



















Preview text:
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN
MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Lý luận Mác – xít về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và
sự vận dụng trong giải quyết vấn đề việc làm, thất nghiệp của sinh viên
đã tốt nghiệp.
Họ và tên SV: Nguyễn Thành Đoàn
Lớp tín chỉ: LLNL1105(121)_34 (63C-QTKD) Mã SV: 11211334
GVHD: TS LÊ NGỌC THÔNG 1
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN . BẮC NINH, NĂM 2021 2
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................................3
NỘI DUNG.................................................................................................................................................5 I.
Lý lu n chung vềề mốối quan h ậ gi ệ a v ữ t chấốt và ý th ậ ứ c:
.....................................................................5 1. V t chấốt: ậ
..........................................................................................................................................5 2.
Ý thức:.............................................................................................................................................8 3. Mốối quan h gi ệ a v ữ t chấốt v ậ à ý thứ c:
...........................................................................................11 II. V n d ng mốối quan h ậ ụ gi a v ệ ữ t chấốt và ậ ý th c đ ứ gi ể i quyềốt v ả ấốn đềề vi ệ c làm, thấốt nghi ệ p c ủ a sinh
viền đã tốốt nghiệp.....................................................................................................................................12 1.
Đặt vấn đề:...................................................................................................................................12 2.
Thực trạng:..................................................................................................................................12 3.
Nguyên nhân:...............................................................................................................................13 4.
Giải pháp:.....................................................................................................................................16
KẾT LUẬN..............................................................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................................20 3
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN LỜI MỞ ĐẦU
Trong thế giới tự nhiên, hàng ngày đều có vô số các hiện tượng xảy ra xung quanh chúng
ta như sấm chớp hay suy nghĩ về một vấn đề triết học, nhưng chung quy lại chúng chỉ được
phân thành hai loại lần lượt là hiện tượng vật chất (các hiện tượng tự nhiên như gió, mưa) và
các hiện tượng tinh thần (các hoạt động ý thức và tư duy). Các triết gia luôn tranh luận về
hàng loạt các vấn đề từ vi mô đến vĩ mô, trong đó có một vấn đề cốt lõi nhất, được tranh luận
sôi nổi nhất chính là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa sự tồn tại và tư duy.
Vật chất và ý thức là hai phạm trù cơ bản nhất của triết học xuyên suốt lịch sử phát triển
của triết học và rất nhiều học thuyết đã được xây dựng xung quanh hai phạm trù cơ bản này
nổi bật nhất là hai trào lưu: CHỦ NGHĨA DUY VẬT và CHỦ NGHĨA DUY TÂM. Quan
điểm của hai trào lưu này về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức hoàn toàn đối lập với nhau
vì sự khác biệt về cả nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Phát biểu một cách chi tiết
hơn: Chủ Nghĩa Duy Vật cho rằng vật chất là cái có trước, ý thức có sau, vật chất là tồn tại
khách quan không phụ thuộc vào ý thức và quyết định ý thức; Trong khi đó, Chủ Nghĩa Duy
Tâm lại cho rằng ý thức là có trước, cái quyết định, vật chất là cái có sau và bị quyết định.
Những thành tựu khám phá khoa học tự nhiên của con người trong các lĩnh vực như vật lý,
hóa học đã chứng minh được những quan điểm của Chủ Nghĩa Duy Vật là đúng đắn, khẳng
định bản chất của thế giới là vật chất và thông nhất ở tính vật chất. Càng đi sâu vào nghiên
cứu vấn đề, chúng ta càng tìm hiểu được nhiều lối tư duy, nhiều tư tưởng thú vị về mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức của các bậc triết gia vĩ đại đi trước. Song phải đến Triết Học Mác-
Lênin, mọi thứ mới trở nên sáng tỏ. Cũng vì muốn tìm hiểu rõ về vật chất và ý thức nên em
xin phép được chọn đề tài: “Lý luận Mác – xít về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và
sự vận dụng trong giải quyết vấn đề việc làm, thất nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp”
Do đây là bài tiểu luận đầu tay của em nên có lẽ sẽ không tránh khỏi có những sai sót. Em
rất mong có sự góp ý từ thầy để có thể rút kinh nghiệm cho các bài luận sau này. Em xin chân thành cảm ơn. 4
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN NỘI DUNG I.
Lý lu n chung vềề mốối quan h ậ gi
ệ ữ a vậ t chấốt và ý thứ c: 1. V t chấốt: ậ
a. Định nghĩa vật chất:
Vật chất được coi là một trong hai phạm trù triết học cơ bản cùng với ý thức,
song vật chất cũng là một phạm trù triết học phức tạp cũng như có rất nhiều quan niệm khác
nhau về nó. Các nhà duy vật thời cổ đại quy vật chất về một vài dạng cụ thể và xem chúng là
khởi nguyên của thế giới, ví dụ như Thales cho rằng đó là “Nước”, Heraclitus lại cho rằng đó
là “Lửa” và phiên bản đầy đủ hơn “Kim- Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ” – Ngũ hành của Trung Quốc.
