Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội, và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động phát triển xã hội, là phương pháp luận khoa học để nhận thức, cải tạo xã hội. Trong các mối quan hệ đa dạng và phức tạp của mỗi hình thái kinh tế xã hội, Mác đã chỉ ra những quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
MỞ ĐẦU
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động phát triển xã hội, là phương pháp luận
khoa học để nhận thức, cải tạo xã hội. Trong các mối quan hệ đa dạng và phức tạp của
mỗi hình thái kinh tế xã hội, Mác đã chỉ ra những quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Và quan hệ sản xuất được hình
thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất tạo thành quan hệ sản xuất vật chất
của xã hội. Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành nên các quan hệ về chính trị và tinh
thần của xã hội. Hai mặt đó của đời sống xã hội được khái quát thành mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất quan tâm đến nhận
thức và vận dụng quy luật này. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta chủ trương đổi
mới toàn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời đổi
mới chính trị từng bước thận trọng vững chắc bằng những hình thức, bước đi thích hợp;
giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ những lý do trên chúng em đã chọn đề tài "Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng của xã hội, và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới
đất nước". Do thời gian sưu tầm tài liệu không nhiều và trình độ nhận thức của chúng em
còn hạn chế nên bài viết của chúng em không tránh khỏi những sai sót và bất cập. Chúng
em rất mong nhận được lời nhận xét và ý kiến của quý thầy cô để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn. B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊ NIN VỀ CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
1.1 Khái niệm và đặc điểm của cấu trúc cơ sở hạ tầng 1.1.1 Khái niệm
Với tư cách là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm cơ sở hạ tầng
dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Như
vậy, thực chất đây là nói cơ sở kinh tế của xã hội; không phải nói kết cấu hạ tầng kỹ thuật
của xã hội - là cái thuộc về lực lượng sản xuất. Ví dụ, cơ sở hạ tầng (hay cơ sở kinh tế)
của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay là một kết cấu kinh tế
nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân tư bản,...) trong đó
thành phần ,kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kết cấu đó được xác lập trên cơ sở hệ
thống ba loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất
quản lý, sở hữu tập thể của những người lao động, sở hữu tư nhân với nhiều hình thức cụ
thể khác nhau; trên cơ sở đó, hình thành nên nhiều hình thức tổ chức kinh doanh đan xen
hỗn hợp với nhiều loại hình phân phối đa dạng.
1.1.2 Đặc điểm, tính chất.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể thường bao gồm: kiểu quan hệ sản xuất thống trị
trong nền kinh tế. Đồng thời trong mỗi cơ sở hạ tầng xã hội còn có những quan hệ sản
xuất khác như: dấu vết, tàn trữ quan hệ sản xuất cũ và mầm mống, tiền đề của quan hệ sản
xuất mới. Cuộc sống của xã hội cụ thể được đặt trong trước hết bởi kiểu quan hệ sản xuất
thống trị tiêu biểu cho cuộc sống ấy và những quan hệ sản xuất quá độ, hay những tàn dư
cũ, mầm mống mới có vai trò nhất định giữa chúng tuy có khác nhau nhưng không tách
rời nhau vừa đấu tranh với nhau, vừa liên hệ với nhau và hình thành cơ sở hạ tầng của
mỗi xã hội cụ thể ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Ví dụ: Trong xã hội phong kiến ngoài quan hệ sản xuất phong kiến chiếm địa vị thống trị,
nó còn có quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội chiếm hữu nô lệ, mầm mống của quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa và chính 3 yếu tố đó cấu thành nên cơ sở hạ tầng phong kiến.
Đặc trưng cho tính chất của một cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị quy định.
Quan hệ sản xuất thống trị quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung của toàn bộ
đời sống kinh tế – xã hội. Quy định tính chất cơ bản của toàn bộ cơ sở hạ tầng xã hội
đương thời mặc dù quan hệ tàn dư, mầm mống có vị trí không đáng kể trong xã hội có
nền kinh tế xã hội phát triển đã trưởng thành, nhưng lại có vị trí quan trọng trong cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần của xã hội đang ở giai đoạn mang tính chất quá độ.
Cơ sở hạ tầng mang tính chất đối kháng tồn tại trong xã hội mà dựa trên cơ sở chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tính chất đối kháng của cơ sở hạ tầng được bắt nguồn từ
những mâu thuẫn nội tại không thể điều hoà được trong cơ sở hạ tầng đó và do bản chất
của kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Đó là sự biểu hiện của sự đối lập về lợi ích
kinh tế giữa các tập đoàn người trong xã hội.
