân ta mà còn thể hin nh chất gay go, phức tp
của cuộc đấu tranh. Đây ng biện pháp đối phó linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo, không chủ quan, năng
động trong quá trình thực hiện mục êu bảo vệ Tquốc trong bối cảnh lịch sử mới. Trong công cuc
y dựng bảo vệ Tquốc hiện nay, trước xu thế hòa bình, hữu nghị, hợp tác, hội nhập, phát triển,
song song những thuận lợi ềm ẩn nguy cơ, chúng ta đặt ra yêu cầu toàn Đảng, toàn quân, toàn
quân. toàn quân luôn nêu cao nh thần cảnh giác cách mạng, xác định đúng đối tượng, đối tượng của
cách mạng Việt Nam, không để bị động, bất ngờ trước mọi nh huống.
Thứ hai, xây dựng thế trận tác chiến phòng thủ khu vực vững chắc, liên hoàn, hiểm hóc, linh hoạt, có
chiều sâu.
Do chúng ta vừa không đủ sức, vị trí trên sân yếu, sơ hở không kịp thời điều chỉnh dẫn đến thiệt hại v
người của. Vì vậy, phải y dựng thế trận khu vực phòng thủ vững chắc, liên hoàn, hiểm hóc, linh
hoạt, có chiều sâu, sẵn sàng đáp trả có hiệu quả các đợt ến công của địch bất cứ lúc nào. Trong nh
hình mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tquốc, việc bố trí đội hình cần phải mở rộng, nhưng phải
lOMoARcPSD| 46454745
làm nổi bật các mũi nhọn, gắn chặt giữa căn cchiến đấu, phòng thủ chiến đấu với làng, đáp ứng
yêu cầu của các lực lượng trang địa phương.Bình lầy chiến tranh nhân dân đã tạo điều kiện thuận
lợi cho quân đội ta. Và dứt khoát êu diệt kẻ thù.
Trong nh hình mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tquốc, việc bố trí đội hình phải rộng khắp,
nhưng phải trọng tâm, trọng điểm, gắn chặt với cơ sở chiến đấu, phòng thủ và làng xã, chiến đấu, đáp
ứng yêu cầu của Lực Lượng Vũ Trang địa phương, địch bị sa vào vũng lầy của chiến tranh nhân dân, tạo
điều kiện thuận lợi cho quân ta. Và dứt khoát êu diệt kẻ thù.
Thứ ba, điều chỉnh lực lượng, nâng cao chất lượng huấn luyện, xây dựng thế trận quân sự hợp lý, chặt
chẽ, vững chắc, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc
Trong Chiến tranh Biên giới Tây Nam, mặc dù lúc đầu ta còn ng túng, phản ng bị động do chưa đánh
giá đúng âm mưu, bản chất của kẻ thù, chậm nhận diện mục êu tác chiến, dưới sự lãnh đạo của Quân
ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Phòng thủ và Quân khu phía Nam. kthù. Rút kinh nghiệm, trong giai
đoạn hiện nay, cần tập trung xây dựng thế trn quân sự hợp lý trên cơ sở bố cục chiến lược phòng thủ
chung của cả ớc bố cc chiến lược của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
, xây dựng thế trn liên hoàn, ổn định, bảo đảm hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực trong các hoạt
động tác chiến chiến lược, chiến dịch và các hoạt động khác đạt được mục êu, yêu cầu đã đề ra.
Quân đội nhân dân phải được tổ chức theo hướng nh, gọn, mạnh, cấu hợp giữa các quân
chủng, binh chủng, giữa lực lượng thường trực dự bị động viên, bộ đội chủ lực bộ đội địa phương.
Trên cơ sở đó, điều chỉnh thế bố trí lực lượng trên các vùng, miền, nhất là khu vực có tầm chiến lược
quan trọng; tổ chức, sử dụng lực lượng tại chỗ linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với từng đối tượng và loi
hình tác chiến; nâng cao chất lượng, hiệu quả tổ chức, sử dụng lực lượng động chiến lược trong
nh hình mới.
Thứ tư, đẩy mạnh xây dựng các công trình quân sự - quốc phòng, căn cứ hậu phương, hậu cần - kỹ
thuật trên từng hướng chiến trường, khu vực phòng thủ.
Thực ễn mặt trận biên giới Tây Nam cho thấy, trong khi chỉnh đốn, tăng cường binh lực củng cố các vị
trí, chúng ta hết sức coi trọng việc củng cố, xây dựng chiến hào, công sự, tường thành. để đẩy lùi các
cuộc tấn công của kthù. Cùng với đó, hệ thống sở kỹ thuật hậu cần cũng đã bản hoàn thiện,
đảm bảo cung cấp đủ quân số làm nhiệm vụ ền tuyến, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu bất cứ
lúc nào. Hệ thống đường ra mặt trận được củng cố và kết nối, các đơn vị vận tải được củng cố và thành
lập mới. Vì vậy, trong khi ta tổ chức phản công, ến công, êu diệt địch thì công tác hậu cần, kỹ thut
đã đáp ứng đầy đủ, kịp thời, góp phần hình thành lực lượng chung sức đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Để đáp ứng yêu cầu bảo vệ T quốc trong nh hình hiện nay, vừa tạo dựng được thế trận “lòng dân”
vững chắc, nền công tác quốc phòng toàn dân vững chắc, liên tục, vừa bảo đảm mật, cần coi trọng
công tác xây dựng và hỗ trợ hậu cần. - thế trận kỹ thuật trên các hướng của trận địa và khu vực phòng
thủ. Tập trung quy hoạch và bố trí, xây dựng căn cứ hậu cần - công trình chiến lược, căn cứ chiến đấu,
căn cứ hậu cần - công trình khu vực phòng thủ tỉnh, v.v. Đồng thời, chủ động tổ chức dự trữ hợp lý, có
chiều sâu các cấp; hthống hậu cần - kỹ thuật, kho tàng các cấp được kết nối liên tục bằng đường
bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không bảo đảm nh liên tục, kịp thời cho chiến đấu. các nh
huống. Đồng thời, phải quan tâm y dựng lực lượng kỹ thuật hậu cần (dự bị động viên) vững mạnh,
chđộng xây dựng kế hoạch, chủ động bổ sung, hoàn thiện cơ chế phát triển, huy động kịp thời các
nguồn lực của địa phương.
