Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội, phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Tiểu luận này được viết nhằm nêu lại quan điểm của Triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội đồng thời trên cơ sở: Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó nó cũng được hi vọng có thể thay đổi được nhận thức xã hội nhằm tạo ra những thay đổi tích cực trong hành động của mỗi cá nhân, tạo thuận lợi cho việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN TÊN ĐỀ TÀI:
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI, PHÂN
TÍCH VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ĐOÀN ĐỨC HIẾU
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1) ĐẶNG QUỐC BẢO MSSV: 23119003 2) VÕ TẤN PHÁT MSSV: 23119027 0 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU: 2
- Lý do chọn đề tài 2
- Mục đích của đề tài 3 PHẦN CHÍNH 1. Cơ sở lí luận 4 1.1. Các khái niệm 4
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội 4
1.2.1. Xã hội – bộ phận đặc thù của tự nhiên 4
1.2.2. Tự nhiên – Con người – Xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất 5
1.2.3. Tự nhiên – nền tảng của xã hội 6
1.2.4. Tác động của xã hội đến tự nhiên 7
1.2.5. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội 8
1.2.6. Môi trường – vấn đề của chúng ta 9
2. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam 13
2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam 13
2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam 14
2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam 14
2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam 15
2.1.4. Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam 15
2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học 15
2.1.6. Vấn đề môi trường ở Việt Nam 17
2.2. Nhìn ra thế giới – Những bài học 19
2.2.1. Vấn đề môi trường trên thế giới 19
2.2.2. Thế giới hành động – Lối thoát 21 2.3. Việt Nam hành động 22 PHẦN KẾT 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26 1
đặc biệt là trong thời đại hiện nay khi khoa học kĩ thuật
phát triển mạnh mẽ và dân số toàn cầu đang bùng nổ thì
tự nhiên và môi trường càng bị phá hủy mạnh mẽ hơn.
Các nhà bác học nhìn xa trông rộng như Z. Lamark, 1820
đã viết: "Mục đích của con người dường như là tiêu diệt
nòi giống mình, trước hết là làm cho Trái Đất trở thành
không thích hợp với sự cư trú".
Nếu chúng ta không muốn tiên đoán oan nghiệt này
trở thành sự thật thì đã đến lúc để hành động trước khi
quá muộn. Đã đến lúc con người cần xác định rõ mối quan
hệ giữa xã hội của họ với tự nhiên và quan tâm đến các vấn đề môi trường.
Việt Nam một nước đang trong quá trình CNH - HĐH
đất nước, chúng ta cũng có những vấn đề về môi trường,
chúng ta cần phải có quan điểm đúng đắn để giải quyết
những vấn đề này trước khi mọi việc trở nên quá tồi tệ.
Mục đích của đề tài:
Tiểu luận này được viết nhằm nêu lại quan điểm của
Triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa tự nhiên và xã
hội đồng thời trên cơ sở: Mối quan hệ biện chứng giữa tự
nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó nó cũng được hi vọng có thể thay đổi
được nhận thức xã hội nhằm tạo ra những thay đổi tích
cực trong hành động của mỗi cá nhân, tạo thuận lợi cho
việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam. 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội đã được con
người quan tâm từ rất sớm, cho đến nay quan niệm về vấn
đề này đã trở nên hoàn thiện hơn bao giờ hết.
1.1. Các khái niệm:
Để bắt đầu chúng ta hãy làm rõ các khái niệm:
Tự nhiên: theo nghĩa rộng tự nhiên là toàn bộ thế
giới vật chất vô cùng vô tận. Theo nghĩa này thì con người
và xã hội loài người cũng là một bộ phận của tự nhiên.
Chúng ta xem xét tự nhiên theo nghĩa này.
Xã hội: là hình thái vận động cao nhất của vật chất,
hình thái này lấy mối quan hệ của con người và sự tác
động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Theo
Mác: "Xã hội không phải gồm các cá nhân người. Xã hội
biểu hiện tổng số mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân với nhau".
