


























Preview text:
BỘ GIÁO D O ỤC VÀ ĐÀO TẠ TRƯỜNG Ạ
Đ I HỌC KINH TẾ Q Ố U C DÂN
TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: MỐI QUAN HỆ B Ệ I N C Ứ H NG GIỮA Ậ
V T CHẤT VÀ Ý
THỨC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA BÙI CÁT MINH
Họ và tên tác giả: Bùi Cát Minh
Mã sinh viên: 11213757
Lớp : 63B Quản trị Kinh doanh Quốc tế CLC
Mã học phần: LLNL1105(121)CLC_06
Giáo viên hướng dẫn: Thầy Lê Ngọc Thông
Hải Phòng, ngày 07 tháng 01 năm 2022
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
B. NỘI DUNG CHÍNH ...................................................................................................... 2
I. Lý luận chung về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ....................... 2
1.1. Vật chất .................................................................................................................... 2
1.1.1. Định nghĩa vật chất ........................................................................................... 2
1.1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất .............................................. 4
1.1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới ............................................................. 6
1.2. thức ....................................................................................................................... 7
1.2.1. Kết cấu của ý thức ............................................................................................ 7
1.2.2. Nguồn gốc của ý thức ....................................................................................... 8
1.2.3. Bản chất của ý thức ........................................................................................ 10
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ............................................... 11
1.3.1. Vật chất quyết định ý thức ............................................................................. 11
1.3.2. Ý thức phản ánh và tác động trở lại vật chất, thông qua hoạt động của con
người .......................................................................................................................... 12
1.3.3. nghĩa phương pháp luận ........................................................................... 14
II. Thực trạng vấn đề vận dụng .................................................................................. 15
1. Trong học tập và công việc ...................................................................................... 15
2. Trong đời sống sinh hoạt ......................................................................................... 19
3. Trong việc xây dựng và phát triển đất nước ......................................................... 20
C. KẾT LUẬN .................................................................................................................. 23
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 25
A. MỞ ĐẦU
Sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã đạt được được
vô số thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử thuộc mọi nhiều lĩnh vực từ kinh tế, chính trị
cho đến văn hóa, xã hội. Những thành tựu này đã tạo nên cơ sở để nước ta bước vào một
thơi kỳ phát triển mới. Tri thức của con người ngày càng được nâng cao kèm theo đó là
những cuộc cách mạng khoa họa và công nghệ tiếp tục phát triển góp sức vào công cuộc
thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội.
Như chúng ta đã biết, để xây dựng nên một đất nước phồn vinh và hưng thịnh thì
mỗi cá nhân đều phải có ý thức để áp dụng những trị thức đã tích lũy vào trong thực tế.
Và một trong những tri thức quan trọng ấy chính là những hiểu biết về Triết học Mác -
Lênin. Chỉ khi con người hiểu và áp dụng được những cốt lõi mà Triết học Mác - Lênin
đem lại thì khi đó, chúng ta mới có thể áp dụng được vào mối quan hệ cuộc sống của từng cá nhân.
Là một sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, đồng thời cũng là một
công dân của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, em nhận thức rõ về vai trò to
lớn của những hiểu biết về Triết học Mác- Lênin, cụ thể là phần chủ nghĩa duy vật biện
chứng giữa vật chất và ý thức đối với cuộc sống của mỗi cá nhân. Đây cũng chinh là lý do
then chốt em chọn đề tài ‘‘Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức v à sự vận
dụng của Bùi Cát Minh’’. Em muốn góp một phần nhỏ của mình trong việc phát triển và
nâng cao nhận thức của mỗi cá nhân trong việc tiếp thu kiến thức liên quan đến mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức nói riêng, triết học Mác- Lênin nói chung để từ đó mỗi người sẽ
có thể áp dụng những kiến thức này vào thực tiễn cuộc sống, cụ thể là với bản thân em,
em muốn áp dụng những kiến thức này vào trong việc học tập, làm việc và đời sống hay
trong tương lai là công cuộc xây dựng và phát triển Đất Nước ngày một giàu đẹp. Để đạt
được đến điều này thì mọi sách lược, chiến lược cách mạng chúng ta đưa ra phải xuất
phát từ thực tế khách quan, phát huy được tính năng động chủ quan và đồng thười chống
chủ quan duy ý chí. Điều này sẽ được lý giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài.
Do thời gian và kiến thức bản thân còn hạn chế cho nên bài viết của em sẽ không
thể tránh khỏi thiếu sót, em kính mong sự góp ý của giảng viên cùng toàn thể bạn đọc .
Em xin chân thành cảm ơn! 1
B. NỘI DUNG CHÍNH
I. Lý luận chung về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
1.1. Vật chất
1.1.1. Định nghĩa vật chất
a. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất
Trước Mác, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về
vật chất. Sau đây là một số quan niệm điển hình:
Vật chất được định nghĩa đầu tiên là một vật thể cụ thể, hữu hình nhất định đang
tồn tại ở thế giới bên ngoài. Quan điểm này được hình thành từ nhận thức trực quan sinh
động, cảm tính. Vào thời kỳ cổ đại, ở Hy Lạp nói riêng và các nước phương tây nói
chung, các nhà triết học đã đồng nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể. Nhà triết
gia, nhà toán học người Hy Lạp Talet đã cho rằng vật chất là nước, nước chính là yếu tố
đầu tiên, là nguyên bản của mọi sự vật xuất hiện trong thế giới này. Mọi sự vật đều sinh
ra và bắt nguồn từ nước, biến đổi không ngừng nghỉ và ngay cả khi chết đi thì lại phân
hủy thành nước, chỉ có nước là tồn tại mãi mãi. Trái với ý kiến của Talet, Heraclitus lại
cho rằng lửa là nguồn gốc của mọi sự vật. Ông cho rằng “Mọi cái biến đổi thành lửa và
lửa biến thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”.
Với quan niệm này, Heraclitus đã thể hiện rõ những tư tưởng đầu tiên vô cùng sâu sắc về
sự thống nhất vật chất của thế giới.
Trong khi đó, vào thời kỳ cổ đại ở phương Đông, quan niệm về vật chất lại được
thể hiện qua một số trường phái triết học Ấn Độ và Trung Hoa. Điển hình trong số đó là
trường phái Lokayata của Ấn Độ cho rằng tất cả mọi sự vật được tạo ra bởi sự kết hợp
của bốn yếu tố: Đất - Nước - Lửa - Khí bởi bốn yếu tố này có khả năng tự tồn tại và phát
triển trong thế giới và đây cũng là cơ sở để hình thành các sự vật khác. Bên cạnh đó,
thuyết Ngũ hành của Trung Hoa còn cho rằng năm yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là
khởi nguyên để cấu thành nên mọi vật. Trong đó, Kim đại diện cho tính chất trắng, khô,
cay, ở phía Tây. Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua, ở phía Đông. Thủy tượng
trưng cho tính chất đen, mặn, ở phía Bắc. Hỏa tượng trưng cho tính chất đỏ, đắng, ở phía
Nam. Thổ tương trưng cho tính chất vàng, ngọt, ở giữa. Năm yếu tố này không tồn tại độc
lập mà tác động lẫn nhau để tạo nên mọi sự biến đổi của tự nhiên. Tuy quan điểm này 2
chưa đầy đủ và còn tồn động những hạn chết nhất định nhưng đây cũng là một bước tiến
lớn trong quá trình nhận thức về vật chất, để nhằm lý giải về vật chất và cấu tạo của vũ trụ.
