Mẫu tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng Sản Việt Nam
Tiểu luận: "Quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát triển và vai trò lãnh đạo của Đảng và sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay." giúp bạn ôn tập và đạt kết quả cao.
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Trường: Đại học Bách Khoa Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 27879799
Quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát triển
và vai trò lãnh đạo của Đảng và sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa MácLênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi thành lập
cho đến nay, Đảng luôn thể hiện rõ là một đảng cách mạng chân chính, hội tụ sức
mạnh của dân tộc, của giai cấp, là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của
dân tộc Việt Nam. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ là lãnh tụ chính
trị, đội tiên phong và đại biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc mà còn là lãnh
tụ chính trị, đội tiên phong và đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam. Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Đảng có đủ bản lĩnh, trí tuệ, năng lực lãnh đạo nhân dân Việt Nam không chỉ
giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến giành và giữ chính quyền, giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, mà cả trong xây dựng và phát triển kinh tế, xây dựng
đất nước theo mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng
xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là
một nguyên tắc nhất quán của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính
trị - xã hội mà Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn. Do đó, em đã lựa chọn đề tài
“Quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát triển và vai trò lãnh đạo
của Đảng và sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu và làm rõ hơn
tính tất yếu sự ra đời, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong giai đoạn hiện nay. lOMoAR cPSD| 27879799
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích:
Nghiên cứu một cách chi tiết tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát
triển và vai trò lãnh đạo của Đảng. Tiếp theo, đánh giá thực trạng phương thức
lãnh đạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, đưa ra một số phương
hướng, giải pháp về phương thức lãnh đạo của Đảng để nâng cao chất lượng lãnh đạo. Nhiệm vụ:
· Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát
triển, vai trò lãnh đạo của Đảng.
· Đánh giá phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát triển và vai trò
lãnh đạo của Đảng, và sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh
về tính tất yếu sự ra đời, phát triển và vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn
từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính
sách của Đảng cộng sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên
cứu và thực hiện quá trình nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu: Ngoài các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể, chú trọng phương pháp lịch lOMoAR cPSD| 27879799
sử kết hợp với logic, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê và phương pháp khảo
sát, tổng kết thực tiễn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: Tiểu luận làm sáng tỏ những ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh
về tính tất yếu sự ra đời, phát triển và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Ý nghĩa thực tiễn: Thông qua phương pháp nghiên cứu và nắm rõ quan điểm của
Hồ Chí Minh đánh giá thực trạng phát triển và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận gồm 2 chương:
Chương I: Quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát triển và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Chương II: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát
triển và vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Chương I: Quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát
triển và vai trò lãnh đạo của Đảng
1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lenin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. lOMoAR cPSD| 27879799
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát triển và vai trò
lãnh đạo của Đảng
1.2.1. Tính tất yếu, quy luật hình thành và vai trò của Đảng Cộng sản
Tự bản thân mình, giai cấp công nhân không thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là khách quan, song để biến khả năng
khách quan thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong
những nhân tố ấy, việc thành lập Đảng Cộng sản với lý luận tiên phong, trung
thành với sự nghiệp, lợi ích giai cấp là nhân tố quyết định đảm bảo cho việc thực
hiện sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
1.2.1.1. Khái niệm Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp công nhân. Nó là đội tiên phong, bộ
tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành
cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng
Cộng sản bao gồm những bộ phận tiên tiến của giai cấp công nhân và các tầng
lớp nhân dân lao động. Đảng Cộng sản lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản của mình.
Như vậy, Đảng Cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân, không tách rời với
giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
1.2.1.2. Tính tất yếu sự ra đời Đảng Cộng sản
Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành
chính đảng của giai cấp công nhân. V. I. Lênin chỉ ra rằng, Đảng Cộng sản là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực hiện
bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian. Ở lOMoAR cPSD| 27879799
nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa thì Đảng Cộng sản ra đời là kết quả của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Đảng Cộng sản ra đời đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của phong trào công nhân
từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu tranh vì lợi ích kinh tế trong giới hạn của chủ
nghĩa tư bản cho phép chuyển sang cuộc đấu tranh chính trị nhằm lật đổ giai cấp
tư sản, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
1.2.1.3. Vai trò của Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định trước tiên trong việc thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân.
Trong lịch sử chưa có giai cấp nào giành được địa vị thống trị, giữ vai trò lãnh
đạo xã hội mà không tạo ra được trong hàng ngũ của mình một đảng chính trị,
lực lượng tiên phong để lãnh đạo toàn bộ cuộc đấu tranh. Trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư sản, chừng nào và chỉ khi nào giai cấp công nhân tự tổ chức ra
chính đảng của mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh thì mới đảm bảo giành được
thắng lợi trọn vẹn, hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. Nếu không có
chính đảng lãnh đạo, giai cấp công nhân chỉ có thể đấu tranh tự phát , đấu tranh
vì mục đích kinh tế, chứ không phải là cuộc đấu tranh tự giác, đấu tranh vì mục
đích chính trị. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đảm
bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng Đảng có trình
độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Để làm tròn vai trò đó, Đảng
Cộng sản phải là một đảng kiểu mới, một đảng mácxít – lêninnít.
1.2.2. Tính tất yếu sự ra đời và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt lOMoAR cPSD| 27879799 Nam
1.2.2.1. Tính tất yếu sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03 – 02 – 1930. Do hoàn cảnh của Việt
Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước ở nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem yếu tố tự giác
vào phong trào công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một bước
nhảy vọt về chất, lên một tầm cao mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc
tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, lấy sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm mục đích tối cao của mình.
