Mô hình phân tích xã hội theo lý thuyết xã hội học vi mô | Đại học Ngoại Ngữ - Tin Học Thành Phố Hồ Chí Minh

Mô hình phân tích xã hội theo lý thuyết xã hội học vi mô | Đại học Ngoại Ngữ - Tin Học Thành Phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem

Thông tin:
8 trang 2 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Mô hình phân tích xã hội theo lý thuyết xã hội học vi mô | Đại học Ngoại Ngữ - Tin Học Thành Phố Hồ Chí Minh

Mô hình phân tích xã hội theo lý thuyết xã hội học vi mô | Đại học Ngoại Ngữ - Tin Học Thành Phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem

26 13 lượt tải Tải xuống
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87
80
Mô hình phân tích xã hội theo lý thuyết xã hội học vi mô
Vũ Hào Quang*
Học viện Báo Chí và Tuyên Truyền, 36 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Tóm tắt: Trong thuyết hội học, tồn tại hai dòng thuyết chính thống ngay từ khi trở
thành một khoa học độc lập, đó thuyết hội học vi mô. Cách tiếp cận vi mô xem
xã hội là kết quả của quá trình hành động xã hội, tương tác xã hội, quan hệ xã hội diễn ra từ cấp độ
nhỏ nhất giữa các nhân với nhau cho tới các nhóm xã hội rồi hội tổng thể. Lý thuyết xã hội
học vĩ mô phân tích xã hội ở cấp độ vĩ mô tức là các quan hệ xã hội diễn ra trong các tầng lớp, giai
cấp, cộng đồng, nhóm hội, tổ chức hội trong một tổng thể xã hội với tư cách một hệ thống hay
một cơ thể xã hội. Tiếp cận coi con người và hành vi xã hội hay hành động xã hội của nón
một kết quả được tạo ra bởi sự vận hành các chức năng đã được cấu trúc trong xã hội. Bài báo này ch
phân ch cách tiếp cận vi mô xã hội và đề xuất hình phân tích xã hội trên cơ sở phân tích các khái
niệm bản trong xã hội học vi mô.
Từ khóa: Hành vi, hành động, hành vi hội, hành động hội, tiếp xúc hội, tương tác hội,
Quan hệ hội, xã hội, thuyết hội học vi.
1. Đặt vấn đề
Trong lý thuyết hội học hiện đại các nhà
lý thuyết thừa nhận một cách rộng rãi các dòng
thuyết chủ đạo thuyết vi mô.
thuyết vi cho rằng, hội được cấu tạo
bởi những con người với những mục đích cụ
thể của họ, bản chất của hội mang tính nhân
văn và xã hội do con người kiến tạo nên bởi các
quan hệ hội của nó.Trong khi đó,Lý thuyết
hội học cho rằng, con người sản
phẩm của hội, do hội khuôn đúc, nặn lên
(E. Durkheim) [3].Muốn phân tích hội cần
phải xem như một tổng thể cấu tạo phù
hợp với chức năng xác định cũng giống như
thể của một con người (A. Comte; E.
Durkheim; H. Spencer). Một tiếp cận độc đáo
khác cũng được xếp vào hàng các thuyết
đó cấu trúc luận Mác xít trong đó bao
gồm cả thuyết cấu trúc hội lẫn thuyết xung
_______
ĐT.: 84-913372726
Email: vuhaoquang@gmail.com
đột (còn gọi thuyết đấu tranh giai cấp) của
Mác [6]. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ đề
cập đến một số thuyết chính thuộc dòng
thuyết vi môvới những khái niệm cơ bản của nó
để xây dựng một khung thuyết phân tích
hội. Điều này được bắt đầu bằng việc sử dụng
các khái niệm cơ bản của trong các lý thuyết
hội học vi của M. Weber, G. Simmel, G.
Mead. M. Weber nhà thuyết hội học
kinh điển vai trò khởi thủy đối với dòng
thuyết vi trong hội học với thuyết
hành động hội nổi tiếng của ông. Theo M.
Weber, muốn hiểu được hội phải cắt nghĩa
hay giải động hành động của con người
trong những điều kiện lịch sử, văn hóa hội
cụ thể tức ý nghĩa chủ quan của hành động
của chủ thể liên quan đến hành vi của người
khác như thế nào. Quan điểm phân tích hội
từ phân tích hành động hội được coi
nhiệm vụ đồng thời cũng đối tượng của
hội học do M. Weber đề xuất [7]. M. Weber gọi
hành vi của nhân gắn với ý nghĩa chủ quan
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87
81
(субъективнный смысл/subjective meaning) là
hành động xã hội. Mỗi cá thể hành vi của nó
là “tế bào” của các khoa học hội học và Sử
học, nói cách khác, đơn vị phân ch nhỏ
nhất không thể phân chia được nữa. Xã hội học
cũng nghiên cứu hành vi như Tâm lý học nhưng
hội học chỉ nghiên cứu loại hành vi mà chủ
thể hành động (một người hoặc một nhóm
người) giải thông hiểu được ý nghĩa của
nó có liên quan đến hành vi của người khác như
thế nào. Chính ranh giới “tinh tế” này
một số ngườichưa điều kiện tiếp cận với các
tác phẩm kinh điển của M. Weber thể bị
nhầm lẫn giữa khái niệm hành vi trong tâm
học với hành vi trong xã hội học cũng như hành
động và hành động hội [7]. Bên cạnh và
cùng thời với M. Weber, ở Đức còn có một nhà
lý thuyết nổi tiếng khác nữa là G. Simmel(1858-
1918) đưa ra khái niệm tương tác xã hội cũng rất
gần với khái niệm hành động xã hội của Weber.
Tuy nhiên khái niệm tương tác hội của
G.Simmel chú ý tới hình thức tương tác các
loại tác nhân trên sở đó giải thích các hình
thức quan hệ hội trong các nhóm hai người,
ba người vai trò của “kẻ lạ” trong việc hình
thành biến đổi các quan hệ, liên kết trong
nhóm cũng như giữa các nhóm hội thành
nhóm lớn ( hội). M. Weber coi hành động xã
hội là đơn vị nhỏ nhất, cơ bản để hình thành nên
các quan hệ hội hội nói chung ( văn
hóa, tôn giáo, chính trị, trật tự xã hội, thiết chế xã
hội…). Khái niệm nh động hội (Weber),
tương tác xã hội( Simmel) đã trở thành các khái
niệm nền tảng, kinh điển đối với các lý thuyết vi
mô như: Tương tác biểu trưng( H. Mead), thuyết
Trao đổi hội (G. Homans; P. Blau),thuyết
Trao đổi trong mạng lưới hội(R. Emerson),
thuyết Phương pháp luận thực nh (H.
Garfinkel) v.v.Vào khoảng những năm 1980 của
thế kỷ XX đã nổi nên trào lưu tích hợp hai dòng
lý thuyết vi-vĩ mô trong phân tích xã hội(P. Blau;
H. Blumer). Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ
XX, ngay trong các thuyết vi đã xu
hướng tích hợp mô và ngược lại. Tuy nhiên,
việc tích hợp vi- xu hướng cực đoan,
tức quá thiên về thuyết vi mô. Do vậy, việc
giới thiệu một khung lý thuyết phân tích xã hội
theo mô hình các lí thuyết vi môở đây là rất cần
thiết để giúp cho các nhà nghiên cứu giảng
dạy hội học Việt Nam thêm liệu để
đối chiếu, so sánh với các liệu đã nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy nghiên cứu
truyền bá xã hội học.
