1. Cái đẹp:
Bản chất của cái đẹp i chung 3 yêu cầu, bao gồm:
- Tính khách quan
Cái đẹp không phải một khái niệm hoàn toàn chủ quan, phụ thuộc vào cảm nhận của mỗi người.
một hiện tượng khách quan, tính phổ biến trong tự nhiên và hội. dụ, một bông hoa nở
rộ, một bài thơ hay, một bức tranh đẹp đều những hiện tượng mang tính thẩm mỹ, được nhiều
người yêu thích thừa nhận.
-
Tính toàn vẹn
Cái đẹp không phải một yếu tố đơn lẻ, sự tổng hòa của nhiều yếu tố khác nhau, tạo nên một
chỉnh thể hài hòa, cân đối. dụ, một bức tranh đẹp không chỉ cần màu sắc tươi sáng, đường nét
mềm mại còn cần có bố cục hợp lý, thể hiện được ý nghĩa của tác phẩm.
- Tính hiện thực
Cái đẹp không phải sự xa rời thực tế, phải dựa trên sở của thực tế, phản ánh được những
nét đẹp của cuộc sống. dụ, một bài thơ hay không chỉ cần ngôn từ trau chuốt, giàu hình ảnh
còn cần phản ánh được những tâm tư, tinh cảm của con người.
Ngoài 3 yêu cầu trên, cái đẹp còn thể được thể hiện nhiều khía cạnh khác nhau, như:
- Tính chân thiện mỹ
Cái đẹp phải phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, mang lại giá trị tốt đẹp cho con người. dụ,
một hành động cao đẹp, một nhân cách tốt đẹp đều những biểu hiện của cái đẹp.
-
Tính thời đại
Cái đẹp phải phù hợp với trình độ phát triển của hội, phản ánh được những giá trị tinh thần mới
của thời đại. dụ, một tác phẩm nghệ thuật ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp sẽ mang
những vẻ đẹp khác với một tác phẩm nghệ thuật ra đời trong thời kỳ hòa bình, xây dựng chủ nghĩa
hội.
- Tính nhân
Cái đẹp cũng những nét riêng, độc đáo, thể hiện được tính, sở thích của mỗi người. dụ, một
người thể thích màu sắc rực rỡ, một người khác lại thích màu sắc nhẹ nhàng.
VD:
-
Cái đẹp trong thiên nhiên: Cái đẹp của núi non hùng vĩ, sông nước mênh mông, hoa rực
rỡ,...
-
Cái đẹp trong nghệ thuật: Cái đẹp của âm nhạc, hội họa, điêu khắc, thơ ca,...
- Cái đẹp trong đời sống: Cái đẹp của con người, của hành động, của vật chất,...
2. Đặc điểm của cái đẹp trong nghệ thuật
Cái đẹp trong nghệ thuật những đặc điểm bản sau:
- Tính chủ quan, thể: Cái đẹp trong nghệ thuật được tạo ra bởi con người, do đó mang tính
chủ quan, thể của người nghệ sĩ. Mỗi người nghệ một quan niệm, một cách nhìn
nhận riêng về cái đẹp, nên tác phẩm nghệ thuật của họ cũng mang những vẻ đẹp riêng,
không thể trùng lặp.
VD: Bức tranh Hoa hướng dương của Vincent van Gogh
- Tính khái quát, trừu tượng: Cái đẹp trong nghệ thuật không chỉ đơn thuần là sự phản ánh
hiện thực khách quan, mà còn sự khái quát, trừu tượng hóa hiện thực đó. Nghệ không
chỉ tái hiện những vẻ đẹp bề ngoài của sự vật, hiện tượng, còn thể hiện những vẻ đẹp
tinh thần, nội dung tưởng của chúng.
VD: Bức tranh Nàng Mona Lisa của Leonardo da Vinci
-
Tính thẩm mỹ: Cái đẹp trong nghệ thuật phải mang tính thẩm mỹ, tức phải thỏa mãn
những yêu cầu của cái đẹp nói chung, bao gồm tính hài hòa, cân đối, tính hoàn mỹ, tưởng
tính nhân văn.
So với cái đẹp chung như thiên nhiên, cái đẹp trong nghệ thuật những đặc điểm riêng biệt sau:
**Cái đẹp trong nghệ thuật cái đẹp được sáng tạo ra bởi con người, do đó mang tính chủ quan,
thể, còn cái đẹp trong thiên nhiên cái đẹp vốn có, tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn
của con người.
**Cái đẹp trong nghệ thuật tính khái quát, trừu tượng cao, còn cái đẹp trong thiên nhiên mang
tính cụ thể, trực quan hơn.
**Cái đẹp trong nghệ thuật thường mang tính biểu tượng, thể hiện những giá trị tinh thần, còn cái
đẹp trong thiên nhiên mang tính trực diện, thể hiện những vẻ đẹp tự nhiên.
Cái đẹp trong nghệ thuật vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. giúp con
người thăng hoa trong tâm hồn, thêm yêu cuộc sống hướng đến những điều tốt đẹp.
