Lý thuyết về quyền sở hữu trí tuệ | Môn luật hiến pháp
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.Như vậy, tại Việt Nam, quyền sở hữu trí tuệ được hiểu gồm bốn loại: (i) quyền tác giả; (ii) quyền liên quan (đến quyền tác giả. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !
Preview text:
lOMoAR cPSD| 47305584 - A. Lý thuyết
1. Tài sản trí tuệ là gì? Quyền SHTT là gì?
Theo Điều 163 BLDS 2015 thì tài sản “bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản.”. Định nghĩa luật định cho ta khái niệm về tài sản hữu hình. Ở đây,
tài sản trí tuệ không thuộc trong số đó, ta có khái niệm mới về “tài sản vô hình”: là
một loại tài sản vô hình, không thể được xác định bằng các đặc điểm vật chất của
chính nó nhưng lại có giá trị lớn vì có khả năng sinh ra lợi nhuận trong tương lai và
quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Theo nghĩa
thông dụng, tài sản trí tuệ được hiểu là tất cả các sản phẩm của hoạt động trí tuệ:
các ý tưởng, các tác phẩm sáng tạo văn học/nghệ thuật, các công trình khoa học,
các sáng chế,…phần mềm máy tính…Tài sản trí tuệ là một dạng tài sản vô hình.
Ngoài các đặc tính chung như các dạng tài sản vô hình khác, các tài sản trí tuệ lại
có các đặc tính riêng, đó là tính sáng tạo và đổi mới (là một đối tượng mới được tạo
ra hoặc là một đối tượng đã có nhưng được bổ sung cái mới).
Theo Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) thì tài sản trí tuệ được
hiểu là “bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; cuộc biểu diễn bản ghi
âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã
hóa (đối tượng quyền tác giả - khoản 1 Điều 3) ; sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại,
chỉ dẫn địa lý (đối tượng quyền sở hữu công nghiệp - khoản 2 Điều 3); vật liệu nhân
giống, vật liệu thu hoạch” (đối tượng khoản 3 Điều 3).
Quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các quyền đối với tài sản vô hình là thành quả
lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của các chủ thể, được pháp luật quy định
bảo hộ. Theo Điều 164 (BLDS 2005) quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật1.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 bổ sung năm 2009 như sau:
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: lOMoAR cPSD| 47305584 -
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao
gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp
và quyền đối với giống cây trồng”.
Như vậy, tại Việt Nam, quyền sở hữu trí tuệ được hiểu gồm bốn loại: (i) quyền
tác giả; (ii) quyền liên quan (đến quyền tác giả); (iii) quyền sở hữu công nghiệp và
(iv) quyền đối với giống cây trồng. Không phải nước nào cũng phân chia quyền sở
hữu trí tuệ như vậy. Chẳng hạn tại nhiều nước và trong nhiều khuôn khổ (Châu Âu,
Tổ chức Thương mại thế giới – WTO, Nhật Bản) có sử dụng khái niệm “quyền sở
hữu công nghiệp” và coi quyền đối với giống cây trồng cũng là một bộ phận của
quyền sở hữu công nghiệp. Trong khi đó một số nước khác (chẳng hạn:
Hoa Kỳ) không dùng khái niệm này1.
2. Phân tích đăc điểm ̣
tính lãnh thổ của quyền SHTT?
Quyền sở hữu trí tuệ là “quyền có tính lãnh thổ”, tức là quyền sở hữu trí tuệ có
một giới hạn nhất định về phạm vi lãnh thổ. Chúng thường chỉ được bảo hộ trong lãnh
1 TS. Phạm Đình Chướng, Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, Giới thiệu chung về Tài sản trí tuệ, Hội thảo
“Kỹ thuật xác định giá trị tài sản trí tuệ” - Hà Nội - TP Hồ Chí Minh (04/12/2013) lOMoAR cPSD| 47305584 -
thổ một nước (ví dụ, nước Việt Nam) hoặc trong lãnh thổ một khu vực (ví dụ, trong
lãnh thổ các nước thành viên của Tổ chức Sở hữu trí tuệ châu Phi (OAPI)) nơi đăng
ký và nhận được sự bảo hộ, quyền này có môt giới hạn nhất định. Vì vậy, khị một công
ty đã nộp đơn đăng ký bảo hộ sáng chế, nhãn hiệu hay kiểu dáng công nghiệp hợp pháp
ở thị trường nội địa và đã được cấp các quyền thì không có nghĩa là quyền sở hữu trí
tuệ đó sẽ được bảo hộ ở thị trường quốc gia khác, trừ khi các quyền đó đã được đăng
ký và được cấp bởi cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia (hoặc khu vực) của thị trường khác
có liên quan. Trong trường hợp khi có tham gia Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuê thì
phạm vi bảo hộ được mở rộ ng ra các quốc gia thành viên.̣
3. Phân tích mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan đến quyềntác giả.
Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả có mối liên hệ mật thiết với
nhau, bổ sung cho nhau và tồn tại song song với nhau. Mối liên hệ này được thể hiện
thông qua cách gọi, khái niệm và các điểm giống nhau được phân tích cụ thể như sau:
Thứ nhất, về cách gọi tên của 02 quyền nêu trên là “quyền tác giả” và “quyền
liên quan đến quyền tác giả”. Có thể thấy rằng, quyền liên quan được xây dựng dựa
trên nền tảng là quyền tác giả, nhằm bảo vệ quyền nhân thân, quyền tài sản cho các
chủ thể của quyền liên quan như người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình,
tổ chức phát sóng. Việc công nhận và bảo hộ quyền liên quan là rất quan trọng. Bản
thân nó phải có tính nguyên gốc, có sáng tạo và công sức lao động riêng. Đây được
xem là cầu nối hai bên tác giả và công chúng, giúp tác giả trình bày các tác phẩm của
mình nhưng vẫn không làm ảnh hưởng đến quyền của tác giả đối với tác phẩm. Như
vậy, giữa hai quyền này có sự tương trợ bổ sung lẫn nhau.