Như vậy, cơ sở hạ tầng là tổng thể và mâu thuẫn rất phức tạp, là quan hệ vật chất tồn tại
khách quan độc lập với ý thức con người. Nó được hình thành trong quá trình sản xuất vật
chất và trực tiếp biến đổi theo sự tác động và phát triển của lực lượng sản xuất. 1.2 Khái
niệm và kiến trúc thượng tầng xã hội. 1.2.1 Khái niệm
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm: chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết
học, tôn giáo, nghệ thuật… với những thể chế tương ứng: nhà nước, đảng phái, giáo hội,
các đoàn thể… được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.Bởi vậy, kiến trúc
thượng tầng là những hiện tượng xã hội, biểu hiện tập trung đời sống tinh thần của xã hội,
là bộ mặt tinh thần tư tưởng của hình thái kinh tế -xã hội. Nó đóng vai trò quan trọng
cùng các bộ phận khác trong xã hội hợp thành cơ cấu hoàn chỉnh của hình thái kinh tế-xã hội.
- Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng,
nhưng không tồn tại tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau và đều này sinh trên cơ sở
hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng. Xong không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng
tầng đều liên hệ như nhau đối với cơ sở hạ tầng của nó có những yếu tố như: Chính trị,
pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, có những yếu tố như: Triết học, tôn giáo,
nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nhau.
- Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Đó chính là cuộc đấu
tranh và mặt chính trị – tư tưởng của các giai cấp đối kháng, trong đó đặc trưng là sự
thống trị về mặt chính trị tư tưởng của giai cấp thống trị. Trong các bộ phận có kiến trúc
thượng tầng, Nhà nước ta có tổ chức quyền lực cao nhất giữ vai trò quyết định. Nhờ có
Nhà nước mà giai cấp thống trị mới thực hiện sự thống trị của mình về tất cả các mặt của
đời sống xã hội. 1.2.2 Đặc điểm và tính chất
Như vậy, các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều ra đời và có vai trò nhất
định trong việc tạo nên bộ mặt tinh thần, tư tưởng của xã phát triển trên một cơ sở hạ tầng
nhất định, là phản ánh cơ sở hạ tầng.
Song không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên quan như nhau với
cơ sở hạ tầng của nó. Mà trong xã hội có giai cấp, tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp quyền
cùng những tổ chức tương ứng như chính đảng, nhà nước là những bộ phận quan trọng
nhất, mạnh mẽ nhất và là thành phần chính của kiến trúc thượng tầng, tiêu biểu cho chế
độ chính trị, xã hội ấy.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp mang tính giai cấp sâu sắc. Tính
giai cấp của kiến trúc thượng tầng biểu hiện ở sự đối địch về quan điểm, tư tưởng và các
cuộc đấu tranh về tư tưởng của các giai cấp đối kháng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất
của kiến trúc thượng tầng của xã hội có tính chất đối kháng giai cấp là nhà nước – Đây là
công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho xã hội về mặt pháp lý – chính trị. Thời kỳ
quá độ từ CNTB lên CNCS, những tàn dư tư tưởng của các giai cấp thống trị bóc lột vẫn
còn tồn tại trong kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, trong kiến trúc thượng tầng của các nước
xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ này vẫn còn sự đấu tranh giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa với
những tàn dư tư tưởng khác. Chỉ đến chủ nghĩa cộng sản, tính giai cấp của giai cấp của
giai cấp thượng tầng mới bị xoá bỏ.
1.3 MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC
THƯỢNG TẦNG XÃ HỘI Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của nó. Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ
thể, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định.
1.3.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Bởi
vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế xét đến cùng quyết
định tính tất yếu chính trị - xã hội.
Trong đời sống hiện thực của xã hội, kiến trúc thượng tầng luôn được biểu hiện ra một
cách phong phú, phức tạp và đôi khi dường như không trực tiếp gắn với cơ sở hạ tầng.
Nhưng đó chỉ là những biểu hiện bề ngoài, còn trong thực tế tất cả những hiện tượng của
kiến trúc thượng tầng đều có nguyên nhân sâu xa trong những điều kiện kinh tế - vật chất
của xã hội. Bất kỳ một hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng, như chính trị, pháp
luật, đảng phái, triết học, đạo đức,v.v. đều không thể giải thích được từ chính bản thân nó
mà tất cả xét đến cùng phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Bởi vậy,
vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở
chỗ, cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội sẽ quyết định kiểu
kiến trúc thượng tầng của xã hội ấy. Cơ sở hạ tầng không chỉ sản sinh ra một kiểu kiến
trúc thượng tầng tương ứng - tức là quyết định nguồn gốc, mà còn quyết định đến cơ cấu,
tính chất và sự vận động, phát triển của kiến trúc thượng tầng.
Nếu cơ sở hạ tầng có đối kháng hay không đối kháng, thì kiến trúc thượng tầng của nó
cũng có tính chất như vậy. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị
thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống chính trị, tinh thần của
xã hội; mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư
tưởng của xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng như thế nào thì cơ cấu, tính chất của kiến trúc
thượng tầng là như thế ấy. Những biến đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn
sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong
từng hình thái kinh tế - xã hội, cũng như khi chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội này
sang một hình thái kinh tế - xã hội khác. C.Mác khẳng định: “Cơ s kinh tế thay đi thì
toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng" Nguyên
nhân của những biến đổi đó xét cho cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy
nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ
tầng và đến lượt nó, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi
một cách căn bản. Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức
tạp trong quá trình chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời sang một hình thái
kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi đó tất
yếu phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng đưa tới sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng. Nhưng sự
thay đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp, có những bộ phận của kiến trúc
thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị,
luật pháp,v.v.. Có những nhân tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng thay đổi chậm hơn
như tôn giáo, nghệ thuật,v.v.. Cũng có những nhân tố nào đó của kiến trúc thượng tầng cũ
vẫn được kế thừa để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.