3. Ý nghĩa cái i
Cái hài một trong những phạm trù bản của mỹ học, dùng để chỉ những sự vật, hiện tượng, hành
động, lời nói,... gây ra tiếng cười cho người thưởng thức. Cái hài gắn liền với tiếng cười, nhưng không
phải cái buồn cười nào cũng trở thành cái hài. Cái hài phải mang tính thẩm mỹ, tức phải thỏa mãn
những yêu cầu của cái đẹp nói chung, bao gồm tính hài hòa, cân đối, tính hoàn mỹ, tưởng tính
nhân văn.
Cái hài những tính chất bản sau:
-
Tính chủ quan, thể: Cái hài sự cảm nhận của con người, do đó mang tính chủ quan,
thể của mỗi người. Mỗi người một quan niệm, một cách nhìn nhận riêng về cái hài, nên
những gây cười cho người này chưa chắc đã gây cười cho người khác.
-
Tính hội: Cái hài không chỉ đơn thuần sự phản ánh những hiện tượng buồn cười trong
đời sống, còn sự phê phán, đ kích những hiện tượng tiêu cực trong hội. Cái hài
vai trò quan trọng trong việc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, góp phần xây dựng hội tốt
đẹp hơn.
-
Tính đa dạng: Cái hài nhiều loại, nhiều cấp độ khác nhau, tùy thuộc vào cách nhìn nhận,
cảm nhận của mỗi người. thể phân chia cái hài thành hai cấp độ chính:
+ Cái hài đơn giản: cái hài chỉ gây ra tiếng cười đơn thuần, không ý nghĩa hội sâu sắc.
dụ: những trò đùa, trò chơi, những câu nói đùa,...
+ Cái hài sâu sắc: cái hài không chỉ gây ra tiếng cười, còn ý nghĩa hội sâu sắc, thể
hiện những quan điểm, tưởng của tác giả. dụ: những tác phẩm văn học, sân khấu, điện
ảnh mang tính hài hước.
-
dụ về cái hài trong nghệ thut
Trong nghệ thuật, cái hài được thể hiện nhiều thể loại, nhiều loại hình khác nhau, như:
Văn học: Truyện cười, thơ trào phúng,...
Sân khấu: Kịch hài, tiểu phẩm hài,...
Âm nhạc: Ca khúc hài, nhạc hài kịch,...
Hội họa: Tranh biếm họa,...
Điêu khắc: Tượng biếm họa,...
-
một số dụ về cái hài trong văn học:
Truyện cười dân gian Việt Nam: "Cây khế", "Lợn cưới, áo mới", "Thạch Sanh",...
Truyện cười hiện đại: "Làng Đại ngày ấy" của Nam Cao, "Chí Phèo" của Nam Cao, "Vợ chồng A
Phủ" của Hoài,...
Cái hài vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. giúp con người giải tỏa căng
thẳng, mệt mỏi, mang lại niềm vui, tiếng cười cho mọi người.
4. Cái hài biểu hiện qua những loại hình nghệ thuật o
Cái hài thể biểu hiện trong nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, bao gồm:
- Truyện tếu lâm: một thể loại văn học dân gian, thường kể v những câu chuyện cười ngắn
gọn, gây cười bằng những tinh huống, hành động, lời nói,... trái với lẽ thường. dụ: truyện
tếu lâm "Cậu bán bánh mì", "Cái thúng bánh chưng", "Chú con thỏ",...
- Thơ trào phúng: thể loại thơ sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu,... để thể hiện thái độ
phê phán, châm biếm, đả kích những hiện tượng, con người xấu xa, tiêu cực trong hội.
dụ: thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Công Trứ,...
- Tranh biếm họa: loại tranh sử dụng hình ảnh, màu sắc,... đ thể hiện những hiện tượng,
con người xấu xa, tiêu cực trong hội một cách châm biếm, đả kích. dụ: tranh biếm họa
của Nguyễn Sáng, Đình Huyến,...
- Kịch hài: loại hình sân khấu sử dụng các tinh huống, hành động, lời thoại,... để gây cười
cho khán giả. Kịch hài thường nội dung phản ánh những hiện tượng, con người xấu xa,
tiêu cực trong hội một cách hài hước, nh nhàng. dụ: kịch hài "Làng Đại ngày ấy" của
Nam Cao, "Chí Phèo" của Nam Cao, "Vợ chồng A Phủ" của Hoài,...
-
Sân khấu hài: loại hình nghệ thuật biểu diễn trực tiếp, sử dụng các tinh huống, hành động,
lời thoại,... để gây cười cho khán giả. Sân khấu hài thường có nội dung phản ánh những hiện
tượng, con người xấu xa, tiêu cực trong hội một cách hài hước, dí dỏm. dụ: chương
trình "Táo quân" của VTV, chương trình "Ơn giời, cậu đây rồi!" của VTV3,...
Cái hài trong các loại hình nghệ thuật này thường được thể hiện thông qua những yếu tố sau:
- Tình huống: Tình huống yếu tố quan trọng nhất để tạo nên tiếng cười trong tác phẩm
nghệ thuật. Tình huống hài hước thường những tinh huống trái với lẽ thường, gây ra
những bất ngờ, ngạc nhiên cho người đọc, người xem.