Thứ hai, về khái niệm pháp lý, theo Khoản 2, Điều 4, Luật Sở hữu trí tuệ
(LSHTT), thì quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với các tác phẩm do
mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Theo Khoản 3, Điều 4, Luật SHTT, quyền liên quan
đến quyền tác giả (sau đây gọi tắt là quyền liên quan) là quyền của người đối với cuộc
biểu diễn , bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương
trình được mã hóa. Nói cách khác, quyền liên quan chính là quyền của những người
trung gian, tạo điều kiện để cho các tác phẩm của các tác giả được giới thiệu, công bố
và quảng bá rộng rãi đến công chúng. Tóm lại, có thể hiểu được rằng, nếu như không
có những chủ thể của quyền liên quan này, thì công chúng sẽ không được biết đến các lOMoAR cPSD| 47305584 -
tác phẩm và tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, và ngược lại, nếu như không có người
tạo ra những tác phẩm thì sẽ không có nội dung để có thể biểu diễn, ghi âm, ghi hình,
trình chiếu hoặc phát sóng. Chúng tồn tại song song và liên hệ mật thiết với nhau.
Bên cạnh đó, giữa hai quyền trên có các điểm giống nhau về quyền được bảo
hộ và đặc điểm. Quyền nhân thân, quyền tài sản của chủ thể quyền tác giả (tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả) và chủ thể của quyền liên quan (người biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng) đều được bảo hộ dưới Luật SHTT, trừ trường
hợp các đối tượng của quyền liên quan không gây phương hại đến quyền tác giả. Ngoài
ra, cả hai quyền trên đều phải mang đặc điểm đó là tính nguyên gốc. Nghĩa là phải do
chính sự sáng tạo, lao động trí óc và công sức của mình tạo ra, không được sao chép hoặc không đầu tư.
Kết luận rằng, mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan là sự tương trợ
hai chiều. Một tác phẩm được ra đời, được thể hiện dưới một hình thức nhất định, được
công bố nhưng chưa chắc cộng đồng có thể đón nhận và tiếp thu hết giá trị, thông tin
mà tác phẩm đó mang lại. Thế nhưng, thông qua những chủ thể trung gian của quyền
liên quan, tác phẩm đó có thể được công chúng đánh giá cao hơn bởi khả năng truyền
đạt hấp dẫn, kỹ xảo của người biểu diễn, tổ chức phát sóng, ghi âm, ghi hình.
4. Cho 03 ví dụ về đối tượng quyền SHTT được bảo hộ trên thực tế.
a. Sáng chế: Hợp chất phòng trừ bệnh héo lúa và phương pháp phòng trừ bệnh héo lúa
Số bằng: 1-0008574-000
Ngày nộp đơn: 29/05/2001
Ngày công bố đơn: 25/06/2003
Ngày cấp bằng: 05/07/2010
Tên và địa chỉ của chủ bằng: MEIJI SEIKA KAISHA, LTD. (JP); 4-16,
Kyobashi 2-chome, Chuo-ku, Tokyo-to, JAPAN.
Tác giả sáng chế: YAMAMOTO Kazumi (JP), KURIHARA Hiroshi (JP),
TERAOKA Takeshi (JP), MATSUMURA Makoto (JP).
Đại diện SHTT: Công ty TNHH Ban Ca (BANCA). lOMoAR cPSD| 47305584 -
Tóm tắt sáng chế: Sáng chế đề cập đến hợp chất có công thức (1) hoặc muối
cộng axit của nó có tác dụng phòng trừ tốt bệnh héo lúa: trong đó R là nguyên tử hydro
- COR1, -COOR1, trong đó R1 là alkyl có từ 1 đến 4 nguyên tử cacbon, -COCH2OCH3, hoặc -COCH2OCOCH3.
b. Chương trình máy tính: Phần mềm hỗ trợ giao tiếp với người câm Enable Communicate
Số đăng ký: 312/2014/QTG
Ngày cấp: 21/01/2014
Tác giả: Nguyễn Gia Bách
Chủ sở hữu: Nguyễn Gia Bách
c. Giống cây: PHALDAMDAP
Tên loài: Lan Hồ điệp
Phân nhóm: Hoa - Cây cảnh
Số bằng: 13.VN.2015
Ngày cấp bằng: 08/06/2015
Tên và địa chỉ chủ sở hữu: Anthura B.V; Anthuriumweg 14, 2665 KV Bleiswijk, Hà Lan
Tên và địa chỉ tổ chức đại diện: Công ty TNHH Fresh Studio Innovations Asia
- 1A, ngõ 275, Âu Cơ, Tây Hồ, Hà Nội.
Thời gian bảo hộ: 20 năm.
5. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả ? quyền liên quan đến quyền tác giả ?
Tìm các ví dụ trên thực tế những tác phẩm hết thời hạn bảo hộ quyền tác giả.
Đối với quyền tác giả, thì thời điểm phát sinh và thời hạn bảo hộ quyền tác giả
được quy định cụ thể tại Điều 6 Luật SHTT:
“Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện
dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình lOMoAR cPSD| 47305584 -
thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng kí hay chưa đăng kí”
Điều 27 Luật SHTT quy định về thời hạn bảo hộ như sau:
“1. Quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này
được bảo hộ vô thời hạn.
2. Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại
Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau: a)
Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết
danhcó thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần
đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công
bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn
bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết
danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy
định tại điểm b khoản này; b)
Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời
hạnbảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết;
trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm
mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết; c)
Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt
vàothời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.”