lOMoARcPSD| 46454745
Bốn mươi năm đã trôi qua, nhưng những bài học kinh nghiệm về y dựng trận địa trong chiến tranh
bảo vệ biên giới Tây Nam vẫn còn nguyên giá trị, cần được ếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển
trong công tác xây dựng. Xây dựng và bảo vệ Tquốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4. Kết luận
Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc của Tquốc đã đập tan âm
mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực phản động quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyn toàn
vẹn lãnh thổ của Tquốc. Những ý nghĩa bài học kinh nghiệm của nó thì mãi tồn tại cho đến hôm
nay và mai sau. Vì vậy bài ểu luận này chúng tôi mong một phần nào đó khỏi dậy long yêu nước của
mỗi người chúng ta lẽ sống trong thời bình đã quên mất. Với bài ểu luận này, tôi hi vọng các
bạn thấy rõ được tầm quan trọng của Đảng trng cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc
chúng ta rất cần sự lãnh đạo tài nh của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước - thi kì có những
biến đổi sâu sắc về mọi mặt và những thử thách vô cũng lớn.
Là sinh viên, là chủ nhân tương lai của đất nước, chúng ta không chỉ phải học để nuôi sống bản
thân, gia đình mà còn phải có trách nhiệm với xã hội và đất nước. Vì vậy, ngày nay chúng ta có thể
làm được nhiều điều cho đất nước và cho Đảng như nghiên cứu lịch sử Đảng, tham gia các phong
trào chính trị và luôn n tưởng vào Đảng. Lên án những kẻ chống phá chính quyền, chống Đảng ... Nói
tóm lại, chúng ta hãy làm hết sức mình để xây dựng Đảng vững mạnh và nâng cao uy n của Đảng
trong nhân dân Việt Nam.
| 1/12

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46454745
1. Tìm hiểu nguyên nhân chiến tranh Tây Nam
Hơn 40 năm sau chiến thắng đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, chiến tranh biên giới Tây Nam được
xem là một trong những mảnh ghép đặc biệt trong lịch sử chống giặc của Việt Nam. Vậy nguyên nhân
dẫn tới Chiến tranh biên giới Tây Nam là gì? 1.1. Nguyên nhân
Việt Nam - Campuchia đã xây dựng tình hữu nghị, đoàn kết cùng chống kẻ thù chung là thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ nhằm giành lại độc lập, tự do. Tuy nhiên, sau khi Pôn Pốt trở thành Tổng bí thư
Đảng Công nhân Campuchia vào năm 1963 và bị các thế lực phản động nước ngoài kích động, lợi
dụng, từ những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ (1970 - 1975) thì tập đoàn Pôn Pốt đã phản bội
lại sự nghiệp cách mạng và xem Việt Nam là kẻ thù số một. Chúng bắt đầu tiến hành một số vụ tiến
công, bắt cóc giết hại cán bộ, bộ đội Việt Nam ở chiến trường Campuchia đồng thời gây chia rẽ nội bộ
những người cộng sản Campuchia, cướp hàng chục tấn lương thực và vũ khí của quân đội ta. Hơn thế
nữa, chúng phạm sai lầm nghiêm trọng khi thực thi chính sách diệt chủng tàn khốc, cưỡng bức lao
động khổ sai, tra tấn hành hạ người dân Campuchia, biến trường học, nhà chùa thành nhà tù, khắp
mọi nơi đầy những hố chôn người tập thể. Chúng đã giết hại gần 3 triệu người dân Campuchia vô tội.
Không dừng lại ở đó, Pôn Pốt đã cho quân xâm lược các đảo, biên giới đất liền Tây Nam khi đất nước
ta vừa được thống nhất. Sau hàng loạt hành động tàn nhẫn mà Pôn Pốt đã làm với nhân dân
Campuchia và bộ đội Việt Nam, chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ trong những năm 1975 – 1978 1.2. Diễn biến
Chiến tranh biên giới Tây Nam diễn ra ở Campuchia, biên giới Tây Nam của Việt Nam và biên giới
phía đông Thái Lan. Cuộc chiến bao gồm 2 giai đoạn a. Giai đoạn 1
30/4/1977: chúng đánh vào 14/16 xã biên giới thuộc tỉnh An Giang
19/5/1977: quân Pôn Pốt đã giết hại tổng cộng 222 người và làm 614 người dân Việt Nam bị thương,
phá nhiều nhà cửa, tài sản của nhân dân
25/9/1977: chúng tập trung 9 sư đoàn chủ lực mở cuộc tiến công lớn thứ 2 đánh sang địa bàn các
tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp lên hướng Tây Ninh, gây nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam
15/11/1977: quân Pôn Pốt lại mở cuộc tiến công mới nhằm đánh chiếm thị xã
Tây Ninh. Trước tình hình đó Quân ủy Trung ương của ta đã chỉ thị Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu
9, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 điều chỉnh lực lượng, phương tiện, xây dựng phương án, sẵn sàng
chiến đấu cùng với các Quân đoàn 4, Quân đoàn 3 và Quân khu 7, Quân khu 9 tập trung 8 sư đoàn
mở đợt phản công truy kích quân Pôn Pốt sâu vào Campuchia 20 – 30km làm thất bại kế hoạch đánh chiếm thị xã Tây Ninh.
31/12/1977: Với bản tính “vừa ăn cướp, vừa la làng ” chúng ra vu khống Quân đội Việt Nam “tiến
công xâm lược Campuchia dân chủ” nhằm cô lập Việt Nam với quốc tế.Đứng trước hành động của tập
đoàn Pôn Pốt, chính phủ ta ra tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia và vạch trần âm
mưu thủ đoạn và những tội ác man rợ của tập đoàn Pôn Pốt với đồng bào ta ở các tỉnh biên giới Tây Nam. b. Giai đoạn 2
Tháng 1-1978: Đưa thêm 2 sư đoàn ra biên giới, liên tục tiến công lấn chiếm, gây nhiều tội ác với đồng bào ta
5/2/1978: Chính phủ nước ta ra tuyên bố Chấm dứt mọi hoạt động quân sự, rút lực lượng vũ trang ra
cách biên giới 5km; Hội đàm tiến tới ký hiệp ước hữu nghị và không xâm lược, kí hiệp ước về biên
Thông tin tuyên truyền tháng 1 - 2019 7 giới; (3) Thỏa thuận về một hình thức thích hợp bảo đảm
thông lệ quốc tế và giám sát quốc tế.