Nhưng trên tất cả, định nghĩa về vật chất của hai nhà triết học Hy Lạp cổ Lờxíp và
Đêmôcrít là một bước tiến quan trọng cho sự phát triển về phạm trù vật chất. Hai nhà triết
học đã định nghĩa nguyên tử là căn nguyên của mọi vật. Theo họ, nguyên tử là những hạt
nhỏ nhất, không thể phân chia, không khác nhau về chất, tồn tại vĩnh viễn và sự phong
phú của chúng về hình dạng, tư thế, trật tự sắp xếp quy định tính muôn vẻ của vạn vật.
Theo thuyết nguyên tử thì vật chất theo nghĩa bao quát nhất, chung nhất không đồng
nghĩa với những vật thể mà con người có thể cảm nhận được một cách trực tiếp, mà là
một lớp các phần tử hữu hình nằm sâu trong mỗi sự vật. Quan niệm này là một bước tiến
lớn trong quá trình tìm kiếm một định nghĩa đúng đắn về vật chất mà còn có ý nghĩa như
một dự báo khoa học tài tình của con người về cấu trúc của thế giới vật chất nói chung.
b. Định nghĩa về vật chất của Lênin
Trong tác phẩm ‘‘Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán’’, Lênin
đã định nghĩa về phạm trù vật chất như sau: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Trong định nghĩa này, Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng. Trước hết là phân
biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về
cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật
chất với tư cách là phạm trù triết học dùng chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không
sinh ra, không mất đi ; còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu
đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy, không thể quy
vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ
thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.
Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất
chính là thuộc tính khách quan. Khách quan, theo Lênin là "cái đang tồn tại độc lập với
loài người và với cảm giác của con người". Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất
không có nghĩa gì khác hơn : "thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và
được ý thức con người phản ánh".
Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản: 3
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý
thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác
động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
Với những nội dung cơ bản như trên định nghĩa của L
ênin có nhiều ý nghĩa to lớn.
Khi khẳng định vật chất là "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác", "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", Lênin đã thừa nhận rằng, trong nhận thức
luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Và khi
khẳng định vật chất là cái "được c
ảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh",
Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức nhận thức khác nhau (chép lại,
chụp lại, phản ánh...) con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định
nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết
không thể biết, đã khắc phục được những hạn chế trong các quan điểm của chủ nghĩa duy
vật trước Mác về vật chất. Đồng thời, định nghĩa vật chất của Lênin còn có ý nghĩa định
hướng đối với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của
vật thể trong thế giới. Khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật
chất của V.I. Lênin đã cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Từ đó
giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của
các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất;
trên cơ sở ấy, người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.
1.1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất a. Vận động
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ăngghen viết: "Vận động, hiểu theo
nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính
cố hữu của vật chất thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ
trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy"
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, điều đó có nghĩa là vật chất tồn tại
bằng cách vận động, thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của 4
mình. Như vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng ở trong trạng thái vận động. Từ các
thiên thể khổng lồ đến những hạt vô cùng nhỏ, từ giới vô sinh đến giới hữu sinh, từ các sự
vật, hiện tượng tự nhiên đến xã hội loài người, tất cả đều không ngừng biến đổi dưới hình
thức này hay hình thức khác.
Các hình thức vận động cơ bản của vật chất
Ph.Ăngghen đã rút ra năm hình thức vận động cơ bản của vật chất là:
- Vận động cơ học là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian. (ví dụ:
vận động viên đang chạy trên đường)
- Vận động vật lý là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử,
…(ví dụ: vận động của dòng electron, của các ion dương, các điện tử quay chung quanh hạt nhân)
- Vận động hóa học là sự vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và
phân giải các chất. (ví dụ: hiện tượng muối hóa tan trong nước)
- Vận động sinh học là sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường. (ví dụ: hiện
tượng quang hợp ở thực vật)
- Vận động xã hội là sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh
tế - xã hội. (ví dụ: Xã hội phong kiến vận động, phát triển lên xã hội tư bản chủ nghĩa)
Mỗi loại hình thức vận động đều mang trong mình những tính chất, đặc điểm khác
nhau nhưng chung quy lại đều tồn tại trong mối liên hệ biện chứng với nhau và cùng có
chung chức năng để vận hành và phát triển mọi sự vật của thế giới. b. Đứng im
Ngoài ra, quá trình vận động còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im. Theo
quan điểm của triết học Mác - Lênin thì đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động
đó là sự vận động trong trạng thái cân bằng, tức là những tính chất của vật chất chưa có
sự biến đổi về cơ bản. Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời. Theo Ph. Ăng-
ghen thì "mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời". Ví dụ: Một sinh viên đứng im
trong phòng tức là chúng ta chỉ xét về một hình thức vận động là vận động cơ học, ngay
lúc đó những hình thức vận động khác như vận động hóa, sinh bên trong vẫn dang diễn
ra. Như vậy, trong trường hợp này, sinh viên đứng im so với phòng học xét về mặt vận
động cơ học. Nếu so với mặt trời thì bạn sinh viên đó đang vận động cùng với sự vận
động của trái đất quay xung quanh mặt trời. 5
c. Không gian và thời gian Khái niệm
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính
chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể. Khái niệm không gian dùng để chỉ quảng tính
của sự vật, còn khái niệm thời gian dùng để chỉ quá trình biến đổi của sự vật.
Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật chất đang vận động và
gắn liền với vật chất. Lênin cho rằng: “Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang
vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời
gian”. Tuy nhiên, sau này, những phát minh trong toán học, trong vật lý học đã bác bỏ
quan niệm trên và khẳng định thuộc tính không gian không phải lúc nào và ở đâu cũng
đồng nhất, bất biến, tuyệt đối, mà trái lại, không gian có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định: không gian và thời gian cùng tồn tại khách quan,
gắn liền với vật chất vận động. Không gian có 3 chiều, còn thời gian có một chiều luôn
vận động từ quá khứ đến tương lai. Tính chất
Không gian và thời gian có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, hai yếu tố này
ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất của vật chất. Theo chủ nghĩa Marx - Lenin thì không
không có một dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài không gian và thời gian. Mặt khác,
không thể có thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất.
Cụ thể. tính khách quan của cặp hình thức này được thể hiện ở việc không gian và
thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vì
vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian là thuộc tính của nó nên cũng
tồn tại khách quan. Ngoài ra, không gian và thời gian mang một tính vĩnh cửu vô tận thể
hiện ở việc không gian và thời gian không có tận cùng về một phía nào, xét cả về quá khứ
lẫn tương lai, cũng như mọi phương vị. Không gian luôn có ba chiều (chiều dài, chiều
rộng, chiều cao), còn thời gian chỉ có một chiều (từ quá khứ tới tương lai). Không gian và
thời gian là một thực thể thống nhất không-thời gian và có số chiều là 4 (3+1)
1.1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Thế giới vật chất thể hiện hết sức phong phú đa dạng. Tuy nhiên, những dạng biểu
hiện của thế giới vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới và thống nhất với nhau. Chủ 6
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất
ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước,
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không mất đi.
- Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu
hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có
nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những qui luật khách
quan, phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài
những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên
nhân và kết quả của nhau.
Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút ra từ
việc nghiên cứu những thành tựu của khoa học, được khoa học và cuộc sống hiện thực
của con người kiểm nghiệm. Nó không chỉ định hướng cho con người giải thích về tính
đa dạng của thế giới mà còn tạo điều kiện cho con người tiếp tục nhận thức về tính đa
dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp qui luật cũng như vận dụng tính đa dạng vào
trong thực tiễn cuộc sống.