Như vậy, quyền tác giả sẽ tự động phát sinh ngay khi tác phẩm được sáng tạo
và được thể hiện dưới một hình thức nhất định mà không phụ thuộc vào yếu tố “có
đăng kí bảo hộ quyền tác giả” hay không. Kể từ thời điểm quyền tác giả có hiệu lực,
tùy với đối tượng được bảo hộ, các nhà làm luật đã quy định thời hạn sao cho tương
xứng và phù hợp hóa với pháp luật trong nước.
Đối với quyền liên quan, thì thời hạn bảo hộ của quyền này được quy định cụ
thể tại Điều 34 LSHTT:
“1. Quyền của người biểu diễn được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp
theo năm cuộc biểu diễn được định hình. lOMoAR cPSD| 47305584 - 2.
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ năm mươi năm
tính từnăm tiếp theo năm công bố hoặc năm mươi năm kể từ năm tiếp theo năm bản
ghi âm, ghi hình được định hình nếu bản ghi âm, ghi hình chưa được công bố. 3.
Quyền của tổ chức phát sóng được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp
theonăm chương trình phát sóng được thực hiện. 4.
Thời hạn bảo hộ quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này chấm dứt vào
thờiđiểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ các quyền liên quan.”
Như vậy, thời hạn bảo hộ của quyền liên quan sẽ được tính từ năm tiếp theo
năm cuộc biểu diễn được định hình và tùy vào chủ thể của quyền liên quan mà thời
hạn sẽ được quy định khác nhau theo Luật Sở hữu trí tuệ.
Tóm lại, thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả sẽ
được tính kể từ thời điểm phát sinh quyền. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên
quan đến quyền tác giả là hữu hạn. Pháp luật quy định một thời hạn nhất định nhằm
tạo điều kiện cho chủ thể quyền tác giả tiếp tục khai thác tác phẩm cho dù tác giả đã
qua đời và cho công chúng có thể tiếp cận và thụ hưởng các sản phẩm đó. Khi hết thời
hạn được bảo hộ, theo quy định tại Điều 43 LSHTT, thì tác phẩm đã kết thúc thời hạn
bảo hộ theo quy định tại Điều 27 của Luật này thì thuộc về công chúng, mọi tổ chức,
cá nhân đều có quyền sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này nhưng phải tôn
trọng các quyền nhân thân của tác giả quy định tại Điều 19
của Luật này và Chính phủ quy định cụ thể việc sử dụng tác phẩm thuộc về công chúng.
Một số ví dụ thực tiễn về những tác phẩm hết thời hạn bảo hộ của tác giả:
Công trình kiến trúc tháp Eiffel là một công trình kiến trúc bằng thép nằm trên
công viên Champ-de-Mars, cạnh sông Seine, thành phố Paris, Pháp. Công trình này do
Gustave Eiffel và các đồng nghiệp của mình xây dựng nên nhân dịp “Triển lãm thế
giới” năm 1889, và cũng là dịp kỷ niệm 100 năm Cách mạng Pháp. Tháp Eiffel này đã
được xây dựng từ rất lâu, thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với các công trình kiến
trúc, bản vẽ kiến trúc đã hết. Chính vì thế mà hàng loạt các bản sao của tháp Eiffel tại
các quốc gia khác không phải Pháp bắt đầu xuất hiện. Công trình giống tháp Eiffel nhất
được đặt tại Paris Hotel & Casino tại Las Vegas được khánh thành năm 1999. Lúc đầu, lOMoAR cPSD| 47305584 -
bản sao được thiết kế cao hơn cả bản gốc. Tuy nhiên, do dự án nằm sát sân bay, nên
các kiến trúc sư phải giảm đi một nửa độ cao, chỉ còn 165 mét, để không gây nguy
hiểm cho máy bay. Bản sao Tháp Eiffel mang lại nguồn thu quan trọng, có mặt trong
hàng chục khu giải trí lớn, là biểu tượng quảng cáo cho nhà hàng, cửa hiệu, dự án bất
động sản khắp năm châu.
Bức tranh nổi tiếng nàng “Mona Lisa” của Leonardo Da Vinci là một bức chân
dung thế kỷ 16 được vẽ bằng sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence bởi ông trong
thời kì Phục Hưng Italy. Tác phẩm thuộc sở hữu của Chính phủ Pháp và hiện được
trưng bày tại bảo tàng Louvre, Paris, Pháp với tên gọi Chân dung Lisa Gherardini, vợ
của Francesco del Giocondo. Tuy nhiên, ngày nay, thật không khó để có thể bắt gặp
các bản sao chép của bức tranh nổi tiếng này trên khắp thế giới. B. Bài tập ● BÀI TẬP 1
1/ Theo quy định của pháp luật SHTT, đối tượng quyền SHTT bao gồm
những gì? Nêu cơ sở pháp lý.
Dựa trên quy định của pháp luật SHTT hiện hành thì hồ sơ công bố tiêu
chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với 7 loại rượu có phải là đối
tượng quyền SHTT hay không? Vì sao?
Theo quy định của pháp luật SHTT, đối tượng quyền SHTT bao gồm 3 nhóm chính:
- Nhóm thứ nhất bao gồm: tác phẩm văn học , nghệ thuật, khoa học; đối tượng
liên quan đến quyền tác giả bao gồm “cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hóa”.
- Nhóm thứ hai là nhóm đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm “ sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế tích hợp bố trí mạch bán dẫn, bí mật kinh
doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý”.
- Nhóm thứ ba là nhóm đối tượng quyền đối với giống cây trồng “ là giống cây
trồng và vật liệu nhân giống”.
- Cơ sở pháp lý: Điều 3 Luật sở hữu trí tuệ 2005
Điều 3. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ lOMoAR cPSD| 47305584 - 1.
Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học;
đốitượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá. 2.
Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp,thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương
mại và chỉ dẫn địa lý. 3.
Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhângiống.