- Hành động: Hành động của nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật cũng thể gây cười cho
người đọc, người xem. Hành động hài hước thường những hành động trái với lẽ thường,
gây ra những tinh huống trớ trêu, dở khóc dở cười.
-
Lời thoại: Lời thoại của nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật cũng thể gây cười cho người
đọc, người xem. Lời thoại hài hước thường những lời thoại dí dỏm, châm biếm, đả kích
những hiện tượng, con người xấu xa, tiêu cực.
- Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong tác phẩm nghệ thuật cũng thể được sử dụng để tạo nên tiếng
cười. Ngôn ngữ hài hước thường những ngôn ngữ dỏm, châm biếm, gây ra những tiếng
cười vui vẻ, sảng khoái cho người đọc, người xem.
5. Nhận xét thời trang Văn Lang
Theo quan niệm của m học, cái đẹp sự hài hòa, cân đối, hoàn mỹ, tưởng nhân văn. Thời
trang sinh viên Văn Lang cũng mang những đặc điểm này, thể hiện qua các yếu tố như tóc, giày dép,
trang sức, quần áo.
Về tóc, sinh viên Văn Lang thường xu hướng để tóc ngắn, gọn gàng, năng động. Đây kiểu tóc
phù hợp với môi trường học tập, giúp các bạn d dàng tham gia các hoạt động ngoại khóa. Bên cạnh
đó, cũng một số bạn nữ để tóc dài, xoăn nhẹ, mang lại vẻ dịu dàng, nữ tính.
Về giày dép, sinh viên Văn Lang thường chọn những đôi giày thể thao, giày bệt, tiện lợi cho việc đi lại.
Ngoài ra, cũng một số bạn nữ chọn những đôi giày cao gót, giúp tôn dáng tạo vẻ thanh lịch,
sang trọng.
Về trang sức, sinh viên Văn Lang thường đeo những món trang sức đơn giản, tinh tế. Những món
trang sức này giúp các bạn thêm phần xinh xắn, nổi bật nhưng vẫn giữ được vẻ trẻ trung, năng động.
Về quần áo, sinh viên Văn Lang thường chọn những b trang phục thoải mái, phù hợp với hoạt động
học tập, sinh hoạt. Ngoài ra, ng một số bạn n chọn những bộ trang phục điệu đà, nữ tính để
tham gia các buổi tiệc tùng, dạ hội.
Nhìn chung, thời trang sinh viên Văn Lang mang đậm tính hiện đại, trẻ trung, năng động. Các bạn
sinh viên Văn Lang luôn biết cách lựa chọn trang phục phù hợp với sở thích, tính môi trường
học tập, sinh hoạt. Điều này thể hiện sự tự tin, năng động tinh thần cầu tiến của các bạn sinh viên
Văn Lang.
6. sao nhiều loại hình nghệ thuật
nhiều loại hình nghệ thuật do:
-
Sự đa dạng của đời sống: Đời sống một thực thể phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh
vực khác nhau như thiên nhiên, hội, con người,... Nghệ thuật sự phản ánh hiện thực
khách quan, do đó cũng phải phản ánh sự đa dạng của đời sống.
- Sự phong phú của cảm xúc: Con người nhiều loại cảm xúc khác nhau như vui, buồn, giận,
yêu, ghét,... Nghệ thuật sự thể hiện cảm xúc của con người, do đó cũng phải phản ánh
sự phong phú của cảm xúc.
-
Sự khác biệt của mỗi nhân: Mỗi nhân một quan niệm, một cách nhìn nhận riêng về
cái đẹp, do đó họ cũng thể tạo ra những loại hình nghệ thuật khác nhau.
thể phân loại nghệ thuật theo nhiều cách khác nhau, nhưng nhìn chung thể chia thành hai loại
chính là:
- Nghệ thuật ngôn từ: loại hình nghệ thuật sử dụng ngôn từ làm chất liệu, bao gồm thơ ca,
văn xuôi, kịch,...
-
Nghệ thuật phi ngôn từ: loại hình nghệ thuật không sử dụng ngôn từ làm chất liệu, bao
gồm âm nhạc, hội họa, điêu khắc,...
Mỗi loại hình nghệ thuật đều những đặc điểm riêng, nhưng đều chung một mục đích thể
hiện cái đẹp của cuộc sống, mang lại cho con người những giá trị tinh thần cao đẹp.
sao nghệ thuật biểu hiện cao nhất của mối quan hệ thẩm mỹ?
Nghệ thuật một hoạt động sáng tạo của con người, nhằm thể hiện cái đẹp của cuộc sống. Cái đẹp
một phạm trù thẩm mỹ, thể hiện những giá trị tinh thần cao đẹp của con người. Do đó, nghệ thuật
thể được coi biểu hiện cao nhất của mối quan hệ thẩm mỹ.
Nghệ thuật thể hiện cái đẹp của cuộc sống một cách toàn diện sâu sắc hơn so với các hoạt động
thẩm mỹ khác. Nghệ thuật không chỉ phản ánh cái đẹp bề ngoài của sự vật, hiện tượng, còn thể
hiện những vẻ đẹp tinh thần, nội dung tưởng của chúng. Nghệ thuật cũng khả năng tác động
mạnh mẽ đến tâm hồn con người, giúp con người thăng hoa trong cảm xúc, thêm yêu cuộc sống
hướng đến những điều tốt đẹp.