26/3/1978: Các đơn vị quân đội ta chuyển sang tiến công, đẩy quân Pôn Pốt lùi xa dần biên giới và
dồn đối phương vào thế bị động, đối phó lOMoAR cPSD| 46454745
15/6/1978: Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn về chống lại cuộc chiến tranh xâm lược ở
biên giới Tây Nam và tình hình căng thẳng ở biên giới phía Bắc
Từ tháng 5 đến tháng 11-1978: Việt Nam đã giúp lực lượng Campuchia phát triển 15 tiểu đoàn, 5
khung tiểu đoàn, 24 đội công tác, xây dựng được các tổ chức đảng, chuẩn bị thành lập mặt trận và bộ máy lãnh đạo
2/12/1978: Tại vùng giải phóng thuộc tỉnh Kratie (Campuchia) Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia ra mắt nhân dân Campuchia
6 và 7 tháng 12/1978: Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm tổng phản công -
tiến công chiến lược tiêu diệt quân địch, hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam
23/12/1978: Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng vũ trang
Campuchia đã mở cuộc tổng phản công - tiến công trên toàn tuyến biên giới
26/12/1978: Toàn bộ hệ thống phòng thủ vòng ngoài của quân Pôn Pốt bị phá vỡ.
31/12/1978: Quân và dân ta đã hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi quân Pôn Pốt 7/1/1979: Thủ đô
Phnôm Pênh hoàn toàn được giải phóng.
8/1/1979: Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập
23/12/1978 - 17/1/1979: Quân tình nguyện Việt Nam cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia
đã tiêu diệt 8 sư đoàn quân Pôn Pốt, diệt 12.000 tên, bắt 8.800 tên, gọi hàng 3.200 tên và làm tan rã
tại chỗ 44.000 tên; giải phóng trên 4 triệu dân Campuchia
1.3. Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng
a. Đối với Việt Nam
Khẳng định nhân dân Việt Nam với ý chí độc lập, tự chủ và tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế trong sáng, đập tan bất kỳ âm mưu và hành động chống phá của các thế lực phản động b.
Đối với nhân dân Campuchia

Xóa bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của tập đoàn Pôn Pốt, thành lập chế độ Cộng hòa nhân dân
Campuchia; cứu nhân dân Campuchia ra khỏi thảm họa diệt chủng c. Đối với quốc tế
Thể hiện sức mạnh của tinh thần đoàn kết quốc tế, sự thủy chung, trọn nghĩa vẹn tình giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia
Góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; đấu tranh vạch trần
bản chất của chế độ phân biệt chủng tộc, sắc tộc, chế độ độc tài
2. Nguyên nhân chiến tranh biên giới phía bắc 1979
2.1. Tổng quan cuộc chiến
Xuyên suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân ta,
không thể phủ nhận rằng Trung Quốc đã dành sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn cho Việt Nam. Tuy nhiên, sau
khi nước ta giành được độc lập, Trung Quốc đã trở mặt, tăng cường các hoạt động tuyên truyền, kích
động tâm lý thù hằn dân tộc, khiêu khích vũ trang, xâm lấn lãnh thổ… và cuối cùng Trung Quốc đã
đem quân tràn vào miền Bắc nước ta và một cuộc chiến tranh bùng nổ ( tháng 2/1979) buộc chúng ta
phải đứng lên tự vệ.
Ngày 17/2/1979, thực hiện kế hoạch vạch ra từ trước, nhà cầm quyền Trung Quốc đã phát động cuộc
tiến công quy mô lớn xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc từ Phong Thổ lOMoAR cPSD| 46454745
(Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh). Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, quân và dân Việt Nam anh
dũng chiến đấu, giáng trả quyết liệt.
Chịu nhiều tổn thất mà chưa đạt được mục tiêu ban đầu đề ra, đồng thời bị dư luận thế giới lên án
mạnh mẽ do tính chất phi nghĩa của cuộc tiến công, phía Trung Quốc rút hết quân về nước vào ngày 18/3/1979.
2.2. Bối cảnh quốc tế
Cuộc xung đột vũ trang giữa quân đội 2 nước Xô – Trung (1969) và quan hệ Mĩ – Trung có bước đột phá
Trong khoảng thời gian 1945 – 1991, trật tự hai cực và tình trạng chiến tranh lạnh là nét chủ đạo
xuyên suốt. Mâu thuẫn cơ bản chi phối toàn cục vẫn là mâu thuẫn giữa hai chế độ chính trị đối lập
nhau - chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản do hai siêu cường đứng đầu là Liên Xô và Mỹ. Nhưng từ
cuối thập niên 50 bắt đầu xuất hiện cuộc tranh luận nội bộ, sau đó đã dẫn đến cuộc đối đầu công
khai giữa Liên Xô và Trung Quốc - hai đảng cộng sản, hai quốc gia lớn trong khối xã hội chủ nghĩa.
Đỉnh điểm của mâu thuẫn Xô - Trung là cuộc xung đột vũ trang giữa quân đội hai nước ở vùng đảo
Trân Bảo kéo dài hơn 6 tháng (2/3 - 11/9/1969). Trung Quốc cũng đưa ra thuyết “ba thế giới”, mà
theo lập luận này, các nước nghèo, đã từng là thuộc địa và nửa thuộc địa hợp lại thành thế giới thứ
ba, trong đó Trung Quốc phải là nước lãnh đạo thế giới này. Quan điểm đó thể hiện trong đường lối
chính trị của Bắc Kinh khi coi Liên Xô là kẻ thù. Trung Quốc đã nói rõ: “Kẻ địch chính yếu nhất này có
trên 2.000km đường biên giới với Trung Quốc, không cách xa Trung Quốc bởi một Thái Bình Dương
rộng lớn như nước Mỹ xa xôi kia. Do đó cần phải liên kết gây dựng đồng minh với kẻ địch không đe
dọa trực tiếp tới mình để đối phó với kẻ địch đang là mối đe dọa trực tiếp của mình” Và từ đó Trung
Quốc đã bắt tay với Mỹ để chống Liên Xô. 2.3. Nguyên nhân
a. Nguyên nhân sâu xa
- Quan hệ Liên Xô – Trung Quốc: Mâu thuẫn trong mối quan hệ của Liên Xô và Trung Quốc bắt đầu
căng thẳng trong những năm 60 của thế kỉ XX. Không chấp nhận vị trí lãnh đạo của Liên Xô trong khối
xã hội chủ nghĩa theo thuyết “thế giới hai cực” (Mĩ – Liên Xô), nguời đứng đầu Trung Quốc đưa ra
luận thuyết về “ba thế giới”.Quá trình mâu thuẫn tiếp tục đến nửa cuối thập kỉ 60 của thế kỉ XX và
ngày càng gay gắt hơn khi mâu thuẫn không chỉ diễn ra về mặt chính trị giữa hai Đảng của hai nước
mà dần chuyển sang xung đột diện rộng. Ngoài ra, vụ việc Liên Xô kéo quân qua biên giới Tiệp Khắc
năm 1968 càng làm cho Trung Quốc cảnh giác hơn. Năm 1969, mâu thuẫn giữa hai nước đã gia tăng
thành những cuộc xung đột biên giới và sau đó là Mĩ – Trung bắt tay chống lại Liên Xô tay năm 1972.