1.2. thức
1.2.1. Kết cấu của ý thức
Theo yếu tố hợp thành: Ý thức gồm hai yếu tố cơ bản là: tri thức và tình cảm.
Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm các yếu tố khác như niềm tin, lý trí,…
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người và đây là nhân tố quan trọng
nhất trong ba yếu tố. Mọi hoạt động của con người đều bắt nguồn từ tri thức và được tri
thức định hướng. Nếu không có tri thức, con người sẽ không thể hoạt động bởi tri thức
như một nền tảng và cơ sở vững chắc để ý thức có thể phát triển. Xét về lĩnh vực nhận
thức, tri thức gồm nhiều loại như tri thức tự nhiên, tri thức xã hội, tri thức nhân văn,...
Một ví dụ điển hình cho việc tri thức có tác động tới ý thức là việc một sinh viên học
ngành Kinh doanh Quốc Tế khi đã được tiếp thu những kiến thức, kỹ năng liên quan đến
ngành học có thể tự nhận thức và định hướng rõ ràng con đường nghề nghiệp tương lai
sau này. Mặt khác, những sinh viên khi chưa nắm chắc các tri thức liên quan sẽ gặp khó
khăn trong việc xác định nghề nghiệp và con đường phát triển ngành nghề. 7
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Có
thể nói, tình cảm là động lực để thúc đẩy các hoạt động thực tiễn và giúp cho con người
phát triển sức mạnh. Một số loại tình cảm chúng ta có thể kể đến như tình cảm đạo đức,
tình cảm thẩm mỹ, … Ví dụ, gia đình là tổ ấm của mỗi cá nhân trong xã hội. Tình cảm
của cha mẹ dành cho con cái của mình sẽ tạo được động lực to lớn để con cái có thể tiếp
tục phấn đấu, kiên trì và phát triển.
Theo chiều sâu nội tâm: Ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Bên cạnh việc tự ý thức cá nhân con người mình thì việc tự ý thức xã hội, của một
giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình cũng vô cùng quan trọng. Xác
định được những lý tưởng và lợi ích chung của xã hội mình, của giai cấp mình, hay của
tầng lớp mình sẽ giúp cho con người hiểu rõ hơn về tiềm thức của mình.
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của
chủ thể, song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự
kiểm soát của chủ thể ấy. Tiềm thức đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu áp
lực của đầu óc trong việc xử lý một lượng lớn những kiến thức, tri thức, tin tức, thông
tin,... diễn ra trong cuộc sống của con người.
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự hành vi, thái độ ứng
xử của con người mà chưa có sự tranh luận trong nội tâm hay chưa có bất kỳ sự tính toàn
nào diễn ra quá phức tạp. Giống như tiềm thức, vô thức sẽ tạo cho con người mội khoảng
trống vô hình, giảm thiều những áp lực từ yếu tố bên ngoài vào nội tâm. Điều này, hiểu
theo cách khác, vô thức sẽ tăng được tính tự nhiên trong các tư duy và lối suy nghĩ của mỗi cá nhân.
1.2.2. Nguồn gốc của ý thức a. Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được tạo bởi các yếu tố tự nhiên từ ý thức chính là
bộ óc và sự hoạt động cùng các mối quan hệ thế giới khách quan và con người. Trong đó
thì thế giới khách quan có sự tác động tới bộ óc của con người tạo ra khả năng về sự hình
thành ý thức từ con người đối với thế giới khách quan. Tóm lại, ý thức là sự phản ánh về
thế giới khách quan từ con người. Phản ánh là sự tái tạo về đặc điểm dạng vật chất này
bởi dạng vật chất khác khi tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là một thuộc 8
tính từ tất cả các dạng vật chất nhưng phản ánh dưới nhiều hình thức như phản ánh sinh
học, phản ánh tâm lý, phản ánh vật lý hóa học, phản ánh năng động sáng tạo.
- Phản ánh về hóa học vật lý là một hình thức thấp nhất và đặc trưng cho vật chất vô
sinh. Phản ánh đó được thể hiện qua biến đổi về lý, hóa, cơ khi có sự tác động lẫn
nhau bởi các dạng vật chất vô sinh. Hình thức được phản ánh chưa định hướng lựa
chọn mà chỉ mang tính thụ động của vật nhận tác động.
- Phản ánh tâm lý: là sự phản ánh cho động vật đặc trưng đã được phát triển đến
trình độ mà có hệ thần kinh trung ương, phản ánh này thể hiện dưới cơ chế phản
xạ có điều kiện lên những tác động môi trường sống.
- Phản ánh ý thức là hình thức để phản ánh năng động và sáng tạo bởi con người. Ví
dụ: quá trình này gắn với sự tiến hoá từ vượn thành người
- Phản ánh sinh học: là hình thức được phản ánh cao hơn và đặc trưng giới tự nhiên
hữu sinh. Qúa trình phát triển giới tự nhiên hữu sinh, được thể hiện qua tính kích
thích, phản xạ và tính cảm ứng. Ví dụ: hoa hướng dương hướng về phía ánh nắng
mặt trời, rễ cây mọc.
Như vậy, ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người. Ý thức gắn liền với
hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người và là chức năng của não người. Tuy nhiên,
ta không thể đồng nhất hoạt động sinh lý ấy với ý thức, ý thức chỉ là một mặt của quá
trình sinh lý.hướng về phía có nhiều chất dinh dưỡng. b. Nguồn gốc xã hội
Bên cạnh nguồn gốc tự nhiên, sự hình thành và phát triển của ý thức còn có nguồn
gốc xã hội. Đây là nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất. Theo quan điểm của Ph. Ăng-
ghen thì ngôn chính là yếu tố đi theo sau lao động và đồng thời đi cùng với lao động. Đó
là hai yếu tố cơ bản tạo nên sự kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật
thành bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức .
Lao động là phương thức sống và phương thức tồn tại của c on người, tức là con
người sống và phát triển nhờ phương thức lao động. Đây chính là phương thức sáng tạo ra
của cải vật chất và tinh thần của nó. Hiểu theo nghĩa rộng, lao động chính là bao quát toàn
bộ những quá trình hoạt động cần đến sự vận dụng năng lực, sức lực của con người để cải
biến các đối tượng thành sản phẩm hữu ích cho cuộc sống của con người và xã hội nhưng
trước hết và cơ bản nhất là lao động sản xuất vật chất. Bên cạnh đó, lao động đã tạo động
lực để từng cá nhân thực hiện những động tác tinh vi hơn, mặt khác cũng giúp con người 9
phát triển khả năng sáng tạo, tính chăm chỉ cần mẫn để đưa ra những ý kiến sáng chế ra
công cụ lao động và sử dụng công cụ ấy phục vụ mục đích sống của họ.
Từ khái niệm, nguồn gốc và tác động của nguồn gốc, sự hình thành ngôn ngữ đã
được tạo nên. Ngôn ngữ một mặt là kết quả của lao động, mặt khác lại là nhân tố tích cực
tác động đến quá trình lao động và phát triển ý thức con người. Ngôn ngữ là cái vỏ vật
chất của ý thức, của tư duy, là công cụ thể hiện ý thức, tư tưởng và tạo điều kiện để phát
triển ý thức. Ngôn ngữ giúp con người ngày càng nhận thức được bản chất của sự vật và
phản ánh khái quát những đặc tính, những thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong thế giới
từ đó có thể trao đổi kinh nghiệm hoạt động sống với những cá nhân khác.