1.2. Mối quan hệ biên chứng giữa tự nhiên và xã hội: 4
biểu hiện tổng số mối liên hệ và những quan hệ của các
cá nhân với nhau, "là sản phẩm của sự tác động qua lại
giữa những con người". Như vậy xã hội cũng là một bộ
phận của tự nhiên. Song bộ phận này có tính đặc thù thể
hiện ở chỗ: phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố
vô thức và mù quáng tác động lẫn nhau; còn trong xã hội,
nhân tố hoạt động là của con người có ý thức, hành động
có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Hoạt
động của con người không chỉ tái sản xuất ra chính bản
thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.
1.2.2. Tự nhiên - Con người - Xã hội nằm trong
một chỉnh thể thống nhất:
Con người và xã hội không chỉ là một bộ phận của tự
nhiên. Hơn thế tự nhiên - con người - xã hội nằm trong
một chỉnh thể thống nhất.
Theo nguyên lí về tính thống nhất vật chất của thế
giới thì thế giới tuy vô cùng phức tạp, đa dạng và được
cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau song suy đến cùng
có ba yếu tố cơ bản là tự nhiên, con người và xã hội loài
người. Ba yếu tố này thống nhất với nhau trong một hệ
thống tự nhiên - con người - xã hội bởi chúng đều là những
dạng thức khác nhau, những trạng thái, đặc tính, mối
quan hệ khác nhau của vật chất đang vận động.
Thế giới vật chất luôn luôn vận động theo những qui
luật, tất cả các quá trình trong tự nhiên, con người và xã
hội đều chịu sự chi phối của những qui luật phổ biến nhất
định. Sự hoạt động của các qui luật đó đã nối liền các yếu
tố của thế giới thành một chỉnh thể thống nhất vĩnh viễn
và phát triển không ngừng trong không gian và theo thời gian.
Con người là hiện thân của sự thống nhất giữa
tự nhiên và xã hội:
Con người là sản phẩm của tự nhiên. Con người tạo ra
xã hội. Con người vốn tồn tại trong tự nhiên nhưng sau khi 6
tạo ra xã hội thì lại không thể tách rời xã hội. Để trở thành
một con người đích thực con người cần được sống trong
môi trường xã hội, trong mối quan hệ qua lại giữa người
với người với người. Con người mang trong mình bản tính
tự nhiên và bản chất xã hội. Chính vì thế ta có thể nói
rằng con người còn là hiện thân của sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên.
1.2.3. Tự nhiên - nền tảng của xã hội:
Xã hội và tự nhiên thống nhất với nhau nên nó tương
tác với nhau. Đây là một mỗi quan hệ biện chứng hai
chiều, trước hết ta xét chiều thứ nhất là những tác động
của tự nhiên lên xã hội loài người.
Tự nhiên vô cùng quan trọng với xã hội. Tự nhiên vừa
là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường
tồn tại và phát triển của xã hội.
Tự nhiên là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vì xã
hội được hình thành trong sự tiến hóa của thế giới vật chất.
Tự nhiên là môi trường tồn tại và phát triển của xã
hội vì chính tự nhiên đã cung cấp những điều kiện cần
thiết nhất cho sự sống của con người và cũng chỉ có tự
nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết cho
các hoạt động sản xuất xã hội. Theo Mác, con người không
thể sáng tạo ra được cái gì nếu không có giới tự nhiên,
nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu
trong đó lao động của con người được thực hiện, trong đó
lao động của con người tác động, từ đó và nhờ đó, lao
động của con người sản xuất ra sản phẩm.