Trong khi hai nước Xô – Trung đối đầu nhau nhưng họ đều muốn lãnh đạo phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong khi đó Việt Nam lại là ngọn cờ đầu của phong trào này.
Do đó Việt Nam cũng có tác động không nhỏ đến quan hệ ấy. Như vậy, những thay đổi trong quan hệ
Xô – Trung (từ quan hệ đồng minh chuyển sang đối đầu) đã tạo những khó khăn trong vấn đề ngoại
giao giữa các nước anh em trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Cùng nhận viện trợ của cả Liên Xô và lOMoAR cPSD| 46454745
Trung Quốc trong chống Mĩ, Việt Nam phải hết sức khôn khéo tránh mất lòng cả hai nước trên. Tuy
nhiên, sau khi Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, thống nhất đất nước (tháng
4/1975), những mâu thuẫn giữa hai nước lớn vẫn tiếp tục, và đặc biệt khi quan hệ giữa ViệtNam –
Liên Xô khăng khít hơn cũng là lúc Trung Quốc thực hiện hàng loạt những hành động quân sự và
chính trị gây tổn hại đến quan hệ Việt – Trung.
- Quan hệ Việt Nam – Liên Xô
Mối quan hệ Việt Nam và Liên Xô chính thức bắt đầu vào ngày 30/01/1950, khi Liên
Xô chấp nhận thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, sự kiên này không những công nhận nền độc
lập và chủ quyền của nước Việt Nam mà còn thừa nhận Việt Nam là một nước nằm trong khối xã hội
chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu.
Nhìn chung, trong khoảng thời gian từ năm 1950 đến năm 1964, quan hệ Việt Nam –
Liên Xô chưa sâu sắc, vì lúc này Liên Xô đang thực hiện “chung sống hòa bình với phương Tây” và tập
trung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu. Quan hệ Việt – Xô đã có
sự thay đổi kể từ khi Mĩ leo thang chiến tranh ở Việt Nam, đưa máy bay ném bom miền
Bắc. Tuyên bố chung được hai bên đưa ra ngày 10/02/1965, khẳng định Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á, vai trò của Việt Nam
trong cuộc chiến chống đế quốc Mĩ và đóng góp của Việt Nam vào nền hòa bình của thế giới. Cho
nên, trong suốt những năm 1965-1975, Liên Xô ủng hộ cả về chính trị lẫn quân sự cho Việt Nam đánh Mĩ.
Sau khi Việt Nam thực hiện thành công công cuộc thống nhất đất nước và trở thành một đất
nước hoàn toàn độc lập, toàn vẹn về chủ quyền, Liên Xô muốn tăng cường quan hệ
mọi mặt với Việt Nam. Như vậy, từ năm 1965 đến năm 1978, quan hệ Việt Nam – Liên Xô ngày càng
thắt chặt, Liên Xô viện trợ nhiều vũ khí hạng nặng cho Việt Nam đánh Mĩ cũng như giúp đỡ Việt Nam
xây dựng và kiến thiết đất nước sau ngày thống nhất (tháng 4/1975). Nguyên nhân của mối quan hệ
Việt – Xô ngày càng chặt chẽ này là do Việt Nam đứng đầu trong ngọn cờ giải phóng dân tộc ở châu Á,
tạo ra nhiều uy tín với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Cả ba nước Mĩ – Xô – Trung đều muốn có được Việt Nam, do đó trong quan hệ quốc tế thời kì này
xuất hiện các mối quan hệ chồng chéo giữa các nước, trong đó nổi trội là quan hệ Xô – Trung, chi phối
hệ thống XHCN lúc bấy giờ. Chính sự mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đã gây tác động không
nhỏ đến cuộc kháng chiến chống Mĩ của Việt Nam. Sau khi nước Việt Nam thống nhất, do tác động
của mối quan hê ̣Xô – Trung mà quan hệ Việt – Trung không được tốt đẹp như giai đoạn trước. Đó lOMoAR cPSD| 46454745
cũng có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc mà Trung
Quốc gây ra cho Việt Nam năm 1979.
- Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
Việt Nam – Trung Quốc là hai nước láng giềng và có mối quan hệ lâu đời về kinh tế, văn hóa trong lịch
sử. Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công (tháng 10/1949), và đến ngày
18/01/1950, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Xuyên suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam, Trung
Quốc giúp đỡ về vật chất và tinh thần cho cách mạng nước ta.
Trong kháng chiến chống Mĩ (1954-1975), Trung Quốc vẫn tiếp tục ủng hộ Việt Nam đánh Mĩ. Việt
Nam là đồng minh thân thiết của Trung Quốc từ sau ngày cách mạng Trung Quốc thành công. Trung
Quốc giúp Việt Nam vừa là nghĩa vụ đối với đồng minh vừa vì lợi ích chiến lược, kiềm chế ngăn chặn
Mĩ, làm cho Mĩ suy yếu, bảo đảm an ninh của Trung Quốc.
Tuy nhiên, đến năm 1965, Liên Xô quan tâm hơn đến chiến tranh Việt Nam và giúp đỡ những vũ khí
tối tân cho quân đội Việt Nam như đã nêu trên. Được cả hai nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa ủng
hộ là động lực và tạo thế mạnh cho Việt Nam đánh Mĩ. Nhưng lúc bấy giờ, quan hệ giữa Liên Xô và
Trung Quốc không suôn sẻ, mâu thuẫn, cạnh tranh, đối kháng lẫn nhau tạo ra tình thế khó khăn trong ứng xử của Việt Nam.