Như vậy, khi nói tới nguồn gốc xã hội của ý thức thì có thể phân tích nhiều yếu tố nhưng
khái quát lại thì có thể thấy có hai yếu tố cơ bản và quan trọng nhất đó là yếu tố lao động và ngôn ngữ.
1.2.3. Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con
người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng và
tinh thần hoạt động của con người trong việc định hướng tiếp nhận,chọn lọc, xử lý và lưu
giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có. Tính chất năng động, sáng tạo của sự
phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra những suy nghĩ, giả
tưởng, giả thuyết, tầm nhìn trong đời sống tinh thần của mình nói riêng và trong các hoạt
động của con người nói chung
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh
về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về
hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải
biến thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác, ý thức “chẳng qua chỉ là vật
chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của
ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh
học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện
sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội. 10
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
1.3.1. Vật chất quyết định ý thức
Thứ nhất, vật chất có vai trò quyết định ý thức. Dựa theo sự tồn tại khách quan thì
vật chất được coi là cái có trước và mang tính thứ nhất. Mặt khác, ý thức là sự phản ánh
của vật chất, là cái có có sau và mang tính thứ hai. Hiểu theo các khác, nếu không có vật
chất trong cuộc sống thì sẽ không có ý thức. Như vậy, ý thức là thuộc tính của vật chất,
dưới sự chi phối và quyết định của vật chất. Không những thế, mặc dù ý thức luôn mang
trong mình tính sáng tạo, mới mẻ và năng động nhưng những điều này đều được xuất
phát từ vật chất và tuân theo những quy định vốn có của vật chất.
Nội dung và hình thức biểu hiện của ý thức được quy định bởi vật chất. Hiểu theo
các khác, ý thức mang những thông tin về đối tượng vật chất cụ thể liên quan đến nó. Ý
thức và vật chất sống cùng một hệ quy chiếu nên dù có những đặc điểm khác nhau nhưng
cũng mang những nét tương đồng dễ thấy. Những thông tin mà ý thức mang trong mình
có thể đúng hay sai, đủ hoặc thiếu hay có những biểu hiện khác nhau thì đều do mức độ
tác động của vật chất lên bộ óc của mỗi cá nhân con người.
Mối quan hệ này của vật chất và ý thức được thể hiện trong nhiều mặt của đời
sống mà con người có thể dễ dàng bắt gặp. Ví dụ, trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt ở Việt
Nam khi nền công nghiệp 4.0 đang phát triển như vũ bão càng đòi hỏi một lượng tri thức
lớn từ các thế hệ tương lai thì chúng ta có thể nhìn thấy rõ việc học sinh tiểu học cấp một,
cấp hai, cấp ba hay ngay cả những sinh viên đại học chưa nhận thức rõ về giá trị và độ
cần thiết của môn tin học văn phòng nói riêng và công nghệ thông tin trong đời sống.
Nguyên nhân dẫn đến tính trạng này đến từ việc thiếu hụt cơ sở vật chất và giảng viên tin
học, đặc biệt tại các vùng sâu vùng xa thì tình trạng này càng trở nên tồi tệ hơn bao giờ
hết. Vì thế, có lẽ đây là một trong những vấn đề cấp thiết cần được khắc phục bởi các nhà
lãnh đạo các cấp. Nếu được đáp ứng về cơ sở hạ tầng thì trình độ tin học của học sinh,
sinh viên sẽ được cải thiện một cách đáng kể và nếu được rèn luyện một cách kỹ càng,
những thế hệ tương lai sẽ có thể áp dụng những kiến thức và kỹ năng được đào tạo vào
trong sản xuất và phát triển nền kinh tế ngày một giàu đẹp. Ví dụ trên đã phần nào chứng
tỏ điều kiện vật chất sẽ quyết định ý thức của con người.
Một ví dụ điển hình khác cho việc vật chất quyết định ý thức là việc bộ não và
cách hoạt động của bộ não con người sẽ quyết định toàn bộ ý thức, hành vi, cảm xúc, 11
hành động của mỗi cá nhân. Cuộc sống ngày càng phát triển dẫn theo đó là các áp lực
ngày càng tăng cao theo thời gian. Đó không chỉ là các áp lực đến từ học tập, công việc
mà cũng có thể đến từ các mối quan hệ, gia đình, bạn bè, nỗi lo cơm áo gạo tiền. Khi đối
diện với áp lực, mỗi con người càng quên đi mất việc chăm sóc sức khỏe, cả về thể chất
lẫn tinh thần. Những người bận rộn sẽ giữ những thói quen xấu như uống cà phê, nạp một
lượng lớn các đồ uống tăng lực, hút thuốc, sử dụng các chất kích thích, lười tập thể dục.
Tất cả những điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của họ và đặc biệt là não
bộ. Khi não gặp chấn thương hay bất kỳ tổn thương nào, con người sẽ dễ dàng gặp các
tình trạng như rối loạn nhận thức, giảm hoặc mất nhận thức, giảm trí nhớ. Không những
thế, tâm lý của họ cũng bị ảnh hưởng như rối loạn cảm xúc như vui vẻ quá mức, hung hãn
hoặc trầm cảm, rối loạn giấc ngủ. Vì vậy, để cho ý thức được hoạt động một cách bình
thường, mỗi chúng ta cần có một lối sống lành mạnh như: ngủ đủ giấc, sinh hoạt điều độ,
sử dụng các loại thực phẩm tốt cho sức khỏe, tránh các loại đồ uống như cà phê, trà xanh,
đồ uống có ga, đồ uống tăng lực. Khi con người duy trì được sức khỏe tốt là vật chất thì ý
thức mới có thể vận hành được tốt nhất có thể.
1.3.2. Ý thức phản ánh và tác động trở lại vật chất, thông qua hoạt động của con người
Dẫu cho vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không hề thụ động mà trái lại, nó còn
tác động lại vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người trong cuộc sống.
Vật chất không hề gò bó ý thức nên vật chất có thể bị thay đổi bởi chính ý thức mà nó tạo ra.
Vai trò của ý thức đối với vật chất thể hiện rõ ràng ở việc con người con người có
vai trò như thế nào đối với thực tế khách quan. Qua từng hoạt động của con người, ý thức
có thể thay đổi dựa theo những nhu cầu mà con người đề ra để phát triển trong từng giai
đoạn, từng thời kỳ hay ở trong từng hoàn cảnh khác nhau chứ không hề theo một khuôn
mẫu nhất định nào. Một số như điều kiện, môi trường, nhu cầu, tiềm thức,... nếu được tổ
chức và sắp xếp tốt sẽ có khả năng tác động to lớn đối với vật chất.