Dựa trên quy định của pháp luật SHTT hiện hành thì hồ sơ công bố tiêu chuẩn
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với 7 loại rượu không phải là đối tượng
quyền SHTT. Vì hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đối
với 7 loại rượu không thuộc một trong ba đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Hồ sơ công
bố tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm thực chất là tập hợp lại các tài liệu
để chứng minh cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền rằng đối tượng hàng hóa, sản
phẩm của chủ thể kinh doanh đó đạt yêu cầu nhất định trước khi đưa vào thị trường
lưu thông. Do đó, việc hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm
không phải là đối tượng SHTT của pháp luật hiện hành.
+ Cơ sở pháp lý: Điều 3, Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2005
Điều 6. Căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ
1. Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dướimột
hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức,
phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
2. Quyền liên quan phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chươngtrình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá được định
hình hoặc thực hiện mà không gây phương hại đến quyền tác giả.
3. Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau: a)
Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế
bốtrí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo
hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này lOMoAR cPSD| 47305584 -
hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được
xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký; b)
Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở
sửdụng hợp pháp tên thương mại đó; c)
Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở
cóđược một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó; d)
Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt
độngcạnh tranh trong kinh doanh.
4. Quyền đối với giống cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ
giống cây trồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này.
2/ Theo Tòa án xác định, các hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh
an toàn thực phẩm đối với 7 loại rượu mà nguyên đơn đang tranh chấp có phải
là đối tượng quyền SHTT hay không? Vì sao Tòa án lại xác định như vậy?
Tòa án xác định các hồ sơ tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm
đối với 7 loại rượu mà nguyên đơn đang tranh chấp không phải là đối tượng quyền SHTT:
Thứ nhất, do chúng không phải đối tượng SHTT cũng như không đủ điều kiện
trở thành đối tượng quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ.
Thứ hai, đây là các văn bản mang tính hành chính và cũng do cơ quan không
có thẩm quyền cấp văn bằng SHTT cấp.
Cụ thể, trích nguyên văn một đoạn trong “Bản án số 1437/2010/KDTM – ST
ngày 14/09/2010 của Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí Minh”, “…Theo Điều 747 BLDS
năm 1995 – các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, Điều 781 – các đối
tượng sở hữu công nghiệp được nhà nước bảo hộ; Điều 788 – Xác lập quyền sở hữu
công nghiệp theo văn bản bảo hộ, thì các hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh
an toàn thực phẩm được tiếp nhận bởi Sở Y tế nói trên không phải là đối tượng SHTT lOMoAR cPSD| 47305584 -
được bảo hộ, ông Trí cũng không có văn bằng bảo hộ được cấp bởi Cơ quan có thẩm
quyền, nên không xác định các đối tượng này là các đối tượng quyền
SHTT theo đơn trình bày yêu cầu của ông Trí…”
Ngoài ra Tòa án cũng trích dẫn Điều 3 Luật SHTT năm 2005; Điều 15 Luật
SHTT năm 2015 về các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả: “… văn
bản hành chính, quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số
liệu.”; Khoản 2 Điều 21 Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLDS, luật SHTT và các quyền liên quan.
Theo đó, Tòa án vẫn xác định các “hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh, an
toàn thực phẩm của Cơ sở Phước Lộc Thọ được Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh tiếp nhận
cho công bố không phải các đối tượng SHTT được pháp luật bảo hộ…..”
3/ Quan điểm của tác giả bình luâṇ có cho rằng hồ sơ công bố tiêu chuẩn
chất lượng, vê sinh an toàn thực phẩm đối với 7 loại rượu là đối tượng củạ quyền
tác giả hay quyền sở hữu công nghiêp không? Lậ p luậ n của tác giả nhự thế nào?
Theo quan điểm của tác giả bình luân thì tác giả cho rằng hồ sơ công bố tiêụ
chuẩn chất lượng, vê sinh an toàn thực phẩm đối với 7 loại rượu không phải là đốị
tượng của quyền tác giả. Bởi theo tác giả môt tác phẩm muốn được bảo hộ thì tác ̣ phẩm
đó phải (1) được chấp nhân về nộ i dung tức là nộ i dung không vi phạm pháp ̣ luât hoặ
c trái với đạo đức xã hộ i, trậ t tự công cộ ng, có hại cho quốc phòng, an ninh;̣ (2) được
thể hiên dưới mộ t hình thức vậ t chất nhất định; và (3) có tính nguyên gốc ̣ nghĩa là
không sao chép, không bắt chước tác phẩm khác. Trong các loại hình tác phẩm được
bảo hô được quy định tại Điều 14 Luậ t SHTT không có đối tượng là hộ̀ sơ công bố
chất lượng vê sinh an toàn thực phẩm. Đồng thời hồ sơ thực chất là tậ p ̣ hợp
những tài liêu có liên quan đến chất lượng, điều kiệ n vệ sinh, an toàn thực phẩṃ được
ban hành theo mẫu của Bô Y tế. Đây chỉ là các văn bản hành chính để thực hiệ ṇ
chức năng quản lý hành chính trong lĩnh vê sinh, an toàn thực phẩm. Các hồ sơ nàỵ
hoàn toàn không có tính sáng tạo trong đó và khi không đáp ứng được điều kiên vệ̀
tính sáng tạo thì đối tượng này sẽ không được công nhân là tác phẩm do đó không ̣
thuôc phạm vi bảo hộ quyền tác giả.̣
Đối với trường hợp hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vê sinh an toàn thực ̣
phẩm đối với 7 loại rượu của cơ sở Phước Lôc Thọ có phải là đối tượṇ g của quyền sở lOMoAR cPSD| 47305584 -
hữu công nghiêp hay không. Căn cứ vào khoản 2 Điều 3 Luậ t SHTT tác giả cho rằng ̣
bí mât kinh doanh và sáng chế có thể có mối liên quan với hồ sơ công bố chất lượng,̣
vê sinh an toàn thực phẩm của cơ sở Phúc Lộ c Thọ. Tuy nhiên sau khi đã xem xét
ợ̉ cả hai trường hợp liên quan đến bí mật kinh doanh và sáng chế, tác giả không cho
rằng hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vê sinh an toàn thực phẩm đối với 7 loạị
rượu là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp
Đối với trường hợp có mối liên hê với bí mậ t kinh doanh tác giả đã chỉ rạ rằng
để bí mât kinh doanh được bảo hộ thì phải đáp ứng các điều kiệ n quy định tạị Điều 84
Luât SHTT trong đó bao gồm việ c mộ t đối tượng muốn được bảo hộ là đốị tượng
kinh doanh phải tồn tại trong tình trạng bí mât. Điều này hoàn toàn đi ngược ̣ lại với hồ
sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vê sinh an toàn thực phẩm nên đối tượng ̣ này không
thể được xem là bí mât kinh doanh vì vậy không là đối tượng của quyềṇ sở hữu công
nghiệp trong trường hợp này.