Do mâu thuẫn với Liên Xô cùng với những âm mưu tính toán riêng, Trung Quốc đã xích lại gần hơn với
Mĩ, bên cạnh đó, còn có những hành đông đàm phán với Mĩ lơi dụng ̣Viêt Nam để trục lợi cho mıǹ h.
Sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam giảm dần từ năm 1969 đến năm 1975 không viện trợ nữa.
Trung Quốc không muốn một Việt Nam thống nhất vì khi đó ý thức giữ gìn chủ quyền quốc gia sẽ lớn
hơn, nó sẽ ảnh hưởng đến các kế hoạch chi phối Đông Dương của Trung Quốc sau này. Thất bại trong
việc lôi kéo Việt Nam và mẫu thuẫn với Liên Xô đã khiến Trung Quốc có những hành động chống phá
Việt Nam: ủng hộ quân Pol Pot và đỉnh điểm là mang quân đánh chiếm hầu hết các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam
- Mâu thuẫn quan hệ tam giác Mĩ – Xô – Trung
Tóm lại, nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc Việt Nam do nhiều nhân tố tác
động và diễn ra lâu dài, nhưng yếu tố rõ nhất chính là mâu thuẫn về quyền lợi của các nước lớn, tiêu
biểu là Mĩ – Xô – Trung trong vấn đề Đông Dương. Cả ba nước trên đều muốn nâng cao tầm ảnh
hưởng và quyền kiểm soát của mình trên bán đảo Đông Dương, do đó việc ủng hộ Việt Nam đánh Mĩ
của Liên Xô và Trung Quốc là nhằm phục vụ cho những mưu đồ riêng của mình. Trong quá trình giúp
đỡ Việt Nam, sự toan tính của họ đã làm cho những mâu thuẫn vốn có từ trước càng trở nên sâu sắc.
Việt Nam vẫn duy trì đường lối độc lập, tự chủ, tiếp nhận sự giúp đỡ nhưng không phụ thuộc, điều
này làm cho Trung Quốc không hài lòng. Thêm vào đó, sau năm 1975, quan hệ Việt – Xô nâng lên tầm
cao mới khi hai nước kí kết các hoạt động tương trợ lẫn nhau về kinh tế, quân sự, cùng với mối quan lOMoAR cPSD| 46454745
hệ căng thẳng của Liên Xô- Trung Quốc cũng có thể xem là lý do Trung Quốc gây khó khăn cho Việt
Nam. b. Nguyên nhân trực tiếp
- Sự bành trướng trắng trợn của Trung Quốc đối với Việt Nam
Ngày 19-20/1/1974, lợi dụng quân đội Việt Nam Cộng hòa yếu thế, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để
chiếm một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Hành động này gây nên sự bất bình với
thế giới cũng như nhân dân Việt Nam, đây có thể xem là sự xâm lược trắng trợn trên lãnh thổ Việt Nam.
- Campuchia trong mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc những năm cuối thập niên 70 của thế kỉ XX
Những năm 1975-1978, Trung Quốc đã viện trợ kinh tế, vũ khí và chuyên gia quân sự cho Campuchia.
Trong hai năm 1975-1976, khi những cuộc đụng độ quân sự giữa Việt Nam và Campuchia bắt đầu
diễn ra, Trung Quốc vẫn cố gắng làm trung gian hòa giải vì họ muốn giữ mối quan hệ và duy trì ảnh
hưởng của mình tại Việt Nam, nhằm lôi kéo Việt Nam chống lại Liên Xô. Nhưng đầu năm 1977, khi
quan hệ Việt Nam và Campuchia trở nên gay gắt, đi đến cắt đứt quan hệ thì quan hệ Việt Nam –
Trung Quốc trở nên phức tạp hơn. Trung Quốc luôn coi Campuchia là một mắt xích quan trọng để tạo
ảnh hưởng của mình tại Đông Nam Á. Việc lôi kéo Việt Nam tách khỏi Liên Xô và đứng về phía Trung
Quốc đã không thành công nên Trung Quốc tiến đến công khai chống Việt Nam. Các văn kiện của
Trung Quốc từ năm 1977 luôn tuyên truyền: “Việt Nam là tay sai của Liên Xô, có tham vọng xâm lược
Campuchia, Lào, chiếm Đông Nam Á, thực hiện bá quyền khu vực, phải đánh cho bọn xét lại Việt
Nam, không đánh là không thể được và phải đánh lớn” Trong khi chế độ Pol Pot gây rối biên giới Tây
Nam của Việt Nam, Trung Quốc cũng công khai chống Việt Nam và cố gắng tranh thủ sự đồng tình của
Mĩ cũng như các nước trong khu vực đứng về phía Trung Quốc. Tháng 01/1979, khi Việt Nam đưa
quân vào Campuchia lật đổ chế độ Pol Pot, Trung Quốc đã kịch liệt phản đối, tố cáo Việt Nam vào
chiếm Phnom Penh, kêu gọi nhân dân Campuchia chiến đấu lâu dài và hứa sẽ tiếp tục ủng hộ vật chất
và tinh thần cho nước này. Hành động này của Trung Quốc làm cho mối quan hệ Việt – Trung ngày càng đi xuống
Vấn đề Campuchia có thể gọi là “giọt nước tràn li” trong quan hệ Việt – Trung, khi chế độ diệt chủng
Pol Pot gây tội ác tại Campuchia và Việt Nam, giết vô số người dân vô tội, Trung Quốc không những
không lên án mà còn bênh vực và cổ vũ cho những việc làm sai trái của quân Pol Pot, đồng thời tuyên
bố sẽ trừng phạt Việt Nam nếu tấn công lại. Chính vì vậy, sau khi Việt Nam đánh bại Pol Pot, mang lại
sự bình yên cho biên giới Tây Nam của Việt Nam và Campuchia thì Trung Quốc thực hiện chiến lược
biển người, mang quân xâm lược biên giới phía Bắc của Việt Nam năm 1979.