Ý thức không thể thoát ly khỏi hiện thực khách quan, sức mạnh của ý thức chỉ
được phát triển và bộc lộ một cách rõ nhất khi việc nhận thức vấn đề khách quan của con
người trở nên đúng đắn, từ đó có thể xây dựng được những kế hoạch, mục tiêu liên quan
để hoạt động, lý trí của con người đi theo đúng hướng. 12
Ngược lại, vai trò của ý thức đối với vật chất còn mang theo hướng tiêu cực (làm
suy giảm, hao tổn sức mạnh vật chất tiềm tàng...). Ý thức có thể kìm hãm sức mạnh cải
tạo hiện thực thực khách quan của con người, nhất là trong lĩnh vực xã hội. Và đặc biệt
hơn, khi phản ánh không đầy đủ về thế giới đó dẫn đến những sai lầm, duy ý chí. Xã hội
sẽ chỉ phát triển khi ý thức tác động tích cực lên vật chất; nếu ngược lại, ý thức sẽ kìm
hãm lịch sử của loài người. Theo đó, đời sống tương lai của con người sẽ bị ảnh hưởng
khá nhiều và họ sẽ phải tự đi tìm lượng vật chất và ý thức đúng đắn với yếu tố lịch sử mà
vẫn phù hợp với sự phát triển của thời đại. Một ví dụ rõ nét nhất của sự tiêu cực này chính
là những chủ trương đổi mới quan liêu bao cấp. Quan hệ hàng hóa - tiền bị coi nhẹ dẫn
đến việc giá cả không phản ánh quan hệ cung cầu là nguyên nhân của tình trạng khan
hiếm hàng hóa cả về chất và về lượng. Đối với nền kinh tế nước nhà, cơ chế này thực sự
không phù hợp với tính chất và sự phát triển của đất nước bởi nó làm trì trệ năng lực sản
xuất của nhân dân, kìm hãm sự cạnh tranh mua bán, giao thương và tạo một áp lực không
hề nhỏ lên các thành tựu khoa học, công nghệ khi những thành tựu không được áp dụng
một cách triệt để để phục vụ đời sống nhân dân. Hơn thế nữa, việc thiếu tính sáng tạo
trong lao động và sản xuất càng tạo cơ hội cho sản xuất công - nông nghiệp đình đốn, vấn
đề tài chính của các gia đình còn bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cụ thể, lương của công
nhân, viên chức ở thành thị chỉ đủ sống cho một đến hai tuần. Ở nông thôn, tình trạng này
còn tiêu cực hơn khi có hàng triệu gia đình nông dân thiếu ăn. Một khi vấn đề tài chính bị
ảnh hưởng như vậy thì tệ nạn xã hội như cướp của, buôn lậu lại càng xuất hiện nhiều.
Người dân lo lắng, bất an còn kinh tế cứ thế rơi vào tình trạng khủng hoảng. Ngoài ra, cơ
chế hóa tập trung quan liêu bao cấp còn ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề văn hóa khi
quy luật sàng lọc không được áp dụng triệt để dẫn đến việc một lượng lớn nghệ sĩ không
có tài năng đặc biệt sáng tác ra những tác phẩm xoàng xĩnh, nhạt nhẽo, vô thưởng vô
phạt, hạ thấp trình độ chung của văn nghệ. Đứng trước tình thế thực tế đất nước khi phải
chịu đầy rẫy những khó khăn từ chế độ quan liêu bao cấp, từ sau Đại hội VI, đảng ta
chuyển nền kinh tế từ tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường, để sau gần 30 năm
bộ mặt nước ta đã thay đổi hẳn. Từ khi thực hiện đường lối mới, đất nước đã có những
bước phát triển vượt bậc trong tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa cho đến xã hội. Đây
cũng là minh chứng rõ nét nhất của việc ý thức có thể tác động lại vật chất thông qua các
hoạt động của con người. Mỗi cá nhân cần nhận thức đúng đắn về mối quan hệ này để có
thể áp dụng được đúng mối quan hệ này trong đời sống, không chỉ liên quan đến sản xuất 13
lao động mà còn liên quan đến những mối quan hệ khác. Chỉ khi hiểu và nắm chắc, mỗi
chúng ta sẽ tự biết cách điều chỉnh cuộc sống dựa theo đúng quỹ đạo của nó; không làm
lệch hướng hay không bị bất kỳ một tác nhân nào gây tác động tiêu cực.
1.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý
thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người; vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tinh năng động chủ quan của mình.
Thứ nhất, mọi hoạt động phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan. Trong cuộc
sống hàng ngày, con người cần phải tôn trọng những hiện thức khách quan; khi ấy mới có
thể phát triển và duy trì được từng hoạt động của họ. Trước hết, tôn trọng khách quan là
tôn trọng tính khách quan của vật chất, những quy luật vốn có mà tự nhiên và xã hội đã đề
ra. Chúng ta không được bác bỏ hay phủ nhận bất kỳ hiện thực khách quan nào bởi vì
những quy luật ấy chính là nền tảng và cơ sở để con người tiến lên mọi hoạt động nhận
thức và thực tiễn của mình. Dẫu cho cuộc sống hiện đại ngày càng phát triển những
những nền móng sẵn có sẽ là tiền đề cho tương lai. Và chúng ta càng không được lấy ý
muốn chủ quan của mình làm chuẩn mực hay chính sách, không được lấy tính cảm làm
điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Mỗi cá nhân sẽ dề dàng rời vào
trạng thái chủ quan duy ý chí nếu từng hành động của con người xuất phát từ ý muốn chủ
quan, thực tế của họ bị che lấp bởi ý chí hay hiểu theo cách khác, họ luôn lấy những ảo
tưởng của bản thân mình để che đậy đi hiện thực khách quan.
Muốn xã hội ngày càng phát triển thì bên cạnh việc tôn trọng những quy luật
khách quan thì cần phát huy rõ ràng những vai trò tích cực của ý thức, của nhân tố của
con người. Từ việc dựa trên những quy luật khách quan vốn có để xác định được đúng kế
hoạch, chiến lược, từng đường đi nước bước kết hợp cùng việc tìm tòi và áp dụng các
phương pháp tổ chức hoạt động hiệu quả để đạt được mục tiêu để ra một cách tối ưu.
Thứ hai, chúng ta cần phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực sức mạnh to lớn
của ý thức, của yếu tố con người. Bên cạnh việc tiếp thu và gìn giữ những giá trị mà cha
ông ta đã để lại, mỗi cá nhân cần phát huy sự sáng tạo của mình bởi cuộc sống ngày càng
phát triển và đổi mới, nếu như tinh thần con người không đuổi kịp và nắm bắt được 14
những xu thế của thời đại thì sẽ rất dễ bị rơi vào tình trạng lạc hậu. Có sự năng động, sáng
tạo, mỗi con người sẽ biết cách thúc đẩy hiệu quả công việc là từ đó phát triển bản thân, phát triển cuộc sống.
Thứ ba, mỗi cá nhân cần phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí như phần trên đã
đề cập; cần tránh thái độ tiêu cực, thụ động, bệnh bảo thủ…Khi cuộc sống ngày càng phát
triển thì lối suy nghĩ tích cực, khả năng lắng nghe và thấu hiểu, tinh thần làm việc có trách
nhiệm và độc lập,... sẽ là những yếu tố then chốt để góp phần nên thành công của con
người. Ngược lại, những cá nhân vẫn giữ cho mình lối sống và thái độ tiêu cực thì có thể
ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của bản thân. Hơn thế nữa, tệ hơn, thái độ sống tiêu
cực của một người sẽ tác động tiêu cực đến toàn xã hội và là nguy cơ đe dọa đến sự phát
triển phồn vinh của đất nước.
II. Thực trạng vấn đề vận dụng
1. Trong học tập và công việc
Hiểu được mối quan hệ gắn kết giữa vật chất và ý thức, bản thân em tự nhận thức
rõ được việc áp dụng mối quan hệ này vào trong việc học tập nói riêng và trong cuộc sống nói chung.
Trước hết, vật chất có vai trò quyết định ý thức. Như vậy, bản thân mỗi chúng ta
cần phải hiểu rõ được những yếu tố khách quan ảnh hướng đến việc phát triển học tập và
công việc. Chỉ khi mỗi cá nhân nhận thức rõ được nền tảng, cơ sở và xuất phát điểm của
những việc trên thì họ mới có thể tiến xa và sâu hơn trên chính con đường học vấn của
mình. Tự vạch ra những mục tiêu học tập cũng như những thời khóa biểu trong từng
ngày, từng tuần, từng tháng, từng năm là một trong những cách em đã dùng để thúc đẩy
bản thân mình luôn cố gắng học và tập trung hoàn thành những nhiệm vụ đã được giao.
