Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức; Hai nguyên lý của pháp biện chứng duy vật và các vấn đề cơ bản của triết học | Tài liệu môn Triết học Mác – Lênin
Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. * Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo thế giới khách quan, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức * Vật chất
là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh,
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. * Ý thức
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh tích cực,tự
giác, chủ động, sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động
thực tiễn. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ
óc con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ óc.
- Vật chất và ý thức quan hệ qua lại và chuyển hóa lẫn nhau
- Vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những phương diện cơ bản sau:
+ Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức:
Vật chất là nguồn gốc KQ của ý thức -> vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất sinh
ra ý thức -> không có vật chất sẽ không có ý thức.
Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não người trong quá trình
phản ánh hiện thực kết quả.
(có thực mới vực được đạo, phú quý sinh lễ nghĩa,…)
+ Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức:
Nội dung của ý thức mang tính kết quả, do thế giới khách quan quy định
Sở dĩ ý thức có nội dung vì ý thức phản ánh hiện thực kết quả
Ý NGHĨA VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN:
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái
đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại xã
hội để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ
những nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ
đó . Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho
nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh
thần. Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải
quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời
cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố
tinh thần,tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả
cao. Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ
tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách
rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.
2. Hai nguyên lý của pháp biện chứng duy vật
* Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến
- Quan điểm siêu hình về mối liên hệ
Xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tách rời nhau, cô lập nhau, giữa chúng
không có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.
Nếu có thì chỉ là mối liên hệ giản đơn hời hợt ở bên ngoài.
Quan điểm siêu hình chỉ thấy bộ phận mà không thấy toàn thể, “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”.
- Quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ
+ khái niệm mối liên hệ
Khái niệm “mối quan hệ” bao gồm 2 phương diện:
Thứ nhất, ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau
=>Quyết định sự tồn tại của sự vật, hiện tượng.
Thứ hai, tác động qua lại lẫn nhau
=>Quyết định sự vẫn động, phát triễn của sự vật, hiện tượng
Mối liên hệ là một phàm trù triết học dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định
lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố cấu thành nên sự vật
hiện tượng; giữa các sự vật hiện tượng với nhau; giữa sự vật hiện tượng với môi
trường, mà trong đó sự biến đổi của sự vật hiện tượng này kéo theo sự biến đổi của sự vật hiện tượng
+ Tính chất của mối liên hệ Tính khách quan
Xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới.
Mối liên hệ là cái vốn có của bản thân các sự vật hiện tượng chứ không phải do sự áp
đặt từ bên ngoài; dù muốn hay không muốn thì bản thân sự vật hiện tượng luôn luôn
chứa đựng các mối liên hệ. Tính phổ biến
Mối liên hệ có ở trong mọi sự vật hiện tượng; mọi giai đoạn, mọi quá trình; có cả
trong tự nhiên, XH và tư duy con người Tính đa dạng, phong phú
Xuất phát từ tính đa dạng muôn hình, muôn vẻ của thế giới vật chất.
Trong thế giới có rất nhiều kiểu mối liên hệ, mỗi kiểu mối liên hẹ có đặc điểm riêng,
vị trí vai trò riêng đối với sự vận động và phát triển
MLH bên trong - MLH bên ngoài
MLH cơ bản - MLH không cơ bản
MLH chủ yếu - MLH thứ yếu
MLH tất nhiên - MLH ngẫu nhiên
MLH bản chất - MLH hiện tượng
MLH trực tiếp - MLH gián tiếp
MLH diễn ra rất phức tạp trong đời sống xã hội, vì ở đó có sự tham gia của con người có ý thức
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN.
– Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến con người phải tôn trọng quan điểm
toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và
trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ
trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối
liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác
động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật,
chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn
phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời,
chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau
để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt, chúng ta phải
phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt
qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và
toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.
– Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú – sự vật, hiện tượng khác nhau,
không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử – cụ thể.
Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác
động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – cụ thể, môi trường
cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một
luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không
là luận điểm khoa học trong điều kiện khác.
Vì vậy để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng,
của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình
cụ thể của đất nước ta cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng
giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong khi thực hiện đường lối, chủ trương,
Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể
* Nguyên lý về sự phát triển
- Quan điểm siêu hình về sự phát triển
Phủ nhận sự phát triển
Nếu có phát triển thì đó chỉ là sự thay đổi về lượng chứ không có sự thay dổi về chất
Sự phát triển diễn ra theo đường thẳng và đường tròn khép kín.