Nổi bật hơn cả trong thời kì này là định nghĩa vật chất của hai triết gia Hi Lạp Lơxíp và
Đêmôcrít khi cho rằng vật chất là nguyên tử - những hạt nhỏ nhất không thể phân chia và
giống nhau về chất, tồn tại vĩnh viễn và chính sự phong phú của chúng về hình dạng, tư thế,
cách sắp xếp đã tạo nên sự muôn màu muôn vẻ của mọi vật.
Nhưng Lênin lại cho rằng: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Lênin đã
khẳng định một điều rằng vật chất không thể được định nghĩa theo một cách thông thường do
chính khái niệm về vật chất là khái niệm lớn nhất, bao quát nhất. Như vậy, để định nghĩa
được vật chất, Lênin đã đặt vật chất và ý thức đối lập nhau và hiểu vật chất là một thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, tồn tại độc lập với ý thức và cảm
giác còn ý thức và cảm giác phụ thuộc vào vật chất phản ánh sự khách quan. Nói một cách
đơn giản hơn, việc hòn đá là chính nó không phụ thuộc vào cảm giác của chúng ta, dù cho ta
có biết hay không, có cảm thấy như thế nào thì cũng không thể ảnh hưởng đến việc hòn đá là
chính nó. Khi nói vật chất là một phạm trù triết học, Lênin muốn chỉ ra một điều rằng vật
chất với tư cách là một phạm trù triết học – kết quả của quá trình khái quát hóa và trừu tượng
hóa chứ không phải là những dạng vật chất cụ thể hay những “hạt nhân cảm tính” như các
quan điểm vật chất thời cổ đại. Chính việc định nghĩa vật chất như vậy đã giúp khắc phục
những quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy vật khi đồng nhất vật chất với các hình thức 5
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
biểu hiện cụ thể của nó. Theo quan điểm của Lê-nin, vật chất vốn tự nó tồn tại, không thể bị
tiêu diệt, tồn tại ở bên ngoài và không phụ thuộc vào cảm giác hay ý thức. So sánh với quan
niệm ý niệm tuyệt đối của Chủ Nghĩa Duy Tâm Khách Quan, “Chúa” của Thiên Chúa Giáo
hoặc là các vị thần trong thần thoại Hy Lạp, vật chất không phải là lực lượng siêu nhiên lơ
lửng ở đâu đó mà trái lại, phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát sự vật, hiện tượng cụ
thể, và do đó các đối tượng vật chất có thật và có khả năng tác động đến các giác quan của
con người để gây ra cảm giác mà nhờ đó chúng ta có khả năng nhận biết, hiểu và nắm bắt sự
vật đó. Hơn thế nữa, Lê-nin còn khẳng định rằng cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác. Một mặt ông muốn nhấn mạnh vào tính thứ nhất của vật
chất và vai trò quyết định của nó, mặt khác khẳng định khả năng nhận thức thế giới khách
quan của con người. Điều đó đã góp phần chỉ ra sự khác biệt giữa Chủ Nghĩa Duy Tâm và
Chủ Nghĩa Duy Vật, giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Nhị Nguyên Luận.
Từ đó, ta có thể rút ra một nhận xét rằng định nghĩa về vật chất của Lê-nin là
hoàn toàn triệt để và nó giúp chúng ta xác định được nhân tố vật chất trong đời sống xã hội,
giúp cho việc định hướng nghiên cứu khoa học ngày càng toàn diện và sâu sắc. Quan trọng
hơn cả là giữ cho chúng ta một thái độ khách quan cả trong suy nghĩ lẫn hành động. b. Các đ c tnh c ặ a v ủ ật chấốt:
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố
hữu của vật chất:
Theo quan điểm của Chủ Nghĩa Duy Vật Biện Chứng, vận động được coi là sự
biến đổi nói chung của vật chất chứ không chỉ đơn thuần là sự dịch chuyển của vật chất trong
không gian. Theo Ăng-ghen, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố
hữu của vật chất bao gồm mọi quá trình biến đổi diễn ra trong vũ trụ. Ông cho rằng có 5 loại
hình vận động Cơ-Hóa-Sinh-Lý-Xã Hội. Các hình thức vận động này có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, một hình thức vận động này có thể tác động qua lại với những hình thức vận
động khác và trong đó vận động cao bao gồm các vận động thấp. Ăng-ghen nhận thấy rằng
các hình thức cũng như các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể được nhận thức thông qua
sự vận động mới có thể thấy được thuộc tính của nó từ các hạt cơ bản trong thế giới vi mô
đến một hệ thông các hành tinh khổng lồ. Bất cứ một dạng vật chất bất kì nào cũng là một 6
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
thể thống nhất, có kết cấu xác định gồm nhiều bộ phần và nhân tố khác nhau, chúng cùng tồn
tại và tác động qua lại lẫn nhau gây ra sự biến đổi. Nguồn gốc của vận động là do những
nguyên nhân bên trong gây ra nên có thể nói rằng vận động vật chất là tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất và không thể có sự vận động bên
ngoài vật chất. Sự vận động đó không do ai sáng tạo ra và cũng không thể bị triệt tiêu do đó
nó được bảo toàn về cả số lượng lẫn chất lượng. Các nhà khoa học thế kỉ 19 đã tìm ra các
định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, điều này suy rộng ra có nghĩa là nếu một hình
thức vận động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu rằng nó sẽ sinh ra một hình thức vận động
khác thay thế cho nó. Ví dụ trong nhà máy thủy điện, nước từ cao chảy qua tua bin thì chảy
chậm lại, trong quá trình đó nước đã mất đi động năng của mình để chuyển hóa thành động
năng cho cánh tua bin để rồi nó được chuyển hóa thành điện năng (dòng dịch chuyển của các
electron trong dây điện). Các hình thức vận động chuyển hóa lẫn nhau và sự vận động của vật chất là mãi mãi.
