Mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
“Cái chung” là phạm trù được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chungkhông những có một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sựvật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
NỘI
DUNG MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG Khái niệm -
“Cái riêng” là phạm trù được dùng dể chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định.
Ví dụ: 1 trận bóng đã giữa đội tuyển Việt Nam và đội tuyển Thái Lan diễn ra vào ngày
05/9/2019 là một cái riêng. -
“Cái chung” là phạm trù được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung
không những có một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự
vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Ví dụ: Giữa 2 quả bưởi A và B nêu trên có thuộc tính chung là đều có cùi dày, nhiều múi.
Cái chung này được lặp lại ở bất kỳ quả bưởi nào khác. (Quả quýt khá giống quả bưởi
nhưng lại có cùi mỏng và có khối lượng nhẹ hơn quả bưởi). -
Phân biệt “cái riêng” và “cái đơn nhất”.
“Cái đơn nhất” là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính...
chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật
chất nào khác. Cái đơn nhất gần giống với cái cá biệt.
*Mối quan hệ biện chứng giữa “cái riêng” và “cái chung” và “cái đơn nhất”:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, “cái riêng”, “cái chung” và “cái đơn
nhất” đều tồn tại khách quan và có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
1. “Cái chung” chỉ tồn tại trong “cái riêng” và thông qua “cái riêng”.
“Cái chung” không tồn tại biệt lập, tách rời “cái riêng” mà chỉ tồn tại trong “cái riêng”
Ví dụ: Cùi dày, nhiều múi, rất nhiều tép là cái chung giữa các quả bưởi. Rõ ràng cùi, múi,
tép ở đây (cái chung) chỉ và phải tồn tại trong một quả bưởi nhất định (cái riêng).
2. “Cái riêng” chỉ tồn tại trong mới liên hệ đưa đến “cái chung”.
V.I.Lênin viết:”Cái riêng không tồn tại như thế nào khác ngoài mối liên hệ dẫn tới cái chung”. -
Điều này có nghĩa “cái riêng” tồn tại độc lập, nhưng sự độc lập này không có
nghĩa là cô lập với những cái khác. Thông qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn
sự chuyển hóa, “cái riêng” của loại này có liên hệ với những “cái riêng” của loại khác. -
Bất cứ “cái riêng” nào cũng tồn tại trong một môi trường, hoàn cảnh nhất định,
tương tác với môi trường, hoàn cảnh ấy, do đó đều tham giá vào các mối liên hệ
qua lại hết sức đa dạng với các sự vật, hiện tượng khác xung quanh mình. -
Bất cứ “cái riêng” nào cũng không tồn tại mãi mãi.
Mỗi “cái riêng” sau khi xuất hiện đều tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định rồi
biến thành một “cái riêng” khác. “Cái riêng” khác này lại biến thành “cái riêng” khác thứ
ba...v.v, cứ như vậy đến vô cùng tận. Kết quả của sự biến hóa vô cùng tận này là tất cả
“cái riêng” đều có liên hệ với nhau.
3. “Cái chung” là một bộ phận của “cái riêng”, còn “cái riêng” là cái toàn bộ, không
gia nhập hết vào “cái chung”. -
Do “cái chung” được rút ra từ “cái riêng”, nên rõ ràng nó là một bộ phận của “cái riêng”. -
Cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ bản chất tất nhiên, lặp lại
ở nhiều sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Những thuộc tính chung ấy chỉ là bộ phận của
cái riêng nhưng lại sâu sắc hơn cái riêng, vì nó gắn liền với cái bản chất chung của
cả một tập hợp những cái riêng, nó quy định phương hướng tồn tại và phát triển của những cái riêng đó -
Mặt khác, bên cạnh những thuộc tính (cái chung) được lặp lại ở các sự vật khác,
bất cứ “cái riêng” nào cũng còn chứa đựng những đặc điểm, thuộc tính mà chỉ “cái
riêng” mới có. Tức là bất cứ “cái riêng” nào cũng chứa đựng những “cái đơn nhất”.
4. “Cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại. -
Sự chuyển hóa “cái đơn nhất” biến thành “cái chung” và “cái chung” biến thành
“cái đơn nhất” sẽ xảy ra trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong
những điều kiện nhất định. -
Sở dĩ như vậy là do trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay
một lúc, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng “cái đơn nhất”, cái cá biệt. Nhưng theo
quy luật, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng hoàn thiện, tiến tới
hoàn toàn thay thế cái cũ và trở thành “cái chung”. -
Ngược lại, cái cũ ngày càng mất dần đi. Từ chỗ là “cái chung”, cái cũ biến dần
thành “cái đơn nhất”.
*Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN:
1. Phải xuát phát từ “cái riêng” để tìm “cái chung”.
Vì “cái chung” chỉ tồn tại trong và thông qua “cái riêng” nên chỉ có thể tìm hiểu, nhận
thức về “cái chung” trong “cái riêng” chứ không thể ngoài “cái riêng”.
Để phát hiện đào sâu nghiên cứu “cái chung” phải bắt đầu nghiên cứu từ những sự vật,
hiện tượng riêng lẻ cụ thể chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.
2. Cần nghiên cứu cải biến “cái chung” khi áp dụng “cái chung” vào từng trường hợp “cái riêng”. -
Vì “cái chung” tồn tại như một bộ phận của “cái riêng”, bộ phận đó tác động qua
lại với những bộ phận còn lại của “cái riêng” mà không gia nhập vào “cái chung”
nên bất cứ “cái chung” nào cũng tồn tại trong “cái riêng” dưới dạng đã bị cải biến.
Tức là luôn có sự khác biệt một chút giữa “cái chung” nằm trong “cái riêng” này và “cái
chung” nằm trong “cái riêng” kia. Sự khác biệt đó là thứ yếu, rất nhỏ, không làm thay đổi
bản chất của “cái chung”. -
Do đó, bất cứ “cái chung” nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng lẻ cũng cần
được cải biến, cá biệt hóa. Nếu không chú ý đến sự cá biệt hóa, đem áp dụng
nguyên xi “cái chung”, tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ rơi vào sai lầm của những
người giáo điều, tả khuynh.
Ngược lại nếu xem thường “cái chung”, tuyệt đối hóa “cái đơn nhất” thì sẽ rơi vào sai
lầm của việc chỉ bảo tồn cái vốn có mà không tiếp thu cái hay từ bên ngoài.
3. Không được lảng tránh những vấn đề chung khi giải quyết những vấn đề riêng.
Vì “cái riêng” gắn bó chặt chẽ với “cái chung” không tồn tại bên ngoài mối liên hệ dẫn
tới “cái chung”, nên nếu muốn giải quyết những vấn đề riêng một cách hiệu quả thì
không thể bỏ qua việc giải quyết những vấn đề chung.
Nếu không giải quyết những vấn đề chung - những vấn đề mang ý nghĩa lý luận thì sẽ sa
vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện. Nếu giải quyết những vấn đề riêng trước khi giải quyết
những vấn đề chung thì ta sẽ không có định hướng mạch lạc.
4. Khi cần thiết, cần tạo điều kiện cho “cái đơn nhất” thành “cái chung” và ngược lại.
Trong hoạt động thực tiễn muốn xác định được đâu là cái chung, đâu là cái đơn nhất phải
đặt nó trong một mối quan hệ xác định. Ngược lại, phải tìm cách làm cho “cái chung”
tiêu biến dần thành “cái đơn nhất” nếu “cái chung” không còn phù hợp với lợi ích của số đông mọi người.