2. Một số đặc trưng cơ bản của các thuyết
hội học vi mô
Các thuyết hội học vi đều bắt
nguồn từ việc nghiên cứu hành vi, hành động,
tương tác, quan hệ hội giữa con người trong
phạm vi quy nhỏ để từ đó khái quát
suy rộng rahội lớn, xã hội tổng thể. Các nhà
lý thuyết xã hội học vi đều coi con người là
nhân vật chủ thể cấu tạo nên hội thông qua
các hình thức quan hệ xã hội của nó. Con người
xã hội được cấu trúc bởi hai phần là phần xã hội
và phần cá thể mang tính loài (con). Phần cá thể
(individual) bao gồm các nhân tố sinh học (
thể), các thuộc tính tâm sinh thể, các sở
hữu vật chất tinh thần thể ( kể cả cái tự do
với cách quyền con người đối với nhà
nước hay hội). Phần xã hội bao gồm các sản
phẩm văn hóa do nhân (person) tạo ra trong
quá trình lao động cùng với người khác.
nhân trong đời sống hội phải tương tác với
người khác dưới nhiều hình thức và cấp độ khác
nhau để tồn tại.Từ đây các thuyết khác nhau
có cách lý giải khác nhau. Thuyết hành động
hội của M. Weber cho rằng, trong quá trình
hành động hội các nhân sử dụng công cụ
là các tư duy duy lý gắn liền với các hành động
mục đích, ý thức hoặc hành động một
giá trị nào đó. Đây hai điển loại hành động
quan trọng nhất đối với phân tích xã hội học về
xã hội. Ngoài ra Weber còn nêu ra hai điển loại
hành động khác đó hành động thiên về tình
cảm xúc cảm hành động truyền thống theo
thói quen hội. Theo M. Weber, thuyết hành
động xã hội phân tích xã hội từ cấp độ nhỏ nhất
hai người đến toàn bộ hội tổng thể nhờ
vào việc phân tích các điển loại hành động
hội tức một hình phân tích về tính đặc
trưng phổ biến của hội cả quá khứ, hiện tại
lẫn tương lai. Các hành vi và hành động cá nhân
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87
82
là nhân tố đơn giản nhất thuộc cấp độ phân tích
tâm lý học cá nhân, không phải nhiệm vụ chính
của phân tích xã hội học. Tuy nhiên hành vi
hội, hành động xã hội lại là khái niệm khởi thuỷ
để phân tích xã hội. Nhà xã hội học cần phải cắt
nghĩa ( hay thông hiểu) động thúc đẩy hành
động cái thuộc về nhân tố duy mục đích,
duy giá trị hay chỉ các nhân t xúc cảm
hoặc nhân tố truyền thống, thói quen hội.
Hơn nữa, trong quá trình thực hiện hành động
xã hội bắt buộc phải có hành vi định hướng vào
đối tượng, tức là người khác (chứ không phải là
đối tượng phi con người, ví dụ: thức ăn). Xã hội
học khoa học nghiên cứu hành đọng hội.
Hành động hội hành vi được chủ thể gắn
vào đó ý nghĩa chủ quan của mình trên cơ sở đó
cắt nghĩa, thông hiểu định hướng vào hành
vi của người khác. Trong khi đó, Tâm học
giải thích cái thúc đẩy hành động của con người
nhu cầu việc thỏa mãn nhu cầu của
nhân; Tâm học nghiên cứu quá trình, trạng
thái thuộc tính tâm nhân. Đó điểm
khác biệt về đối tượng nghiên cứu của hội
học tâm học theo quan điểm của M.
Weber.
Để hiểu được hành vi hội hành động
hội, hội học cũng phải “vay mượn” khái
niệm hành vi và hành động của Tâm lý học.
Hành vi phản ứng xác định, thể đo
lường, nhận thức được của thể đối với các
kích thích từ bên trong hay bên ngoài [1,27].
Năm 1913, John B. Watson cho rằng, nghiên
cứu nhận thức của nhân bằng phương pháp
tự kiểm tra, đánh giá không thể đưa ra những
kết quả khách quan bị khúc xạ bởi lăng
kính chủ quan. Chỉ thể nghiên cứu chính
xác, khách quan bằng phương pháp thực chứng
tức là đo đạc các biến số tác động thông qua các
phản ứng của thể trước những kính thích từ
trong hay ngoài. thể bao chứa tổ hợp các
phản ứng hay năng lực phản ứng trước các kích
thích. Nói cách khác, kích thích nào thì phản
ứng nấy theo công thức S R. Trong khoa học
hành vi, người ta luôn nhắc tới phát kiến quan
trọng của nhà sinh học người Nga tên
Pavlốp về phản xạ điều kiện đã được nhận
giải thưởng Nobel năm 1904. Những kết quả
nghiên cứu hình S R của B.F. Skiner trên
chim bồ câu khẳng định các phản xạ điều
kiện hay các kích thích được củng cố sẽ biến
thành tập tính của động vật. Mối quan hệ của cơ
thể (động vật) đối với các loại kích thích qua
tương quan thưởng- phạt đã được Pavlốp phát
hiện trên thí nghiệm với con chó đã được vận
dụng triệt để để giải thích hành vi con người
trong các thuyết hành vi. Điều này ý nghĩa
cùng quan trọng trong nghiên cứu giáo dục
cũng như điều chỉnh hành vi trong quan hệ
người.
Tuy nhiên, thuyết hành vi chịu nhiều phê
phán từ các nhà hội học tâm học
hội; cho rằng, thuyết hành vi chỉ tả được
những cái con người đã đang làm chứ
không tả được những cái con người
đang nghĩ, đang cảm giác. Mặc thuyết hành
vi bị phê phán, các nhà tâm học xã hội và xã
hội học (G.H.Mead; G. Homans) vẫn sử dụng
triệt để khái niệm hành vi với một cái tên mới
hành vi hội trong thuyết tương tác
hội của mìnhnhưng nhấn mạnh vai trò của ý
thức cá nhân.
Hành vi hội được sử dụng từ thuyết
hành động hội của M. Weber cho đến các
thuyết tương tác biểu trưng của H. Mead
thuyết trao đổi hội của G. Homans. Đối với
H. Mead, hành vi hội được hiểu là loại hành
động có ý nghĩa và hướng vào người khác. Điều
này biểu hiện rõ trong khái niệm cái tôi cá nhân
(self) mà ông coi phức hợp của cái tôi thể
(I) và cái tôi xã hội (Me)[3]. Vì thế phân tích
hội thực chất phân tích tương tác hội giữa
các nhân, hội được hình thành từ các
nhân(self).
Hành động( The act) [3] của con người trải
qua bốn giai đoạn. Giai đoạn đầu có tên là “kích
thích”. Trong giai đoạn hành động này, hành vi
của con người giống động vật tức là bị chi phối
bởi quan hệ S R. Tuy nhiên, con người không
phản ứng như động vật. lưu trữ lại các kích
thích đó để phân tích. Ví dụ: trạng thái đói kích
thích con người muốn ăn. Giai đoạn hai có tên “
nhận thức”. Trong giai đoạn hai, con người
nghiên cứu khám phá nội dung của kích thích
thông qua các thao tác: nghe, nhìn, sờ, ngửi v.v.
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87
83
Giai đoạn ba tên “thao tác hoá đối tượng”.
Khi đã nhận thức được đối tượng qua việc
nghiên cứu bằng nhận thức các giác quan
của mình, con người thao tác hoá các đối tượng
đó qua việc kiểm tra lại c thông tin trên đối
tượng phù hợp với tri thức hay sự hiểu biết
của chủ thể về đối tượng đó không; trì hoãn
việc trả lời kích thích để kiểm tra độ chân thực
của nhận thức. dụ: trông thấy cây nấm, hái
nấm, quan sát nh thù màu sắc cây nấm,
nhớ lại những hiểu biết về nấm, tìm sách hướng
dẫn việc ăn nấm [3,194-196]v.v. Giai đoạn bốn
tên hoàn thành hành động” hay “thực hiện
hành động”. H. Mead chỉ việc thoả mãn cái
đói của con người con vật khác nhau. Con
vật thoả mãn cái đói bởi quy tắc thử và sai, con
người nhờ có ý thức biểu trưng nên đã kiểm
tra và tính toán kỹ các giai đoạn của hành động
nên nó chỉ hành động khi hiểu rõ về đối tượng.
Theo Mead, hành động khác với hành động
xã hội ở chỗ hành động chỉ liên quan tới một cá
nhân hay một con người, trong khi hành động
hội liên quan ít nhất từ hai nhân trở
lên[3,98]. Khái niệm hành động xã hội được coi
đơn vị nhỏ nhất trong quan hệ hội được
các nhà hội học vi thừa nhận trong phân
tích xã hội. Từ khái niệm hành động xã hội, các
nhà hôi học giải các quan hệ nhân
liên nhân trong nhóm giữa các nhóm tạo
thành xã hội. Xã hội được hiểu là một nhóm lớn
gồm nhiều nhóm nhỏ mà hạt nhân các
nhân.Cá nhân người thực hiện hành động
hội.Hành động hội tồn tại với điều kiện
phải ít nhất từ hai người trở lên tác động
qua lại với nhau.Vì vậy, việc thực hiện hành
động hội thực chất đã tương tác
hội.Tuy nhiên, người khởi thủy thuyết hành
động hội M. Weber chưa sử dụng khái
niệm tương tác hội.Khái niệm tương tác
hội được sử dụng đầu tiên trong xã hội học của
Georg Simmel với cách là sự tác động tương
hỗ giữa hai hoặc nhiều nhân.Việc phân tích
hội cấp độ vi phân tích tương tác
nhóm hai người, nhóm ba người. Việc phân tích
các hình thức tương tác (forms of interaction)
và các loại hình tác nhân (types of interactants)
nhiệm vụ quan trọng của hội học. Quan
niệm của G. Simmel về tương tác hội, về
triết đồng tiền, về nhóm hai người, nhóm ba
người, nhân vật lạ(stranger) v.v.,đã ảnh hưởng
sâu sắc đến các nhà hội học Chicago những
năm 1920-1930[3,36-37], đặc biệt trường
phái tương tác biểu trưng Chicago người
đứng đầu H. Mead người tiếp theo H.