Mặc dù nói vận động luôn diễn ra không ngừng, song điều đó còn bao hàm cả
trạng thái Đứng Im Tương Đối. Ăng-ghen cho rằng khả năng đứng im tương đối hay cân
bằng tạm thời của vật thể là những điều kiện tiên quyết của sự phân hóa vật chất, không có
nó sẽ không có các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng. Nếu nói sự vận động là sự biến
đổi của các sự vật hiện tượng thì đứng im là sự bảo toàn tính quy định của sự vật hay nói
cách khác là trạng thái ổn định của sự vật. Ông khẳng định rằng đứng im là một sự vận động,
đó là sự vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Ngoài ra, trạng thái đứng im
còn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi sự vật ổn định, chưa biến đổi,
hay nói cách khác là tạm thời chưa xảy ra trong một khoảng thời gian nào đó. Vận động
riêng biệt có xu hướng phá hoại sự cân bằng của sự vật trong khi vận động toàn thể phá hoại
sự cân bằng riêng biệt làm cho sự vật luôn thay đổi, chuyển hóa lẫn nhau.
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của sự vật:
Trước hết nói về không gian, không gian phản ánh vị trí, hình thức kết cấu, độ
dài ngắn cao thấp to nhỏ của các đối tượng vật chất. Không gian biểu hiện sự tồn tại và tách
biệt của các sự vật với nhau, biểu hiện qua tính chất và trật tự của chúng. Trong khi đó, thời
gian phản ánh sự nhanh chậm của các quá trình vật chất, tính trước sau theo một trình tự nhất 7
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
định. Ngoài ra, thời gian còn biểu hiện trình độ tốc độ của quá trình vật chất, tính tách biệt
giữa các giai đoạn khác nhau của quá trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi của sự vật hiện tượng.
Không gian và thời gian được cho rằng là những hình thức cơ bản của vật chất
đang vận động, Lê-nin đã chỉ ra rằng trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận
động. Không gian và thời gian là tồn tại khách quan, nhưng nó không bất biến, không thể
đứng ngoài vật chất, không không gian nào trống rỗng mà nó có sự biến đổi phụ thuộc vào
sự vận động của vật chất.
Tính thốống nhấốt v t chấốt c ậ a thềố gi ủ ớ i:
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức và tinh thần là cái đầu tiên và quyết định
vật chất, còn chủ nghĩa duy vật thì ngược lại. Triết học Mác - Lênin nhất định chỉ có một thế
giới duy nhất là thế giới vật chất, đồng thời khẳng định thế giới là tất cả các hình thức. Vật
chất hoá vật chất có quan hệ vật chất thống nhất như tổ chức bộ máy và lịch sử phát triển
phải tuân theo các quy luật khách quan của thế giới vật chất nên tồn tại vĩnh viễn không bao
giờ tồn tại được. Các quá trình chuyển hóa lẫn nhau, và lẫn nhau là nhân quả. 2. Ý thức:
a. Kềốt cấốu của ý thứ c:
Giống như vật chất, các trường khác nhau có nhiều khái niệm về ý thức. Theo
quan điểm của CDVBC, ý thức là đặc điểm, sản phẩm của vật chất, là sự phản ánh khách
quan vào bộ não con người thông qua lao động và ngôn ngữ. Ý thức là một hiện tượng tâm lý
xã hội có cấu trúc phức tạp bao gồm ý thức, tri thức, tình cảm, ý chí. thế giới. Quá trình này
có liên quan chặt chẽ với nhau. Tri thức được tích lũy càng nhiều, con người càng hiểu biết
sâu sắc hơn về tự nhiên, hiểu biết về sự vật càng sâu sắc thì khả năng cải tạo sự vật càng có
hiệu quả, sức sống của ý thức cũng tăng lên. Sự nhấn mạnh vào kiến thức là quan trọng và là
yếu tố cơ bản chống lại quan điểm đơn giản rằng ý thức là một cảm xúc hoặc niềm tin. Quan
niệm đó chính là căn bệnh chủ quan duy ý chí của niềm tin mù quáng. Song việc yếu tố tri
thức được đặc biệt nhấn mạnh không có nghĩa là phủ nhận, coi nhẹ yếu tố vai trò tình cảm ý chí. 8
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Tự nhận thức cũng là một yếu tố quan trọng, Chủ Nghĩa Duy Tâm coi đây là
một thực thể vốn có độc lập của một cá nhân, thể hiện sự tự tôn và tách biệt sự tự khẳng định
mình với xã hội. Trái với Chủ Nghĩa Duy Vật Biện Chứng, tự nhận thức là tự định hướng
bản thân, về việc hiểu biết bản thân thông qua các mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Con
người khi phản ánh thế giới khách quan thì tự phân biệt và đối lập với thế giới và địa vị xã
hội. Mặt khác, giao tiếp xã hội và thực tiễn xã hội đòi hỏi con người phải biết tự điều chỉnh
mình theo những quy tắc chuẩn mực do xã hội thiết lập. Ngoài ra, văn hóa còn đóng vai trò
như một tấm gương giúp con người hiểu mình, vô thức là một hiện tượng tâm lý nhưng nó
liên quan đến những hoạt động xảy ra ngoài phạm vi ý thức.