Tóm lại tự nhiên đã xung cấp mọi thứ cho sự tồn tại
của xã hội, mọi thứ mà lao động của con người cần. Mà
chính lao động đã tạo ra con người
và xã hội do đó vai trò của tự nhiên với xã hội là vô cùng
to lớn. Tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc gây khó 7
Vấn đề hiện nay là trong quá trình tác động này con
người cần kiểm tra, điều tiết việc sử dụng khai thác, bảo
quản các nguồn vật chất của tự nhiên, nếu không thì
khủng hoảng sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự
nhiên - xã hội sẽ bị đe dọa. Ấy vậy mà hiện nay con người lại đang đi
ngược lại với những điều đúng đắn: Con người chính là
sinh vật có khả năng làm biến đổi tự nhiên nhiều nhất -
Chính vì vậy họ đang là sinh vật tàn phá thiên nhiên
khủng khiếp nhất. Tóm lại trong mối quan hệ với môi
trường tự nhiên xã hội có vai trò ngày càng quan trọng.
Để giữ gìn môi trường tồn tại và phát triển của mình con
người cần nắm chắc các qui luật tự nhiên, kiểm tra điều
tiết sử dụng hợp lí, bảo quản khai thác có hiệu quả đảm
bảo khả năng tái tạo các nguồn vật chất của tự nhiên,
đảm bảo cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội.
1.2.5. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ
giữa tự nhiên và xã hội:
Có nhiều yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự
nhiên và xã hội trong đó quan trọng nhất là trình độ phát
triển của xã hội và độ nhận thức, vận dụng qui luật tự
nhiên, xã hội vào hoạt động thực tiễn của con người.
Mỗi quan hệ tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào
trình độ phát triển của xã hội:
Thông qua các hoạt động của con người lịch sử tự
nhiên và lịch sử xã hội đã trở nên gắn bó và quy định lẫn
nhau. Sự gắn bó và quy định này phụ thuộc vào trình độ
phát triển của xã hội mà tiêu chí để đánh giá là phương
thức sản xuất. Sự ra đời của những phương thức sản xuất
mới quyết định sự biến chuyển về chất của xã hội loài
người. Chính phương thức sản xuất quy định tính chất của
mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội vì mỗi phương thức
sản xuất khác nhau sẽ có những công cụ lao động khác
nhau để khai thác giới tự nhiên, sẽ có những mục đích tiến
hành sản xuất khác nhau. Khi công cụ thay đổi, mục đích 9
sản xuất của mỗi chế độ sản xuất thay đổi thì tính chất
của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên cũng thay đổi theo.
Ngày nay, khi có khoa học và kĩ thuật phát triển song
với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa thì con người
coi tự nhiên không chỉ là môi trường sống mà còn là đối
tượng chiếm đoạt nhằm mục đích lợi nhuận. Khủng hoảng
môi trường đã xảy ra ở nhiều nơi và đang đe dọa sự sống
của nhân loại. Để tồn tại và phát triển con người phải
chung sống hòa bình với thiên nhiên, thay đổi cách đối xử
với tự nhiên mà quan trọng nhất là
phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa -
nguồn gốc sâu xa của việc phá hoại tự nhiên nhằm tối đa
hóa lợi nhuận. Nhiệm vụ này là nhiệm vụ của tất cả mọi người.
Mỗi quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc
vào trình độ nhận thức và vận dụng các quy luật
trong hoạt động thực tiễn:
Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người được thể
hiện thông qua hoạt động của con người. Song con người
hành động theo suy nghĩ do đó mối quan hệ giữa tự nhiên
và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là
nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn.
Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo
quy luật thì con người đã tạo ra một thế giới hài hòa,
thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại,
nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái
có sẵn trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự
nhiên và việc phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội
là không thể tránh khỏi. Con người sẽ phải trả giá và chịu diệt vong. 10
nhiên chi phối, thống trị. Cuộc sống xã hội hoàn toàn phụ
thuộc môi trường tự nhiên.
Khi con người văn minh hơn - nhất là khi khoa học kĩ
thuật phát triển thì con người đã từng bước chế ngự được
tự nhiên. Con người đã từng bước chế ngự khai thác tự
nhiên phục vụ cho nhu cầu của mình. Nhiều ngành nghề
ra đời từ những điều kiện tự nhiên như nông nghiệp, lâm
nghiệp, khai thác khoáng sản, đồng thời có những ngành
ít phụ thuộc tự nhiên hơn cũng ra đời như điện tử, phần
mềm (mới ra đời trong thời gian gần đây).