Blumer.
Tương tác hội quá trình thực hiện các
hành động hội giữa hai hay nhiều nhân.
Thuyết tương tác biểu trưng nhấn mạnh vào ý
nghĩa biểu trưng trong tương tác hội. Để cắt
nghĩa khái niệm tương tác biểu trưng, Mead
đưa ra khái niệm điệu bộ các biểu trưng ý
nghĩa.
Điệu bộ (gesture) những cử chỉ của
thể thứ nhất có tác động như một kích thích đặc
thù gây ra phản ứng tính phù hợp (xã hội)
của cơ thể thứ hai. Điệu bộ có ở cả động vật lẫn
ở người. Tuy nhiên , vì con người có ý thức nên
việc sử dụng điệu bộ phức tạp hơn nhiều so với
con vật. Điệu bộ là một dạng biểu trưng của con
người trong giao tiếp hội. Điệu bộ chức
năng điều chỉnh những hành vi trong khung
cảnh cụ thể có liên quan đến hành vi hay thái độ
của những người tham gia tương tác[2,46].
dụ , người mẹ nhăn mặt khi đứa con của mình
làm cái đó, điệu bộ nhăn mặt thông báo cho
đứa con biết là việc đó không nên làm vì mẹ nó
không đồng ý. Điệu bộ ý nghĩa chỉ con
người nhờ khả năng giao tiếp bằng lời ý
thức. Ngôn ngữ loại điệu bộ ý nghĩa.
dụ: khi ta nói từ chó hay từ mèo thì người nghe
đã hình dung được ý nghĩa của từ đó. Biểu
trưng ý nghĩa những chủ thể thứ nhất
phát ra đều được các chủ thể thứ hai hoặc thứ
ba hiểu cắt nghĩa tương tự. Trong quá trình
tương tác hội, các mối quan hệ hội được
thiết lập. Con người trong truyền thông hay
giao tiếp thường hình dung về vị trí của người
khác để đóng vai dựa trên các ý nghĩa biểu
trưng chung. Trong quá trình đóng vai, cá nhân
nhận dạng được chỗ đứng của mình trong quan
hệ với người khác.Trong khoa học hội (Tâm
lý học, nhân chủng học và xã hội học), người ta
phân biệt 2 cấp độ hành động của con người là:
hành vi, hành động (cấp độ phân tích tâm
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87
84
học), hành vi hội, hành động hội (cấp độ
phân tích xã hội học). Khi nói tới hành vi thuần
túy của con người đó chính loại hành vi
thể được xem xét trong lĩnh vực tâm học
(không quên rằng, khái niệm hành vi còn được
sử dụng cho cả máy móc với cách sự di
động của máy móc trong không gian).
Tiếp theo sau thuyết hành động hội của
M. Weber, thuyết tương tác hội của G.
Simmel, thuyết tương tác biểu trưng của H.
Mead các thuyết Trao đổi hội của P.
Blau,G. Homans, thuyết Trao đổi mạng lưới
của R.Emerson, thuyết Phương pháp luận thực
hành của H.Garfinkel cũng được xếp vào
thuyết xã hội học vi mô.
3. Các khái niệm cơ bản hình phân
tích xã hội
Như đã trình bày trên, chúng ta cần bắt
đầu từ những khải niệm khởi thủy mà Lý thuyết
hội học vi vay mượn hay lấy nguồn gốc
từ Tâm lý học.
Hành vi (behavior) tuân thủ quy tắc S R,
tức là cứ có kích thích thì có phản ứng phù hợp
với tính chất của kích thích đó[5,34]. Trong quá
trình thực hiện hành vi, thể không cần sử
dụng tới nhận thức hay ý thức hoặc người phân
tích hành vi không quan tâm đến vai trò của
nhân tố ý thức. Hành vi động tác hay sự di
chuyển thể (người, động vật). Hành vi
phản ửng của thể đối với một kích thích nào
đó.
Hành động (action) hành vi của con
người kèm theo ý nghĩa mục đích nhất
định. Nói theo ngôn ngữ tiến hoá, hành động
loại hành vi kèm theo ý nghĩa chủ quan của
cá nhân để thực hiện một mục đích nào đó. Tuy
nhiên cấp độ phân tích hành động ý nghĩa
cũng như mục đích của hành động thuộc phạm
trù nghiên cứu của Tâm lý học.
Hành vi hội (social behaviors)
hành động mục đích ý nghĩa hướng
(định hướng) tới người khác [1]. Khái niệm
hành vi hội được Weber sử dụng để miêu tả
hành động xã hội [7,625-633]. Như vậy hành vi
hội nằm cấp độ cao phức tạp hơn hành
động nhân. Nếu một người thực hiện một
hành động có ý nghĩa có mục đích nhưng không
liên quan đến người khác thì hành động đó
không phải là hành vi xã hội. Hành động xã hội
được M. Weber định nghĩa là loại hành vi được
định hướng vào hành vi quá khứ, hành vi hiện
tại và hành vikỳ vọng (tương lai gần) của những
người khác. Loại hành vi định hướng vào người
khác chính là hành vi xã hội vì nó liên quan đến
những người khác. Khái niệm hành động xã hội
hành vi hội được M. Weber sử dụng
tương tự như nhau trong trường hợp hành động
ngoài. Những loại hành động định hướng vào
các hành vi của các đối tượng bên ngoài không
phải con người không được gọi là hành động xã
hội. Các loại hành động bên trong (tâm lý) cũng
không gọi hành động hội nếu không
định hướng vào hành vi của những người khác.
M. Weber coi hành động xã hội là hành động cá
nhân (cả trong lẫn ngoài) định hướng vào hành
vi của người khác trên sở cái ý nghĩa chủ
quan của chủ thể hành động(7, 602-603). Như
vậy, hành động hội trước tiên phải loại
hành động tâm lý của nhân tức hành động
đó mục đích ý nghĩa (giá trị), sau đó
năng lực định hướng (thông hiểu) của chủ thể
vào đối tượng, tức tính toán tới khả năng
phản ứng từ phía đối tác để điều chỉnh hành vi
của mình. Trong quá trình hành động con người
hoàn toàn tự điều chỉnh hành vi theo ý nghĩa
chủ quan của chính bản thân cho phù hợpvới
hoàn cảnh, tình huống vì thế phải coi nó như
chủ thể hành động chứ không phải một diễn
viên chỉ khoác cái “vai” của người khác một
cách thụ động.
Từ những lập luận trên, tôi định nghĩa hành
động xã hội như sau: Hành động xã hội hành
động mục đích ý nghĩa của nhân trên
cơ sở định hướng tới hành vi của người khác và
tính toán cân nhắc tới phản ứng đáp lại của
người đó.
Hành động hội loại hành vi hội
không những chỉ ý nghĩa chủ quan của chủ
thể hành động liên quan đến người khác
còn thêm một thuộc tính nữa trạng thái
chờ đợi sự phản ứng từ phía người khác theo
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87
85
cách cắt nghĩa, suy nghĩ của chính chủ thể hành
động đó. dụ: Mua hoa tặng bạn gái nhân
ngày sinh nhật; Khi người bạn trai tặng hoa bạn
gái, trong đầu anh ta xuất hiện ý nghĩ về phản
ứng từ phía bạn gái: sự vui vẻ, nụ cười, lời cám
ơn từ phía bạn gái của mình; cũng thể
sự thờ ơ, thậm chí phản ứng tiêu cực của bạn
gái...Như vậy hành động hội xuất phát từ
người thứ nhất liên quan tới hành động của
người thứ hai. Trạng thái chờ đợi phản ứng của
chủ thể thứ nhất (hành động hội diễn ra bên
trong) đối với chủ thể thứ hai để tiếp tục chuẩn
bị phương án “ứng phó” với phản ứng của chủ
thể thứ hai chính điểm khác biệt giữa hành
động hội hành vi hội. Hành vi hội
diễn ra bên ngoài kết quả của quá trình
“thông hiểu (understanding)” diễn ra bên trong
chủ thể hành động.