b. Nguốền gốốc của ý thứ c:
Nguốền gốốc tự nhiền:
Ý thức là kết quả của quá trình phát triển lâu dài trong tự nhiên, cho đến khi
xuất hiện con người và bộ não. Khoa học đã chứng minh rằng thế giới vật chất nói chung,
đặc biệt là trái đất, đã có từ rất lâu trước khi xuất hiện loài người, tức là hoạt động ý thức của
con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não. Không thể tách ý thức
khỏi não, bởi vì ý thức là một chức năng của não, và não là khí quản của ý thức. Sự phụ
thuộc của ý thức vào hoạt động Khi não bị tổn thương, hoạt động có ý thức bị rối loạn. Tuy
nhiên, ý thức không thể được quy cho các quá trình sinh lý một cách đơn giản, bởi vì não bộ
chỉ là một cơ quan phản xạ. Sự xuất hiện của ý thức liên quan đến sự phát triển của các đặc
điểm phản ánh. Nó phát triển cùng với sự phát triển của tự nhiên. Hình thức phản ánh cao
nhất do xã hội loài người mang lại là biểu hiện của ý thức và luôn gắn với tự nhiên thích nghi
với nhu cầu phát triển của xã hội.
Nguồn gốc xã hội:
Sự ra đời của ý thức gắn liền với sự hình thành và phát triển của bộ óc con
người dưới ảnh hưởng của sự lao động và giao tiếp quan hệ xã hội. Sức lao động của con
người là nguồn vật chất của bản chất xã hội, nhằm mục đích cải tạo tự nhiên, thoả mãn nhu
cầu, phục vụ con người. Chính nhờ nó mà con người và xã hội loài người được hình thành và
phát triển. Phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của loài người, đồng thời có mối liên hệ với
nhau. Con người ngay từ đầu đã ở với nhau trong mối quan hệ khách quan và tất yếu; mối 9
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
quan hệ này đến lượt nó nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao động, đòi hỏi
phải "nói gì với nhau khác. "". Kết quả là ngôn ngữ ra đời, ngôn ngữ được coi là vỏ vật chất
của tư duy, với sự xuất hiện của ngôn ngữ, tư tưởng của con người có khả năng phản ánh trực
tiếp hiện thực và trở thành tín hiệu vật chất tác động vào các giác quan của con người. Theo
cách hiểu này, ý thức cá nhân trở thành ý thức xã hội, và ngược lại. Chính nhờ trừu tượng
hoá và khái quát hoá là quá trình hình thành và nhận thức ý thức, là lí do để con người thâm
nhập vào bản chất của sự vật, hiện tượng, đồng thời tổng kết lịch sử hoạt động của mình
trong toàn bộ quá trình phát triển.
c. Bản chất của ý thức:
Từ việc khảo sát nguồn gốc của ý thức, chúng ta có thể thấy rõ ý thức có tính
phản ánh, sáng tạo, mang tính xã hội, phản ánh thể hiện thông tin thế giới bên ngoài và là nội
dung của các đối tượng tác động, truyền đi trong quá trình phản ánh.
Bản chất của nó quyết định mặt khách quan của ý thức, tức là nó phải dựa trên
cơ sở khách quan, và nội dung nó phản ánh là thế giới khách quan.
Ý thức đã gắn liền với lao động ngay từ thuở sơ khai, và trở thành một mặt
không thể thiếu của hoạt động này trong hoạt động sáng tạo làm biến đổi và chi phối bản
chất của con người. Với sự biến đổi, quá trình thu nhận thông tin gắn liền với quá trình xử lý
thông tin. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng tổng hợp gián tiếp thế giới khách
quan trong quá trình tác động, ảnh hưởng tích cực đến thế giới khách quan.
Phản ánh và sáng tạo có quan hệ mật thiết với nhau và không thể tách rời.
Không có phản ánh thì không có sáng tạo, vì phản ánh là điểm xuất phát và là nền tảng của
sáng tạo. Nghĩa là, mối quan hệ biện chứng giữa thu nhận và xử lý thông tin là sự thống nhất
giữa mặt khách quan và mặt chủ quan của ý thức.