1.3.2 Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định nhưng
có sự tác động trở lại to lớn đối với kiến trúc thượng tầng. Bởi vì kiến trúc thượng tầng có
tính độc lập tương đối so với cơ sở hạ tầng. Lĩnh vực ý thức, tinh thần khi ra đời, tồn tại
thì có quy luật vận động nội tại của nó. Vai trò của kiến trúc thượng tầng chính là vai trò
tích cực, tự giác của ý thức, tư tưởng.Vai trò của kiến trúc thượng tầng còn do sức mạnh
vật chất của bộ máy tổ chức - thể chế luôn có tác động một cách mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó; ngăn chặn
cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh xoá bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ; định hướng, tổ chức, xây
dựng chế độ kinh tế của kiến trúc thượng tầng. Thực chất vai trò kiến trúc thượng tầng là
vai trò bảo vệ duy trì, củng cố lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị xã hội. Mặt khác, kiến
trúc thượng tầng trong các xã hội có giai cấp còn đảm bảo sự thống trị về chính trị và tư
tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị về kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập
được sự thống trị về chính trị và tư tưởng, cơ sở kinh tế của nó không thể đứng vững được.
Tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều hướng.
Kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với sự phát triển của cơ sở hạ tầng sẽ thúc đẩy
cơ sở hạ tầng phát triển và nếu tác động ngược chiều với sự phát triển của cơ sở hạ tầng,
của cơ cấu kinh tế nó sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng, của kinh tế. Nghĩa là,
khi kiến trúc thượng tầng phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách
quan sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Và ngược lại, khi kiến trúc thượng tầng không phản
ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển
của kinh tế và đời sống xã hội.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng thì kiến trúc thượng tầng về chính trị có vai
trò quan trọng nhất, trong đó nhà nước có vai trò tác động to lớn đối với cơ sở hạ tầng.
Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhà nước không chỉ dựa trên hệ tư
tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của sự kiểm soát xã hội. Nhà nước sử
dụng sức mạnh của bạo lực để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị và củng
cố vững chắc địa vị của quan hệ sản xuất thống trị. Với ý nghĩa đó Ph.Ăngghen khẳng
định: “Bạo lực (tức là quyền lực nhà nước) cũng là một sức mạnh kinh tế". Và chỉ rõ, tác
động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế theo hai chiều hướng
cơ bản, nếu tác động cùng hướng với sự phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển
nhanh hơn; nếu tác động ngược lại hướng phát triển kinh tế sẽ kìm hãm sự phát triển của
kinh tế; và nó có thể ngăn cản một vài hướng phát triển nào đấy của nền kinh tế, thúc đẩy
sự phát triển đó theo những hướng khác - trong trường hợp này theo Ph.Ăngghen, rốt
cuộc nó cũng dẫn đến một trong hai trường hợp trên.
Tuy nhiên, trong thực tiễn của đời sống xã hội, không phải chỉ có quyền lực nhà nước mới
có sự tác động to lớn đến cơ sở hạ tầng, mà các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng
như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,… cũng đều tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ
tầng bằng những hình thức khác nhau, với các cơ chế khác nhau. Song thường thường
những sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật, các thể chế tương ứng và chỉ
qua đó chúng mới phát huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, cũng như đối với toàn xã hội.
Sự vận động của quy luật này dưới chủ nghĩa xã hội có những đặc điểm riêng. Cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa không hình thành tự phát trong lòng xã hội
cũ. Để xác lập cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi tất yếu phải xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũ
thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự thiết lập kiến trúc thượng tầng chính trị
xã hội chủ nghĩa là tiền đề cho sự hình thành, phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội chủ
nghĩa. Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa có mầm mống nảy sinh ngay từ cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản và quần chúng lao động nhằm chống lại giai cấp thống trị bóc
lột, lật đổ trật tự xã hội cũ. Song, sự hình thành và vai trò của nó được phát huy một cách
đầy đủ, chủ yếu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền. Kiến trúc thượng tầng xã
hội chủ nghĩa chỉ có thể được củng cố, phát triển dựa trên cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa
và trong chính sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, xây dựng và hoàn thiện
kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, phải tích cực chủ động đấu tranh khắc phục mọi tàn
dư tư tưởng lạc hậu của xã hội cũ và đánh bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành từng bước với những hình thức, quy mô
thích hợp. Cơ sở hạ tầng còn mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành
phần đan xen nhau của nhiều loại hình kinh tế - xã hội. Vì vậy, phát triển kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính quy luật để phát triển cơ sở
hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phải biết phát huy cao độ vai trò của kiến trúc
thượng tầng trong phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để xây dựng cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa, cần phải tránh khuynh hướng chủ quan
duy ý chí, nôn nóng bất chấp các quy luật khách quan.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa khi đã phát triển một cách đầy đủ
và hoàn thiện sẽ có bản chất ưu việt, tốt đẹp nhất trong lịch sử. Cơ sở hạ tầng xã hội chủ
nghĩa không còn mâu thuẫn đối kháng, trong kết cấu kinh tế không bao hàm sự đối lập về
lợi ích căn bản. Đặc trưng của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa là sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong toàn xã hội. Tính ưu việt của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ
nghĩa được biểu hiện ở hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là hệ tư tưởng tiến bộ và cách
mạng nhất trong lịch sử . Nó còn được biểu hiện ở vai trò của nhà nước và pháp luật xã
hội chủ nghĩa; ở sự phát triển các hình thái ý thức xã hội một cách phong phú, đa dạng
chứa đựng đầy đủ các giá trị của chủ nghĩa xã hội.
II. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC
THƯỢNG TẦNG Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1 Đặc điểm hình thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cộng sản chủ nghĩa.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cộng sản chủ nghĩa không hình thành tự phát
trong xã hội cũ, mà hình thành tự giác sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền và phát
triển hoàn thiện “Suốt thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản ”.
Muốn có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cộng sản chủ nghĩa. Trước hết giai cấp
vô sản phải dùng bạo lực cách mạng đập tan nhà nước cũ, lập nên nhà nước vô sản. Sau
khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản tiến hành quốc hữu hoá, tịch thu, trưng thu
nhà máy, xí nghiệp của giai cấp tư sản nhằm tạo ra cơ sở kinh tế ban đầu của chủ nghĩa xã hội.
Việc nhà nước chuyên chính vô sản phải ra đời trước để tạo điều kiện và làm công cụ,
phương tiện cho quần chúng nhân dân, tiến hành triệt để quá trình ấy hoàn toàn phù hợp
với quy luật khách quan của xã hội. Đó là sự phát triển khách quan trong quá trình sản
xuất vật chất của xã hội, đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tiến
bộ hơn thay thế cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa lỗi thời phản
động. Tuy nhiên, nhà nước chuyên chính vô sản có thật sự vững mạnh hay không lại hoàn
toàn phụ thuộc vào sự phát triển của sự phát triển của cơ sở hạ tầng cộng sản chủ nghĩa.
2.2 Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
thuần nhất và thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng,
không bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu
toàn dân và tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm
theo lao động, không còn chế độ bóc lột .
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì
vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước
kiểu mới: của dân do dân và vì dân. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là công cụ để cải tạo xã
hội cũ và xây dựng xã hội chủ nghĩa tiến bộ, khoa học trở thành động lực cho sự phát triển xã hội.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyển tiếp. Cho nên cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng với đầy đủ những đặc trưng của nó. Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá
độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội
khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa
giai cấp vô sản và giai tư sản trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá.
Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang
tính cách mạng lâu dài, phức tạp mà thực chất là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa
hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chính vì những lý do đó mà nước ta
từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế lạc hậu sản xuất nhỏ là chủ yếu, đi
lên chủ nghĩa xã hội (bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa ) chúng ta đã gặp rất nhiều
khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước
ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản
nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền
với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh
tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống nhất với
nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất , chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên
kết với nhau, bổ xung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử
dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong đó biện pháp kinh tế
có vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước
đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ
trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế
tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây
dựng cơ sở kinh tế hợp lý.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt
lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con
người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít.
Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời sống
tinh thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Xây dựng hệ thống chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do
Đảng cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ
quyền lực của xã hội thuộc về nhân dân thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát
huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động của mọi cá nhân.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ :
”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản
lãnh đạo ”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị – xã hội
không tồn tại như một mục đích tư nhân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi
ích và quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết
mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và củng cố các
bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.
2.3 Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đối với việc vận dụng mối quan hệ giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng
2.3.1 Việt Nam trong giai đoạn 1975
Sau độc lập những năm 1975, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn..
- Nông nghiệp: lạc hậu; thiên tai nghiêm trọng; mùa màng thất bát; nhân dân đói
khổ;khốn khó. Công cụ sản xuất còn đơn sơ và chủ yếu dựa vào các yếu tố tự nhiên và
các hệ thống thủy lợi chưa phù hợp với sản xuất dẫn đến năng suất lao động còn thấp.
- Công nghiệp: nền công nghiệp nước ta vào những năm này chủ yếu là nền công
nghiệp và sản xuất để phục vụ mục đích chiến tranh. Tuy nhiên, các ngành này còn ít và lạc hậu.