Mặt khác, mỗi người cần phải đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và hành động theo
các quy luật mang tính khách quan. Một số việc làm mà bản thân em - một sinh viên tại
trường Đại học Kinh tế Quốc Dân có thể làm là: đi học đúng giờ, học và làm bài tập về
nhà đầy đủ, tích cực và hăng hái trong việc xây dựng bài, tham dự các tiết học đầy đủ
đồng thời làm theo những lời mà giảng viên hướng dẫn. Ngoài ra, em cũng nghiêm túc
tuân thủ đúng nội quy nhà trường, chấp hành đúng kỷ luật đặc biệt là những quy chế thi
cử - quy chế ảnh hướng nhất đối với điểm số ở trường đại học. 15
Hiện nay, xã hội đang vô cùng quan tâm đến việc giáo dục sinh viên nói riêng và
sự nghiệp giáo dục nói chung. Vì vậy, để giữ được thái độ sống tích cực, sinh viên cần có
tính tự giác, kiên trì trong việc học tập, tìm tòi các phương pháp, tài liệu nghiên cứu và
không ngừng sáng tạo. duy trì sức trẻ, sự năng động trong từng công việc và nhiệm vụ mà
mình phải hoàn thành. Giống như vật chất tạo nên ý thức, sinh viên cần phải có được
những phương pháp để tiếp thu tri thức thời đại, rồi vận dụng những lượng kiến thức đã
được học vào thực tiễn, cụ thể là công cuộc xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, tươi
đẹp. Công cuộc xây dựng phát triển đất nước tuy không phải là một việc dễ dàng đối với
các thế hệ trẻ, nhưng chỉ cần mỗi người có đầy đủ năng lực, không ngừng trau dồi các kỹ
năng, kiến thức cùng với sự đoàn kết, đồng lòng, góp sức của toàn thể thế hệ trẻ thì chắc
chắn đất nước sẽ ngày càng phát triển, ngày càng thịnh vượng. Những thế hệ trẻ ngày nay
khi góp sức được một phần của mình, dù lớn hay nhỏ thì cũng xứng đáng được tuyên
dương, xứng đáng trở thành tấm gương sáng cho toàn thể xã hội, không chỉ với các các
thế hệ đồng trang lứa mà còn đối với các thế hệ nối tiếp sau đó.
Trên con đường hoàn thành mục tiêu, chúng ta sẽ dễ dàng gặp phải những rủi ro,
trắc trở cần mỗi cá nhân phải sử dụng kiến thức, kỹ năng và thái độ để có thể vượt qua nó.
Khi đứng trước những khó khăn, thử thách trước mắt, bản thân em sẽ không bỏ cuộc mà
sẽ nghĩ về lý do khách quan ban đầu mà em đã vạch ra để hoàn thành mục tiêu. Suy nghĩ
về những cơ sở, tiền đề ban đầu sẽ giúp cho em có thêm những động lực để vượt qua thử
thách. Cụ thể, trong khoảng thời gian ôn thi cho kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông
2021 vừa rồi, đã có những lúc khối lượng bài tập quá lớn cộng thêm việc căng thẳng học
tập diễn ra triền miên khiến cho cảm xúc của bản thân em cũng bị ảnh hưởng rất nhiều.
Nhưng khi nghĩ về mục tiêu to lớn là có thể dành một tấm vé vào Đại học Kinh tế Quốc
Dân, em đã tiếp tục cố gắng từng ngày bằng việc cân bằng việc học và đời sống. Em đã
chia nhỏ những nhiệm vụ cho từng ngày, tránh trường hợp làm nhiều công việc trong một
ngày. Không những thế, trong những lúc em căng thẳng, em luôn tìm kiếm sự trợ giúp từ
thầy cô và bạn bè - những người vẫn luôn cố gắng từng ngày như em để có thể vào được
ngôi trường đại học mơ ước của họ. Cuối cùng, từng ngày nỗ lực, từng ngày cố gắng của
em đã được đền đáp xứng đáng khi em đã được 27,85 điểm trong kỳ thi Trung học phổ
thông Quốc Gia và chính thức giảnh một tấm vé vào ngôi trường mơ ước của em - Đại
học Kinh tế Quốc Dân. Kết quả trên chính là minh chứng rõ ràng nhất cho việc em đã 16
hiểu áp dụng được mối quan hệ giữa v
ật chất và ý thức vào trong cuộc sống, cụ thể là trong việc học tập.
Thứ hai, ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phải tiếp tục tính năng động chủ
quan tức là phải phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo đang ẩn sâu trong ý thức.
Dựa theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường Đại học Kinh tế Q ố u c Dân đã
thực hiện tổ chức đăng ký học phần vì vậy bản thân cần phải chủ động hơn, năng nổ trong
từng tiết học. Như chúng ta đã biết, trong kết cấu của ý thức thì tri thức là yếu tố quan
trọng nhất. Tri thức là phương thức vận động và tồn tại của ý thức. Do đó, em luôn cố
gắng không ngừng nghỉ trong việc tích cực học tập, tìm hiểu và khai thác vấn đề, khi học
bài không quá phụ thuộc vào giảng viên mà thay vào đó suy nghĩ những ý tưởng độc đáo,
mới lạ, thể hiện được cá tính cũng như suy nghĩ của cá nhân mình. Trong những buổi làm
việc nhóm để hoàn thành do các thầy cô giao, em luôn chủ động trong việc tìm kiếm
những kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau. Đó có thể là những tri thức quý báu được các
thầy cô đã giảng trên lớp hay những kiến thức chúng ta tích lũy từ thư viện, từ sách báo
hay các nguồn tham khảo trên mạng. Tuy nhiên, những tri thức tiếp thu từ những nguồn
đó là chưa đủ, xã hội luôn đòi hỏi mỗi người phải có một vốn kỹ năng sống dày dặn.
Muốn làm được như vậy thì chúng ta cần tham gia vào các hoạt dộng tình nguyện ngoài
trời hay tìm kiếm một công việc làm thêm phù hợp để hiểu được giá trị của đồng tiền.
Tiếp theo đó, bên cạnh các kiến thức dựa vào sách vở hay do nhà trường giảng
dạy, bản thân sinh viên cũng cần tích cực tham gia các hoạt động xã hội, phát triển các kỹ
năng mềm. Tại các trường Đại học, đặc biệt tại các Đại học Kinh tế Q ố u c Dân, đã hơn 50
câu lạc bộ được thành lập thuộc nhiều lĩnh vực, bộ môn khác nhau từ nghệ thuật, tình
nguyện cho đến học thuật. Không những thế, những cuộc thi cũng được nhà trưởng mở ra
để phát huy được tiềm năng ẩn sau trong từng sinh viên, khiến cho ‘‘những viên ngọc quý
ẩn sâu’’ trong mỗi sinh viên được tỏa sáng. Đó không chỉ là cuộc thi học thuật, có thể kể
đến như cuộc thi Hành Trình Kinh Doanh do câu lạc bộ nhà Kinh tế Trẻ YEC trực thuộc
hội sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc Dân. Còn về bản thân em, bên cạnh việc học
tập trên trường, em tích lũy những kiến thức và kỹ năng từ việc đi làm thêm. Công việc
hiện tại của em là công việc trợ giảng tiếng anh tại một trung tâm ngoại ngữ. Việc giảng
dạy cho các em học sinh giúp em tích lũy được nhiều kỹ năng như kỹ năng thuyết trình,
kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng sắp xếp công việc,... và đồng thời cũng giúp em củng
cố được những kiến thức tiếng anh của mình bằng việc giao tiếp với các thầy cô người 17
nước ngoài. Hơn thế nữa, trong năm nay, em cũng đã trong những bước đầu tiếp cận với
một môn ngoại ngữ mới, cụ thể là tiếng trung. Mặc dù con đường chinh phục một loại
ngoại ngữ mới không phải dễ dàng nhưng em sẽ luôn cố gắng để cải thiện được những
kiến thức tiếng Trung của mình để áp dụng vào trong cuộc sống về sau này.