Ý thức chỉ được sản sinh ra trong hoạt động lao động của con người và cải tạo
thế giới, hoạt động này không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. Ý thức trước
hết là nhận thức của con người về mối quan hệ giữa người với người trong xã hội với quan
hệ xã hội và những gì đang diễn ra trong thế giới khách quan Do đó, ý thức xã hội được hình
thành và chi phối bởi các quy luật của tồn tại xã hội và tồn tại xã hội. ... thức của mỗi cá nhân
mang ý thức xã hội. Tính xã hội của ý thức còn kết hợp với tính chất phản ánh trong sáng 10
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
tạo. Sự thống nhất này được thể hiện ở tính chủ động chủ quan của ý thức và trong mối quan
hệ giữa yếu tố vật chất và yếu tố vật chất. Nhân tố ý thức trong sự biến đổi thế giới quan của con người. 3. Mốối quan h gi
ệ ữa vậ t chấốt và ý thứ c:
Lê-nin chỉ ra rằng sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối
trong một phạm vi giới hạn: trong trường hợp này, nó chỉ giới hạn ở câu hỏi nhận thức luận
cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái có sau. Vượt quá giới hạn này, chắc chắn sự đối lập
chỉ là tương đối. Vì vậy, để phân định ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm, đồng thời xác định bản chất và sự thống nhất của thế giới, cần phải có sự đối lập tuyệt
đối giữa vật chất và ý thức. Khi trả lời cái nào đến trước cái nào để quyết định, nếu không
làm được sẽ gây nhầm lẫn giữa hai dòng cơ bản là vật chất và ý thức trong triết học, và cuối
cùng là đi chệch quan điểm của chủ nghĩa duy vật.
Tuy nhiên, sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là yếu tố tương đối, là mặt tất
yếu của hoạt động con người, nhất là hoạt động thực tế của con người, ý thức có thể biến đổi
bản chất, thâm nhập vào sự vật, tự nó không thể biến đổi thành hiện thực. Ý thức có thể
được cải thiện, thâm nhập vào sự vật và đạt được mục đích mà nó đặt ra cho hoạt động của
chính nó. Điều này xuất phát từ chính bản chất phản ánh, sáng tạo và xã hội của ý thức, chính
vì bản chất này mà chỉ con người có ý thức mới có khả năng cải tạo và thống trị tự nhiên,
buộc nó phải phục vụ loài người. Vì vậy, tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức
được biểu hiện ở tính độc lập tương đối và tính năng động của ý thức. Khẳng định tính tương
đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức không có nghĩa là hai yếu tố này có tác dụng như
nhau trong đời sống và hoạt động của con người mà ngược lại, triết học Mác - Lênin khẳng
định rằng trong hoạt động của con người, yếu tố vật chất và ý thức của con người có tác động
qua lại với nhau, nhưng sự ảnh hưởng này dựa trên tính chất chủ yếu của các yếu tố vật chất
so với tính chất thứ yếu của ý thức. Suy cho cùng, trong hoạt động của con người, nhu cầu
vật chất luôn đóng vai trò quyết định, chi phối và xác định mục đích hoạt động của con
người, bởi vì yếu tố vật chất quyết định khả năng tham gia hoạt động của yếu tố tâm lý của
con người. Hoạt động của con người tạo điều kiện cho các yếu tố tâm lý hoặc các yếu tố tâm
lý khác biến nó thành hiện thực bằng cách lựa chọn, sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa mục đích 11
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
nhất định, từ đó quy định mục đích của các cam kết và biện pháp mà con người thực hiện đối
với hoạt động của mình. Hoạt động nhận thức của con người luôn hướng tới mục tiêu cải tạo
tự nhiên để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Hơn nữa, đời sống tinh thần của con người suy
cho cùng vẫn bị chi phối và chi phối bởi sự thoả mãn các nhu cầu vật chất và các điều kiện vật chất. T
rong khi triết học Mác - Lê-nin khẳng định vai trò cơ bản, quyết định trực tiếp của
nhân tố vật chất, thì cũng không coi thường vai trò của nhân tố tinh thần và sự chủ động sáng
tạo. Yếu tố ý thức có tác động trở lại quan trọng đối với yếu tố vật chất. Hơn nữa, con người
không thể tạo ra đối tượng vật chất trong hoạt động của mình, cũng như không thể thay đổi
quy luật vận động của chúng. Vì vậy, con người trong quá trình hoạt động phải tuân theo các
quy luật khách quan, chỉ được đặt ra các mục tiêu và chính sách trong phạm vi vật chất cho phép. II. V n d ng mốối quan h ậ ụ gi a v ệ ữ t chấốt và ý th ậ c đ ứ giể i quyềốt v ả ấốn đềề vi ệ c làm, thấốt nghi p c
ệ ủ a sinh viền đã tốốt nghiệ p 1. Đặt vấn đề:
Trong năm học 2018-2019, theo thống kê của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, có
311,559 sinh viên tốt nghiệp đại học. Con số này trong năm học 2019-2020 là 263,172.