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo,
tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối
chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng và lãnh đạo nhân dân Việt Nam
hoàn thành từng mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, hoàn thành cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề xướng và
lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước nhằm tạo ra bước ngoặt lịch sử, đưa đất
nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, xây dựng nước ta theo
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Để đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi, để đảm đương được vai trò lãnh đạo,
Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng và nâng cao lOMoAR cPSD| 27879799
năng lực lãnh đạo là yêu cầu quan trọng hàng đầu, đảm bảo cho Đảng luôn luôn
ngang tầm nhiệm vụ cách mạng. “Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí
tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng,
đảm bảo đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt Đảng. Thường xuyên tự phê
bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi
hành vi chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao. Đảng quan tâm bồi dưỡng,
đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân”.
1.2.2.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 chế định rõ: -
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
làđội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy
chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. -
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát
củanhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. -
Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp vàpháp luật.
Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng xuyên
suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng, mà còn
là một nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế
chính trị - xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn.
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là vấn đề chiến lược có
tính nguyên tắc, bởi vậy, cần kế thừa và phát triển những bài học kinh nghiệm
trong lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt lOMoAR cPSD| 27879799
Nam xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng tiếp tục tích cực tổng kết
thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về
vai trò lãnh đạo của Đảng; không ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu
lực, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói chung và các lực
lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nói riêng trong thời kỳ mới.
Chương II: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra
đời, phát triển và vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay
2.1. Đặc điểm tình hình
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan nhà nước ngày
càng hoàn thiện. Vai trò, chức năng của hệ thống các cơ quan nhà nước ngày càng
được hoàn thiện, vai trò lãnh đạo của Đảng không ngừng được nâng lên, hiệu lực,
hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước được tăng cường; giảm bớt tình trạng
bao biện, làm thay, “lấn sân” giữa Đảng và Nhà nước. Cơ quan nhà nước ngày
càng thực quyền hơn, hiệu quả lãnh đạo của Đảng được nâng lên rõ rệt, phát huy
được vai trò, chức năng quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Có được như vậy trước
hết là văn kiện các kỳ đại hội Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận
của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã xác lập
được các quan điểm đúng đắn làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của cơ quan nhà nước ở các cấp.
Về phương thức, Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước thông qua đề ra những
định hướng, nguyên tắc, quan điểm, chủ trương, giải pháp lớn, từ đó các cơ quan
của nhà nước thảo luận, quyết định, cụ thể hoá sự lãnh đạo của Đảng theo chức
năng, thẩm quyền của từng cơ quan, đơn vị đã được quy định, Đảng giáo dục, rèn
luyện, lựa chọn và giới thiệu được cán bộ, đảng viên có trình độ, năng lực và
phẩm chất tốt, có uy tín đối với đảng viên và nhân dân để các cơ quan, tổ chức
xem xét, bầu cử, bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong tổ chức bộ máy Nhà nước. lOMoAR cPSD| 27879799
Về mặt tổ chức, Đảng đã nhất quán thực hiện có kết quả chủ trương ở đâu có tổ
chức, đoàn thể thì ở đó có tổ chức đảng và ở đâu có quần chúng thì ở đó cần có
đảng viên để lãnh đạo nhằm bảo đảm các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng
được triển khai đi vào cuộc sống. Theo đó, hệ thống tổ chức của Đảng đã được
thành lập tương ứng với cơ cấu tổ chức của các cơ quan nhà nước từ Trung ương
tới cơ sở. Trong một số cơ quan, đơn vị, mô hình tổ chức đảng dưới dạng ban cán
sự đảng, đảng đoàn, hoặc cấp uỷ, một số tổ chức đảng thành lập và hoạt động
theo khối. Bên cạnh việc thành lập cơ quan, tổ chức là việc ban hành được các
quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức đảng để
bảo đảm thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của Đảng trong từng cơ quan, tổ chức và
địa phương. Có nhiều tổ chức đảng trong các loại hình cơ quan, đơn vị đã phát
huy vai trò lãnh đạo và là hạt nhân chính trị ở cơ sở; có nhiều mô hình mới và
điển hình tiên tiến, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên
môn, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm an ninh, quốc phòng, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên và lãnh đạo, quản lý các cấp trưởng thành về mọi mặt,
đại đa số có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với đường lối phát triển đất nước do Đảng lãnh
đạo, có ý thức phục vụ nhân dân, gương mẫu thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ
được giao, tích cực tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong thực
hiện nhiệm vụ đã nêu cao ý thức tiền phong, gương mẫu, tinh thần trách nhiệm.
Nhờ đó, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội được giữ vững, từng bước
được tăng cường, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố. 2.2. Thực trạng
2.2.1. Thành tựu đạt được
Trên cơ sở vận dụng các nguyên lý về đảng chính trị và lý luận xây dựng Đảng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn, kinh nghiệm thế lOMoAR cPSD| 27879799
giới và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định
được các phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền đúng đắn, phù hợp. Đó
là hệ thống các phương pháp, cách thức mà Đảng xác lập để tác động, định hướng,
chế định, điều khiển, kiểm soát việc tổ chức và hoạt động của các thành viên trong
hệ thống chính trị, đặc biệt là bộ máy nhà nước để cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ
chức thực hiện mục tiêu, lý tưởng, các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng qua mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ. Qua thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng, nhất là trong công cuộc đổi mới, nội dung và phương thức lãnh đạo,
phương thức cầm quyền của Đảng ngày càng được xác định rõ và hoàn thiện hơn.