- Y tế, văn hoá, giáo dục: Sau chiến tranh, nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, đời sống
nhân dân chưa được quan tâm đầy đủ, về vấn đề sức khoẻ cộng đồng chưa được quan tâm
đúng mức. Bệnh viện, các trang thiết bị y tế vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Trong thời kỳ này, nền văn hoá ở các vùng nông thôn còn mang nặng tính phong kiến,
hiểu biết còn hạn chế. Tỷ lệ mù chữ còn cao, hệ thống trường lớp thiếu nhiều kiến thức.
Dù là cán bộ nhưng hầu hết họ mới chỉ được học những điều cơ bản. Khoa học: Những gì
mà nước ta có lúc bấy giờ thì chỉ là những con số. - Công nghệ: Không là gì cả.. - Thể chế
chính trị: Mặc dù tình hình chính trị xã hội bắt đầu có chiều hướng ổn định thế nhưng do
công tác đào tạo cán bộ vẫn chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến trình độ và năng lực
quản lý của đội ngũ chính trị viên còn thiếu sót ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng kinh tế
bị trì trệ. - Xây dựng mô hình kinh tế: hợp tác với hình thức quy mô lớn, và theo điểm
“cùng hưởng, dồn hết ruộng đất để hợp tác”. - Xóa bỏ nền kinh tế nhiều thành phần và
chế độ tư hữu, xây dựng nền kinh tế quốc hữu hóa hoàn toàn. - Công nghiệp nhẹ và các
nghề thủ công truyền thống bị đánh giá thấp. - Hơn 40% quỹ đầu tư tập trung vào lĩnh vực
công nghiệp nặng. - Thực hiện nền kinh tế đóng và chỉ thiết lập quan hệ với khối nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Sau những dòng mang tính xây dựng này, có lẽ chúng ta đã nhìn ra
được những hậu quả vô cùng nghiêm trọng: - Sự xóa bỏ nhanh chóng về nền kinh tế tư
nhân, quốc hữu hóa 100% nhiều ngành nghề đã dẫn đến suy giảm sức cạnh tranh của nền
kinh tế, làm cho các ngành kinh tế nhất là ngành hàng tiêu dùng không phát triển được,
hàng tiêu dùng trở nên vô cùng khan hiếm. - Kinh tế đóng cửa làm cho môi trường phát
triển của ta bị thu hẹp. Các nhà máy, xí nghiệp mà các nước xã hội chủ nghĩa xây dựng
cho chúng ta, chúng ta không thể duy trì hoạt động, sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng
được nhu cầu của chúng ta. 2.3.2 Việt Nam trong giai đoạn 1986
Để giải quyết mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, Đảng và Nhà
nước đã không ngừng nghiên cứu, phân tích những mặt cụ thể, lồng ghép bản chất, sự vận
động, xu thế phát triển của đảng và nhà nước vào thực tiễn nhà nước. Từ đó, các biện
pháp cụ thể khác nhau đã được đưa ra để giải quyết các mối quan hệ này. Về các nguyên
tắc cụ thể: - Về cơ sở hạ tầng: khẳng định trong cơ cấu kinh tế quốc dân đã có sự thống
nhất định về hướng xã hội chủ nghĩa tồn tại phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất về
nhiều mặt. Theo nguyên tắc để bảo đảm năng suất về lợi ích kinh tế, để tăng thêm thu
nhập và thời gian lao động. Các mặt khác của sự phát triển sử dụng các thành phần kinh tế
gắn chặt với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và liên kết chủ đạo để dẫn dắt các thành phần
khác đi đúng hướng chủ nghĩa xã hội. - Kiến trúc thượng tầng: lấy chủ nghĩa Mác - Lê-
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm "kim chỉ nam" để tiến hành xây dựng và chuyển hóa hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân. Đồng thời, Nhà
nước cũng đề ra các đường lối chính sách để phát huy thêm tính năng của cơ sở hạ tầng;
phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động của mọi cá nhân, mọi tầng lớp trong
xã hội để phục vụ về các lợi ích của toàn đảng, toàn dân. 2.4 Một số kiến nghị Trong
suốt quá trình phát triển về nền kinh tế nhiều thành phần để định hướng thêm về chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, bên cạnh đó thì cần vận dụng và nắm vững những mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Kết cấu hạ tầng là cơ cấu kinh tế
gồm nhiều thành phần, bên cạnh đó còn bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, tập thể và
nhiều doanh nghiệp nhà nước, tập thể và nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Sự đan xen
quá mức của kết cấu hạ tầng kinh tế không chỉ làm cho nền kinh tế tràn trề sức sống, mà
không những làm phong phú mà bên cạnh đó trở nên phức tạp hơn trong quá trình thực
hiện định hướng của chủ nghĩa xã hội. Đây chính là những cơ cấu kinh tế năng động và
phong phú thể hiện ở kiến trúc thượng tầng, khách quan mà nói khi đặt ra yêu cầu đối với
kiến trúc thượng tầng thì cần phải khách quan đòi hỏi kiến trúc thượng tầng phải có sự đổi
mới hơn nữa để có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của nền kinh tế. Do đó, chỉ có kiến
trúc thượng tầng mới có thể đáp ứng một cách nhanh chóng các nhu cầu về cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, đối với việc đổi mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì rất phức tạp.