Sự khác nhau giữa hành động hội
hành vi hội chỉ phân biệt một điểm đó
hành vi hội không tính toán, chờ đợi phản
ửng đáp lại từ phía người khác, trong khi hành
động hội đầy đủ các thuộc tính của hành
vi xã hội đồng thời thêm một thuộc tính nữa
sự chờ đợi khả năng phản ứng lại từ phía
người khác.
Tiếp xúc hội (social contact) một cặp
của hành động hội, một hình thức đầu tiên
của tương tác hội.Tiếp xúc hội loại
tương tác hội một lần hoặc loại tương tác ít
khi lặp lại. Tiếp xúc xã hội là loại hành động xã
hội diễn ra giữa hai hoặc nhiều chủ thể (cá
nhân) một lần hoặc ngẫu nhiên. dụ: Hai
người tình cờ gặp nhau trên xe buýt, tán gẫu vài
chuyện cho vui, sau đó không gặp lại nhau nữa;
Hai nhà khoa học gặp nhau trong một hội thảo
khoa học quốc tế, sau đó không bao giờ gặp lại
nhau nữa v.v.
Tương tác xã hội là loại tiếp xúc hội một
cách thường xuyên.Tương tác hội chỉ thể
xẩy ra khi ít nhất hai chủ thể hành động trở
lên có tác động tương hỗ với nhau nhiều lần.
Tương tác hội lặp lại (repeated
interaction) loại tương tác ngẫu nhiên không
có kế hoạch không chủ đích nhưng nó vẫn được
lặp lại. dụ: các thành viên trong gia đình
thường xuyên tương tác với nhau nhưng không
đặt ra một kế hoạch nào cụ thể.
Tương tác thường xuyên, phổ biến (regular
interaction) loại tương tác lặp lại diễn ra
thường xuyên. dụ: tương tác giữa cán bộ
trong một quan, tương tác giữa các công
nhân trong xí nghiệp, nhà máy v.v.
Tương tác hội một thuộc tính quan
trọng đó việc các chủ thể sử dụng ý nghĩa
biểu trưng. Biểu trưng định nghĩa hay xác định
các quan hệ hội, nếu thiếu biểu trưng hành
động của chúng ta cũng chẳng hơn hành vi
của động vật (sử dụng các điệu bộ).
Tương tác có điều tiết (regulatedinteraction)
là loại tương tác thường xuyên nhưng được điều
chỉnh bởi những do nào đó để hình thành
những mối liên hệ xã hội hay quan hệ xã hội
tính chất riêng, đặc thù theo từng nhóm hội.
Các loại tương tác này được điều chỉnh bới hệ
thống luật pháp, thói quen xã hội, truyền thống.
dụ: Những cán bộ trong một quan tuôn
thủ quy chế làm việc, pháp luật của nhà nước,
nếu người nào vi phạm những điều nói trên sẽ
bị phạt theo mức độ vi phạm.
Quan hệ hội được hình thành trên sở
của những tương tác hội(4,88) đã được điều
chỉnh, tức mối liên hệ giữa các thành viên
thường xuyên, ơng tác được lặp đi lặp lại tạo
thành các đường dây kết nối các chủ thể hành
động lại với nhau tạo nên quan hệ xã hội.
Quan hệ hội một hệ thống các tương
tác xã hội. Quan hệ xã hội là nơi các hành động
hội diễn ra thường xuyên, lặp đi lặp lại, nhờ
đó hình thành các hình quan hệ
hội để từ đó tạo ra các nhóm hội hay các
dạng hội, các thiết chế hội hay các tổ
chức xã hội với những cấu trúc xã hội xác định.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể vẽ
ra một hình tiến hoá hành động xã hội theo
các thuyết xã hội học vi mô như sau :
Hành vi hành động hành vi hội
hành động xã hội tiếp xúc xã hội tương tác
hội tương tác hội lặp lại tương tác
hội phổ biến tương tác hội đã được
điều chỉnh Quan hệ xã hội xã hội.
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87
86
Lược đồ trên cho phép nhà phân tích hội
thể tiếp cận theo phương pháp diễn dịch tức
đi từ hội (cái tổng thể, cái chung) đến các
hành vi hội (cái đơn nhất, cái riêng) hoặc
phương pháp qui nạp tức tổng hợp từ các
hành vi đến các quan hệ xã hội rồi đến xã hội.
4. Kết luận
Trong xã hội học kinh điển, ngay từ thời kỳ
đầu đã xuất hiện hai dòng lý thuyết chính
thuyết xã hội học vi mô và vĩ mô. Cho đến nay,
các dòng lý thuyết chính thống đó vẫn tồn tại và
phát triển ngày càng phức tạp hoàn thiện
hơn. Lý thuyết hội học vi được khởi đầu
bởi M. Weber với thuyết hành động hội;
G. Simmel với thuyết tương tác hội.
thuyết hội học được khởi đầu bởi
thuyết chức năng của E. Durkheim thuyết
tiến hóa hội của H. Spencer, cấu trúc luận
của K. Marx. Cả hai thuyết đều tập trung
nghiên cứu mối quan hệ giữa con người
hội. Tuy nhiên hai cách tiếp cận khác nhau.
Thuyết vi mô nhấn mạnh vai trò chủ động, tích
cực ý thức của nhân được thể hiện
trong các tương tác xã hội các quan hệ xã hội là
yếu tố quyết định tạo ra hội. Thuyết chức
năng nhấn mạnh vai trò của chức năng hội
được cấu trúc tiềm tàng trong cơ thể xã hội (cấu
trúc hội) nhân tố trước khách quan
quyết định hành động hội của nhân. Hai
cách tiếp cận vi đều thể hiện cả
mặt tích cực lẫn phiến diện thiếu sót trong việc
phân tích hội. thế, thuyết hội hậu
hiện đại đi tìm cách tiếp cận tích hợp hai
thuyết vi-vĩ mô. Bài viết “ Mô hình phân tích xã
hội theo thuyết hội học vi mô” đã trình
bày và phân tích các khái niệm cơ bản trong
hội học vi trên sở đó đưa ra hình
thuyết phân tích quá trình hình thành tiến
hóa của quan hệ cá nhân-xã hội.
Tài liệu trích dẫn
[1] Gordall Marshall. The Concise Oxford Dictionary
of Sociology, Oxford university Press, 1994.
[2] G.H.Mead, (1934/1962). Mind, self, and
society.Chicago: University of Chicago Press.
[3] G. Ritzer, Modern Sociological Theory, McGraw
Hill Book, 1996.
[4] John Scott, Social Theory: Central Issues in
Sociology, SAGE Publications Ltd, 2006.
[5] Bryan,S. Turner, The Cambridge Dictionary of
Sociology, Cambridge University Press, 2006.
[6] Bryan S. Turner, Classical Sociology ,SAGE
Publications Inc, 1999.
[7] M. Вебер, Избранные произрения, Mосква
“прогресс”, 1990. ( M. Weber tuyển tập, nguyên
bản dịch từ tiếng Đức sang tiếng Nga, Nhà xuất
bản Tiến bộ, Matxcơva, 1990)
Social Analysis Model in Micro-Sociological Theory
Vũ Hào Quang
The Academy of Journalism and Communication, 36 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội
Abstract: There are two main theories in sociology as an independent social science: the micro-
sociological theory and the macro-sociological theory.
The micro approach views the formations of society as outcome of a chain reaction that comes
from the smallest degrees of social actions, social interactions and social relations among individuals,
social groups and the society as a whole.
Meanwhile, the macro approach analyzes society at the macro level which means looking at social
relations among classes, castes, communities, social groups, social organizations, and social institutes
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87
87
within a society as a system or a social body. This approach considers individual and its social
behavior or social action as a result of the operation of multi functions that were structured within the
society.
This article analyzes the macro approach and proposes a model for social analysis which is based
on analysis of basic definitions in sociological macro approach theory.
Keywords: Behavior, action, social behavior, social action, social contract, social interaction,
social relation, society, micro-sociological theory.
| 1/8

Preview text:

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87
Mô hình phân tích xã hội theo lý thuyết xã hội học vi mô Vũ Hào Quang*
Học viện Báo Chí và Tuyên Truyền, 36 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Tóm tắt: Trong lý thuyết xã hội học, tồn tại hai dòng lý thuyết chính thống ngay từ khi nó trở
thành một khoa học độc lập, đó là lý thuyết xã hội học vi mô và vĩ mô. Cách tiếp cận vi mô xem
xã hội là kết quả của quá trình hành động xã hội, tương tác xã hội, quan hệ xã hội diễn ra từ cấp độ
nhỏ nhất giữa các cá nhân với nhau cho tới các nhóm xã hội rồi xã hội tổng thể. Lý thuyết xã hội
học vĩ mô phân tích xã hội ở cấp độ vĩ mô tức là các quan hệ xã hội diễn ra trong các tầng lớp, giai
cấp, cộng đồng, nhóm xã hội, tổ chức xã hội trong một tổng thể xã hội với tư cách là một hệ thống hay
một cơ thể xã hội. Tiếp cận vĩ mô coi con người và hành vi xã hội hay hành động xã hội của nónhư là
một kết quả được tạo ra bởi sự vận hành các chức năng đã được cấu trúc trong xã hội. Bài báo này chỉ
phân tích cách tiếp cận vi mô xã hội và đề xuất mô hình phân tích xã hội trên cơ sở phân tích các khái
niệm cơ bản trong xã hội học vi mô.