Nhờ đó, các cơ sở, thể chế cầm quyền, điều kiện bảo đảm cho sự cầm quyền và
năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ngày càng được củng cố, với những
thành tựu nổi bật sau đây:
Thứ nhất, Đảng trở thành lực lượng chính trị duy nhất có quyền xác lập, đưa ra
Cương lĩnh, chủ trương, đường lối lãnh đạo Nhà nước, các thành viên trong hệ
thống chính trị và các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Bằng đường lối
lãnh đạo, cầm quyền đúng đắn, Đảng đã đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với
Nhà nước và xã hội được khẳng định trong các bản Hiến pháp của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vai trò này không chỉ được xác lập ở cấp Trung
ương mà còn được xác lập và tổ chức thực hiện, được chấp hành ở các cấp hành
chính lãnh thổ địa phương, ở các cơ quan, đơn vị trong toàn bộ hệ thống chính
trị. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đã sớm được
khẳng định và thực thi bằng các quy định chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, Hiến pháp
và các quy định của pháp luật, cũng như các quy chế, quy định của các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị, các hội quần chúng.
Thứ hai, Đảng xây dựng và thiết lập được hệ thống tổ chức của Đảng chặt chẽ và
tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính 4 cấp của Nhà nước, được lập ở tất
cả các đơn vị hành chính lãnh thổ từ cơ sở trở lên, ở các cơ quan của các tổ chức lOMoAR cPSD| 27879799
trong hệ thống chính trị. Hiện nay, hệ thống tổ chức của Đảng gồm 67 đảng bộ
trực thuộc Trung ương, trên 1.285 đảng bộ cấp huyện, 54.349 tổ chức cơ sở đảng.
Toàn Đảng có trên 5,1 triệu đảng viên hoạt động trong tất cả các tổ chức, bộ máy
của Đảng, Nhà nước, các thành viên khác của hệ thống chính trị; các tập đoàn
kinh tế, tổng công ty nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập; các lĩnh vực trọng
yếu của đời sống xã hội. Các cấp đảng bộ, với hạt nhân là các cấp ủy, là cơ quan
lãnh đạo của Đảng ở mỗi cấp giữa hai kỳ đại hội, do đại hội đảng bộ cùng cấp
bầu ra. Các tổ chức cơ sở đảng là những hạt nhân chính trị, thực hiện sự lãnh đạo
để bảo đảm mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng chủ trương, đường lối, nghị quyết
của Đảng, tiến hành công tác xây dựng Đảng, đồng thời là “cầu nối” giữa Đảng
với nhân dân. Đội ngũ đảng viên của Đảng có vai trò, trách nhiệm tiên phong,
gương mẫu đi đầu trong tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng thực hiện
các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tư tưởng đối với hệ thống chính trị và
toàn xã hội, từ việc xác lập, xây dựng đến truyền bá, phổ biến, giáo dục, bổ sung,
phát triển nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Đồng thời, Đảng thường xuyên lãnh đạo xây dựng tổ chức,
bộ máy, cán bộ và hoạt động của hệ thống thiết chế công tác tư tưởng, lý luận của
Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, đó là các hội đồng lý luận ở Trung ương,
các cơ quan tuyên giáo, cơ quan thông tấn, báo chí, xuất bản, đội ngũ báo cáo
viên, phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên và đội ngũ giáo viên, giảng viên
lý luận chính trị ở các cơ sở đào tạo, các học viện, nhà trường để phục vụ cho sự
lãnh đạo của Đảng trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, với từng đối tượng.
Thứ tư, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ của cả hệ thống chính trị, các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước,
các đơn vị sự nghiệp công lập. Vai trò lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ của Đảng
đã được quy định chặt chẽ trong Điều lệ, nghị quyết, quy chế, quy định của Đảng;
quy chế hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; trong điều lệ, quy chế, quy lOMoAR cPSD| 27879799
định về tổ chức, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp,
tập đoàn kinh tế nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập. Đây là cơ sở chính
trị, pháp lý hết sức quan trọng, giúp Đảng xây dựng và kiểm soát được toàn bộ
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, đặc biệt là bộ máy nhà nước
cũng như các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Tuyệt đại đa số các vị trí
quan trọng trong cơ quan, bộ máy nhà nước và các tổ chức khác của hệ thống
chính trị, ở các lĩnh vực trọng yếu đều do cán bộ là đảng viên đảm nhiệm. Đội
ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có trách nhiệm tổ
chức thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng trong phạm vi địa
phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức, lĩnh vực và thẩm quyền, trách nhiệm được Đảng giao phó.