Đối với trường hợp có mối liên hệ với sáng chế tác giả đã giả sử trường hợp
trong hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vê sinh an toàn thực phẩm của cơ sợ̉ Phước
Lộc Thọ có mô tả quy trình sản xuất rượu thì có một khả năng là quy trình có thể được
bảo hộ dưới dạng sáng chế. Nhưng theo chính tác giả điều này sẽ khó xảy ra bởi hai
nguyên nhân (i) hồ sơ công bố chất lượng được làm theo mẫu của Bộ Y tế, (ii) nếu có
một quy trình điều chế rượu thì việc mô tả và công bố đối tượng có thể dẫn đến việc
đối tượng đó mất đi tính mới ( Điều 60 Luật SHTT). Mà theo tác giả một đối tượng
muốn được bảo hộ dưới dạng sáng chế phải đáp ứng các điều kiện về tính mới, tính
sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp. Hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vê
sinh an toàn thực phẩm có thể mô tả quy trình sản xuất, chế biến rượụ nhưng nếu thể
hiện ở dưới dạng mô tả ở hồ sơ thì không đáp ứng được tính mới và do đó không được bảo hộ.
4/ Theo quan điểm của bạn, hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an
toàn thực phẩm đối với 7 loại rượu đang tranh chấp trong tình huống nêu trên
có là đối tượng của quyền SHTT hay không? Giải thích vì sao.
Theo quan điểm của nhóm, hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn
thực phẩm đối với 7 loại rượu đang tranh chấp trong tình huống không phải là đối
tượng của quyền SHTT. Nhóm sẽ phân tích theo tuần tự như sau: lOMoAR cPSD| 47305584 -
Đầu tiên, nhóm xét hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực
phẩm có giá trị như thế nào dưới góc độ pháp lý:
Theo quy định tạm thời về công bố tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm (Quy chế tạm thời) ban hành kèm theo Quyết định số 2027/2011/QĐ-BYT ngày
30 tháng 5 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Y tế, mục 2.1 của quy chế này thì hồ sơ công
bố chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm là tập hợp các tài liệu để chứng minh cho các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền rằng đối tượng hàng hóa sản phẩm của chủ thể kinh
doanh đó đạt được các yêu cầu nhất định trước khi đưa vào lưu thông trên thị trường.
Như vậy, hồ sơ công bố chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm của doanh nghiệp
là điều kiện cần để doanh nghiệp có thực hiện việc sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, tại mục 2.1 điểm d của Quy chế tạm thời có quy định hồ sơ bao gồm
“tài liệu xác nhận doanh nghiệp có quyền sử dụng hợp pháp đối tượng sở hữu công
nghiệp đang được bảo hộ nếu có”. Qua đây cho thấy rằng hồ sơ công bố chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm có thể bao gồm các văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp cho đối tượng SHTT mà doanh nghiệp đó sở hữu. Như vậy nghĩa là
hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm có thể là đối tượng SHTT.
Trong trường hợp này cần phải xem xét mối liên hệ giữa hồ sơ công bố chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm và nhóm đối tượng quyền tác giả, giữa hồ sơ công bố
chất lượng và nhóm đối tượng quyền sở hữu công nghiệp.
● Dưới góc độ nhóm đối tượng quyền tác giả:
Theo Điều 14 Luật SHTT về các loại hình tác phẩm được bảo hộ thì không có
đối tượng là hồ sơ công bố chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Hồ sơ này thực chất
là tập hợp những tài liệu liên quan đến chất lượng, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm
được ban hành theo mẫu của Bộ Y tế. Đây là các văn bản hành chính để thực hiện chức
năng quản lý hành chính trong lĩnh vực vệ sinh và an toàn thực phẩm. Chính vì vậy
mà tính sáng tạo trong các hồ sơ này hoàn toàn không có. Khi không đáp ứng điều kiện
có tính sáng tạo thì đối tượng này không được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả.
Ngoài ra, khoản 3 Điều 15 Luật SHTT cũng quy định những đối tượng không
thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả bao gồm: quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt lOMoAR cPSD| 47305584 -
động, khái niệm, nguyên lý, số liệu. Sở dĩ những đối tượng này không thuộc phạm vi
bảo hộ quyền tác giả bởi những đối tượng này không đáp ứng được yêu cầu về tính sáng tạo.
Theo đó áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 3, Điều 15 Luật SHTT, khoản 2
Điều 21 nghị định 100/2006 NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của bộ luật dân sự luật SHTT về quyền tác giả quyền
liên quan (Nghị định 100 đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 85/2011/NĐ-CP
ngày 20 tháng 9 năm 2011) để cho rằng hồ sơ công bố chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm không đáp ứng các điều kiện để công nhận các hồ sơ này là các tác phẩm và do
đó không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả.