Nhưng cũng theo thống kê, trong năm học 2019-2020, có đến 20% số sinh viên tốt nghiệp
không có việc làm, hay có thể nói là thất nghiệp. Và không chỉ trong mỗi năm học 2019-
2020, thực trạng sinh viên ra trường thất nghiệp đang dần trở thành một báo động đỏ trong
xã hội. Câu hỏi được đặt ra ở đây là do đâu mà xảy ra tình trạng thất nghiệp sinh viên hiện
nay? Và chúng ta phải làm gì để khắc phục vấn đề trên? Đã có rất nhiều các giải pháp được
đề xuất song vẫn chưa thể khắc phục triệt để tình trạng thất nghiệp của sinh viên khi ra trường. 2. Thực trạng:
Theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê, trong quý 1 năm 2016, có tới hơn
32,3% số lao động thất nghiệp cả nước là lao động đã qua đào tạo chuyên nghiệp hoặc nghề
từ 3 tháng trở lên. Trong đó, nhóm lao động có trình độ từ đại học trở lên chiếm thị phần lớn
nhất, khoảng 38,6% tổng số lao động thất nghiệp nhóm này. 6 nhóm ngành/nghề đào tạo hiện
có tỷ trọng lao động thất nghiệp có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ 3 tháng trở lên theo thứ 12
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
tự là “Kinh doanh và quản lý - 30,3%”, “Công nghệ kỹ thuật - 13,4%”, “Sức khỏe - 10,7%”,
“Dịch vụ vận tải - 9,5%” và “Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên - 9,0%”. Chỉ khoảng
3,6% nhóm lao động thất nghiệp có trình độ chuyên môn kỹ thuật là có 2 bằng/chứng chỉ đào
tạo trở lên. Và con số này vẫn đang tăng lên theo từng năm, hơn thế nữa, có một số các
trường hợp sinh viên đã ra trường được từ 2-3 năm vẫn không thể tìm được việc làm chứ
không kể đến là tìm được công việc đúng theo ngành nghề của mình. Vậy đâu là nguyên
nhân dẫn đến thực trạng này? 3. Nguyên nhân: Khống có đ nh h ị ng nghềề nghi ướ ệ p trướ c khi h ọ c:
Ở Việt Nam, việc chọn nghề phụ thuộc phần lớn vào quyết định của
cha mẹ. Với tâm lý luôn muốn che chở, bao bọc con cái, các bậc phụ huynh thường hướng
đến những nghề “an toàn”, mang lại danh tiếng như kỹ sư, bác sĩ… và con cái cũng bị động,
phụ huynh chọn ngành học. chuyên ngành của bạn là gì? Mặt khác, xu hướng thị trường
cũng là điều đáng nói. Một số bạn trẻ cũng có xu hướng chạy theo những ngành nghề “hot”
để theo kịp bạn bè chứ không phải vì đam mê hay chuyên môn.
Những thông tin trên là lời cảnh tỉnh cho những bạn sinh viên hầu như không định vị được
nghề nghiệp, không biết mình thích gì và có thể làm gì trong tương lai, đâu là điểm mạnh và
điểm yếu của bản thân? Nếu không biết định hướng và lựa chọn đúng chuyên ngành, học
sinh sẽ dẫn đến chán nản, học kém, thiếu hứng thú và nhiệt huyết. Vì vậy, việc định hướng
nghề nghiệp tương lai cho bản thân ngay từ sớm đóng vai trò hết sức thiết yếu trong việc tạo
dựng một sự nghiệp thành công.
Sinh viên ra trường thiếu kỹ năng làm việc:
Nhiều công ty lớn cho biết: “Các kỹ năng của sinh viên mới ra trường
vẫn chưa được hình thành, nếu không muốn nói là không tồn tại”. Sinh viên tốt nghiệp ngày
nay có kiến thức nhưng thiếu kỹ năng, đặc biệt là những kỹ năng cần thiết cho công việc.
Cũng có bạn trẻ cho rằng nhà tuyển dụng chỉ cần tuyển những người có năng lực chuyên
môn, thành thạo vi tính, ngoại ngữ A, B, C… Chính vì vậy mà các bạn đổ xô đi học hết bằng
này, bằng nọ, khóa nọ, nhưng Bạn chưa biết Các chủ doanh nghiệp, công ty, đặc biệt là các 13
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
công ty nước ngoài luôn chú trọng đến kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng
làm việc nhóm, khả năng hoạch định mục tiêu và xử lý nhanh các khó khăn trong trường hợp khẩn cấp ...
Mặc dù, quá trình tìm kiếm việc làm không hề dễ dàng. Trừ một số
bạn được cha mẹ quan hệ rộng rãi hoặc giao phó, còn lại hầu hết các bạn vẫn còn quá thụ
động trong quá trình tìm việc. Hầu hết mọi người không tự tin vào bản thân, thiếu nghị lực
và dũng khí đối mặt với khó khăn, thậm chí không biết mình thích làm gì, thích làm công
việc này như thế nào. Sinh viên mới ra trường không biết rằng trong một môi trường làm
việc năng động và cạnh tranh cao thì việc có khả năng giao tiếp, đàm phán, thuyết trình, quản
lý thời gian tốt mới thực sự là yếu tố quyết định giúp họ làm việc một cách khác biệt và hiệu quả.
Chất lượng đào tạo chưa thực sự gắn với ngu cầu xã hội:
Trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ đã đầu tư rất nhiều vào các
trường đại học quốc gia nhưng kết quả không có gì khả quan khi số lượng sinh viên ra
trường vẫn thất nghiệp. Bên cạnh đó, với tiếp cận xã hội hóa giáo dục cho phép nhiều trường
đại học tư được mở ra rộng kích thích cạnh tranh giữa các trường nhà nước và trường tư.