Nghệ thuật một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người. góp phần nâng
cao đời sống tinh thần, bồi dưỡng tâm hồn, giáo dục con người.
7. Phân ch mối quan hệ với thẩm mỹ
Mối quan hệ thẩm mỹ mối quan hệ giữa con người với cái đẹp. Mối quan hệ này những tính
chất bản sau:
-
Tính chủ quan, thể: Mối quan hệ thẩm mỹ mối quan hệ giữa con người với cái đẹp, do
đó mang tính chủ quan, thể của mỗi người. Mỗi người một quan niệm, một cách
nhìn nhận riêng về cái đẹp, do đó mối quan hệ thẩm mỹ của mỗi người cũng khác nhau.
-
Tính cảm tính: Mối quan hệ thẩm mỹ là mối quan hệ được xây dựng trên sở cảm xúc của
con người. Con người cảm nhận cái đẹp bằng cảm xúc, do đó mối quan hệ thẩm mỹ mang
tính cảm tính.
-
Tính sáng tạo: Mối quan hệ thẩm mỹ mối quan hệ gắn liền với hoạt động sáng tạo của con
người. Con người luôn tim tòi, khám phá cái đẹp, do đó mối quan hệ thẩm mỹ mang tính
sáng tạo.
- Tính giá trị: Mối quan hệ thẩm mỹ mang lại cho con người những giá trị tinh thần cao đẹp.
Cái đẹp giúp con người thăng hoa trong cảm xúc, thêm yêu cuộc sống hướng đến những
điều tốt đẹp.
Tính chủ quan, thể của mối quan hệ thẩm mỹ thể hiện chỗ:
- Quan niệm về cái đẹp của mỗi người là khác nhau: Mỗi người một nền tảng văn hóa, giáo
dục, kinh nghiệm sống,... khác nhau, do đó quan niệm v cái đẹp của mỗi người cũng khác
nhau.
-
Tình cảm của mỗi người đối với cái đẹp cũng khác nhau: Mỗi người những cảm xúc, tâm
trạng khác nhau, do đó tinh cảm của mỗi người đối với cái đẹp cũng khác nhau.
dụ: Một người thể thấy một bức tranh đẹp, nhưng một người khác lại không thấy đẹp. Điều này
do mỗi người một quan niệm, một cách nhìn nhận riêng về cái đẹp.
Tính cảm tính của mối quan hệ thẩm mỹ thể hiện chỗ:
- Con người cảm nhận cái đẹp bằng cảm xúc: Cái đẹp không thể nhìn thấy bằng mắt, nghe thấy
bằng tai,... chỉ thể cảm nhận được bằng cảm xúc.
- Cảm xúc của con người linh hoạt, thay đổi: Cảm xúc của con người thể thay đổi theo
thời gian, hoàn cảnh,... Do đó, mối quan hệ thẩm mỹ cũng thể thay đổi theo cảm xúc của
con người.
dụ: Một người thể thấy một bài thơ hay, nhưng khi tâm trạng buồn bã, họ thể không thấy
hay nữa. Điều này do cảm xúc của người đó đã thay đổi.
Tính sáng tạo của mối quan hệ thẩm mỹ thể hiện chỗ:
- Con người luôn tim tòi, khám phá cái đẹp: Con người luôn muốn tim kiếm những cái đẹp
mới mẻ, độc đáo, do đó mối quan hệ thẩm mỹ luôn sự sáng tạo.
- Cái đẹp được thể hiện trong các tác phẩm nghệ thuật sự sáng tạo của con người: Các tác
phẩm nghệ thuật sự thể hiện cái đẹp của con người, do đó chúng luôn mang tính sáng tạo.
dụ: Một người nghệ thể vẽ một bức tranh đẹp, nhưng một người ngh khác thể vẽ một
bức tranh đẹp hơn. Điều này do mỗi người nghệ đều cách sáng tạo riêng.
Tính giá trị của mối quan hệ thẩm mỹ thể hiện chỗ:
-
Cái đẹp mang lại cho con người những giá trị tinh thần cao đẹp: Cái đẹp giúp con người
thăng hoa trong cảm xúc, thêm yêu cuộc sống hướng đến những điều tốt đẹp.
- Mối quan hệ thẩm mỹ góp phần nâng cao đời sống tinh thần của con người: Mối quan hệ
thẩm mỹ giúp con người bồi dưỡng tâm hồn, giáo dục con người,...
dụ: Một người được thưởng thức một tác phẩm ngh thuật hay thể cảm thấy thư thái, thoải
mái, thêm yêu cuộc sống hướng đến những điều tốt đẹp.

Preview text:

1. Cái đẹp:
Bản chất của cái đẹp nói chung có 3 yêu cầu, bao gồm: - Tính khách quan
Cái đẹp không phải là một khái niệm hoàn toàn chủ quan, phụ thuộc vào cảm nhận của mỗi người.