Thứ năm, Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt đối với lực
lượng vũ trang nhân dân. Đây vừa là quyền, là nguyên tắc cơ bản, tất yếu; vừa là
điều kiện tiên quyết bảo đảm cho vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng
được xác lập và củng cố; là nhân tố bảo đảm sự ổn định chế độ chính trị, an ninh,
trật tự, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bảo toàn lợi ích quốc
gia. Vai trò lãnh đạo này của Đảng ngày càng được tăng cường và củng cố bởi
các quy định của Điều lệ Đảng, của Hiến pháp, pháp luật và các thiết chế, cơ chế,
quy chế, quy định, điều lệnh, kỷ luật trong Quân đội và Công an. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, lực lượng Quân đội và Công an ngày càng được xây dựng chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Thứ sáu, Đảng thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật đảng. Chấp hành kỷ luật đảng cũng đồng thời đòi hỏi phải chấp hành pháp
luật của Nhà nước và ngược lại. Với bộ máy kiểm tra, giám sát của Đảng từ Trung
ương đến cơ sở; với hệ thống các quy chế, quy định điều chỉnh, kiểm soát hoạt
động của mọi tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên; cùng với việc phát huy vai trò
của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước, những biểu hiện lệch lạc, vi
phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều có thể bị phát hiện và xử
lý nghiêm minh. Kết quả kiểm tra, giám sát trong Đảng, nhất là nhiệm kỳ Đại hội lOMoAR cPSD| 27879799
XII của Đảng vừa qua, là minh chứng nổi bật cho cách thức thực hiện này. Bằng
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật mà Đảng giữ vững được kỷ luật, kỷ cương,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, năng lực cầm quyền, thể hiện ý chí
và quyết tâm chính trị của Đảng, thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Với các phương pháp, cách thức cầm quyền dân chủ, khoa học và phù hợp với
yêu cầu, nhiệm vụ từng thời kỳ của Đảng, nên sự nghiệp cách mạng Việt Nam
nói chung, sự nghiệp đổi mới đất nước nói riêng đã đạt được những thắng lợi và
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là thắng lợi của hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống nhất
đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là những thành tựu to lớn của
công cuộc đổi mới, đưa nước Việt Nam từ một nước nông nghiệp nghèo, thiếu
lương thực, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp kém so với các nước trong khu
vực trở thành một nước đang phát triển, một cường quốc xuất khẩu gạo và thủy
sản; nền kinh tế luôn duy trì mức tăng trưởng cao, bình quân GDP 10 năm trở lại
đây đạt trung bình 6%/năm. Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành
công nhất thế giới; dự trữ ngoại hối tăng nhanh qua các năm, đạt mức kỷ lục gần
100 tỷ USD năm 2020; hệ thống chính trị ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ
vững; dân chủ trong Đảng và trong xã hội được phát huy. Những thành tựu tổng
hợp nói trên đã đưa đến những kết quả thuyết phục trên mọi lĩnh vực, như đời
sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng lên, thu nhập bình
quân đầu người năm 2020 đạt 2.779 USD; quy mô nền kinh tế đạt 343,6 tỷ USD;
tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu năm
2020 đạt 543,9 tỷ USD, tăng 3,6 lần so với năm 2010; hạ tầng kinh tế - xã hội có
bước phát triển nhảy vọt, với mức đầu tư 9% - 10% GDP hằng năm; quan hệ đối
ngoại ngày càng rộng mở, với trên 190 nước, trong đó có quan hệ đối tác chiến
lược và đối tác toàn diện với tất cả các nước lớn; có quan hệ kinh tế thương mại
với trên 220 nước và vùng lãnh thổ, tạo điều kiện cho thế và lực của Việt Nam
trên trường quốc tế ngày càng tăng. Những thành tựu đó đã được lOMoAR cPSD| 27879799
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định tại Đại hội XIII của
Đảng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Cùng với những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, thước đo khẳng
định vững chắc năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, Đảng đã xây dựng
được thể chế chính trị ổn định với cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”. Hệ thống chính trị, với nòng cốt, trụ cột là bộ máy
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
đang được xây dựng và củng cố, có đủ khả năng quản lý và điều hành mọi hoạt
động của đời sống xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính
trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các
dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
Các tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân; đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền,
vận động nhân dân tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Thể chế
đó ngày càng khẳng định sự phù hợp và tính ưu việt của chế độ chính trị ở nước
ta, cả trong thời kỳ kháng chiến cũng như trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện
nay; được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân tin tưởng, ủng hộ.
2.2.2. Hạn chế trong phương thức lãnh đạo của Đảng
Bên cạnh những thành công và những thắng lợi, thành tựu là cơ bản, phương thức
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng còn một số hạn chế, bất cập, cần được nhận diện
một cách nghiêm túc, khoa học. lOMoAR cPSD| 27879799
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong nhận thức lý luận về đảng cầm quyền, nội dung,
phương thức cầm quyền của Đảng.
Mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hơn 91 năm,
trong đó có hơn 75 năm cầm quyền; tuy nhiên, khái niệm về đảng cầm quyền, nội
dung, phương thức cầm quyền của Đảng dường như vẫn là vấn đề còn mới mẻ,
thậm chí trong một thời gian dài, vấn đề này không được đặt ra nghiên cứu một
cách bài bản, đúng mức. Đến Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm
quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn
đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ
cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục
chỉ rõ “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới”.