2.4. Tổng kết nguyên nhân -
Thứ nhất, xuất phát từ tham vọng bá quyền, bành trướng, xâm lược Việt Nam nói riêng và
Đông Dương nói chung của giới cầm quyền Trung Quốc. -
Thứ hai, Trung Quốc phát động chiến tranh là để tranh thủ sự ủng hộ của các nước đang
chống phá và đối đầu Việt Nam lúc đó vì những lợi ích cá nhân. - Thứ ba, quan hệ của Liên Xô và lOMoAR cPSD| 46454745
Trung Quốc dần xấu đi mà quan hệ Việt Nam và Liên Xô lại ngày càng khắng khít, vì vậy việc gây ra
cuộc chiến còn là hành động trả đũa của Trung Quốc đối với các động thái ngoại giao của Việt Nam với Liên Xô.
2.5. Vai trò của Đảng trong cuộc chiến tranh biên giới
Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán chủ trương giải quyết tình hình biên giới Tây
Nam bằng con đường hòa bình, hữu nghị; thế nhưng, chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari không những
không hợp tác, mà còn tiếp tục cho quân tiến công lấn chiếm lãnh thổ dọc tuyến biên giới Tây Nam.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đồng ý với đề xuất của Quân ủy Trung ương đưa một số đơn vị chủ
lực vào phối hợp với lực lượng vũ trang các Quân khu 5, 7, 9 kiên quyết đánh trả, trừng trị đích đáng
quân xâm lược. Mặc dù bị đánh thiệt hại nặng nề, nhưng với bản chất hiếu chiến, tư tưởng dân tộc
cực đoan, đầu năm 1978, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari vẫn khước từ mọi nỗ lực thiện chí hòa bình và
những đề nghị có tình, có lý của Chính phủ Việt Nam; huy động phần lớn lực lượng chủ lực áp sát
biên giới, liên tiếp mở các cuộc tiến công vào lãnh thổ Việt Nam, gây cho ta nhiều thiệt hại lớn về
người và tài sản. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng ta ra nghị quyết về tình hình nhiệm vụ mới, chỉ
rõ nguồn gốc, tính chất, đặc điểm của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và đề ra
chủ trương phương hướng giành thắng lợi sớm. Đồng thời, để đáp ứng đề nghị khẩn thiết của Mặt
trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campu-chia, tháng 12-1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương
thông qua quyết tâm mở cuộc tổng phản công, tiến công chiến lược trên tuyến biên giới Tây Nam,
đồng thời sẵn sàng phương án hỗ trợ các lực lượng vũ trang yêu nước Cam-pu-chia đánh đổ tập
đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, giành chính quyền về tay nhân dân. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, kịp
thời của Trung ương Đảng, do có sự chuẩn bị tốt về lực lượng, thế trận. Sau 25 ngày đêm tiến hành
tổng phản công, tiến công thần tốc (từ 23-12-1978 đến 17-01-1979) quân và dân ta đã đánh đuổi
quân Pôn Pốt ra khỏi lãnh thổ Tổ quốc; đồng thời, đáp ứng đề nghị của Mặt trận Đoàn kết dân tộc
cứu nước Cam-pu-chia, quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với lực lượng của Bạn giải phóng
Phnôm Pênh (07-01-1979) và toàn bộ đất nước Cam-pu-chia (17-01-1979), đánh đổ chế độ diệt
chủng Pôn Pốt - Iêng Xari, giúp Bạn thành lập Hội đồng Nhân dân Cách mạng Cam-pu-chia (08-01-
1979) - đại diện chân chính, hợp pháp duy nhất của nhân dân Cam-pu-chia.
Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa,
có hiệu quả của Việt Nam, giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng và từng bước hồi
sinh, một lần nữa khẳng định sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng - nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh đó, Đảng ta đã nhận định, đánh giá đúng tình
hình, đề ra chủ trương, đường lối, mục tiêu chính trị, có chiến lược, sách lược đúng đắn, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc đập tan hành động xâm lược của các thế lực phản động, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế
cao cả. Thắng lợi đó để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng phù
hợp trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. lOMoAR cPSD| 46454745
Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, để tiếp
tục bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tập
trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, thường xuyên quán triệt, nắm vững quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng;
nắm chắc tình hình, đề cao cảnh giác cách mạng, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Để ngăn chặn âm mưu của kẻ địch, thì cán bộ, bộ đội và nhân dân ta
cần phải luôn luôn nâng cao cảnh giác. Đó là một nghĩa vụ quan trọng mà mọi người công dân phải
làm trọn để chống lại âm mưu của đế quốc và bè lũ tay sai, để bảo vệ nhân dân và bảo vệ Tổ quốc”1.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tăng cường học tập, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đồng
thời, phải đẩy mạnh giáo dục lòng yêu nước truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc và quân
đội cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.
Thường xuyên nắm chắc tình hình, thời cơ và thách thức; phân biệt rõ “đối tượng” và “đối tác”; không
mơ hồ, mất cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; làm tốt công
tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ gìn bí mật, nhất là bí mật quân sự, bí mật quốc gia. Giữ vững định hướng
chính trị, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền; kịp thời định hướng tư tưởng, dư luận cho cán
bộ, chiến sĩ và nhân dân về những vấn đề mới, phức tạp nảy sinh từ thực tiễn, góp phần tăng cường sự
đồng thuận trong xã hội về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chủ động trước mọi diễn biến của
tình hình, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa...
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng,
quân sự, bảo vệ Tổ quốc.
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng, quân sự, bảo vệ Tổ
quốc, nhất là đối với lực lượng vũ trang là nguyên tắc bất di bất dịch. Trong tình hình hiện nay, cần tập
trung thực hiện tốt Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011); Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 229-2008 của Bộ Chính trị về
tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong
tình hình mới; Luật Quốc phòng (sửa đổi), Luật Biên giới quốc gia; Chiến lược Quốc phòng Việt Nam;
Chiến lược Quân sự Việt Nam; Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045; các kế hoạch phòng thủ quốc gia và các vùng; kế hoạch xử trí trong các tình
huống xung đột, bạo loạn, xảy ra chiến tranh xâm lược... Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện quan điểm, chủ
trương, nguyên tắc, chính sách, cơ chế vận hành và mối quan hệ giữa các tổ chức, con người hoạt động
trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng; cơ chế Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân
đội, công an và lĩnh vực quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Coi trọng công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng và phát triển nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Tiếp tục tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực,
củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến
đấu của các cấp ủy và tổ chức đảng; đề cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là
người đứng đầu; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng; gắn việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng với lOMoAR cPSD| 46454745
thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh... góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch,
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Ba là, phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối
với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Trong quản lý, điều hành đất nước, Nhà nước căn cứ vào quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự
của Đảng và những quy định của Hiến pháp để từng bước bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức và toàn
dân thực hiện. Chú trọng hoàn thiện các chương trình, mục tiêu, kế hoạch quân sự, quốc phòng; kế
hoạch động viên quân đội, phòng thủ quốc gia... Quản lý chặt chẽ, thống nhất các hoạt động quân sự,
quốc phòng theo pháp luật. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy
nhà nước để quản lý, điều hành các hoạt động quân sự, quốc phòng phù hợp với đặc điểm, yêu cầu
nhiệm vụ trong lĩnh vực này...