Như vậy hồ sơ công bố chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm của cơ sở Phước
Lộc Thọ không là đối tượng quyền tác giả.
● Dưới góc độ nhóm đối tượng quyền sở hữu công nghiệp:
Theo khoản 2 Điều 3 Luật SHTT thì đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao
gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật
kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý.
Hồ sơ công bố chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm có thể có mối liên hệ với
bí mật kinh doanh theo khoản 23 Điều 4 Luật SHTT. Bí mật kinh doanh mặc dù là
thông tin nhưng thông tin này không phải là những hiểu biết thông thường và chỉ có
một số ít người biết về thông tin này (theo Holyoak và Torremans, sđd, tr. 587-591).
Theo Điều 84 Luật SHTT thì có thể thấy rằng một đối tượng muốn được bảo hộ là bí
mật kinh doanh cần phải tồn tại trong tình trạng bí mật. Tuy nhiên, điều này lại hoàn
toàn đi ngược lại với hồ sơ công bố chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính vì
điều này mà hồ sơ công bố chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm không được xem xét là bí mật kinh doanh.
Nếu trong hồ sơ công bố chất lượng của cơ sở Phước Lộc Thọ có mô tả quy
trình sản xuất rượu thì có một khả năng là quy trình có thể được bảo hộ dưới dạng sáng
chế theo Khoản 12 Điều 4 Luật SHTT. Tuy nhiên khả năng này rất khó xảy ra bởi lẽ
đây là hồ sơ công bố chất lượng được làm theo mẫu của Bộ Y tế; nếu có một quy trình
sản xuất hoặc quy trình điều chế rượu thì việc mô tả và công bố đối tượng có thể dẫn
đến việc đối tượng đó bị mất đi tính mới theo Điều 60 của Luật SHTT. Một đối tượng
muốn được bảo hộ dưới dạng bằng sáng chế phải đáp ứng được điều kiện về tính mới, lOMoAR cPSD| 47305584 -
tính sáng tạo, và khả năng áp dụng công nghiệp theo Điều 58 Luật SHTT. Hồ sơ công
bố chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm có thể mô tả quy trình sản xuất chế biến rượu
như đã đề cập ở trên. Nếu thể hiện dưới dạng mô tả ở hồ sơ thì không đáp ứng được
tính mới và do đó không được bảo hộ.
● Dưới góc độ căn cứ xác lập đối tượng SHTT:
Các căn cứ phát sinh xác lập quyền theo quy định tại Điều 6 Luật SHTT. Căn
cứ xác lập quyền hoàn toàn khác nhau giữa các quyền tác giả và quyền sở hữu công
nghiệp. Theo đó, “quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được
thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định…” theo khoản 1 Điều 6 Luật SHTT.
Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 6 thì quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế được
xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo thủ tục đăng ký. Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác
lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó.
Đối với quyền tác giả, giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, giấy chứng nhận
đăng ký quyền liên quan sẽ được cấp bởi Cục Bản quyền tác giả văn học - nghệ thuật
(theo Điều 39 Nghị định 100/2006). Đối với quyền sở hữu trí tuệ, văn bằng sẽ được
cấp bởi Cục SHTT (theo Điều 3 Nghị định 103/2006/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung
theo Nghị định số 122/2010/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ). Văn
bằng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ cấp cho chủ sở hữu quyền.
Trên cơ sở đó đối chiếu với hồ sơ công bố chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm
của cơ sở Phước Lộc Thọ, Sở Y tế là cơ quan tiếp nhận hồ sơ công bố chất lượng, vệ
sinh an toàn thực phẩm của đơn vị sản xuất này.
Có thể thấy rằng, nếu xét theo vệ căn cứ phát sinh, xác lập cũng như xác đến cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận xử lý và cấp văn bằng thì các hồ sơ công bố
tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm được Sở Y tế tiếp nhận không phải là
các đối tượng SHTT được bảo hộ. Sở Y tế cũng không phải là cơ quan có thẩm quyền
trong việc xác lập quyền SHTT. Các hồ sơ của ông Trí cũng không phải là các văn
bằng được bảo hộ được cấp bởi cơ quan có thẩm quyền về SHTT.
Như vậy, dù dưới góc độ nào thì hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh
an toàn thực phẩm đối với 7 loại rượu đang tranh chấp trong tình huống không phải là
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. lOMoAR cPSD| 47305584 - ● BÀI TẬP 2
1/ Theo quy định của pháp luật SHTT, đối tượng quyền tác giả bao gồm
những đối tượng nào? Nêu cơ sở pháp lý.
Theo quy định của pháp luật SHTT, cụ thể căn cứ vào Điều 14 Luật SHTT 2005
được sửa đổi, đối tượng quyền tác giả bao gồm:
1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác
được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
c) Tác phẩm báo chí;
d) Tác phẩm âm nhạc;
đ) Tác phẩm sân khấu;
e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự
(sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
h) Tác phẩm nhiếp ảnh;
i) Tác phẩm kiến trúc;
k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
l) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
m) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
2. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này
nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
Dựa trên quy định của pháp luật SHTT hiện hành thì tác phẩm kiến trúc
có phải là đối tượng quyền tác giả hay không? Vì sao?
Theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 14 Luật SHTT 2005 đã được sửa đổi,
bổ sung, tác phẩm kiến trúc là một trong những đối tượng của quyền tác giả. Bởi vì,
căn cứ vào Điều 15 Nghị định 22/2018/NĐ-CP, tác phẩm kiến trúc là “tác phẩm thuộc
loại hình kiến trúc, bao gồm:
a) Bản vẽ thiết kế kiến trúc về công trình hoặc tổ hợp các công trình, nội thất, lOMoAR cPSD| 47305584 - phong cảnh.
b) Công trình kiến trúc.”