Hiện nay, trong Đảng vẫn có những ý kiến khác nhau về chức năng lãnh đạo và
cầm quyền của Đảng. Có ý kiến cho rằng, lãnh đạo là nói đến chức năng, nhiệm
vụ xuyên suốt của Đảng. Đảng lãnh đạo cả trong thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền và cả sau khi giành được chính quyền. Theo đó, nội hàm khái niệm “Đảng
lãnh đạo” rộng hơn nội hàm khái niệm “Đảng cầm quyền”. Có ý kiến khác lại cho
rằng, khái niệm “Đảng lãnh đạo” không gắn với quyền lực chính trị, đó chỉ là sự
tác động, định hướng, tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tạo ảnh hưởng của
Đảng đối với hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân. Có ý kiến đi sâu hơn về
học thuật thì cho rằng, nói “Đảng cầm quyền” là đề cập đến quyền lực chính trị
của Đảng sau khi giành được chính quyền, nghĩa là vai trò lãnh đạo, kỹ năng lãnh
đạo của Đảng đối với chính quyền nhà nước. Vì vậy, sau khi giành được chính
quyền, cần nhấn mạnh một cách cụ thể vai trò, trách nhiệm và các cách thức để
Đảng kiểm soát, điều hành bộ máy chính quyền nhà nước. Nếu chỉ nhấn mạnh
vai trò lãnh đạo chung, thì chưa thể hiện hết vai trò, trách nhiệm cầm quyền của Đảng. lOMoAR cPSD| 27879799
Thứ hai, hạn chế, bất cập trong xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng. Mục
đích tối thượng, cao nhất của Đảng Cộng sản chân chính cầm quyền là vì hạnh
phúc, lợi ích của nhân dân. Đảng ta đã xác định, ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng
không có lợi ích nào khác. Theo đó, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, từ nhu
cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Một trong những cách lãnh đạo mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý cán bộ, đảng viên cần luôn tâm niệm là: “Sự lãnh
đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở
lại nơi quần chúng”. Tuy nhiên, trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn có những bất cập so với yêu
cầu này. Một số chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy do các cơ quan tham mưu
đề xuất chưa thực sự được nghiên cứu, tổng kết thực tiễn kỹ lưỡng; chưa đánh
giá, dự báo những tác động, ảnh hưởng một cách đầy đủ, khoa học. Hiện nay,
chưa có quy định cụ thể về việc lấy ý kiến của nhân dân tham gia đóng góp xây
dựng các chủ trương, nghị quyết. Tương tự như vậy, một số chính sách công mới
chỉ được ban hành dựa trên những nhận thức và mong muốn chủ quan của các cơ
quan quản lý nhà nước, sự tham gia đề xuất và góp ý của người dân và doanh
nghiệp với tư cách là đối tượng thụ hưởng, chịu sự tác động của chính sách còn
rất hạn chế; vì vậy, khó tránh khỏi tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, “lợi ích
nhóm”, cục bộ. Trình độ, năng lực của một số cán bộ, công chức trực tiếp tham
gia xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật còn hạn chế. Bên cạnh đó, do tầm
nhìn và ý chí chủ quan, nên có chính sách đưa vào thực thi đã nảy sinh nhiều bất
cập hoặc hiệu lực, hiệu quả thực thi không cao. Một số dự thảo luật đưa ra Quốc
hội thảo luận chưa tạo được sự đồng tình, thống nhất cao.
Thứ ba, hạn chế, bất cập trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Lịch sử lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho thấy tầm
quan trọng và sức mạnh to lớn của công tác tư tưởng của Đảng, trong cách mạng
giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy
nhiên, trước bối cảnh, tình hình mới có nhiều biến đổi mau lẹ, khó lường, sự phát lOMoAR cPSD| 27879799
triển của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, xu thế mở cửa và
hội nhập quốc tế, trình độ dân trí và dân chủ ngày càng được nâng cao, đòi hỏi
công tác tư tưởng, lý luận của Đảng cần phải được đổi mới mạnh mẽ. Các văn
kiện của Đảng những năm gần đây đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém,
bất cập của công tác tư tưởng, lý luận nói chung, việc nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn nói riêng. Văn kiện Đại hội IX của Đảng nhận định: “Công tác lý
luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa
làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới để phục vụ việc
hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí
về chính trị, tư tưởng trong xã hội”. Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Công
tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi
mới”. Văn kiện Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Tiếp đến, Văn
kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình
đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”. Văn kiện Đại hội
XII của Đảng còn nhấn mạnh: “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như
thiếu sắc bén, chưa thuyết phục... Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục
nhấn mạnh những hạn chế, bất cập này.
Thứ tư, hạn chế, bất cập về cán bộ và công tác cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ thống
chính trị được xác định là một phương thức lãnh đạo đặc biệt quan trọng; đồng
thời, cũng là cách thức cầm quyền tất yếu của Đảng. Đội ngũ cán bộ, nhất là
những cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, các ngành vừa thực hiện chức
trách, nhiệm vụ theo chức danh, chức vụ, vị trí việc làm được pháp luật quy định; lOMoAR cPSD| 27879799
nhưng với tư cách là cán bộ, đảng viên của Đảng, vừa có trách nhiệm quán triệt,
tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Tuy nhiên, như Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đã nhận định:
“nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa
thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn
chế… Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, những nhà khoa học và chuyên
gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều,
có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu
tính chuyên nghiệp;... trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc
trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh,
ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí,
làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản
lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực,
phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng
vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”. Không ít cán bộ quản lý
doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ
hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn,
tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý
theo pháp luật. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch,
chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội,...
trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.
Nghị quyết số 26-NQ/TW còn nhấn mạnh: Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát
triển của đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ
cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân lOMoAR cPSD| 27879799
chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và
mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Cùng với những bất cập như trên trong công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, công
tác đảng viên và đội ngũ đảng viên của Đảng cũng có những hạn chế, bất cập, tạo
nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Đó là, vấn đề suy thoái về tư
tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng; động cơ
vào Đảng không đúng đắn, ý thức chấp hành kỷ luật đảng không nghiêm; việc
nêu gương, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên trước quần chúng còn hạn
chế. Còn có những biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, tư tưởng cơ hội, thực dụng trong
các tổ chức đảng cần được nhanh chóng nhận diện rõ và có giải pháp khắc phục kịp thời.
Thứ năm, hạn chế, bất cập trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng.