Điều quan trọng đầu tiên chính là hình thành nó càng sớm càng tốt để đạt được những
thỏa thuận về các điểm điều trị cơ bản. - Thứ nhất chúng ta phải có các phương pháp cụ
thể để giải quyết vấn đề, thay vì làm theo những phương pháp như “bốc hỏa, bốc thuốc”
thì hãy tìm ra nguyên nhân chính của vấn đề và để đưa ra lý lẽ khả thi nhất. - Thứ hai là
phải theo dõi chặt chẽ, khai thác, sàng lọc và xử lý kịp thời các tín hiệu kinh tế khác nhau
theo hướng dẫn chính sách tương ứng để thúc đẩy sự vận hành lành mạnh của nền kinh tế.
Đồng thời, cần thiết lập một cơ chế quản lý kinh tế có thể thu thập, đánh giá và xử lý kịp
thời mọi tín hiệu kinh tế trên phạm vi cả nước. - Thứ ba là cải thiện các thủ tục tài chính
và tăng cường hợp pháp hóa quản lý tài chính quốc gia từ chính quyền trung ương đến các
nhà sản xuất. III. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CƠ
SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 3.1 Tích
cực tham gia xây dựng phát triển kinh tế gia đình, địa phương và đất nước. Nền kinh
tế xã hội trên toàn cầu đã và đang có nhiều sự thay đổi lớn trong cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ 4. Sự bùng nổ và phổ biến của internet và các công nghệ kỹ thuật số đã
mang lại nhiều cơ hội cho thế hệ trẻ hiện nay tham gia và kết nối vào thị trường kinh tế
thế giới. Đặc biệt là nền kinh tế số, đó là một con đường khả quan cho việc sinh viên có
thể dễ dàng xây dựng và phát triển nền kinh tế của đất nước trong thời đại công nghệ hiện
nay. Thế giới đang từng ngày thay đổi, thế hệ sinh viên trẻ chúng ta cũng đã rất thành
công trong việc khởi nghiệp, sáng tạo ví dụ điển hình như Facebook. Thế hệ sinh viên trẻ
rất biết cách tận dụng những cơ hội để khởi nghiệp bằng cách nắm bắt nền thị trường kinh
tế và cuộc cách mạng 4.0. Vai trò của lực lượng sinh viên trẻ đã được Đảng và Nhà nước
ghi nhận, cụ thể nghị quyết Hội nghị lần thứ VII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa” đã khẳng định: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương
lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ T quốc, một trong
những nhân tố quyết định sự thành bại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội
nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt vị trí trung tâm trong
chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát huy thanh
niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự n định và phát triển vững bền của
đất nước”. Thế hệ sinh viên Việt Nam cần được định hướng trong lựa chọn nghề nghiệp,
học tập phù hợp với khả năng và sở thích để tránh tình trạng làm việc không đúng chuyên
môn được đào tạo, gây lãng phí về thời gian học tập và nguồn lực của xã hội. Ngoài ra,
sinh viên cần mạnh dạn đề nghị, đề xuất với Đảng, Nhà nước và những nhà tài trợ quan
tâm đầu tư để phát triển năng lực tuổi trẻ, cống hiến, vì nền kinh tế của quốc gia, dân tộc.
Sinh viên hiện nay cần liên tục cập nhật, trang bị kiến thức và hiểu biết từ các kỹ năng
đến mối quan hệ khác nhau. Trong một môi trường đầy biến động và đa chiều của nền
kinh tế, thế hệ sinh viên Việt Nam cần nâng cao bản lĩnh chính trị, tự trang bị cho mình
kiến thức để có “vắc xin” với các luồng thông tin độc hại, chưa rõ tính xác thực, tránh bị
lôi kéo, dụ dỗ mắc phải những sai phạm về đạo đức, tiêu cực và tệ nạn xã hội, hoặc bị lợi
dụng, kích động lôi kéo vào các hành vi gây rối, vi phạm pháp luật. Đặc biệt cần cảnh
giác trước nhiều luồng thông tin xấu của các thế lực thù địch, lợi dụng các vấn đề kinh tế
xã hội trong nước kích động lôi kéo, lợi dụng tinh thần yêu nước của người dân để tiến
hành các hoạt động chống phá, âm mưu thực hiện diễn biến hòa bình và cách mạng màu
tại Việt Nam. Tiếp tục phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đóng
với vai trò hạt nhân chính trị quan trọng trong việc tập hợp, đoàn kết, xây dựng thế hệ
thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện, cổ vũ thanh niên thi đua học tập, khởi nghiệp,
lao động sáng tạo trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm góp phần
tạo nên những thành tựu mới to lớn và có ý nghĩa cho nước nhà như lời Bác dạy “Thanh
niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay
mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. 3.2 Tích cực tham gia thực hiện tốt các quy
định của nhà nước và pháp luật. Mỗi học sinh phải yêu thích học tập, rèn luyện
chăm chỉ, hiểu đúng điều thiện, điều ác, biết những điều nên làm và không nên làm trong
thời gian học ở trường; nắm vững và chấp hành đầy đủ nội quy, quy chế của nhà trường,
quy định của địa phương và pháp luật quốc gia; phát hiện và mạnh dạn chống ảnh hưởng