Từ khóa: Hành vi, hành động, hành vi xã hội, hành động xã hội, tiếp xúc xã hội, tương tác xã hội,
Quan hệ xã hội, xã hội, lí thuyết xã hội học vi mô.
1. Đặt vấn đề
đột (còn gọi là thuyết đấu tranh giai cấp) của
Trong lý thuyết xã hội học hiện đại các nhà
Mác [6]. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ đề
lý thuyết thừa nhận một cách rộng rãi các dòng
cập đến một số lý thuyết chính thuộc dòng lý
lý thuyết chủ đạo là lý thuyết vi mô và vĩ mô.
thuyết vi môvới những khái niệm cơ bản của nó
Lý thuyết vi mô cho rằng, xã hội được cấu tạo
để xây dựng một khung lí thuyết phân tích xã
bởi những con người với những mục đích cụ
hội. Điều này được bắt đầu bằng việc sử dụng
thể của họ, bản chất của xã hội mang tính nhân
các khái niệm cơ bản của trong các lý thuyết xã
văn và xã hội do con người kiến tạo nên bởi các
hội học vi mô của M. Weber, G. Simmel, G.
quan hệ xã hội của nó.Trong khi đó,Lý thuyết
Mead. M. Weber là nhà lý thuyết xã hội học
xã hội học vĩ mô cho rằng, con người là sản
kinh điển có vai trò khởi thủy đối với dòng lý
phẩm của xã hội, do xã hội khuôn đúc, nặn lên
thuyết vi mô trong Xã hội học với lý thuyết
(E. Durkheim) [3].Muốn phân tích xã hội cần
hành động xã hội nổi tiếng của ông. Theo M.
phải xem nó như một tổng thể có cấu tạo phù
Weber, muốn hiểu được xã hội phải cắt nghĩa
hợp với chức năng xác định cũng giống như cơ
hay lý giải động cơ hành động của con người
thể của một con người (A. Comte; E.
trong những điều kiện lịch sử, văn hóa xã hội
Durkheim; H. Spencer). Một tiếp cận độc đáo
cụ thể tức là ý nghĩa chủ quan của hành động
khác cũng được xếp vào hàng các lý thuyết vĩ
của chủ thể có liên quan đến hành vi của người
mô đó là cấu trúc luận Mác xít trong đó bao
khác như thế nào. Quan điểm phân tích xã hội
gồm cả thuyết cấu trúc xã hội lẫn thuyết xung
từ phân tích hành động xã hội được coi là
nhiệm vụ đồng thời cũng là đối tượng của xã _______
hội học do M. Weber đề xuất [7]. M. Weber gọi ĐT.: 84-913372726
hành vi của cá nhân gắn với ý nghĩa chủ quan
Email: vuhaoquang@gmail.com 80
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87 81
(субъективнный смысл/subjective meaning) là
theo mô hình các lí thuyết vi môở đây là rất cần
hành động xã hội. Mỗi cá thể và hành vi của nó
thiết để giúp cho các nhà nghiên cứu và giảng
là “tế bào” của các khoa học Xã hội học và Sử
dạy xã hội học ở Việt Nam có thêm tư liệu để
học, nói cách khác, nó là đơn vị phân tích nhỏ
đối chiếu, so sánh với các tư liệu đã có nhằm
nhất không thể phân chia được nữa. Xã hội học
nâng cao chất lượng giảng dạy nghiên cứu và
cũng nghiên cứu hành vi như Tâm lý học nhưng truyền bá xã hội học.
Xã hội học chỉ nghiên cứu loại hành vi mà chủ
thể hành động (một người hoặc một nhóm
người) lý giải và thông hiểu được ý nghĩa của
2. Một số đặc trưng cơ bản của các thuyết xã
nó có liên quan đến hành vi của người khác như hội học vi mô
thế nào. Chính ranh giới “tinh tế” này mà có
một số ngườichưa có điều kiện tiếp cận với các
Các lý thuyết xã hội học vi mô đều bắt
tác phẩm kinh điển của M. Weber có thể bị
nguồn từ việc nghiên cứu hành vi, hành động,
nhầm lẫn giữa khái niệm hành vi trong tâm lý
tương tác, quan hệ xã hội giữa con người trong
học với hành vi trong xã hội học cũng như hành
phạm vi và quy mô nhỏ để từ đó khái quát và
động và hành động xã hội [7]. Bên cạnh và
suy rộng ra xã hội lớn, xã hội tổng thể. Các nhà
cùng thời với M. Weber, ở Đức còn có một nhà
lý thuyết xã hội học vi mô đều coi con người là
lý thuyết nổi tiếng khác nữa là G. Simmel(1858-
nhân vật chủ thể cấu tạo nên xã hội thông qua
1918) đưa ra khái niệm tương tác xã hội cũng rất
các hình thức quan hệ xã hội của nó. Con người
gần với khái niệm hành động xã hội của Weber.
xã hội được cấu trúc bởi hai phần là phần xã hội
Tuy nhiên khái niệm tương tác xã hội của
và phần cá thể mang tính loài (con). Phần cá thể
G.Simmel chú ý tới hình thức tương tác và các
(individual) bao gồm các nhân tố sinh học ( cơ
loại tác nhân trên cơ sở đó giải thích các hình
thể), các thuộc tính tâm sinh lý cá thể, các sở
thức quan hệ xã hội trong các nhóm hai người,
hữu vật chất tinh thần cá thể ( kể cả cái tự do
ba người và vai trò của “kẻ lạ” trong việc hình
với tư cách là quyền con người đối với nhà
thành và biến đổi các quan hệ, liên kết trong
nước hay xã hội). Phần xã hội bao gồm các sản
nhóm cũng như giữa các nhóm xã hội thành
phẩm văn hóa do cá nhân (person) tạo ra trong
nhóm lớn ( xã hội). M. Weber coi hành động xã
quá trình lao động cùng với người khác. Cá
hội là đơn vị nhỏ nhất, cơ bản để hình thành nên
nhân trong đời sống xã hội phải tương tác với
các quan hệ xã hội và xã hội nói chung ( văn
người khác dưới nhiều hình thức và cấp độ khác
hóa, tôn giáo, chính trị, trật tự xã hội, thiết chế xã
nhau để tồn tại.Từ đây các lý thuyết khác nhau
hội…). Khái niệm hành động xã hội (Weber),
có cách lý giải khác nhau. Thuyết hành động xã
tương tác xã hội( Simmel) đã trở thành các khái
hội của M. Weber cho rằng, trong quá trình
niệm nền tảng, kinh điển đối với các lý thuyết vi
hành động xã hội các cá nhân sử dụng công cụ
mô như: Tương tác biểu trưng( H. Mead), thuyết
là các tư duy duy lý gắn liền với các hành động
Trao đổi xã hội (G. Homans; P. Blau),thuyết
có mục đích, có ý thức hoặc hành động vì một
Trao đổi trong mạng lưới xã hội(R. Emerson),
giá trị nào đó. Đây là hai điển loại hành động
thuyết Phương pháp luận thực hành (H.