Sự phát triển chẳng qua chỉ là sự vận động đi tới “cái chết” mà thôi
- Quan điểm duy vật về sự phát triển
Khái niệm sự phát triển:
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động theo khuynh
hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn
Nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện
tượng và giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự phát triển
Phát triển vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt đi theo đường xoáy ốc, dường như lặp lại
sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có
thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển.
- Từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc phát
triển trong nhận thức và thực tiễn
3. Quy luật lượng - chất
- Vị trí, vai trò của quy luật lượng chất
Quy luật lượng chất là một trong ba quy luật cơ bản của PBCDV
Quy luật lượng chất vạch ra cách thức của sự phát triển
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác.
=> Để xác định chất của sự vật thì cần phải xác định những thuộc tính của sự vật đó.
=> Muốn xác định thuộc tính của sự vật,thì cần phải đặt sự vật đó trong các mối quan
hệ với các sự vật khác.
VD: xác định chất của đường
Đường nằm trong MLH với nước => hòa tan
Đường nằm trong MLH với vị giác => vị ngọt
Đường nằm trong MLH với nhiệt độ nhất định => nóng chảy
=> tổng hợp các thuộc tính ấy và các thuộc tính khác sẽ cho ta biết được chất của đường *Đặc điểm của chất
- Chất mang tính khách quan
- Chất gắn liền với sự vật, chất là chất của sự vật
- Mỗi sự vật không chỉ có một chất, mà còn có vô vàn chất
- Chất biểu hiện tính toàn vẹn, chính thể thống nhất của sự vật
- Dùng chất để phân biệt các sự vật với nhau
Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó.
*Đặc điểm của lượng
- Lượng cũng như chất mang tính khách quan
- Sự vật không chỉ có một lượng mà còn có vô vàn lượng
- Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng chỉ mang tính tương đối
Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là
khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật
Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về chất của sự vật gọi là điểm nút
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa về chất của sự
vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra
4. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lặp
5. Quy luật phủ định của phủ định
Vị trí, vai trò của QL PĐCPĐ
QL PĐCPĐ là một trong ba quy luật cơ bản của PBCDV
QL PĐCPĐ vạch ra khuynh hướng của sự phát triển *Khái niệm phủ định
- Phủ định là sự thay thế SV, HT này bằng SV, HT khác trong quá trình VĐ, PT
*Khái niệm phủ định biện chứng
- PĐBC không bao hàm mọi sự PĐ nói chung, mà nó chi bao hàm những phủ định do
nguyên nhân bên trong quyết định, lấy đó làm tiền đề, điều kiện cho sự PT, cái mới
tiến bộ hơn ra đời thay thế cho cái cũ *Đặc điểm - Tính khách quan
PĐBC là kết quả của việc giải quyết MT bên trong của bản thân SV
Là kết quả của quá trình tích lũy dần dần về L dẫn đến sự thay đổi về chất của SV => tự thân phủ định - Tính kế thừa
Cái mới được ra đời chỉ gạt bỏ những yếu tố lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp ở cái cũ
Giữ lại những yếu tố tích cực, tiến bộ, còn phù hợp ở cái cũ dưới dạng cải tạo, cho phù hợp với ĐK mới => PĐBC = KĐ * Ý nghĩa
Quan điểm phủ định biện chứng chống lại quan điểm siêu hình về phủ định
Khi PĐ thì PĐ sạch trơn, xóa bỏ hoàn toàn cái cũ để xây dựng lại toàn bộ cái mới
Khi kế thừa thì kế thừa nguyên si, lắp ráp rập khuôn toàn bộ cái cũ vào cái mới
=> Kết quả của PĐBC, đó là cái mới ra đời thay thế cho cái cũ, nhưng rồi cái mới này
lại chứa đựng khuynh hướng phủ định lần thứ hai => đó là PĐCPĐ
* Phủ định của phủ định
Trong sự VĐ, PT của TGVC, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên
cũ, nó lại bị cái mới sau phủ định
Cứ như vậy, sự vận động, phát triển được diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định
Sau mỗi chu kỳ PĐCPĐ, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn
PĐCPĐ là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của bản thân các sự vật
6. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
7. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
8. Biện chứng cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một
xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống
trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội
tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi
phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế –
xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản
xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất
mầm mống cũng có vai trò nhất định.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà
nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
-Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát
triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành
trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ
tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng;
còn những yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó.
-Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng được thể hiện
rất rõ chúng tác động qua lại lẫn nhau.
Thứ nhất vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện qua:
+ Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó.
Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống
trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét
đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh
giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất
cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,
… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
+ Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá
trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế – xã hội
này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình
thái kinh tế – xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng
tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay
đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật,
Thứ hai tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
+ Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau.
+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều.
Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì
nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm
hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
+ Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng
không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội.
9. Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
10. Tính tất yếu, vai trò và nội dung của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay
11. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
* Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
- Thứ nhất, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn
tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội
- Thứ hai, mỗi khi tồn tại xã hội ( nhất là phương thức xã hội) biến đổi thì những tư
tưởng, lý luận về xã hội, những quan điểm chính trị, pháp quyền đạo đức, văn hóa,
nghệ thuật, triết học,.v.v. tất yếu sẽ biến đổi theo.
- Thứ ba, không phải bất kỳ tư tương nào cũng phản ánh trực tiếp những quan hệ kinh
tế của thời đại, mà chỉ xét đến cùng thì những quan hệ kinh tế mới được phản ánh trong các tư tưởng ấy
* Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
- Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Trong nhiều trường hợp, ý thức xã hội có thể tồn tại lâu dài ngay cả khi tồn tại xã hội thay đổi Điều đó là do:
1) Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung tồn tại xã hội phải
biến đổi trước rồi ý thức xã hội mới biến đổi
2) Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán và do tính lạc hậu, bảo thủ
của một số hình thái ý thức xã hội
3) Ý thức xã hội gắn với lợi ích của các GC nhất định
- Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Những tư tưởng khoa học, tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội ,dự báo được
tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Tuy nhiên, tư tưởng khoa học, tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội, mà suy đến cùng
khả năng vượt trước của ý thức xã hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội
- Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó
Ý thức xã hội không xuất hiện trên mảnh đất trống không, mà kế thừa những giá trị
của ý thức xã hội của các thời đại trước.
=> Khi giải thích một tư tưởng nào đó không chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện
có, mà cần phải chú ý đến cả các tư tưởng trước đó. Ví dụ:
+ Nước Pháp TK XVII có nền kinh tế kém nước Anh, nhưng tư tưởng lại tiên tiến hơn nước Anh.
+ Nước Đức TK XIX lạc hậu hơn so với Anh, Pháp, nhưng có trình độ cao hơn về triết học
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa có tính giai cấp:
Các giai cấp tiên tiến kế thừa những tư tưởng tiến bộ
Các giai cấp lỗi thời kế thừa những tư tưởng phản tiến bộ
- Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái YTXH trong sự phát triển của chúng
Mỗi hình thái YTXH có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một
cách trực tiếp từ TTXH, mà phải trong sự tác động qua lại giữa các hình thái khác.
Tùy từng điều kiện LS có hình thái YTXH nào đó nổi lên hàng đầu chi phối và tác
động đến các hình thái khác
- Thứ năm, YTXH tác dộng trở lại TTXH
+ YTXH tiến bộ, cách mạng thúc đẩy TTXH phát triển, và ngược lại YTXH lạc hậu,
phản cách mạng thì kìm hãm sự phát triển của TTXH.
+ Vai trò của YTXH đối với TTXH phụ thuộc vào:
Tính chất của các MQH kinh tế làm nảy sinh tư tưởng
Sứ mệnh LS của giai cấp giương cao ngọn cờ tư tưởng
Mức độ phản ánh phù hợp của tư tương đối với hiện thực
Mức độ thâm nhập của tư tưởng vào quần chúng.
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
12. Quan điểm của về bản chất của con người
Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con
người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định,
một thời đại nhất định.
Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.
Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại;
quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội…), con người mới bộc lộ
toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận
mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong
sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con
người cũng đã mang tính xã hội.
Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng
ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, mặt sinh vật ở con người.
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ đơn
thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết
định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế - xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng
tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì
con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thác đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của
nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội. Trên ý
nghĩa phương pháp luận đó có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế -
xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Thông
qua cuộc cách mạng đó nó cũng thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bằng
phương thức xây dựng mối quan hệ kinh tế - xã hội xã hội chu nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa nhầm xác lập và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở
thành điều kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thực hiện triết
lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mỗi người vì mọi người,
mọi người vì mỗi người”.