Tuy nhiên, chúng ta cũng chẳng mong đợi gì nhiều ở kết quả này, bởi
các đại học tư vì lợi nhuận chỉ cấp bằng, họ không đào tạo “đúng và trúng”. Cả hai cách cải
tiến trên đều làm nảy sinh số người tốt nghiệp cao nhưng không có kỹ năng để làm việc trong
công nghiệp. Bên cạnh đó, thành tích của các cấp học dưới đẩy lên các cấp học trên đã khiến
những người làm giáo dục bất chấp hậu quả mà chính người học và xã hội phải gánh là tạo ra
những sản phẩm không đủ chất lượng, dẫn đến hậu quả đầu ra của đội ngũ nhân lực nước ta
yếu và nền giáo dục Việt Nam ngày càng tụt hậu.
Một nguyên nhân khác là do các trường đại học, cao đẳng còn xem
nhẹ phần thực hành mà quá đặt nặng lý thuyết. Ngoài ra, còn do chương trình đào tạo ở các
trường vẫn theo lối tư duy cũ, thiếu thực tế, cơ sở vật chất nghèo nàn… 14
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Chúng ta chuyển dần từ giáo dục truyền thống, giáo dục thời đại công nghiệp sang giáo dục
thời đại thông tin. Đây là hệ thống giáo dục mới tập trung phần lớn vào kiến thức kỹ thuật và
ứng dụng của công nghệ để giải quyết các vấn đề kinh doanh, sinh viên học chính thức nền
tảng không chỉ trong nhà trường, mà còn tiếp tục trong cả đời họ vì không ngại lúc nào cũng thay đổi.
Ngoài ra, chúng ta cải tiến kỹ năng công nghiệp cho mọi người dân, tạo
cho người dân có trí thức sẵn có để làm việc, đây là nhân tố chính cho tăng trưởng kinh tế
của địa phương. Đặc biệt, chúng ta thay đổi tư duy nên nhìn nhận các trường đại học như là
một doanh nghiệp, họ có thể đào tạo sinh viên đúng thực chất bằng việc cộng tác với công
nghiệp gắn với nhu cầu thị trường và cập nhật chương trình đào tạo tương ứng.
Trình độ ngoại ngữ vẫn còn nhiều hạn chế:
Một trong các lý do tạo nên làn sóng “cử nhân thất nghiệp” chính là
vấn đề tiếng Anh. Chúng ta đều biết tiếng Anh được xem như là tấm vé thông hành trong tất
cả mọi ngành nghề trong thời kỳ hiện đại. Thực ra, hầu hết sinh viên ở các trường đại học
đều được học tiếng Anh, nhưng chính thái độ học thụ động, không áp dụng thực tế thì khi ra
trường, kỹ năng ngoại ngữ chỉ là con số 0. Chỉ có được động lực học, cách học phù hợp,
khoa học, áp dụng vào môi trường thực tế mới có thể nâng cao trình độ tiếng Anh, đáp ứng
được nhu cầu của nhà tuyển dụng.
Luôn than trách và đổ lỗi cho số phận:
Đó là điều mà sinh viên vẫn thường làm để che đậy sự lười nhác của
bản thân. Luôn đổ lỗi cho không có chỉ tiêu rồi đào tạo nhưng không đảm bảo đầu ra. Tốt
nghiệp và ngồi chờ nhà tuyển dụng. Luôn than trách không có việc làm, đó là điều càng
khiến sinh viên vùi mình sâu hơn vào nguy cơ thất nghiệp. Đỗ lỗi cho không có cơ hội việc
làm, đỗ lỗi cho chất lượng đào tạo của giáo dục…
Phải thừa nhận rằng, có quá nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất
nghiệp ngày càng lớn như hiện nay. Nhưng trước khi mổ xẻ những nguyên nhân sâu xa, 15
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
chúng ta cần làm rõ nguyên nhân ngay trước mắt. Đó là sự kém cỏi của sinh viên ngay trên
giảng đường. Đừng chỉ tốt nghiệp với tấm bằng trên giấy mà hãy bước ra khỏi giảng đường
với những kiến thức cần thiết cho tương lai. 4. Giải pháp:
Hiện nay, Việt Nam đã và đang tiếp cận và áp dụng các khuyến nghị mới của
Tổ chức Lao động Quốc tế về lao động và việc làm. Tuy nhiên, với những nước đang phát
triển - nền kinh tế vẫn mang đậm dấu ấn nông nghiệp hoặc việc làm phi chính thức chiếm thị
phần đáng kể trong nền kinh tế hay mức sống của người dân chưa cao và an sinh xã hội chưa
đầy đủ, vì vậy người lao động thường chấp nhận làm bất cứ loại công việc gì, kể cả những
công việc có mức thu nhập thấp, bấp bênh, điều kiện làm việc không đảm bảo nhằm nuôi
sống bản thân và gia đình hơn là thất nghiệp dài để chờ đợi công việc tốt hơn. Vì vậy, để giải
quyết rõ rệt tình trạng sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường hiện nay, cần:
- Về phía sinh viên:
Thứ nhất, học sinh; sinh viên cần định hướng sơ bộ về nghề nghiệp của mình trong
tương lai. Học sinh, sinh viên cần thay đổi nhận thức, hiểu được đầu ra của ngành học. Học
sinh, sinh viên cần học những ngành nghề mà trong đó có sự đam mê, yêu thích của bản thân
và phù hợp với khả năng của mình. Đồng thời, các giảng viên của nhà trường nên kết hợp
cùng với lãnh đạo của các doanh nghiệp trao đổi và định hướng nghề nghiệp phù hợp với
từng tân sinh viên, dựa trên việc phân tích tính cách, đặc điểm gia đình, sở thích...của từng cá
nhân để đưa ra lời khuyên cho các em nên chọn ngành nào phù hợp với mình, có cơ hội việc
là tốt nhất và phát huy được năng lực cao nhất.