Nó là một hiện tượng khách quan, có tính phổ biến trong tự nhiên và xã hội. Ví dụ, một bông hoa nở
rộ, một bài thơ hay, một bức tranh đẹp đều là những hiện tượng mang tính thẩm mỹ, được nhiều
người yêu thích và thừa nhận. - Tính toàn vẹn
Cái đẹp không phải là một yếu tố đơn lẻ, mà là sự tổng hòa của nhiều yếu tố khác nhau, tạo nên một
chỉnh thể hài hòa, cân đối. Ví dụ, một bức tranh đẹp không chỉ cần có màu sắc tươi sáng, đường nét
mềm mại mà còn cần có bố cục hợp lý, thể hiện được ý nghĩa của tác phẩm. - Tính hiện thực
Cái đẹp không phải là sự xa rời thực tế, mà phải dựa trên cơ sở của thực tế, phản ánh được những
nét đẹp của cuộc sống. Ví dụ, một bài thơ hay không chỉ cần có ngôn từ trau chuốt, giàu hình ảnh mà
còn cần phản ánh được những tâm tư, tinh cảm của con người.
Ngoài 3 yêu cầu trên, cái đẹp còn có thể được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, như: - Tính chân thiện mỹ
Cái đẹp phải phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, mang lại giá trị tốt đẹp cho con người. Ví dụ,
một hành động cao đẹp, một nhân cách tốt đẹp đều là những biểu hiện của cái đẹp. - Tính thời đại
Cái đẹp phải phù hợp với trình độ phát triển của xã hội, phản ánh được những giá trị tinh thần mới
của thời đại. Ví dụ, một tác phẩm nghệ thuật ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp sẽ mang
những vẻ đẹp khác với một tác phẩm nghệ thuật ra đời trong thời kỳ hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội. - Tính cá nhân
Cái đẹp cũng có những nét riêng, độc đáo, thể hiện được cá tính, sở thích của mỗi người. Ví dụ, một
người có thể thích màu sắc rực rỡ, một người khác lại thích màu sắc nhẹ nhàng.
VD: - Cáiđẹptrongthiênnhiên:Cáiđẹpcủanúinonhùngvĩ,sôngnướcmênhmông,hoalárực rỡ,. .
- Cái đẹp trong nghệ thuật: Cái đẹp của âm nhạc, hội họa, điêu khắc, thơ ca,. .
- Cái đẹp trong đời sống: Cái đẹp của con người, của hành động, của vật chất,. .
2. Đặc điểm của cái đẹp trong nghệ thuật
Cái đẹp trong nghệ thuật có những đặc điểm cơ bản sau:
- Tính chủ quan, cá thể: Cái đẹp trong nghệ thuật được tạo ra bởi con người, do đó mang tính
chủ quan, cá thể của người nghệ sĩ. Mỗi người nghệ sĩ có một quan niệm, một cách nhìn
nhận riêng về cái đẹp, nên tác phẩm nghệ thuật của họ cũng mang những vẻ đẹp riêng, không thể trùng lặp.
VD: Bức tranh Hoa hướng dương của Vincent van Gogh
- Tính khái quát, trừu tượng: Cái đẹp trong nghệ thuật không chỉ đơn thuần là sự phản ánh
hiện thực khách quan, mà còn là sự khái quát, trừu tượng hóa hiện thực đó. Nghệ sĩ không
chỉ tái hiện những vẻ đẹp bề ngoài của sự vật, hiện tượng, mà còn thể hiện những vẻ đẹp
tinh thần, nội dung tư tưởng của chúng.
VD: Bức tranh Nàng Mona Lisa của Leonardo da Vinci
- Tính thẩm mỹ: Cái đẹp trong nghệ thuật phải mang tính thẩm mỹ, tức là phải thỏa mãn
những yêu cầu của cái đẹp nói chung, bao gồm tính hài hòa, cân đối, tính hoàn mỹ, lý tưởng và tính nhân văn.
So với cái đẹp chung như thiên nhiên, cái đẹp trong nghệ thuật có những đặc điểm riêng biệt sau:
**Cái đẹp trong nghệ thuật là cái đẹp được sáng tạo ra bởi con người, do đó mang tính chủ quan, cá
thể, còn cái đẹp trong thiên nhiên là cái đẹp vốn có, tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người.
**Cái đẹp trong nghệ thuật có tính khái quát, trừu tượng cao, còn cái đẹp trong thiên nhiên mang
tính cụ thể, trực quan hơn.
**Cái đẹp trong nghệ thuật thường mang tính biểu tượng, thể hiện những giá trị tinh thần, còn cái
đẹp trong thiên nhiên mang tính trực diện, thể hiện những vẻ đẹp tự nhiên.
Cái đẹp trong nghệ thuật có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Nó giúp con
người thăng hoa trong tâm hồn, thêm yêu cuộc sống và hướng đến những điều tốt đẹp. 3. Ý nghĩa cái hài
Cái hài là một trong những phạm trù cơ bản của mỹ học, dùng để chỉ những sự vật, hiện tượng, hành
động, lời nói,. . gây ra tiếng cười cho người thưởng thức. Cái hài gắn liền với tiếng cười, nhưng không
phải cái buồn cười nào cũng trở thành cái hài. Cái hài phải mang tính thẩm mỹ, tức là phải thỏa mãn
những yêu cầu của cái đẹp nói chung, bao gồm tính hài hòa, cân đối, tính hoàn mỹ, lý tưởng và tính nhân văn.