Tăng cường định hướng và tạo mọi điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã
hội xác định đúng mục tiêu, phương thức tham gia xây dựng và thực hiện chủ trương, định hướng,
quan điểm, giải pháp về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của Đảng và Nhà nước; tham gia vào các hoạt
động quân sự, quốc phòng theo quy định của pháp luật; đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia bảo
vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia...
Bốn là, chú trọng xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng.
Trên cơ sở cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách, nguyên tắc, cơ chế lãnh đạo, chế độ công tác,
quy chế làm việc, tiêu chuẩn cán bộ của Đảng và thực tiễn quân sự, quốc phòng để điều chỉnh, quyết
định sự tăng, giảm các tổ chức quân sự; biên chế, đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ, nhất là đội ngũ cán
bộ chủ chốt; xây dựng phong cách làm việc của tổ chức, cán bộ... Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy địa phương đối với công tác quốc phòng, quân sự. Phát huy trách
nhiệm của tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đoàn thể, cơ quan quân sự địa phương và người đứng
đầu trong tham mưu, quản lý và tổ chức các hoạt động quân sự, quốc phòng.
Chú trọng nâng cao năng lực quán triệt, cụ thể hóa quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của
Đảng và tổ chức thực hiện trong thực tiễn; tăng cường công tác phối hợp giữa các tổ chức, các lực
lượng trên cơ sở nguyên tắc, chức năng, nhiệm vụ. Thường xuyên làm tốt công tác nắm, dự báo tình
hình, phát hiện, giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh, đặc biệt là những vấn đề mới, nhạy cảm liên
quan đến ổn định chính trị - xã hội; những bất đồng, tranh chấp trong vấn đề biên giới, lãnh thổ.
Năm là, tiếp tục xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp,
sức mạnh chiến đấu, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.
Để quân đội tiếp tục là lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia; là
công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa thì vấn đề hàng đầu là tập trung xây dựng Đảng
bộ quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trong đó, chú trọng xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; tự phê bình, phê bình; phát huy bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng;
nâng cao kiến thức, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên. Chấp hành
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường kỷ luật và sự đoàn kết thống nhất... lOMoAR cPSD| 46454745
Cần đặc biệt chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng,
chính sách, pháp luật... định hướng việc tiếp nhận và xử lý thông tin; quản lý chặt chẽ và phát huy sức
mạnh tổng hợp của các phương tiện thông tin đại chúng, các hình thức, phương pháp công tác tư
tưởng, văn hóa; tăng cường thông tin thời sự, chính sách, thông tin nghiên cứu... làm cho cán bộ, chiến
sĩ giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trung thành vô hạn
với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, luôn đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân;
có phẩm chất đạo đức trong sáng; luôn kiên định, vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng. Tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về tăng
cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong
tình hình mới; kiên quyết đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu “phi chính
trị hóa”, “dân sự hóa” quân đội của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Tiếp tục xây đựng quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, một số quân, binh
chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Tập trung, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến
lược. Phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Nâng cao chất lượng xây
dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc
phòng. Nắm vững đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, tăng cường hợp tác đối ngoại quốc phòng
với các nước, nhất là các nước láng giềng, xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị và phát triển; đẩy mạnh
phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia”. 3. Bài học rút ra
Nhìn lại cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc, ta đã rút ra được nhiều bài học xương máu quý giá. Nhân dân
ta phải luôn đoàn kết và xây dựng đất nước giàu mạnh để đủ sức đối phó với mọi tình huống, bất trắc
xảy ra bất ngờ. Cũng từ đó mà đất nước ta rút ra một số bài học kinh nghiệm, làm cơ sở nghiên cứu,
kế thừa, phát triển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; chủ động ngăn ngừa các
nguy cơ chiến tranh, xung đột; phát huy truyền thống "giữ nước từ khi nước chưa nguy"đó là:
Thứ nhất, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù để
nhanh chóng điều chỉnh lực lượng, xây dựng thế trận phù hợp.
Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, phải quán
triệt sâu sắc quan điểm “kiên quyết, kiên trì”. Quan điểm này không chỉ phản ánh ý chí quyết tâm cao,
ý chí thép, khí phách anh hùng quật cường của nhân dân ta mà còn thể hiện tính chất gay go, phức tạp
của cuộc đấu tranh. Đây cũng là biện pháp đối phó linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo, không chủ quan, năng
động trong quá trình thực hiện mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh lịch sử mới. Trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, trước xu thế hòa bình, hữu nghị, hợp tác, hội nhập, phát triển,
song song những thuận lợi và tiềm ẩn nguy cơ, chúng ta đặt ra yêu cầu toàn Đảng, toàn quân, toàn
quân. toàn quân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, xác định đúng đối tượng, đối tượng của
cách mạng Việt Nam, không để bị động, bất ngờ trước mọi tình huống.
Thứ hai, xây dựng thế trận tác chiến phòng thủ khu vực vững chắc, liên hoàn, hiểm hóc, linh hoạt, có chiều sâu.
Do chúng ta vừa không đủ sức, vị trí trên sân yếu, sơ hở không kịp thời điều chỉnh dẫn đến thiệt hại về
người và của. Vì vậy, phải xây dựng thế trận khu vực phòng thủ vững chắc, liên hoàn, hiểm hóc, linh
hoạt, có chiều sâu, sẵn sàng đáp trả có hiệu quả các đợt tiến công của địch bất cứ lúc nào. Trong tình
hình mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, việc bố trí đội hình cần phải mở rộng, nhưng phải lOMoAR cPSD| 46454745
làm nổi bật các mũi nhọn, gắn chặt giữa căn cứ chiến đấu, phòng thủ và chiến đấu với làng, đáp ứng
yêu cầu của các lực lượng vũ trang địa phương.Bình lầy chiến tranh nhân dân đã tạo điều kiện thuận
lợi cho quân đội ta. Và dứt khoát tiêu diệt kẻ thù.