quan trọng nhất đối với phân tích xã hội học về
Garfinkel) v.v.Vào khoảng những năm 1980 của
xã hội. Ngoài ra Weber còn nêu ra hai điển loại
thế kỷ XX đã nổi nên trào lưu tích hợp hai dòng
hành động khác đó là hành động thiên về tình
lý thuyết vi-vĩ mô trong phân tích xã hội(P. Blau;
cảm xúc cảm và hành động truyền thống theo
H. Blumer). Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ
thói quen xã hội. Theo M. Weber, thuyết hành
XX, ngay trong các lý thuyết vi mô đã có xu
động xã hội phân tích xã hội từ cấp độ nhỏ nhất
hướng tích hợp vĩ mô và ngược lại. Tuy nhiên,
là hai người đến toàn bộ xã hội tổng thể nhờ
việc tích hợp vi- vĩ mô có xu hướng cực đoan,
vào việc phân tích các điển loại hành động xã
tức là quá thiên về thuyết vi mô. Do vậy, việc
hội tức là một mô hình phân tích về tính đặc
giới thiệu một khung lý thuyết phân tích xã hội
trưng phổ biến của xã hội cả quá khứ, hiện tại
lẫn tương lai. Các hành vi và hành động cá nhân 82
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87
là nhân tố đơn giản nhất thuộc cấp độ phân tích
nghiên cứu mô hình S R của B.F. Skiner trên
tâm lý học cá nhân, không phải nhiệm vụ chính
chim bồ câu khẳng định các phản xạ có điều
của phân tích xã hội học. Tuy nhiên hành vi xã
kiện hay các kích thích được củng cố sẽ biến
hội, hành động xã hội lại là khái niệm khởi thuỷ
thành tập tính của động vật. Mối quan hệ của cơ
để phân tích xã hội. Nhà xã hội học cần phải cắt
thể (động vật) đối với các loại kích thích qua
nghĩa ( hay thông hiểu) động cơ thúc đẩy hành
tương quan thưởng- phạt đã được Pavlốp phát
động là cái thuộc về nhân tố duy lý mục đích,
hiện trên thí nghiệm với con chó đã được vận
duy lý giá trị hay chỉ là các nhân tố xúc cảm
dụng triệt để để giải thích hành vi con người
hoặc nhân tố truyền thống, thói quen xã hội.
trong các thuyết hành vi. Điều này có ý nghĩa
Hơn nữa, trong quá trình thực hiện hành động
vô cùng quan trọng trong nghiên cứu giáo dục
xã hội bắt buộc phải có hành vi định hướng vào
cũng như điều chỉnh hành vi trong quan hệ
đối tượng, tức là người khác (chứ không phải là người.
đối tượng phi con người, ví dụ: thức ăn). Xã hội
Tuy nhiên, thuyết hành vi chịu nhiều phê
học là khoa học nghiên cứu hành đọng xã hội.
phán từ các nhà xã hội học và tâm lý học xã
Hành động xã hội là hành vi được chủ thể gắn
hội; cho rằng, thuyết hành vi chỉ mô tả được
vào đó ý nghĩa chủ quan của mình trên cơ sở đó
những cái mà con người đã và đang làm chứ
cắt nghĩa, thông hiểu và định hướng vào hành
không mô tả được những cái mà con người
vi của người khác. Trong khi đó, Tâm lý học
đang nghĩ, đang cảm giác. Mặc dù thuyết hành
giải thích cái thúc đẩy hành động của con người
vi bị phê phán, các nhà tâm lý học xã hội và xã
là nhu cầu và việc thỏa mãn nhu cầu của cá
hội học (G.H.Mead; G. Homans) vẫn sử dụng
nhân; Tâm lý học nghiên cứu quá trình, trạng
triệt để khái niệm hành vi với một cái tên mới
thái và thuộc tính tâm lí cá nhân. Đó là điểm
là hành vi xã hội trong lý thuyết tương tác xã
khác biệt về đối tượng nghiên cứu của Xã hội
hội của mìnhnhưng nhấn mạnh vai trò của ý
học và tâm lý học theo quan điểm của M. thức cá nhân. Weber.
Hành vi xã hội được sử dụng từ thuyết
Để hiểu được hành vi xã hội và hành động
hành động xã hội của M. Weber cho đến các lý
xã hội, xã hội học cũng phải “vay mượn” khái
thuyết tương tác biểu trưng của H. Mead và
niệm hành vi và hành động của Tâm lý học.
thuyết trao đổi xã hội của G. Homans. Đối với
Hành vi là phản ứng xác định, có thể đo
H. Mead, hành vi xã hội được hiểu là loại hành
lường, nhận thức được của cơ thể đối với các
động có ý nghĩa và hướng vào người khác. Điều
kích thích từ bên trong hay bên ngoài [1,27].
này biểu hiện rõ trong khái niệm cái tôi cá nhân
Năm 1913, John B. Watson cho rằng, nghiên
(self) mà ông coi là phức hợp của cái tôi cá thể
cứu nhận thức của cá nhân bằng phương pháp
(I) và cái tôi xã hội (Me)[3]. Vì thế phân tích xã
tự kiểm tra, đánh giá không thể đưa ra những
hội thực chất là phân tích tương tác xã hội giữa
kết quả khách quan vì nó bị khúc xạ bởi lăng
các cá nhân, xã hội được hình thành từ các cá
kính chủ quan. Chỉ có thể nghiên cứu chính nhân(self).
xác, khách quan bằng phương pháp thực chứng
Hành động( The act) [3] của con người trải
tức là đo đạc các biến số tác động thông qua các
qua bốn giai đoạn. Giai đoạn đầu có tên là “kích
phản ứng của cơ thể trước những kính thích từ
thích”. Trong giai đoạn hành động này, hành vi
trong hay ngoài. Cơ thể bao chứa tổ hợp các
của con người giống động vật tức là bị chi phối
phản ứng hay năng lực phản ứng trước các kích
bởi quan hệ S R. Tuy nhiên, con người không
thích. Nói cách khác, kích thích nào thì phản
phản ứng như động vật. Nó lưu trữ lại các kích
ứng nấy theo công thức S R. Trong khoa học
thích đó để phân tích. Ví dụ: trạng thái đói kích
hành vi, người ta luôn nhắc tới phát kiến quan
thích con người muốn ăn. Giai đoạn hai có tên “
trọng của nhà sinh lí học người Nga có tên
nhận thức”. Trong giai đoạn hai, con người
Pavlốp về phản xạ có điều kiện đã được nhận
nghiên cứu khám phá nội dung của kích thích
giải thưởng Nobel năm 1904. Những kết quả
thông qua các thao tác: nghe, nhìn, sờ, ngửi v.v.
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87 83
Giai đoạn ba có tên “thao tác hoá đối tượng”.
niệm của G. Simmel về tương tác xã hội, về
Khi đã nhận thức được đối tượng qua việc
triết lý đồng tiền, về nhóm hai người, nhóm ba
nghiên cứu bằng nhận thức và các giác quan
người, nhân vật lạ(stranger) v.v.,đã ảnh hưởng
của mình, con người thao tác hoá các đối tượng
sâu sắc đến các nhà xã hội học Chicago những
đó qua việc kiểm tra lại các thông tin trên đối
năm 1920-1930[3,36-37], đặc biệt là trường
tượng có phù hợp với tri thức hay sự hiểu biết
phái tương tác biểu trưng Chicago mà người
của chủ thể về đối tượng đó không; trì hoãn
đứng đầu là H. Mead và người tiếp theo là H.
việc trả lời kích thích để kiểm tra độ chân thực Blumer.
của nhận thức. Ví dụ: trông thấy cây nấm, hái
Tương tác xã hội là quá trình thực hiện các
nấm, quan sát hình thù và màu sắc cây nấm,
hành động xã hội giữa hai hay nhiều cá nhân.
nhớ lại những hiểu biết về nấm, tìm sách hướng
Thuyết tương tác biểu trưng nhấn mạnh vào ý
dẫn việc ăn nấm [3,194-196]v.v. Giai đoạn bốn
nghĩa biểu trưng trong tương tác xã hội. Để cắt
có tên “ hoàn thành hành động” hay “thực hiện
nghĩa khái niệm tương tác biểu trưng, Mead
hành động”. H. Mead chỉ rõ việc thoả mãn cái
đưa ra khái niệm điệu bộ và các biểu trưng ý
đói của con người và con vật khác nhau. Con nghĩa.
vật thoả mãn cái đói bởi quy tắc thử và sai, con
người nhờ có ý thức và biểu trưng nên đã kiểm
Điệu bộ (gesture) là những cử chỉ của cơ
thể thứ nhất có tác động như một kích thích đặc
tra và tính toán kỹ các giai đoạn của hành động
thù gây ra phản ứng có tính phù hợp (xã hội)
nên nó chỉ hành động khi hiểu rõ về đối tượng.