Tuy nhiên cho đến nay xã hội vẫn phụ thuộc môi
trường tự nhiên rất nhiều, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi
hoặc gây khó khăn cho sản xuất, do đó ảnh hưởng đến
năng suất lao động, tốc độ phát triển của xã hội.
Ta có thể lấy một ví dụ về sự ảnh hưởng của môi
trường đối với sự phát triển của xã hội, hãy xem những sự
phụ thuộc vào môi trường tự nhiên từ xa xưa của các xã
hội đã ảnh hưởng đến tận ngày nay như thế nào:
Đây là một đoạn trích từ bài viết "Jared
Diamond và vận mệnh của các nền văn minh" của
tác giả Trần Hữu Dũng đăng trên tạp chí Tia Sáng số 3, tháng 3, năm 2005:
Trong cuốn “Súng, Vi trùng, và Thép: Định mệnh của
các Xã hội Loài người (Guns, Germs and Steel: The Fates
of Human Societies, New York: Norton, 1997)” Jared
Diamond viện dẫn những yếu tố môi trường
và cấu trúc để giải thích tại sao các nước Tây phương trở
nên thống trị thế giới. Mục đích của ông, Diamond bộc
bạch ngay từ đầu, là nhằm triệt hạ những ý kiến cho rằng
chủng tộc, văn hóa và truyền thống có ảnh hưởng quyết
định đến những khác biệt về công nghệ của những xã hội
khác nhau, trên những châu lục khác nhau, trong suốt lịch sử. 12
Diamond tóm tắt phát hiện của ông như sau: Lịch sử
của các nhóm dân khác nhau không phải vì sự khác biệt
sinh học (biological) giữa các sắc dân mà vì sự khác biệt
về môi trường sinh sống ngay từ đầu. Nói cách khác, lý do
căn bản của sự bất bình đẳng trong thế giới ngày nay bắt
nguồn từ rất xa trong quá khứ. Hãy lấy năm 1500 sau
công nguyên làm điểm mốc. Có thể xem năm này là khởi
điểm thời kỳ các nước châu Âu đi chinh phục các châu lục
khác. Lúc ấy thì các nước đã có sự khác biệt về trình độ
công nghệ và tổ chức chính trị. Phần lớn Âu, Á và Bắc Phi
đã có những quốc gia ở vào thời kỳ đồ sắt thậm chí vài
nước đã sắp sang thời kỳ công nghiệp hóa. Hai nhóm ở
châu Mỹ (Inca và Aztec) đã là những đế quốc có dụng cụ
bằng đá và bắt đầu thử nghiệm với đồng. Những dân tộc
khác thì kém phát triển hơn: Đa số dân ở châu Úc, châu
Mỹ và châu Phi (vùng dưới Sahara) vẫn còn hoàn toàn dựa
vào nông nghiệp, thậm chí vài nhóm vẫn còn sống nhờ
săn bắn và lượm nhặt với khí cụ bằng đá.
Lẽ dĩ nhiên, những khác biệt ấy về trình độ công
nghệ vào khoảng năm 1500 là nguyên do gần gũi nhất
đưa đến sự chênh lệch hiện nay trên thế giới.
Những đế quốc có khí cụ bằng sắt sẽ chinh phục hoặc
tiêu diệt những nhóm dân chỉ có khí cụ bằng đá. Nhưng
Jared Diamond không hoàn toàn thỏa mãn với cách trả lời
này. Ông gặng hỏi: Nhưng tại thế giới lại có tình trạng ấy vào năm 1500?
Ngược dòng lịch sử xa hơn nữa, từ khi thời đại băng
hà chấm dứt cho đến 11000 năm trước tây lịch, mọi người
ở khắp các châu lục đều sống nhờ săn bắn và hái nhặt.