của các hiện tượng xấu trật tự công cộng của địa phương hoặc trường học. Để phát huy
những mặt tích cực của học sinh, hạn chế những khuyết điểm, yếu kém, góp phần tích cực
vào công tác giữ gìn trật tự an toàn ở địa phương, mọi người phải học tập rèn luyện, rèn
luyện tốt, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, kính thầy, tôn trọng các cơ quan chính phủ, và
tích cực tham gia các hoạt động thể thao tại địa phương. Để bảo đảm trật tự an toàn, mọi
công dân phải có ý thức chấp hành các quy định của Nhà nước và địa phương về giữ gìn
trật tự an toàn như bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ việc thực hiện đường lối chính trị
quốc gia, bảo vệ chính quyền, bảo vệ quyền lực của xã hội. các tổ chức. ; Đấu tranh chống
địch phá hoại về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội; xây dựng khu phố đoàn kết
toàn dân ... Tích cực chấp hành pháp luật và các quy định hành chính trong lĩnh vực công
an; quy định về an toàn giao thông; an toàn phòng cháy và chữa cháy; vệ sinh môi trường
và các quy định khác. Mỗi học sinh phải tích cực tham gia vào các hoạt động của trường,
liên đoàn thanh niên hoặc tổ chức địa phương. Không duyệt, đọc, truyền bá văn hóa phẩm
độc hại, biến chất, không nghe, bình luận các luận điệu tuyên truyền bỉ ổi của các thế lực
thù địch vu cáo các nước xã hội chủ nghĩa, không truy cập các trang web có nội dung
không lành mạnh. Không được phép thành lập hoặc tham gia hoạt động của tổ chức chính
trị, tổ chức có tính chất chính trị vi phạm pháp luật Việt Nam khi chưa được ủy quyền.
Phát hiện, tư vấn cho thầy, cô giáo và cơ quan chính quyền địa phương nơi sinh sống, học
tập các biện pháp ngăn chặn các hành vi không lành mạnh cho xã hội (cờ bạc, ma tuý, mại
dâm), các hành vi gây nguy hiểm đến an toàn, trật tự, an toàn xã hội. 3.3 Tích cực chăm
chỉ, sáng tạo, học tập, lao động, có mục đích, động cơ đúng đắn để mai sau xây dựng đất
nước. Tích cực học tập nâng cao trình độ chính trị, khoa học và công nghệ, chuyên
môn nghiệp vụ có liên quan để phát huy hết khả năng của mình góp phần xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đủ sức xây dựng và bảo vệ đất đai. , Học sinh phải
chăm chỉ, sáng tạo, học và làm trước; có mục đích học tập đúng đắn và động cơ học tập
đúng đắn. Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; có một cuộc sống trong sáng và lành
mạnh, tránh xa những bất bình của xã hội; Biết đấu tranh chống những biểu hiện của lối
sống lai căng, thực dụng, xa rời các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc.
Quan tâm đến đời sống chính trị xã hội của thành phố và đất nước. Thực hiện tốt mọi chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước; Đồng thời, vận động mọi người
xung quanh cùng thực hiện. Thường xuyên giúp đỡ học sinh khuyết tật trong học tập,
động viên các em vượt khó học tốt. Tầng lớp trí thức là trách nhiệm của học sinh. Có
kiến thức, hiểu biết, năng động và sáng tạo. , được tiếp thu bởi tri thức khoa học của nhân
loại, là nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước, nhưng mỗi học sinh cũng cần được
sự quan tâm hỗ trợ, chỉ đạo, hướng dẫn của đảng, nhà nước, nhà trường và toàn xã hội.
3.4 Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong, lối sống trong lành mạnh, tránh xa các tệ nạn
xã hội, xây dựng văn hóa-đạo đức truyền thống của dân tộc Ngoài việc tích cực học
tập, rèn luyện sức khỏe, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khỏe, chúng ta cũng phải chăm chỉ
học tập, cố gắng không phá phách, trộm cắp, ma tuý và các tệ nạn xã hội khác, để có ích
cho xã hội khi các bạn làm việc thành công trong các cơ quan nhà nước. Dù bạn ở tổ chức
nào thì bạn cũng đang giúp đỡ nhân dân, bạn quan tâm đến đời sống chính trị xã hội của
địa phương và cả nước. Thực hiện chính sách của Đảng và luật pháp quốc gia, vận động
những người xung quanh cùng làm. Tích cực tham gia đóng góp xây dựng quê hương,
làm những công việc thiết thực, phù hợp như: Bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm
xã hội, xóa đói giảm nghèo, chống tiêu cực, tham nhũng ... Tích cực tham gia các hoạt
động phòng chống tội phạm trong nhiều nơi, kịp thời phát hiện những khiếm khuyết trong
trường học, nhà ở Các hiện tượng, hành vi vi phạm pháp luật để cơ quan Công an có biện
pháp phòng ngừa, ngăn chặn, giải quyết. Để góp phần giữ gìn trật tự an toàn và hình
thành phong trào phòng chống tội phạm trên toàn quốc, học sinh cần tích cực tham gia
các hoạt động giữ gìn trật tự an toàn ở địa phương theo khả năng của mình. Cần báo ngay
cho ban giám hiệu nhà trường, giáo viên, chủ nhiệm lớp hoặc công an để thu giữ kịp thời.