Cái hài có những tính chất cơ bản sau:
- Tính chủ quan, cá thể: Cái hài là sự cảm nhận của con người, do đó mang tính chủ quan, cá
thể của mỗi người. Mỗi người có một quan niệm, một cách nhìn nhận riêng về cái hài, nên
những gì gây cười cho người này chưa chắc đã gây cười cho người khác.
- Tính xã hội: Cái hài không chỉ đơn thuần là sự phản ánh những hiện tượng buồn cười trong
đời sống, mà còn là sự phê phán, đả kích những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Cái hài có
vai trò quan trọng trong việc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.
- Tính đa dạng: Cái hài có nhiều loại, nhiều cấp độ khác nhau, tùy thuộc vào cách nhìn nhận,
cảm nhận của mỗi người. Có thể phân chia cái hài thành hai cấp độ chính:
+ Cái hài đơn giản: Là cái hài chỉ gây ra tiếng cười đơn thuần, không có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Ví dụ: những trò đùa, trò chơi, những câu nói đùa,. .
+ Cái hài sâu sắc: Là cái hài không chỉ gây ra tiếng cười, mà còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc, thể
hiện những quan điểm, tư tưởng của tác giả. Ví dụ: những tác phẩm văn học, sân khấu, điện ảnh mang tính hài hước.
- Ví dụ về cái hài trong nghệ thuật
Trong nghệ thuật, cái hài được thể hiện ở nhiều thể loại, nhiều loại hình khác nhau, như:
Văn học: Truyện cười, thơ trào phúng,. .
Sân khấu: Kịch hài, tiểu phẩm hài,. .
Âm nhạc: Ca khúc hài, nhạc hài kịch,. .
Hội họa: Tranh biếm họa,. .
Điêu khắc: Tượng biếm họa,. .
- một số ví dụ về cái hài trong văn học:
Truyện cười dân gian Việt Nam: "Cây khế", "Lợn cưới, áo mới", "Thạch Sanh",. .
Truyện cười hiện đại: "Làng Vũ Đại ngày ấy" của Nam Cao, "Chí Phèo" của Nam Cao, "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài,. .
Cái hài có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Nó giúp con người giải tỏa căng
thẳng, mệt mỏi, mang lại niềm vui, tiếng cười cho mọi người.
4. Cái hài biểu hiện qua những loại hình nghệ thuật nào
Cái hài có thể biểu hiện trong nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, bao gồm:
- Truyện tếu lâm: Là một thể loại văn học dân gian, thường kể về những câu chuyện cười ngắn
gọn, gây cười bằng những tinh huống, hành động, lời nói,. . trái với lẽ thường. Ví dụ: truyện
tếu lâm "Cậu bé bán bánh mì", "Cái thúng bánh chưng", "Chú bé và con thỏ",. .
- Thơ trào phúng: Là thể loại thơ sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu,. . để thể hiện thái độ
phê phán, châm biếm, đả kích những hiện tượng, con người xấu xa, tiêu cực trong xã hội. Ví
dụ: thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Công Trứ,. .
- Tranh biếm họa: Là loại tranh sử dụng hình ảnh, màu sắc,. . để thể hiện những hiện tượng,
con người xấu xa, tiêu cực trong xã hội một cách châm biếm, đả kích. Ví dụ: tranh biếm họa
của Nguyễn Sáng, Vũ Đình Huyến,. .
- Kịch hài: Là loại hình sân khấu sử dụng các tinh huống, hành động, lời thoại,. . để gây cười
cho khán giả. Kịch hài thường có nội dung phản ánh những hiện tượng, con người xấu xa,
tiêu cực trong xã hội một cách hài hước, nhẹ nhàng. Ví dụ: kịch hài "Làng Vũ Đại ngày ấy" của
Nam Cao, "Chí Phèo" của Nam Cao, "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài,. .
- Sân khấu hài: Là loại hình nghệ thuật biểu diễn trực tiếp, sử dụng các tinh huống, hành động,
lời thoại,. . để gây cười cho khán giả. Sân khấu hài thường có nội dung phản ánh những hiện
tượng, con người xấu xa, tiêu cực trong xã hội một cách hài hước, dí dỏm. Ví dụ: chương
trình "Táo quân" của VTV, chương trình "Ơn giời, cậu đây rồi!" của VTV3,. .
Cái hài trong các loại hình nghệ thuật này thường được thể hiện thông qua những yếu tố sau:
- Tình huống: Tình huống là yếu tố quan trọng nhất để tạo nên tiếng cười trong tác phẩm
nghệ thuật. Tình huống hài hước thường là những tinh huống trái với lẽ thường, gây ra
những bất ngờ, ngạc nhiên cho người đọc, người xem.
- Hành động: Hành động của nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật cũng có thể gây cười cho
người đọc, người xem. Hành động hài hước thường là những hành động trái với lẽ thường,
gây ra những tinh huống trớ trêu, dở khóc dở cười.