Như vậy, chính sự khác biệt về tốc độ phát triển (cụ thể là
giữa lục địa Âu Á và những lục địa khác) từ năm 11000
trước tây lịch đến 1500 năm sau tây lịch đã đưa đến sự
chênh lệch mà ta thấy khoảng năm 1500.
Diamond đơn cử trường hợp châu Âu thuộc địa hóa Tân Thế giới. 13
4) Cái khác nhau cuối cùng là về dân số và diện tích
đất đai. Lục địa càng rộng càng đông dân thì càng có
nhiều người phát minh. Hơn nữa, trong một lục địa như
vậy sẽ có nhiều xã hội tranh đua hơn, rồi chính sự tranh
đua giữa các xã hội gần gũi nhau đó sẽ gây áp lực phát
minh và cải cách, bởi lẽ những quốc gia "tụt hậu" sẽ bị các
quốc gia khác thống trị, thậm chí tiêu diệt. Sự bùng nổ dân số:
Khi nói đến vấn đề môi trường, tự nhiên và xã hội có
một điểm ta không thể không đề cập, đó là sự bùng nổ dân số.
Mỗi cá thể người đều có những nhu cầu của riêng nó,
nó cần tiêu thụ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và gây
ra các ảnh hưởng nhất định đến môi trường. Khi dân số
phát triển ngày càng cao thì nhu cầu với tự nhiên càng
lớn, những nhu cầu thiết yếu như ăn mặc, thực phẩm,
thuốc men, nước sạch ngày càng thiếu thốn. Đồng thời
nhiều vấn đề môi trường cũng nảy sinh như ô nhiễm
nguồn nước, rác thải đặc biệt là việc tăng cường khai thác
các nguồn đến cạn kiệt các nguồn tài nguyên nhằm đáp
ứng các nhu cầu của con người. Áp lực lên môi trường
ngày càng lớn và thực sự khả năng chịu đựng của môi trường là có hạn.
Sự bùng nổ dân số thực tế là sự tăng lên rất nhanh
của số lượng cá thể của quần thể người là một ví dụ cho
sự phát triển vốn có ở tất cả các loài. Một quy luật kèm
theo là: khi số lượng cá thể của quần thể vượt quá khả
năng chịu đựng của môi trường thì sự chết hàng loạt sẽ
xảy ra nhưng thường là từng vùng chứ không phải là quy
mô toàn cầu (I. M. Barrett and oth, 1986).
Nếu điều này xảy ra với loài người thì quả là tai họa.
Mà những cách ứng xử sai của con người với tự nhiên hiện
nay đang làm giảm đi sức chịu đựng của tự nhiên. Do đó
chúng ta cần giải quyết tốt vấn đề môi trường và cư xử đúng với tự nhiên. 15
Nguyên nhân của sai lầm này là do chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa, cần xóa bỏ nó, khi xây dựng được chế độ
xã hội chủ nghĩa, con người sẽ cư xử tốt hơn với tự nhiên
vì không còn bị lợi nhuận chi phối.
2. VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM:
Qua phần trên chúng ta thấy rõ ràng cần phải bảo vệ
môi trường, gìn giữ sự cân bằng của hệ thống tự nhiên -
xã hội nhằm đảm bảo sự tồn tại phát triển lâu dài trong
điều kiện và ổn định cho xã hội loài người. Giờ chúng ta sẽ
xem xét vấn đề cụ thể của Việt Nam.
2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài
nguyên của Việt Nam:
Việt Nam: những số liệu thống kê chính Thủ đô : Hà Nội Ngôn ngữ chính thức : tiếng Việt Đơn vị tiền tệ : đồng Diện tích : 329.566 km2
Dân số ước tính (năm 1998) : 78 triệu người
Tốc độ tăng trưởng dân số : : 2,3% Mật độ dân cư : 210 người/km2
Thời gian tăng gấp đôi số dân : 31 năm
Diện tích bảo tồn trên tổng số diện tích : 7%
Tổng số diện tích được bảo tồn : 22,976 km2
Số khu vực được bảo tồn : 101 16
Việt nam có hơn 3500 mỏ gồm 80 loại khoáng sản. Mới
chỉ có 270 mỏ được khai thác gồm 32 loại khoáng sản.