của cơ thể thứ hai. Điệu bộ có ở cả động vật lẫn
Theo Mead, hành động khác với hành động
ở người. Tuy nhiên , vì con người có ý thức nên
xã hội ở chỗ hành động chỉ liên quan tới một cá
việc sử dụng điệu bộ phức tạp hơn nhiều so với
nhân hay một con người, trong khi hành động
con vật. Điệu bộ là một dạng biểu trưng của con
xã hội liên quan ít nhất từ hai cá nhân trở
người trong giao tiếp xã hội. Điệu bộ có chức
lên[3,98]. Khái niệm hành động xã hội được coi
năng điều chỉnh những hành vi trong khung
là đơn vị nhỏ nhất trong quan hệ xã hội được
cảnh cụ thể có liên quan đến hành vi hay thái độ
các nhà xã hội học vi mô thừa nhận trong phân
của những người tham gia tương tác[2,46]. Ví
tích xã hội. Từ khái niệm hành động xã hội, các
dụ , người mẹ nhăn mặt khi đứa con của mình
nhà xã hôi học lý giải các quan hệ cá nhân và
làm cái gì đó, điệu bộ nhăn mặt thông báo cho
liên cá nhân trong nhóm và giữa các nhóm tạo
đứa con biết là việc đó không nên làm vì mẹ nó
thành xã hội. Xã hội được hiểu là một nhóm lớn
không đồng ý. Điệu bộ có ý nghĩa chỉ có ở con
gồm nhiều nhóm nhỏ mà hạt nhân là các cá
người nhờ khả năng giao tiếp bằng lời và ý
nhân.Cá nhân là người thực hiện hành động xã
thức. Ngôn ngữ là loại điệu bộ có ý nghĩa. Ví
hội.Hành động xã hội tồn tại với điều kiện là
dụ: khi ta nói từ chó hay từ mèo thì người nghe
phải có ít nhất từ hai người trở lên có tác động
đã hình dung được ý nghĩa của từ đó. Biểu
qua lại với nhau.Vì vậy, việc thực hiện hành
trưng ý nghĩa là những gì mà chủ thể thứ nhất
động xã hội thực chất đã là tương tác xã
phát ra đều được các chủ thể thứ hai hoặc thứ
hội.Tuy nhiên, người khởi thủy thuyết hành
ba hiểu và cắt nghĩa tương tự. Trong quá trình
động xã hội là M. Weber chưa sử dụng khái
tương tác xã hội, các mối quan hệ xã hội được
niệm tương tác xã hội.Khái niệm tương tác xã
thiết lập. Con người trong truyền thông hay
hội được sử dụng đầu tiên trong xã hội học của
giao tiếp thường hình dung về vị trí của người
Georg Simmel với tư cách là sự tác động tương
khác để đóng vai dựa trên các ý nghĩa biểu
hỗ giữa hai hoặc nhiều cá nhân.Việc phân tích
trưng chung. Trong quá trình đóng vai, cá nhân
xã hội ở cấp độ vi mô là phân tích tương tác
nhận dạng được chỗ đứng của mình trong quan
nhóm hai người, nhóm ba người. Việc phân tích
hệ với người khác.Trong khoa học xã hội (Tâm
các hình thức tương tác (forms of interaction)
lý học, nhân chủng học và xã hội học), người ta
và các loại hình tác nhân (types of interactants)
phân biệt 2 cấp độ hành động của con người là:
là nhiệm vụ quan trọng của xã hội học. Quan
hành vi, hành động (cấp độ phân tích tâm lý 84
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87
học), hành vi xã hội, hành động xã hội (cấp độ
xã hội nằm ở cấp độ cao và phức tạp hơn hành
phân tích xã hội học). Khi nói tới hành vi thuần
động cá nhân. Nếu một người thực hiện một
túy của con người đó chính là loại hành vi cá
hành động có ý nghĩa có mục đích nhưng không
thể được xem xét trong lĩnh vực tâm lí học
liên quan đến người khác thì hành động đó
(không quên rằng, khái niệm hành vi còn được
không phải là hành vi xã hội. Hành động xã hội
sử dụng cho cả máy móc với tư cách là sự di
được M. Weber định nghĩa là loại hành vi được
động của máy móc trong không gian).
định hướng vào hành vi quá khứ, hành vi hiện
Tiếp theo sau thuyết hành động xã hội của
tại và hành vikỳ vọng (tương lai gần) của những
M. Weber, thuyết tương tác xã hội của G.
người khác. Loại hành vi định hướng vào người
Simmel, thuyết tương tác biểu trưng của H.
khác chính là hành vi xã hội vì nó liên quan đến
Mead là các thuyết Trao đổi xã hội của P.
những người khác. Khái niệm hành động xã hội
Blau,G. Homans, thuyết Trao đổi mạng lưới
và hành vi xã hội được M. Weber sử dụng
của R.Emerson, thuyết Phương pháp luận thực
tương tự như nhau trong trường hợp hành động
hành của H.Garfinkel cũng được xếp vào
ngoài. Những loại hành động định hướng vào
thuyết xã hội học vi mô.
các hành vi của các đối tượng bên ngoài không
phải con người không được gọi là hành động xã
hội. Các loại hành động bên trong (tâm lý) cũng
3. Các khái niệm cơ bản và mô hình phân
không gọi là hành động xã hội nếu nó không tích xã hội
định hướng vào hành vi của những người khác.
M. Weber coi hành động xã hội là hành động cá
Như đã trình bày ở trên, chúng ta cần bắt
nhân (cả trong lẫn ngoài) định hướng vào hành
đầu từ những khải niệm khởi thủy mà Lý thuyết
vi của người khác trên cơ sở cái ý nghĩa chủ
xã hội học vi mô vay mượn hay lấy nguồn gốc
quan của chủ thể hành động(7, 602-603). Như từ Tâm lý học.
vậy, hành động xã hội trước tiên phải là loại
Hành vi (behavior) tuân thủ quy tắc S R,
hành động tâm lý của cá nhân tức là hành động
tức là cứ có kích thích thì có phản ứng phù hợp
đó có mục đích có ý nghĩa (giá trị), sau đó là
với tính chất của kích thích đó[5,34]. Trong quá
năng lực định hướng (thông hiểu) của chủ thể
trình thực hiện hành vi, cơ thể không cần sử
vào đối tượng, tức là tính toán tới khả năng
dụng tới nhận thức hay ý thức hoặc người phân
phản ứng từ phía đối tác để điều chỉnh hành vi
tích hành vi không quan tâm đến vai trò của
của mình. Trong quá trình hành động con người
nhân tố ý thức. Hành vi là động tác hay sự di
hoàn toàn tự điều chỉnh hành vi theo ý nghĩa
chuyển cơ thể (người, động vật). Hành vi là
chủ quan của chính bản thân cho phù hợpvới
phản ửng của cơ thể đối với một kích thích nào
hoàn cảnh, tình huống vì thế phải coi nó như là đó.
chủ thể hành động chứ không phải là một diễn
Hành động (action) là hành vi của con
viên chỉ khoác cái “vai” của người khác một
người có kèm theo ý nghĩa và mục đích nhất cách thụ động.
định. Nói theo ngôn ngữ tiến hoá, hành động là
Từ những lập luận trên, tôi định nghĩa hành
loại hành vi có kèm theo ý nghĩa chủ quan của
động xã hội như sau: Hành động xã hội là hành
cá nhân để thực hiện một mục đích nào đó. Tuy
động có mục đích có ý nghĩa của cá nhân trên
nhiên cấp độ phân tích hành động và ý nghĩa
cơ sở định hướng tới hành vi của người khác và
cũng như mục đích của hành động thuộc phạm
có tính toán cân nhắc tới phản ứng đáp lại của
trù nghiên cứu của Tâm lý học. người đó.
Hành vi xã hội (social behaviors) là
Hành động xã hội là loại hành vi xã hội
hành động có mục đích có ý nghĩa và hướng
không những chỉ có ý nghĩa chủ quan của chủ
(định hướng) tới người khác [1]. Khái niệm
thể hành động có liên quan đến người khác mà
hành vi xã hội được Weber sử dụng để miêu tả
còn có thêm một thuộc tính nữa là trạng thái
hành động xã hội [7,625-633]. Như vậy hành vi
chờ đợi sự phản ứng từ phía người khác theo
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87 85
cách cắt nghĩa, suy nghĩ của chính chủ thể hành
thường xuyên tương tác với nhau nhưng không
động đó. Ví dụ: Mua hoa tặng bạn gái nhân
đặt ra một kế hoạch nào cụ thể.
ngày sinh nhật; Khi người bạn trai tặng hoa bạn
Tương tác thường xuyên, phổ biến (regular
gái, trong đầu anh ta xuất hiện ý nghĩ về phản
interaction) là loại tương tác lặp lại và diễn ra
ứng từ phía bạn gái: sự vui vẻ, nụ cười, lời cám
thường xuyên. Ví dụ: tương tác giữa cán bộ
ơn từ phía bạn gái của mình; và cũng có thể là
trong một cơ quan, tương tác giữa các công
sự thờ ơ, thậm chí phản ứng tiêu cực của bạn
nhân trong xí nghiệp, nhà máy v.v.
gái...Như vậy hành động xã hội xuất phát từ
Tương tác xã hội có một thuộc tính quan
người thứ nhất có liên quan tới hành động của
trọng đó là việc các chủ thể sử dụng ý nghĩa
người thứ hai. Trạng thái chờ đợi phản ứng của
chủ thể thứ nhất (hành động xã hội diễn ra bên
biểu trưng. Biểu trưng định nghĩa hay xác định
các quan hệ xã hội, nếu thiếu biểu trưng hành
trong) đối với chủ thể thứ hai để tiếp tục chuẩn
động của chúng ta cũng chẳng hơn gì hành vi
bị phương án “ứng phó” với phản ứng của chủ
thể thứ hai chính là điểm khác biệt giữa hành
của động vật (sử dụng các điệu bộ).