- Lời thoại: Lời thoại của nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật cũng có thể gây cười cho người
đọc, người xem. Lời thoại hài hước thường là những lời thoại dí dỏm, châm biếm, đả kích
những hiện tượng, con người xấu xa, tiêu cực.
- Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong tác phẩm nghệ thuật cũng có thể được sử dụng để tạo nên tiếng
cười. Ngôn ngữ hài hước thường là những ngôn ngữ dí dỏm, châm biếm, gây ra những tiếng
cười vui vẻ, sảng khoái cho người đọc, người xem.
5. Nhận xét thời trang Văn Lang
Theo quan niệm của mỹ học, cái đẹp là sự hài hòa, cân đối, hoàn mỹ, lý tưởng và nhân văn. Thời
trang sinh viên Văn Lang cũng mang những đặc điểm này, thể hiện qua các yếu tố như tóc, giày dép, trang sức, quần áo.
Về tóc, sinh viên Văn Lang thường có xu hướng để tóc ngắn, gọn gàng, năng động. Đây là kiểu tóc
phù hợp với môi trường học tập, giúp các bạn dễ dàng tham gia các hoạt động ngoại khóa. Bên cạnh
đó, cũng có một số bạn nữ để tóc dài, xoăn nhẹ, mang lại vẻ dịu dàng, nữ tính.
Về giày dép, sinh viên Văn Lang thường chọn những đôi giày thể thao, giày bệt, tiện lợi cho việc đi lại.
Ngoài ra, cũng có một số bạn nữ chọn những đôi giày cao gót, giúp tôn dáng và tạo vẻ thanh lịch, sang trọng.
Về trang sức, sinh viên Văn Lang thường đeo những món trang sức đơn giản, tinh tế. Những món
trang sức này giúp các bạn thêm phần xinh xắn, nổi bật nhưng vẫn giữ được vẻ trẻ trung, năng động.
Về quần áo, sinh viên Văn Lang thường chọn những bộ trang phục thoải mái, phù hợp với hoạt động
học tập, sinh hoạt. Ngoài ra, cũng có một số bạn nữ chọn những bộ trang phục điệu đà, nữ tính để
tham gia các buổi tiệc tùng, dạ hội.
Nhìn chung, thời trang sinh viên Văn Lang mang đậm tính hiện đại, trẻ trung, năng động. Các bạn
sinh viên Văn Lang luôn biết cách lựa chọn trang phục phù hợp với sở thích, cá tính và môi trường
học tập, sinh hoạt. Điều này thể hiện sự tự tin, năng động và tinh thần cầu tiến của các bạn sinh viên Văn Lang.
6. Vì sao nhiều loại hình nghệ thuật
Có nhiều loại hình nghệ thuật là do:
- Sự đa dạng của đời sống: Đời sống là một thực thể phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh
vực khác nhau như thiên nhiên, xã hội, con người,. . Nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực
khách quan, do đó nó cũng phải phản ánh sự đa dạng của đời sống.
- Sự phong phú của cảm xúc: Con người có nhiều loại cảm xúc khác nhau như vui, buồn, giận,
yêu, ghét,. . Nghệ thuật là sự thể hiện cảm xúc của con người, do đó nó cũng phải phản ánh
sự phong phú của cảm xúc.
- Sự khác biệt của mỗi cá nhân: Mỗi cá nhân có một quan niệm, một cách nhìn nhận riêng về
cái đẹp, do đó họ cũng có thể tạo ra những loại hình nghệ thuật khác nhau.
Có thể phân loại nghệ thuật theo nhiều cách khác nhau, nhưng nhìn chung có thể chia thành hai loại chính là:
- Nghệ thuật ngôn từ: Là loại hình nghệ thuật sử dụng ngôn từ làm chất liệu, bao gồm thơ ca, văn xuôi, kịch,. .
- Nghệ thuật phi ngôn từ: Là loại hình nghệ thuật không sử dụng ngôn từ làm chất liệu, bao
gồm âm nhạc, hội họa, điêu khắc,. .
Mỗi loại hình nghệ thuật đều có những đặc điểm riêng, nhưng đều có chung một mục đích là thể
hiện cái đẹp của cuộc sống, mang lại cho con người những giá trị tinh thần cao đẹp.
Vì sao nghệ thuật là biểu hiện cao nhất của mối quan hệ thẩm mỹ?
Nghệ thuật là một hoạt động sáng tạo của con người, nhằm thể hiện cái đẹp của cuộc sống. Cái đẹp
là một phạm trù thẩm mỹ, thể hiện những giá trị tinh thần cao đẹp của con người. Do đó, nghệ thuật
có thể được coi là biểu hiện cao nhất của mối quan hệ thẩm mỹ.
Nghệ thuật thể hiện cái đẹp của cuộc sống một cách toàn diện và sâu sắc hơn so với các hoạt động
thẩm mỹ khác. Nghệ thuật không chỉ phản ánh cái đẹp bề ngoài của sự vật, hiện tượng, mà còn thể
hiện những vẻ đẹp tinh thần, nội dung tư tưởng của chúng. Nghệ thuật cũng có khả năng tác động
mạnh mẽ đến tâm hồn con người, giúp con người thăng hoa trong cảm xúc, thêm yêu cuộc sống và
hướng đến những điều tốt đẹp.