Thứ hai, trải nghiệm thực tế tại các doanh nghiệp là điều vô cùng quan trọng. Nâng cao
chất lượng đào tạo, kỹ năng làm việc cho sinh viên cần có sự kết hợp giữa sinh viên và nhà
trường. Việc học đi đôi với thực hành, học đến đâu có thể thực hành đến đó để việc giảng
dạy không còn mang ý nghĩa trừu tượng mà còn mang tính ứng dụng thiết thực. Sinh viên
cần thực hiện nghiêm túc trong quá trình đi kiến tập, thực tập. Nếu sinh viên coi hoạt động 16
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
kiến tập, thực tập cho hết môn thì sẽ không khác gì vẫn chạy theo lý thuyết mà không có thực tế.
Thứ ba, sinh viên cần nghiêm túc học hành ngay khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường.
Sự nghiêm khắc trong quá trình học tập của bản thân sẽ giúp sinh viên tự rèn luyện tính cách,
kỹ năng đồng thời đạt kết quả tốt trong quá trình học tập, sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc
chuyên môn ngay sau khi ra trường. - Về phía Nhà nước:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù hợp, bảo đảm đối
xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Thực hiện đúng các luật về
lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công...
Người lao động được quyền hưởng lương đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ
ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện môi trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.
Thứ hai, Nhà nước cùng các doanh nghiệp cần phải quan tâm đào tạo công nhân trình độ
cao, trình độ lành nghề, trình độ văn hóa đối với lao động trẻ, khỏe, nhất là khu vực nông
thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động.
Thứ ba, đa dạng hóa các loại hình thị trường, các lớp dạy nghề của Nhà nước, của tư nhân
và quốc tế; áp dụng cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần dần hình thành thị trường dạy
nghề phù hợp với pháp luật. Thực hiện quy hoạch đầu tư tập trung hệ thống dạy nghề, kỹ
thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc biệt là xây dựng các trường dạy nghề trọng điểm quốc gia.
Thứ tư, thực hiện hiệu quả dự án hỗ trợ đào tạo giảng viên; xây dựng cơ chế xác định chỉ
tiêu tuyển sinh đào tạo trung cấp, đào tạo cao đẳng, đại học hàng năm trên cơ sở nhu cầu 17
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
của thị trường lao động năng lực đào tạo ,
và tỷ lệ người học tốt nghiệp có việc làm của cơ sở
đào tạo; chỉ đạo các cơ sở đào tạo đầu tư nâng cao điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, hợp
tác với đơn vị sử dụng lao động để xây dựng chương trình đào tạo cân đối giữa lý thuyết và
thực hành, xây dựng chuẩn đầu ra, hỗ trợ sinh viên thực tập và đánh giá sinh viên tốt nghiệp
theo yêu cầu của thị trường lao động. 18
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN KẾT LUẬN
Việt Nam là nước có cơ cấu dân số tương đối trẻ, đây là một thế mạnh rất lớn để thực
hiện mục tiêu “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” dựa trên lợi thế và tiềm năng của nguồn nhân
lực. Có thể thấy việc tạo công ăn việc làm cho người lao động nói chung và sinh viên sau tốt
nghiệp nói riêng không phải là vấn đề của riêng ai. Tuy nhiên, điều đó không thể giải quyết
được trong một sớm một chiều, mà đây là vấn đề xuyên suốt của xã hội từ thời kì này qua
thời kì khác cần được Nhà nước quan tâm và giải quyết. Không chỉ vậy, các bạn sinh viên
phải thay đổi lối tư duy cũ theo quán tính của trước đây, chúng ta đang sống trong thời đại
công nghệ thay đổi hàng ngày với một tốc độ chóng mặt, vì vậy chỉ nó tự bản thân mình cố
gắng nố lực làm cho bản thân mình trở nên tốt hơn thì mới có thể theo kịp với đà phát triển
của thế giới. Chỉ có khi như vậy, khi ra trường, chúng ta mới có thể tìm được một công việc
phù hợp với nhiệt huyết và kĩ năng của bản thân.
Trên đây chỉ là những nghiên cứu, tổng hợp kiến thức của em trong một thời gian ngắn,
thể hiện cái nhìn tổng quan của bản thân em về vấn đề giải quyết việc làm, thất nghiệp của
sinh viên đã tốt nghiệp. Rất mong thầy có thể nhận xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn! Em xin chân thành cảm ơn! 19
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Trang web của Bộ Giáo Dục và Đào tạo: Bài thống kê giáo dục đại học năm 2019-2020
https://moet.gov.vn/thong-ke/Pages/thong-ko-giao-duc-dai-hoc.aspx?ItemID=7389
3. Trang web Tạp chí công thương: Bài báo “Sinh viên thất nghiệp khi ra trường nguyên nhân và cách khắc phục”:
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/sinh-vien-that-nghiep-sau-khi-ra-truong-nguyen-nhan-va- cach-khac-phuc-48972.htm 20