Ngoài ra, trên bước đường học hành thì chúng ta cần phải xây dựng và củng cố
tình cảm bởi nhờ có tình cảm mà tri thức mới có sức mạnh và sau đó trở thành cơ sở cho
hành động. Có thể hiểu, tình cảm chính là nguồn động lực to lớn thúc đẩy chúng ta đi đến
thành công trong học tập hay trong bất kỳ lĩnh vực nào. Là một sinh viên học khối ngành
Kinh tế, em tự nhận thức được rằng để đạt được thành tích tốt trong học tập cũng như
phát triển trong tương lai thì cần xây dựng niềm đam mê với tất cả các môn học, dù đó là
môn chuyên ngành như Quản trị Kinh doanh, Kinh tế Phát triển,.. hay môn đại cương như
Triết học Mác Lênin, Pháp luật Đại cương,... Bởi, chỉ khi chúng ta thực sự yêu thích
những môn học đó thì mỗi cá nhân mới có cảm giác thoải mái và tinh thần tích cực khi
học tập từ đó mới tạo ra được hứng thú và động lực để vượt qua những khó khăn và
chướng ngái vật phía trước .
Không những thế, niềm tin được coi là động cơ tinh thần định hướng cho những
hoạt động của con người. Là một sinh viên tốt thì cần phải biết đặt niềm tin vào nhiều
thứ. Đầu tiên, cần phải có niềm tin vào bản thân mình, phải biết đặt ra những hoài bão,
ước mơ nhưng không được quên việc thực hiện hóa những mục tiêu ấy bằng các kế hoạch
chắc chắn. Có niềm tin thì chắc chắn sẽ có động lực để phấn đấu, vươn lên nhằm được
những ước mơ cao đẹp hơn nữa. Cụ thể, mục tiêu hiện tại của em trong năm nhất có thể
đạt những số điểm cao trong những môn, học thêm một ngôn ngữ mới và rèn luyện những
kỹ năng tin học văn phòng. Thực hiện được những mục tiêu trên là một quá trình dài, đòi
hòi bản thân em phải tự xây dựng thời gian biểu học tập phù hợp cụ thể với một phương pháp học đúng đắn.
Ý chỉ biểu hiện cho sức mạnh tinh thần của con người, giúp cho chúng ta vượt qua
nhữn khó khăn, trở ngại để đạt được những mục tiêu mà ta đã đề ra. Môi trường đại học
ẩn chứa rất nhiều thử thách và cám dỗ đòi hỏi chúng ta cần phải xây dựng cho mình một
sự kiên định để tránh xa những thói hư tật xấu. Ví dụ, cuộc sống sinh viên đòi hỏi em
phải lập ra những quy tắc riêng cho bản thân để giữ vựng lập trường của mình trước
những cạm bẫy trước mắt: tránh tụ tập nhậu nhẹt sa đà, không vì lười biếng trước những
cạm bẫy trước mắt: tránh tụ tập nhậu nhẹt sa đà, không vì lười biếng mà cúp học, chưa 18
học bài xong chưa đi ngủ, chưa đi chơi khi chưa hoành thành xong bài tập, nhiệm vụ đã
được giao, không nên chạy theo những công việc chỉ sinh ra lợi ích tức thười mà bỏ bê
việc học, nên học theo tinh thần của câu nói: ‘‘Học, học nữa, học mãi’’ của Lênin. Bởi lẽ,
học tập là việc cả đời và những kiến thức mà chúng ta học được sẽ theo chúng ta trong
suốt cuộc đời. Những kiến thức, kinh nghiệm được đúc rút ra từ những khó khăn, vất vả
sẽ càng quý báu hơn nữa trong quá trình mỗi cá nhân học cách để trưởng thành.
Thứ ba, từ ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, chúng ta cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ.
Cụ thể là cần tiếp thu có chọn lọc những ý kiến mới, việc hôm nay không nên để ngày
mai, không chủ quan trước mọi tình huống, phải biết lắng nghe và tiếp thu sự góp ý của
người khác để bổ sung kiến thức cho chính mình, từ đó có thể phát triển bản thân ngày
một tốt đẹp hơn. Ví dụ như sau một bài thuyết trình thì phải nán lại lắng nghe ý kiến
chỉnh sửa của cả lớp và giảng viên hay khi làm bài hoặc họp nhóm cần phải sử dụng sự
sáng tạo, đột phá, cải tiến cãi cũ nhưng cũng không nên quá cầu toàn. Ngoài ra, chúng ta
cũng không nên ý lại vào những cá nhân khác, không nên có thái độ tiêu cực, thủ động
mà phải tự mình học tập, tự mình cố gắng thì ta mới có thể trân trọng những thành quả mà ta đã nhận được.
Thứ tư, bên cạnh những định hướng trên, khi giải thích các hiện tượng xã hội cần
phải tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố
khách quan. Ví dụ đối với việc đăng ký học phần, sinh viên cần phải tính đến năng lực
học tập của bản thân, điều kiện tài chính đồng thời cũng phải cân nhắc kỹ quỹ thời gian,
không đăng ký học phần một cách tràn lan với mục đích tốt nghiệp sớm. Điều này sẽ ảnh
hưởng đến chất lượng học tập do sinh viên không thể học kịp, gây căng thẳng không đáng
có cho tâm lý sinh viên, hay thậm chí còn dẫn đến việc hao phí tiền bạc, thời gian, công
sức mà kết quả nhận được lại không như ý muốn.
2. Trong đời sống sinh hoạt
Không chỉ trong việc học tập và công việc, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
cũng được em có những định hướng trong đời sống sinh hoạt, cụ thể là trong việc chăm
sóc sức khỏe và cải thiện các mối quan hệ xã hội.
Thứ nhất, trong vấn đề cải thiện sức khỏe, em đã tích cực áp dụng vai trò của vật
chất đối với ý thức: vật chất quyết định ý thức. Sức khỏe từ trước đến nay luôn đóng vai 19
trò quan trọng trong đời sống con người. Có sức khỏe là có tinh thần, năng lượng tràn đầy
trong công việc và cuộc sống, đối mặt với những áp lực họ có thể dễ dàng vượt qua, công
việc hay cuộc sống đối với họ là một niềm vui, một mục tiêu cần phấn đấu. Khi mất đi
sức khỏe, chúng ta phải tốn biết bao nhiêu vàng bạc của cải tích cóp để chi cho cái giường
bệnh đắt giá, chi trả cho thuốc men, thậm chí đánh đổi bằng cả thời gian quý giá của cuộc
đời, của người thân. Hiểu được điều này, em luôn cố gắng giữ thói quen sinh hoạt và ăn
uống điều độ điển hình như việc đi ngủ sớm và ngủ đủ giấc. Việc đi ngủ và ngủ đủ giấc
sớm chính là vật chất ảnh hưởng tích cực đến ý thức là sức khỏe tinh thần hay thái độ của
con người trong học tập và làm việc. Chỉ khi ngủ đủ giấc thì em mới có thể giữ được thái
độ tích cực và giữ được lửa trong từng công việc mà mình làm. Ngoài ra, em còn có rèn
luyện cho mình thói quen đọc sách, thiền và tập thể dục để duy trì sức khỏe thể chất.