Nghệ thuật là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người. Nó góp phần nâng
cao đời sống tinh thần, bồi dưỡng tâm hồn, giáo dục con người.
7. Phân tích mối quan hệ với thẩm mỹ
Mối quan hệ thẩm mỹ là mối quan hệ giữa con người với cái đẹp. Mối quan hệ này có những tính chất cơ bản sau:
- Tính chủ quan, cá thể: Mối quan hệ thẩm mỹ là mối quan hệ giữa con người với cái đẹp, do
đó nó mang tính chủ quan, cá thể của mỗi người. Mỗi người có một quan niệm, một cách
nhìn nhận riêng về cái đẹp, do đó mối quan hệ thẩm mỹ của mỗi người cũng khác nhau.
- Tính cảm tính: Mối quan hệ thẩm mỹ là mối quan hệ được xây dựng trên cơ sở cảm xúc của
con người. Con người cảm nhận cái đẹp bằng cảm xúc, do đó mối quan hệ thẩm mỹ mang tính cảm tính.
- Tính sáng tạo: Mối quan hệ thẩm mỹ là mối quan hệ gắn liền với hoạt động sáng tạo của con
người. Con người luôn tim tòi, khám phá cái đẹp, do đó mối quan hệ thẩm mỹ mang tính sáng tạo.
- Tính giá trị: Mối quan hệ thẩm mỹ mang lại cho con người những giá trị tinh thần cao đẹp.
Cái đẹp giúp con người thăng hoa trong cảm xúc, thêm yêu cuộc sống và hướng đến những điều tốt đẹp.
Tính chủ quan, cá thể của mối quan hệ thẩm mỹ thể hiện ở chỗ:
- Quan niệm về cái đẹp của mỗi người là khác nhau: Mỗi người có một nền tảng văn hóa, giáo
dục, kinh nghiệm sống,. . khác nhau, do đó quan niệm về cái đẹp của mỗi người cũng khác nhau.
- Tình cảm của mỗi người đối với cái đẹp cũng khác nhau: Mỗi người có những cảm xúc, tâm
trạng khác nhau, do đó tinh cảm của mỗi người đối với cái đẹp cũng khác nhau.
Ví dụ: Một người có thể thấy một bức tranh đẹp, nhưng một người khác lại không thấy đẹp. Điều này
là do mỗi người có một quan niệm, một cách nhìn nhận riêng về cái đẹp.
Tính cảm tính của mối quan hệ thẩm mỹ thể hiện ở chỗ:
- Con người cảm nhận cái đẹp bằng cảm xúc: Cái đẹp không thể nhìn thấy bằng mắt, nghe thấy
bằng tai,. . mà chỉ có thể cảm nhận được bằng cảm xúc.
- Cảm xúc của con người là linh hoạt, thay đổi: Cảm xúc của con người có thể thay đổi theo
thời gian, hoàn cảnh,. . Do đó, mối quan hệ thẩm mỹ cũng có thể thay đổi theo cảm xúc của con người.
Ví dụ: Một người có thể thấy một bài thơ hay, nhưng khi tâm trạng buồn bã, họ có thể không thấy
hay nữa. Điều này là do cảm xúc của người đó đã thay đổi.
Tính sáng tạo của mối quan hệ thẩm mỹ thể hiện ở chỗ:
- Con người luôn tim tòi, khám phá cái đẹp: Con người luôn muốn tim kiếm những cái đẹp
mới mẻ, độc đáo, do đó mối quan hệ thẩm mỹ luôn có sự sáng tạo.
- Cái đẹp được thể hiện trong các tác phẩm nghệ thuật là sự sáng tạo của con người: Các tác
phẩm nghệ thuật là sự thể hiện cái đẹp của con người, do đó chúng luôn mang tính sáng tạo.
Ví dụ: Một người nghệ sĩ có thể vẽ một bức tranh đẹp, nhưng một người nghệ sĩ khác có thể vẽ một
bức tranh đẹp hơn. Điều này là do mỗi người nghệ sĩ đều có cách sáng tạo riêng.
Tính giá trị của mối quan hệ thẩm mỹ thể hiện ở chỗ:
- Cái đẹp mang lại cho con người những giá trị tinh thần cao đẹp: Cái đẹp giúp con người
thăng hoa trong cảm xúc, thêm yêu cuộc sống và hướng đến những điều tốt đẹp.
- Mối quan hệ thẩm mỹ góp phần nâng cao đời sống tinh thần của con người: Mối quan hệ
thẩm mỹ giúp con người bồi dưỡng tâm hồn, giáo dục con người,. .
Ví dụ: Một người được thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật hay có thể cảm thấy thư thái, thoải
mái, thêm yêu cuộc sống và hướng đến những điều tốt đẹp.
Document Outline

  • 1.Cái đẹp:
  • 2.Đặc điểm của cái đẹp trong nghệ thuật
  • 3.Ý nghĩa cái hài
  • 4.Cái hài biểu hiện qua những loại hình nghệ thuật n
  • 5.Nhận xét thời trang Văn Lang
  • 6.Vì sao nhiều loại hình nghệ thuật
  • 7.Phân tích mối quan hệ với thẩm mỹ