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, tác phẩm kiến trúc là một sản phẩm của sự sáng
tạo và được thể hiện dưới dạng một bản vẽ thiết kế và công trình kiến trúc rõ ràng, cụ
thể. Với đặc trưng gắn liền với công trình xây dựng, tác phẩm kiến trúc được bảo hộ
quyền tác giả là cơ sở để thực hiện các công trình xây dựng và việc xây dựng trên thực
tế chính là mục đích cuối cùng của việc sáng tạo tác phẩm kiến trúc đó.
2/ Theo Tòa án xác định trong bản án số 4, đối tượng đang tranh chấp có
phải là đối tượng của quyền tác giả hay không? Vì sao Tòa án lại xác định như vậy?
Theo Tòa án xác định trong bản án số 4, đối tượng đang tranh chấp là đối tượng
của quyền tác giả. Tòa án đã theo hướng tồn tại một tác phẩm kiến trúc được bảo hộ.
Cụ thể, trước khi đi vào xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả hay không thì Tòa
đã xét rằng “các bản vẽ thiết kế trên của tác giả Minh và Vĩnh là các tác phẩm kiến
trúc phải thuộc đối tượng được bảo hộ quyền tác giả theo điểm i khoản 1 Điều 14
Luật SHTT”. Tuy nhiên, Toà chưa lý giải tại sao đây là các tác phẩm kiến trúc được
bảo hộ bởi quyền tác giả.
Căn cứ theo luật SHTT xác định tác phẩm kiến trúc là một loại hình tác phẩm
được bảo hộ quyền tác giả nhưng chưa cụ thể về loại tác phẩm kiến trúc. Nghị định
100/2006 (được sửa đổi bởi Nghị định 85/2011) thì khái niệm tác phẩm kiến trúc được
quy định cụ thể hơn. Theo Điều 17 của Nghị định 85/2011 thì “Tác phẩm kiến trúc
quy định tại điểm i khoản 1 điều 14 của luật SHTT là các bản vẽ thiết kế dưới bất kỳ
hình thức nào thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình xây dựng, quy hoạch
không gian (quy hoạch xây dựng) đã qua hoặc chưa xây dựng …coi là tác phẩm kiến
trúc độc lập”. Bên cạnh đó việc các bản vẽ thiết kế về công trình kiến trúc đã được
Cục Bản quyền tác giả cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả vào tháng 6 năm
2011 cũng được xem là căn cứ xác định tác phẩm kiến trúc là một loại hình tác phẩm
được bảo hộ quyền tác giả.
3/ Quan điểm của tác giả bình luận có cho rằng đối tượng đang tranh chấp
là đối tượng của quyền tác giả không? Lập luận của tác giả như thế nào về vấn đề này? lOMoAR cPSD| 47305584 -
Theo quan điểm của tác giả bình luận, đối tượng đang tranh chấp là đối tượng
của quyền tác giả. Luật SHTT xác định tác phẩm kiến trúc là một loại hình thức tác
phẩm được bảo hộ quyền tác giả nhưng chưa cụ thể về loại tác phẩm kiến trúc. Theo
Điều 17 của Nghị định 85/2011 đã quy định cụ thể và chi tiết hơn, từ quy định của
nghị định, tác giả đã rút ra hai đặc trưng cơ bản của khái niệm “tác phẩm kiến trúc”:
+ Thứ nhất, theo khoản 1 Điều 6 Luật SHTT, “quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác
phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định”, với
quy định trên, tác phẩm kiến trúc chỉ được bảo hộ nếu được thể hiện dưới hình thức “
bản vẽ thiết kế”. Do đó, nếu một bản vẽ chưa rõ ràng, chưa cụ thể thì không coi đó là
“ bản vẽ thiết kế” nên không được bảo hộ quyền tác giả.
+ Thứ hai, nội dung thiết kế là ngôi nhà, công trình xây dựng, quy hoạch không gian
đã hoặc chưa xây dựng. Thực ra, tác phẩm kiến trúc là tổng hợp giữa khoa học kỹ
thuật và nghệ thuật, chứa đựng các yếu tố: công năng, kỹ thuật vật chất và nghệ
thuật. Luật SHTT quy định đối tượng tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học nhưng nếu xếp tác phẩm kiến trúc vào chỉ một trong ba nhóm này sẽ không phù hợp.
- Trong vụ việc, đối tượng được nêu trong tranh chấp là các “ bản vẽ thiết kế” và đã
được “Cục Bản quyền tác giả cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả” đồng thời
không có chủ thể nào phủ nhận điều này nên việc Tòa án xác nhận là thuyết phục.
Các bản vẽ này đều là các bản vẽ thiết kế nên thỏa mãn yêu cầu thứ nhất về điều kiện
tác phẩm kiến trúc. Để phù hợp với điều kiện thứ hai dựa trên tên gọi của các đối
tượng để xác định tính chất của nó có phù hợp hay không. Mặt khác, do trong định
nghĩa không ghi rõ không phân biệt có hay chưa có công trình xây dựng thực hiện từ
tác phẩm kiến trúc nên vấn đề này không ảnh hưởng đến cơ sở xác lập có thỏa mãn
hai điều kiện trên hay không.
4/ Theo quan điểm của bạn, tác phẩm đang tranh chấp trong tình huống
nêu trên có là đối tượng của quyền tác giả hay không? Giải thích vì sao.
Theo quan điểm của nhóm, tác phẩm đang tranh chấp trong tình huống trên là
đối tượng của quyền tác giả. Bởi vì theo khoản 1 Điều 6 Luật SHTT thì quyền tác
giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức
vật chất nhất định. Bởi lẽ tác phẩm kiến trúc chỉ được bảo hộ đó được thể hiện dưới lOMoAR cPSD| 47305584 -
hình thức “bản vẽ thiết kế”. Đối tượng được nêu trong tranh chấp là các “bản vẽ thiết
kế” và đã “được Cục Bản quyền tác giả cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả”,
đồng thời không có chủ thể nào phủ nhận điều này.