Trong tình hình mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, việc bố trí đội hình phải rộng khắp,
nhưng phải trọng tâm, trọng điểm, gắn chặt với cơ sở chiến đấu, phòng thủ và làng xã, chiến đấu, đáp
ứng yêu cầu của Lực Lượng Vũ Trang địa phương, địch bị sa vào vũng lầy của chiến tranh nhân dân, tạo
điều kiện thuận lợi cho quân ta. Và dứt khoát tiêu diệt kẻ thù.
Thứ ba, điều chỉnh lực lượng, nâng cao chất lượng huấn luyện, xây dựng thế trận quân sự hợp lý, chặt
chẽ, vững chắc, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc
Trong Chiến tranh Biên giới Tây Nam, mặc dù lúc đầu ta còn lúng túng, phản ứng bị động do chưa đánh
giá đúng âm mưu, bản chất của kẻ thù, chậm nhận diện mục tiêu tác chiến, dưới sự lãnh đạo của Quân
ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Phòng thủ và Quân khu phía Nam. kẻ thù. Rút kinh nghiệm, trong giai
đoạn hiện nay, cần tập trung xây dựng thế trận quân sự hợp lý trên cơ sở bố cục chiến lược phòng thủ
chung của cả nước và bố cục chiến lược của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
, xây dựng thế trận liên hoàn, ổn định, bảo đảm hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực trong các hoạt
động tác chiến chiến lược, chiến dịch và các hoạt động khác đạt được mục tiêu, yêu cầu đã đề ra.
Quân đội nhân dân phải được tổ chức theo hướng tinh, gọn, mạnh, có cơ cấu hợp lý giữa các quân
chủng, binh chủng, giữa lực lượng thường trực và dự bị động viên, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương.
Trên cơ sở đó, điều chỉnh thế bố trí lực lượng trên các vùng, miền, nhất là khu vực có tầm chiến lược
quan trọng; tổ chức, sử dụng lực lượng tại chỗ linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với từng đối tượng và loại
hình tác chiến; nâng cao chất lượng, hiệu quả tổ chức, sử dụng lực lượng cơ động chiến lược trong tình hình mới.
Thứ tư, đẩy mạnh xây dựng các công trình quân sự - quốc phòng, căn cứ hậu phương, hậu cần - kỹ
thuật trên từng hướng chiến trường, khu vực phòng thủ.
Thực tiễn mặt trận biên giới Tây Nam cho thấy, trong khi chỉnh đốn, tăng cường binh lực củng cố các vị
trí, chúng ta hết sức coi trọng việc củng cố, xây dựng chiến hào, công sự, tường thành. để đẩy lùi các
cuộc tấn công của kẻ thù. Cùng với đó, hệ thống cơ sở kỹ thuật hậu cần cũng đã cơ bản hoàn thiện,
đảm bảo cung cấp đủ quân số làm nhiệm vụ tiền tuyến, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu bất cứ
lúc nào. Hệ thống đường ra mặt trận được củng cố và kết nối, các đơn vị vận tải được củng cố và thành
lập mới. Vì vậy, trong khi ta tổ chức phản công, tiến công, tiêu diệt địch thì công tác hậu cần, kỹ thuật
đã đáp ứng đầy đủ, kịp thời, góp phần hình thành lực lượng chung sức đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Để đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay, vừa tạo dựng được thế trận “lòng dân”
vững chắc, nền công tác quốc phòng toàn dân vững chắc, liên tục, vừa bảo đảm bí mật, cần coi trọng
công tác xây dựng và hỗ trợ hậu cần. - thế trận kỹ thuật trên các hướng của trận địa và khu vực phòng
thủ. Tập trung quy hoạch và bố trí, xây dựng căn cứ hậu cần - công trình chiến lược, căn cứ chiến đấu,
căn cứ hậu cần - công trình khu vực phòng thủ tỉnh, v.v. Đồng thời, chủ động tổ chức dự trữ hợp lý, có
chiều sâu ở các cấp; hệ thống hậu cần - kỹ thuật, kho tàng các cấp được kết nối liên tục bằng đường
bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không bảo đảm tính liên tục, kịp thời cho chiến đấu. các tình
huống. Đồng thời, phải quan tâm xây dựng lực lượng kỹ thuật hậu cần (dự bị động viên) vững mạnh,
chủ động xây dựng kế hoạch, chủ động bổ sung, hoàn thiện cơ chế phát triển, huy động kịp thời các
nguồn lực của địa phương. lOMoAR cPSD| 46454745
Bốn mươi năm đã trôi qua, nhưng những bài học kinh nghiệm về xây dựng trận địa trong chiến tranh
bảo vệ biên giới Tây Nam vẫn còn nguyên giá trị, cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển
trong công tác xây dựng. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 4. Kết luận
Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc của Tổ quốc đã đập tan âm
mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực phản động quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Những ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của nó thì mãi tồn tại cho đến hôm
nay và mai sau. Vì vậy bài tiểu luận này chúng tôi mong một phần nào đó khỏi dậy long yêu nước của
mỗi người chúng ta mà có lẽ sống trong thời bình đã quên mất. Với bài tiểu luận này, tôi hi vọng các
bạn thấy rõ được tầm quan trọng của Đảng trọng cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc
và chúng ta rất cần sự lãnh đạo tài tình của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước - thời kì có những
biến đổi sâu sắc về mọi mặt và những thử thách vô cũng lớn.
Là sinh viên, là chủ nhân tương lai của đất nước, chúng ta không chỉ phải học để nuôi sống bản
thân, gia đình mà còn phải có trách nhiệm với xã hội và đất nước. Vì vậy, ngày nay chúng ta có thể
làm được nhiều điều cho đất nước và cho Đảng như nghiên cứu lịch sử Đảng, tham gia các phong
trào chính trị và luôn tin tưởng vào Đảng. Lên án những kẻ chống phá chính quyền, chống Đảng ... Nói
tóm lại, chúng ta hãy làm hết sức mình để xây dựng Đảng vững mạnh và nâng cao uy tín của Đảng trong nhân dân Việt Nam.