Trong những năm gần đây, Đảng ta đã rất coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật đảng. Công tác này đã đạt được những kết quả rất quan trọng, từ
việc xây dựng, ban hành các quy chế, quy định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, được đảng viên và nhân dân đồng tình, đánh
giá cao. Mặc dù vậy, Đại hội XIII của Đảng nhận định, công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật đảng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu trong tình hình mới; chất lượng,
hiệu quả chưa đồng đều ở các cấp. Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng
tâm, trọng điểm; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy,
tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham
mưu, giúp việc của cấp ủy chưa đi vào nền nếp. Công tác giám sát ở các cấp chưa
thường xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp; hiệu
quả phát hiện, cảnh báo, phòng ngừa vi phạm còn hạn chế. Việc thi hành kỷ luật
đảng ở một số nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, né tránh, ngại va chạm.
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm. lOMoAR cPSD| 27879799
Có thể khẳng định, những hạn chế, bất cập trong phương thức lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng nêu trên, ở các mức độ khác nhau đã ảnh hưởng không nhỏ đến
năng lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế - xã hội, đến uy tín của Đảng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bởi
vậy, cùng với việc nhận diện những hạn chế, bất cập, việc nghiên cứu, tìm kiếm,
đề xuất những giải pháp để khắc phục, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng trong điều kiện hiện nay là vấn đề rất quan trọng và cấp bách, đòi hỏi
phải phát huy nhiều hơn nữa vai trò, trách nhiệm, trí tuệ của các cấp ủy, tổ chức
đảng, của tất cả cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng.
2.2.3. Thách thức đặt ra đối với việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta là một Đảng Cộng sản cầm quyền, một mặt
phải chống lại các thế lực thù địch đang âm mưu “diễn biến hòa bình”, sử dụng
chiêu bài dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo, sử dụng chiêu bài đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập, hòng từng bước làm thay đổi chế độ chính trị nhằm
từng bước hạn chế, đi đến xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với hệ thống chính trị và Nhà nước ta.
Quá trình mở cửa nền kinh tế và hội nhập quốc tế kéo theo sự tác động lớn về mọi
mặt. Đội ngũ cán bộ, đảng viên dễ bị ảnh hưởng bởi cơ chế thị trường, nguy cơ
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, dẫn tới “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch,
phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Mặt khác, Đảng phải lãnh đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Những
nhân tố trên có thể nói vừa là thuận lợi, thời cơ nhưng cũng là thách thức, nguy
cơ rất lớn với vai trò lãnh đạo của Đảng, nếu những hạn chế, yếu kém, khuyết
điểm trên của tổ chức đảng và đảng viên, nhất là trong các cơ quan nhà nước tiếp
tục kéo dài, thậm chí qua nhiều nhiệm kỳ và chậm được khắc phục sẽ là nguy cơ lOMoAR cPSD| 27879799
đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. 2.3. Giải pháp
Thứ nhất, đổi mới việc ra nghị quyết, xác định đúng và trúng nhiệm vụ, giải pháp
trọng tâm, đột phá trong từng thời kỳ.
Lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, nghị quyết, chỉ thị vẫn là phương thức lãnh
đạo cơ bản của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị, cho đến nay chưa
có phương thức nào có thể thay thế. Các đảng tham chính, đảng cầm quyền trên
thế giới từ trước tới nay cũng đều đưa ra chương trình hành động bằng những chủ
trương, cương lĩnh, hoặc văn bản có tính cương lĩnh, chương trình, kế hoạch hành
động cụ thể nhằm tuyên truyền, cổ động trong Đảng và ngoài xã hội để được cụ
thể hóa bằng các phong trào hành động. Năng lực lãnh đạo và cầm quyền của
Đảng thể hiện trước hết cũng ở cách thức lãnh đạo cơ bản này. Tuy nhiên, yêu
cầu mới đối với phương thức lãnh đạo này là ở chất lượng, tầm nhìn, tính khoa
học và tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi của các chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Để nghị quyết có chất lượng, vừa là cơ sở chính trị, vừa là đề án khoa học, là
“cẩm nang” để Đảng lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan nhà nước, các cấp ủy, tổ chức
đảng cần xây dựng nghị quyết theo quy trình khoa học. Nếu bị chi phối bởi tư
duy nhiệm kỳ, tư tưởng chủ quan, duy ý chí, độc đoán, chuyên quyền... sẽ khó có
thể đề ra được những chủ trương, nghị quyết đúng đắn, sát thực tiễn và có tầm
nhìn chiến lược. Việc xây dựng chủ trương, nghị quyết đòi hỏi phải phát huy dân
chủ, trí tuệ, sáng kiến của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, các
chuyên gia, các nhà khoa học, các cơ quan tham mưu, mà rộng ra là của toàn
Đảng, hệ thống chính trị và toàn dân. Đó là quá trình nghiên cứu, tìm tòi dựa trên
cơ sở lý luận, tổng kết thực tiễn, kinh nghiệm, nắm bắt nhu cầu, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Đổi mới cách ra nghị quyết còn đòi hỏi nghị quyết của lOMoAR cPSD| 27879799
các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích, từ tên, tiêu đề cho đến nội dung
của nghị quyết phải dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu và dễ vận dụng.
Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ công tác tư tưởng, tuyên truyền, phổ biến, quán triệt
việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng trong cơ quan nhà nước các cấp
Chủ trương, nghị quyết của Đảng dù có đúng đắn, sát hợp nhưng nếu các cơ quan
lãnh đạo, các cấp ủy, tổ chức đảng không nắm vững, hiểu sâu, không thấm nhuần,
không có ý thức trách nhiệm cao, không có niềm tin, động lực trong quán triệt và
tổ chức thực hiện thì nghị quyết cũng chỉ nằm trên giấy mà thôi. Nhận thức là cơ
sở của hành động, chỉ có nhận thức đúng, đầy đủ, có ý chí quyết tâm cao thì nghị
quyết mới nhanh chóng đi vào cuộc sống, trở thành thực tiễn sinh động và đem
lại hiệu quả thiết thực trong đời sống xã hội. Tổ chức thực hiện nghị quyết của
Đảng là chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm chính trị trước hết của cấp ủy trong
các cơ quan nhà nước, đồng thời cũng là nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức làm việc trong các cơ
quan, tổ chức của Nhà nước cần ý thức sâu sắc rằng, nắm vững, thấm nhuần, đưa
nghị quyết của Đảng vào cuộc sống là trách nhiệm chính trị, là mệnh lệnh công
tác, là tiêu chí đánh giá năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết của các cấp ủy, tổ
chức đảng và của mỗi cá nhân nói trên.
Thứ ba, nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa và quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo
tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng
Sự cụ thể hóa, thể chế hóa nội dung quan điểm, nghị quyết của Đảng ở các cơ
quan nhà nước các cấp gắn liền với năng lực, thẩm quyền, trách nhiệm của các
cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan này. Năng lực lãnh đạo cụ thể hóa, thể chế
hóa các quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng phải thể hiện ở các “sản
phẩm” hoạt động của cơ quan nhà nước. Đó là các chương trình, kế hoạch, đề án,
dự án cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội, phát triển các lĩnh vực của đời sống xã
hội, về xây dựng, phát triển các vùng, miền, hoặc các dự án xây dựng và hoàn lOMoAR cPSD| 27879799
thiện thể chế, văn bản quy phạm pháp luật. Thực tiễn yêu cầu, những chương
trình, kế hoạch, đề án và dự án hoặc các văn bản luật đó phải là kết quả của quá
trình hoạt động, làm việc khoa học, trách nhiệm cao của các cơ quan, các nhà
khoa học, các chuyên gia, các cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức hoạt động trong bộ máy nhà nước.
Yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
cũng chính là yêu cầu đẩy mạnh, tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với việc tổ chức thực
hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng trong các cơ quan nhà nước các cấp. Kinh
nghiệm rút ra từ thực tiễn tổ chức thực hiện nghị quyết là: Nhận thức phải rõ;
trách nhiệm phải cao; tư tưởng phải thông; quyết tâm phải lớn; kế hoạch phải cụ
thể; hành động phải quyết liệt.
Thứ tư, đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức thực hiện hợp nhất các cơ quan của
Đảng và cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ tương đồng
Nhiệm vụ này cần tiếp tục đổi mới trên cả hai phương diện, đối với hai chủ thể là
Đảng và Nhà nước. Một mặt, thông qua việc quyết định mô hình, cơ cấu, hình
thức tổ chức của các cơ quan nhà nước một cách tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả với hệ thống các văn bản thể chế hoàn thiện, Đảng lãnh đạo cụ thể hóa,
thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của mình; mặt khác, bản thân tổ chức bộ
máy của các cơ quan đảng cũng phải được thiết kế, tổ chức một cách tinh gọn
nhất, tránh chồng chéo, hoặc song trùng quyền lực giữa cơ quan của Đảng và Nhà
nước. Do đó, để đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, trước hết bộ máy, tổ chức của các cơ quan đảng cần phải được đổi mới, sắp
xếp theo hướng thật tinh gọn, các cơ quan, tổ chức của Đảng phải thực sự là hạt
nhân trí tuệ, là bộ “tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả, bảo đảm tính kịp thời, sâu sát, triệt để trong sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, cần tiếp tục nghiên cứu, đẩy mạnh việc hợp lOMoAR cPSD| 27879799
nhất một số cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng với các cơ quan nhà nước có
chức năng, nhiệm vụ tương đồng; đồng thời, nhất thể hóa một số chức danh người
đứng đầu cơ quan, tổ chức của Đảng với chức danh người đứng đầu cơ quan nhà nước cùng cấp.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ quan của Đảng, Nhà nước, nhất
là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp
Đội ngũ cán bộ trong cơ quan đảng và bộ máy nhà nước, nhất là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt, cán bộ cấp chiến lược phải có bản lĩnh, có tâm
huyết, có tư duy, tầm nhìn và khát vọng cống hiến, dám nghĩ, dám nói, dám làm,
dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn thử thách, đổi mới sáng tạo,
quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng
đã chỉ rõ: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên, nhất là tổ chức, đảng viên hoạt
động trong các cơ quan nhà nước vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường
lối, các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Theo đó, cấp
ủy, tổ chức đảng trong cơ quan đảng và cơ quan nhà nước cần tiếp tục lãnh đạo,
chỉ đạo hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức, cơ quan, đơn
vị. Đổi mới mạnh mẽ phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc
của cán bộ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước từ Trung ương tới cơ sở.
Thứ sáu, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy định cụ thể hóa, thể
chế hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của
Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những
quy chế, quy định, quy trình cụ thể và công khai để cán bộ, đảng viên và nhân lOMoAR cPSD| 27879799
dân biết, giám sát việc thực hiện”. Theo đó, Đảng cần tiếp tục xây dựng hệ thống
các quy chế, quy định về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng, cấp ủy đảng
trong các cơ quan nhà nước; về thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác,
lề lối làm việc giữa cơ quan, tổ chức đảng với cơ quan, tổ chức nhà nước; quy
định về thẩm quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức trong các cơ quan, tổ chức đảng và cơ quan, tổ chức nhà nước, nhất là người
đứng đầu, những cán bộ chủ chốt. Nếu không có quy chế, quy định cụ thể sẽ dẫn
đến chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc buông lỏng vai trò, trách nhiệm
lãnh đạo của Đảng hoặc vai trò, trách nhiệm quản lý của Nhà nước; cán bộ lãnh
đạo của Đảng và cán bộ quản lý, điều hành của Nhà nước khó thực hiện yêu cầu
“đúng vai, thuộc bài”.