động xã hội và hành vi xã hội. Hành vi xã hội
Tương tác có điều tiết (regulatedinteraction)
diễn ra bên ngoài là kết quả của quá trình
là loại tương tác thường xuyên nhưng được điều
“thông hiểu (understanding)” diễn ra bên trong
chỉnh bởi những lý do nào đó để hình thành chủ thể hành động.
những mối liên hệ xã hội hay quan hệ xã hội có
tính chất riêng, đặc thù theo từng nhóm xã hội.
Sự khác nhau giữa hành động xã hội và
hành vi xã hội chỉ phân biệt ở một điểm đó là
Các loại tương tác này được điều chỉnh bới hệ
thống luật pháp, thói quen xã hội, truyền thống.
hành vi xã hội không tính toán, chờ đợi phản
ửng đáp lại từ phía người khác, trong khi hành
Ví dụ: Những cán bộ trong một cơ quan tuôn
thủ quy chế làm việc, pháp luật của nhà nước,
động xã hội có đầy đủ các thuộc tính của hành
nếu người nào vi phạm những điều nói trên sẽ
vi xã hội đồng thời có thêm một thuộc tính nữa
là sự chờ đợi khả năng phản ứng lại từ phía
bị phạt theo mức độ vi phạm. người khác.
Quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở
của những tương tác xã hội(4,88) đã được điều
Tiếp xúc xã hội (social contact) là một cặp
của hành động xã hội, một hình thức đầu tiên
chỉnh, tức là mối liên hệ giữa các thành viên
thường xuyên, tương tác được lặp đi lặp lại tạo
của tương tác xã hội.Tiếp xúc xã hội là loại
thành các đường dây kết nối các chủ thể hành
tương tác xã hội một lần hoặc loại tương tác ít
khi lặp lại. Tiếp xúc xã hội là loại hành động xã
động lại với nhau tạo nên quan hệ xã hội.
hội diễn ra giữa hai hoặc nhiều chủ thể (cá
Quan hệ xã hội là một hệ thống các tương
nhân) một lần hoặc ngẫu nhiên. Ví dụ: Hai
tác xã hội. Quan hệ xã hội là nơi các hành động
người tình cờ gặp nhau trên xe buýt, tán gẫu vài
xã hội diễn ra thường xuyên, lặp đi lặp lại, nhờ
chuyện cho vui, sau đó không gặp lại nhau nữa;
đó mà nó hình thành các mô hình quan hệ xã
Hai nhà khoa học gặp nhau trong một hội thảo
hội để từ đó tạo ra các nhóm xã hội hay các
khoa học quốc tế, sau đó không bao giờ gặp lại
dạng xã hội, các thiết chế xã hội hay các tổ nhau nữa v.v.
chức xã hội với những cấu trúc xã hội xác định.
Tương tác xã hội là loại tiếp xúc xã hội một
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể vẽ
cách thường xuyên.Tương tác xã hội chỉ có thể
ra một mô hình tiến hoá hành động xã hội theo
xẩy ra khi có ít nhất hai chủ thể hành động trở
các thuyết xã hội học vi mô như sau :
lên có tác động tương hỗ với nhau nhiều lần.
Hành vi hành động hành vi xã hội
Tương tác xã hội lặp lại (repeated
hành động xã hội tiếp xúc xã hội tương tác
interaction) là loại tương tác ngẫu nhiên không
xã hội tương tác xã hội lặp lại tương tác
có kế hoạch không chủ đích nhưng nó vẫn được
xã hội phổ biến tương tác xã hội đã được
lặp lại. Ví dụ: các thành viên trong gia đình
điều chỉnh Quan hệ xã hội xã hội. 86
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87
Lược đồ trên cho phép nhà phân tích xã hội
quyết định hành động xã hội của cá nhân. Hai
có thể tiếp cận theo phương pháp diễn dịch tức
cách tiếp cận vi mô và vĩ mô đều thể hiện cả
là đi từ xã hội (cái tổng thể, cái chung) đến các
mặt tích cực lẫn phiến diện thiếu sót trong việc
hành vi xã hội (cái đơn nhất, cái riêng) hoặc
phân tích xã hội. Vì thế, lý thuyết xã hội hậu
phương pháp qui nạp tức là tổng hợp từ các
hiện đại đi tìm cách tiếp cận tích hợp hai lý
hành vi đến các quan hệ xã hội rồi đến xã hội.
thuyết vi-vĩ mô. Bài viết “ Mô hình phân tích xã
hội theo lý thuyết xã hội học vi mô” đã trình
bày và phân tích các khái niệm cơ bản trong xã 4. Kết luận
hội học vi mô trên cơ sở đó đưa ra mô hình lý
thuyết phân tích quá trình hình thành và tiến
Trong xã hội học kinh điển, ngay từ thời kỳ
hóa của quan hệ cá nhân-xã hội.
đầu đã xuất hiện hai dòng lý thuyết chính là lý
thuyết xã hội học vi mô và vĩ mô. Cho đến nay,
các dòng lý thuyết chính thống đó vẫn tồn tại và
Tài liệu trích dẫn
phát triển ngày càng phức tạp và hoàn thiện
hơn. Lý thuyết xã hội học vi mô được khởi đầu
[1] Gordall Marshall. The Concise Oxford Dictionary
bởi M. Weber với lý thuyết hành động xã hội;
of Sociology, Oxford university Press, 1994.
G. Simmel với lý thuyết tương tác xã hội. Lý
[2] G.H.Mead, (1934/1962). Mind, self, and
thuyết xã hội học vĩ mô được khởi đầu bởi
society.Chicago: University of Chicago Press.
thuyết chức năng của E. Durkheim và thuyết
[3] G. Ritzer, Modern Sociological Theory, McGraw
tiến hóa xã hội của H. Spencer, cấu trúc luận Hill Book, 1996.
của K. Marx. Cả hai thuyết đều tập trung
[4] John Scott, Social Theory: Central Issues in
Sociology, SAGE Publications Ltd, 2006.
nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và xã
[5] Bryan,S. Turner, The Cambridge Dictionary of
hội. Tuy nhiên hai cách tiếp cận là khác nhau.
Sociology, Cambridge University Press, 2006.
Thuyết vi mô nhấn mạnh vai trò chủ động, tích
[6] Bryan S. Turner, Classical Sociology ,SAGE
cực và có ý thức của cá nhân được thể hiện Publications Inc, 1999.
trong các tương tác xã hội các quan hệ xã hội là
[7] M. Вебер, Избранные произрения, Mосква
yếu tố quyết định tạo ra xã hội. Thuyết chức
“прогресс”, 1990. ( M. Weber tuyển tập, nguyên
năng nhấn mạnh vai trò của chức năng xã hội
bản dịch từ tiếng Đức sang tiếng Nga, Nhà xuất
được cấu trúc tiềm tàng trong cơ thể xã hội (cấu
bản Tiến bộ, Matxcơva, 1990)
trúc xã hội) là nhân tố có trước khách quan
Social Analysis Model in Micro-Sociological Theory Vũ Hào Quang
The Academy of Journalism and Communication, 36 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội
Abstract: There are two main theories in sociology as an independent social science: the micro-
sociological theory and the macro-sociological theory.
The micro approach views the formations of society as outcome of a chain reaction that comes
from the smallest degrees of social actions, social interactions and social relations among individuals,
social groups and the society as a whole.
Meanwhile, the macro approach analyzes society at the macro level which means looking at social
relations among classes, castes, communities, social groups, social organizations, and social institutes
V.H. Quang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 80-87 87
within a society as a system or a social body. This approach considers individual and its social
behavior or social action as a result of the operation of multi functions that were structured within the society.
This article analyzes the macro approach and proposes a model for social analysis which is based
on analysis of basic definitions in sociological macro approach theory.
Keywords: Behavior, action, social behavior, social action, social contract, social interaction,
social relation, society, micro-sociological theory.