Khoáng sản chủ yếu: Than trữ lượng 3 đến 3,5 tỷ tấn, dầu
mỏ trữ lượng ở Vịnh Bắc Bộ là 500 triệu tấn, ở Nam Côn sơn
400 triệu tấn, Cửu long 300 triệu tấn, Vịnh Thái lan 300
triệu tấn; quặng sắt trữ lượng 700 triệu tấn khí ,đốt thiên
nhiên có trữ lượng lớn.
Tài nguyên khoáng vật của Việt nam được đánh giá là
to lớn, đủ cơ sở cho công nghiệp hóa.
2.1.4. Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam:
Việt Nam có vùng biển rộng trên 1 triệu km2 có nhiều
tiềm năng về kinh tế và có độ đa dạng sinh học cao.
Việt Nam có trên 100 loài cá có sản lượng cao, còn có
nhiều hải sản quý như: cua, mực, sò huyết, trai, hàu, hải
sâm, bào ngư, rùa biển, đồi mồi, ngọc trai. Ven bờ có sò,
ngao, điệp, hàu, phi, don với sản lượng hàng chục vạn tấn một năm.
Biển Việt Nam nằm trong một trong 5 ổ bão của hành
tinh. Hơn 100 năm gần đây có 493 cơn bão, trung bình 4,7 cơn một năm.
2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học:
Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên rừng lớn và có
giá trị. Nhiều người dân sống phụ thuộc vào rừng: Việt Nam
có từ 7 đến 8 triệu dân sống ở rừng, 18 triệu dân có cuộc sống gắn với rừng.
Rừng cho vật liệu xây dựng, năng lượng, dược liệu, gen
động vật hoang dã. Rừng ngập mặn là cái nôi của tôm cá
biển, bảo tồn sinh học, chống
sói mòn đất, điều hòa khí hậu, tăng nước ngầm, chống lũ
lụt, xâm thực. Thảm thực vật phong phú của rừng Việt Nam
đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam có một hệ động vật và nguồn
tài nguyên động vật vô cùng phong phú, đa dạng và đày sự
hấp dẫn. Chính nguồn tài nguyên động vật này đã từng là 18
nguồn cung cấp thực phẩm, là nguồn dược liệu độc đáo, là
nguyên liệu chế biến ra các mặt hàng mỹ nghệ trang điểm cho cuộc sống.
Tuy nhiên tài nguyên rừng Việt Nam lại chưa được khai
thác hợp lý. Trung bình hàng năm Việt Nam mất 200 ngàn
ha rừng. Độ che phủ rừng từ 37% năm 1943, năm 2000 còn khoảng 20% (66.420 km2). Về đa dạng sinh học:
Việt nam có độ đa dạng sinh học cao:
Về thực vật: có khoảng 12.000 loài cây có mạch, 10%
là đặc hữu. 800 loài rêu, 600 loài nấm lớn, 2300 loài dùng
làm lương thực, thực phẩm, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ,
tinh dầu, 1500 loài cây làm dược liệu. Ở dưới nước ngọt có
hơn 1000 loài tảo. Nhiều loài có giá trị dinh dưỡng cao. Ở
biển cũng có hơn 1000 loài tảo.
Giới động vật cũng vô cùng phong phú, đa dạng về thành phần loài.
Bảng so sánh thành phần loài động vật ở Việt Nam
so với thế giới (chỉ tính một số nhóm động vật ở bậc loài) STT Nhóm động Số loài ở Việt Số loài trên vật Nam thế giới 1 Thú 275 4.000 2 Chim 828 9.672 3 Bò sát 260 6.300 4 Lưỡng cư 82 4.184 5 Cá 2.600 19.000 6 Côn trùng 7.000 751.000 19