Thứ bảy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã
hội, lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng Nhà nước
Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực
hiện vai trò, nhiệm vụ tổng hợp: Vừa tham gia xây dựng bộ máy nhà nước bằng
việc tham gia hiệp thương bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các
cấp, tiếp xúc, đối thoại, tập hợp các ý kiến góp ý của cử tri, vừa tham gia tổ chức
góp ý xây dựng các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, các chủ trương, chính
sách, chương trình, kế hoạch, đề án, dự án, chiến lược phát triển kinh tế xã hội...
do các cơ quan nhà nước dự thảo, cũng như góp ý xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức và giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật, quy chế,
quy định của các tổ chức, cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội càng thực hiện tốt vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của mình trong mối quan hệ với cơ quan nhà nước thì sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước càng có hiệu lực, hiệu quả. lOMoAR cPSD| 27879799
Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đổi
mới công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, phát huy dân chủ, trí tuệ, tiềm
năng và sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, xây dựng và phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo
sự thống nhất trong Đảng, Nhà nước, các tổ chức khác của hệ thống chính trị và
sự đồng thuận trong nhân dân để thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là một tiêu chí quan trọng khẳng định
sự lãnh đạo thành công của Đảng đối với Nhà nước cũng như đối với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hiện nay.
Thứ tám, đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, giữ vững kỷ luật, kỷ
cương của Đảng và bảo đảm tính thượng tôn pháp luật
Kiểm tra, giám sát không phải là làm gián đoạn, chậm trễ công việc của Đảng
hoặc cản trở sự vận hành, hoạt động của bộ máy nhà nước, mà Đảng kiểm tra,
giám sát để cho công việc được thực hiện tốt hơn, hoạt động của hệ thống tổ chức
bộ máy của Đảng và Nhà nước đúng chủ trương, đường lối, đúng người, đúng
việc; thẩm quyền, trách nhiệm rõ hơn và việc thực hiện nghị quyết có chất lượng,
hiệu quả hơn; kịp thời phát hiện những nhân tố mới, cách làm hay, sáng tạo, hiệu
quả, đồng thời uốn nắn, điều chỉnh những biểu hiện lệch lạc, chệch hướng hoặc
ngăn chặn những hành vi sai trái, vi phạm, không đúng chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước hiện nay đòi hỏi phải đổi mới,
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát một cách chặt chẽ, bài bản, khoa học hơn,
kịp thời, thiết thực và hiệu quả. Khắc phục triệt để những biểu hiện kiểm tra, giám
sát qua loa, đại khái, hình thức, hời hợt. Cần quán triệt quan điểm kiểm tra, giám
sát là phương thức lãnh đạo hữu hiệu không thể thiếu của Đảng; cần kết hợp chặt
chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán,
điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan nhà nước; và thực hiện các mục tiêu kép,
đa mục tiêu trong hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng. Tăng cường công tác lOMoAR cPSD| 27879799
kiểm tra, giám sát gắn với coi trọng việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng ở các cấp. KẾT LUẬN
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong thời đại mới; là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử; là kết
quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của các chiến
sĩ cách mạng đứng đầu là Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Giai cấp công nhân
Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là cột mốc lớn
đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm đã được giải quyết. Từ đây,
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng
Mác- Lênin chân chính với đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo là cơ sở lý
luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đầy đủ
yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc phát triển của đất nước.
Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ
thể. Vì vậy, trong lãnh đạo Đảng ta luôn ý thức vận dụng một cách độc lập, sáng
tạo vào thực tiễn Việt Nam. Một trong những bài học được Đảng ta rút ra là phải
luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tế, kết hợp nhuần nhuyễn sự kiên
định về nguyên tắc với sự linh hoạt, sáng tạo về phương pháp, đó là điều kiện
đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Mọi sự giáo điều, chủ quan duy ý chí, lOMoAR cPSD| 27879799
xa rời thực tiễn cũng như xa rời các nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của cách mạng
thì sẽ dẫn đến nguy cơ sai lầm, làm mất sự lãnh đạo của Đảng.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn quan tâm tới việc xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất, đạo đức cách mạng và năng lực
công tác, thật sự là những chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Học tập, nghiên cứu để hiểu biết về quá trình đấu tranh cách mạng và truyền thống
của Đảng không phải chỉ để tự hào về Đảng, mà quan trọng hơn là thanh niên cần
nâng cao hơn nữa niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, để công cuộc đổi mới giành thắng lợi to lớn hơn.
Trên những vị trí công tác, lao động và học tập của mình, thanh niên phải góp
phần tích cực vào công tác xây dựng, bảo vệ Đảng, góp phần làm cho Đảng ngày
càng trong sạch, vững mạnh; ra sức học tập, rèn luyện phấn đấu để trở thành
những đảng viên của Đảng, đem tài năng và sức trẻ cống hiến cho sự nghiệp của
Đảng, làm cho những thành tựu và truyền thống của Đảng ngày càng phát triển và phong phú hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII lOMoAR cPSD| 27879799
6. Những thành tựu và một số hạn chế, bất cập trong phương thức
lãnhđạo, cầm quyền của Đảng - PGS, TS Dương Trung Ý, Phó Giám đốc
Học viện Chính trị quốc Gia Hồ Chí Minh - Tạp chí Cộng sản