Điều tra, ngăn chặn các vụ đánh nhau, gây rối trật tự xã hội, báo cáo trường học, ban bảo
vệ dân phố và cơ quan công an lân cận, thực hiện các biện pháp ngăn chặn, tham gia điều
tra, truy bắt các đối tượng phạm tội. Điều tra, xử phạt các hành vi vi phạm trật tự, an toàn
xã hội như mang vật liệu dễ cháy nổ, chất độc, vũ khí thô sơ. Phát hiện và báo cáo kịp
thời cho nhà trường những người hoặc học sinh có biểu hiện nghiện ma tuý, đua xe, cờ
bạc,... 3.5 Biết phê phán đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc.
Đặc biệt đối với các thế lực phản động luôn muốn chống phá nhà nước, gây chia rẽ, mất
đoàn kết giữa nhân dân trong và ngoài nước thì càng phải ra sức, trí tuệ vì uy tín, danh dự,
hình ảnh của đất nước và của nhân dân phải bị lên án, loại bỏ những kẻ trung thành. với
Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa Cảnh giác với âm mưu chia rẽ, chống phá của các
thế lực thù địch; phê phán, đấu tranh với những thái độ, hành động phá hoại an ninh quốc
gia, xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước trong điều kiện hiện nay mà các
thế lực thù địch, phần tử chống đối chống phá Đảng, Nhà nước ra sức thực hiện các hoạt
động diễn biến hòa bình. bằng mọi cách. Muốn vậy, họ chú ý đến khu vực các trường đại
học, cao đẳng, trung cấp nghề; lợi dụng để lừa đảo học sinh, sinh viên rất năng động,
sáng tạo nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm sống, là không gian, đối tượng để thực hiện
diễn biến hòa bình. Vì vậy, sinh viên phải cảnh giác, tích cực đấu tranh chống những
phần tử thoái hóa, biến tướng trong tổ chức đảng, cơ quan chính quyền, nhưng không
chống lại các thế lực thù địch; các phần tử chống đối lợi dụng để thực hiện diễn biến hòa
bình, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở nước ta và cuối cùng là thủ tiêu.
C. KẾT LUẬN Những thành tựu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được thì khẳng
định thêm một lần nữa rằng chứng minh mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng. Không có một quốc gia có cơ sở hạ tầng phát triển và kiến trúc
thượng tầng thì ngược lại, không có sự phát triển tương thích với cơ sở hạ tầng thì không
có kiến trúc thượng tầng hoàn chỉnh. Nó không nên được coi là sự phát triển bình thường
mà là sự phát triển không hoàn chỉnh. Mỗi chúng ta đều tự hào về công cuộc chuyển đổi
do đảng mình khởi xướng và lãnh đạo. Nhưng chúng tôi tỉnh táo nhận thức rằng vẫn còn
rất nhiều khuyết điểm vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Đây là tác động tiêu
cực của cơ chế quan liêu bao cấp đã ngấm vào tổ chức và hoạt động của nhà nước trong
một thời gian dài. Đặc quyền đặc lợi, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, công nhân viên đã gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp
đến kinh tế, văn hóa, làm tác động xấu đến chính trị, tinh thần, đạo đức của xã hội ta. Tuy
còn một số khuyết điểm vẫn chưa đạt được nhưng chúng ta hãy tin tưởng rằng với sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng và đất nước trên cơ sở Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh thì nhất định chúng ta sẽ thành công. Bởi vì, có niềm tin và biết vận dụng đúng
các quy luật phát triển của xã hội nên Mác và Lê-nin là người đi trước mở đường cho nhân loại.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng CSVN – Cương lĩnh XD Đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH. NXB Sự thật, Hà Nội 1991. 2. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn
giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình
Triết học Mác-Lênin, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003 3. Văn kiện Đại hội VI, VII,
VIII. 4. Giáo trình Triết học Mác Lê-nin, Tập II, Học viện chính trị- Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia. 5. “Tầm quan trọng của quản trị quốc gia VI: các
chỉ số thành phần và tổng hợp về quản trị quốc gia 1996-2006”. Tài liệu nghiên cứu số
4280 của Nhóm nghiên cứu Ngân hàng Thế giới, tháng 7/2007. 6. Giáo trình những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, Nxb chính trị quốc gia. 7. Đổi mới kinh tế ở
Việt Nam, thực trạng và giải pháp. 8. http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp? Object=4&news