Các bản vẽ đều là các bản vẽ thiết kế nên thỏa mãn yêu cầu thứ nhất về điều
kiện tác phẩm kiến trúc (theo Khoản 1 Điều 6 Luật SHTT), đối tượng của các bản vẽ
thiết kế này bao gồm: Nhà ngũ gian tứ hạ, Nhà vọng nguyệt lục giác, Cổng tam quan
cổ lầu, Khu gia nhà rường Việt Nam. Ở đây, tuy chỉ có thể căn cứ trên tên gọi của các
đối tượng này để xác định tính chất của nó chứ không có bản vẽ có sẵn để xác định
liệu rằng những đối tượng này có phải là “ngôi nhà, công trình xây dựng, quy hoạch
không gian” hay không, nhưng nếu đúng như tên gọi được dùng thì các đối tượng này
đều có thể được xem là công trình xây dựng và phù hợp với đặc điểm thứ hai của tác phẩm kiến trúc.
5/ Quy định của pháp luât các nước về tác phẩm kiến trúc như thế nàọ
(phải nêu được của ít nhất hai nước).
*Pháp luật Hoa Kỳ:
Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ:
Điều 101: ““Tác phẩm kiến trúc” là thiết kế của một công trình xây dựng được
thể hiện dưới bất kỳ một hình thái thể hiện vật chất nào bao gồm nhà, công trình xây
dựng, sơ đồ, bản vẽ thiết kế. Tác phẩm loại này bao hàm cả hình dạng tổng thể cũng
như việc bố trí và sắp đặt các không gian, yếu tố trong thiết kế nhưng không bao hàm
các đặc điểm cá biệt đã tiêu chuẩn hoá.”
Điều 102: Đối tượng điều chỉnh của Luật Quyền tác giả: quy định chung (a).
Theo quy định của Điều luật này, Luật quyền tác giả bảo hộ tác phẩm nguyên thuỷ
độc đáo hoàn chỉnh của tác giả đã được định hình dưới bất kỳ một dạng vật chất
thể hiện hữu hình nào hiện đã được biết hoặc sẽ được phát triển trong tương lai,
mà từ các dạng vật chất thể hiện hữu hình này tác phẩm có thể được cảm nhận, tái
bản, hoặc phổ biến khác hoặc là trực tiếp hoặc là với sự trợ giúp của các máy móc
thiết bị. Các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm các thể loại sau:
(1) Tác phẩm văn học;
(2) Tác phẩm âm nhạc bao hàm tác phẩm kèm theo bất kỳ một từ nào;
(3) Tác phẩm sân khấu bao hàm các tác phẩm kèm theo bất kỳ âm thanh nào;
(4) Tác phẩm kịch câm và vũ ba lê; lOMoAR cPSD| 47305584 -
(5) Tác phẩm về nghệ thuật, mỹ thuật, điêu khắc;
(6) Tác phẩm điện ảnh và các tác phẩm nghe nhìn khác; (7) Bản ghi âm, và
(8) Tác phẩm kiến trúc
(b). Trong bất kỳ trường hợp nào sự bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nguyên
thuỷ độc đáo hoàn chỉnh của tác giả không mở rộng đến các ý tưởng, các biện pháp,
phương pháp, nguyên lý hoạt động, khái niệm, quy luật, phát minh, không phân biệt
hình thức mà chúng được miêu tả, giải thích, minh hoạ hoặc diễn đạt trong tác phẩm đó.
Điều 120: Phạm vi quyền độc quyền đối với tác phẩm kiến trúc: (a). Các trình
bày hình ảnh được phép: Quyền tác giả đối với một tác phẩm kiến trúc mà đã được
xây dựng không bao gồm quyền ngăn cấm việc tạo ra, phân phối, trình bày tranh, hoạ,
ảnh, hoặc các trình bày hình ảnh khác của tác phẩm, nếu công trình mà trên đó biểu
hiện tác phẩm được đặt trong, hoặc trong tầm nhìn từ, một nơi công cộng.
(b). Sửa đổi và dỡ bỏ công trình xây dựng: Không trái với các quy định của Điều
106(2), chủ sở hữu công trình thể hiện một tác phẩm kiến trúc có thể, không cần sự
cho phép của tác giả hoặc chủ chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm kiến trúc đó,
thực hiện hoặc cho phép thực hiện sự sửa đổi đối với công trình này, và dỡ bỏ hoặc
cho phép phá hủy công trình này.
Có thể thấy, pháp luật Hoa Kỳ quy định quyền tác giả đối với tác phẩm kiến
trúc bị xâm phạm không bao gồm quyền ngăn cấm việc tạo ra tác phẩm (tháo dỡ công
trình) trong trường hợp “biểu hiện tác phẩm được đặt trong, hoặc trong tầm nhìn từ,
một nơi công cộng”. Như vậy, một công trình đã được xây dựng thì quyền tác giả sẽ
không bao gồm quyền yêu cầu ngưng xây dựng hoặc tháo dỡ. Nói cách khác, việc tác
giả yêu cầu tháo dỡ công trình xâm phạm quyền tác giả sẽ không được chấp nhận
*Pháp luật Thuỵ Điển:
Pháp luật Thụy Điển về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc bị xâm
phạm theo hướng bắt buộc cá nhân xâm phạm phải giao nộp lại cho tác giả hoặc
người thừa kế của tác giả dù cho bất cứ lý do gì. Tuy nhiên Tòa án không bắt buộc
tháo dỡ, sửa đổi các công trình đã tiến hành xây dựng. Cụ thể, Điều 55 Luật
Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật của Thụy Điển quy định như sau:
“Người nào tiến hành các hành vi liên quan đến việc vi phạm hoặc xâm phạm theo