Thứ hai, trong việc cải thiện các mối quan hệ, em luôn giữ thái độ tốt đẹp với tất
cả mọi người xung quanh cùng với việc đi kết bạn và mở rộng các mối quan hệ. Đó
không chỉ là các mối quan hệ với các bạn bè đồng trang lứa mà còn là với các thầy cô nỏi
riêng và với các thế hệ đi trước. Việc kết bạn sẽ giúp em có thể học được nhiều điều từ
họ; từ đó em có thể phát triển bản thân. Lợi ích của các mối quan hệ xã hội tốt đẹp có
nâng cao sức khỏe về mặt tinh thần rất nhiều, từ đó trực tiếp ảnh hưởng tới sức khỏe về
mặt thể chất. Những mối quan hệ với bạn bè, thầy cô, gia đình là vật chất sẽ giúp chúng ta
giải tỏa được áp lực, khiến cho tinh thần là ý thức của chúng ta ngày càng được cải thiện.
3. Trong việc xây dựng và phát triển đất nước
Là một sinh viên năm nhất của trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, hơn ai hết, em
hiểu rõ vai trò và trách nhiệm của bản thân trong việc phát triển nền kinh tế nói riêng và
giải quyết những vấn đề tồn đọng của đất nước nói trong. Các vấn đề liên quan đến kinh
tế, chính trị, văn hóa từ trước đến nay luôn đóng vai trò chủ đạo trong sự phồn vinh của
đất nước. Như vậy, mỗi cá nhân trong xã hội, cụ thể là bản thân em cần hiểu rõ mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức để có thể nắm chắc tương lai Việt Nam sau này.
Là một công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, em sẽ ‘‘Nhìn thẳng vào
sự thật, nỏi rõ sự thật’’ trong đánh giá tình hình, ‘‘tôn trọng quy luật khách quan’’ trong
quá trình đổi mới bởi đây là những điều được xuất phát từ hiện thực khách quan của đất
nước, của thời đại để hoạch định chiến lược, sách lược phát triển đất nước. Không những
thế, em sẽ luôn tìm kiếm, khai thác, tổ chức, sử dụng những lực lượng vật chất (cá nhân- 20
cộng đồng, kinh tế-quân sự, trong nước-ngoài nước, quá khứ-tương lai…) để phục vụ cho
sự nghiệp Đổi mới. Mỗi cá nhân phải luôn coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu phát triển đất nước.
Như chúng ta đã biết, giữa kinh tế (biểu hiện của vật chất) và chính trị (biểu hiện
về ý thức) cũng có mối quan hệ rằng buộc với nhau. Bởi vì, chúng ta thấy rằng, tình hình
kinh tế của một nước là cơ sở, là quyết định, song chính trị là cơ bản. Nếu kinh tế của một
nước giầu mạnh, nhưng chính trị không ổn định, đấu tranh giai cấp, tôn giáo giữa các
Đảng phái khác nhau.v.v…thì đất nước đó cũng không thể trở nên yên ấm và tồn tại lâu
dài được, cuộc sống của nhân dân tuy sung túc, đầy đủ nhưng luôn phải sống trong lo âu,
sợ hãi vì nội chiến, chết chóc. Do đó, nếu chính trị của một nước mà ổn định, tuy nhiều
Đảng khác nhau nhưng vẫn qui về một chính Đảng thống nhất đất nước, và Đảng này vẫn
đem lại sự yên ấm cho nhân dân, thì nếu đất nước đó giầu thì cuộc sống của nhân dân
ngày càng ấm no, hạnh phúc, ngược lại nếu như nước đó nghèo thì cho dù chính trị ổn
định đến đâu thì cuộc sống của nhân dân sẽ trở nên khó khăn và sẽ dẫn đến đảo chính, sự
sụp đổ chính quyền để thay thế một chính quyền mới đem lại nhiều lợi ích cho nhân dân hơn.
Như vậy, để nhằm phát triển đất nước, tạo động lực để Việt Nam trở nên phồn
vinh thì mỗi chúng ta phải nhận thực được việc kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác
nhau về kinh tế, chính trị, tinh thần: cá nhân, tập thể, xã hội…thành động lực thúc đẩy
Đổi mới. Không những thế, em luôn trân trọng những thành quả vĩ đại của ông cha ta
trong việc dựng và giữ nước. Vì vậy, mọi đường lối chủ trương của Đảng trong tương lai
phải xuất phát từ thực tế xã hội, phải dựa trên những kinh nghiệm mà ông cha ta đã để lại
cho thế hệ sau và tôn trọng những quy luật khách quan ấy.
Ngoài ra, trong tương lai, em tự nhận thức được vai trò của mình trong việc khơi
dậy và phát huy tối đa sức mạnh tinh thần, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Em sẽ luôn
coi sự thống nhất nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học là động lực tinh thần thúc đẩy
công cuộc Đổi mới. Là một trong những người thuộc thế hệ trẻ thì việc bồi dưỡng nhiệt
tình phẩm chất cách mạng, khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường, tài trí
người Việt Nam… là một việc cần thiết. Việc làm thiết thực nhất mà một sinh viên đại
học như em có thể làm là việc luôn có tình cảm gắn bó, lòng tự hào về con người, quê
hương, đất nước. Trung thành với Tổ quốc, với chế độ Xã hội chủ nghĩa, cảnh giác trước
âm mưu chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán, đấu tranh với những thái 21
độ, việc làm gây tổn hại đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc. Thế hệ trẻ chúng em sẽ luôn cố gắng hết sức để coi trọng và tiếp thu việc
giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh…), sau đó áp dụng
những kiến thức đã được học để nâng cao và đổi mới tư duy lý luận. Bên cạnh đó, thế hệ
trẻ cần giữ gìn và bảo vệ những giá trị tốt đẹp của dân tộc. Đó có thể là việc phát huy, bảo
tồn và truyền bá những giá trị về văn hóa, kinh tế, chính trị cho các bạn bè nước khác để
họ hiểu thêm về Việt Nam. Dần dần, thế hệ trẻ sẽ ghi danh những giá trị tốt đẹp ấy của
dân tộc mình trên bản đồ thế giới, làm rạng danh đất nước .Cụ thể, vào năm 2019, em có
cơ hội được tham gia vào khóa du học hè tại đất nước Xinh-ga-po. Trong khóa học hè đó,
em được tiếp xúc và gặp gỡ với rất nhiều bạn đến từ các đất nước và nền văn hóa khác
nhau. Và điều đặc biệt trong chuyến đi lần đó, em có cơ hội được giới thiệu cho các bạn
nước khác về những giá trị văn hóa tốt đẹp của Việt Nam và chúng em có cơ hội được
làm bánh chưng – đặc sản truyền thống không thể thiếu trong những ngày Tết đến Xuân
về. Điều khiến em cảm thấy tự hào là các bạn từ các đất nước khác luôn trân trọng và lắng
nghe những nét đẹp và những giá trị truyền thống quý báu của Việt Nam. Việc em quảng
bá những giá trị lịch sử và văn hóa của Việt Nam cho các bạn bè từ năm châu là một minh
chứng rõ nét nhất cho tình yêu đất nước của em.
Không những thế, những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những biến
động nhiều mặt của đất nước ta trong quá trình đổi mới toàn diện xã hội càng đòi hỏi
chúng ta phải kiên trì giữ vững lòng tự tin, quyết tâm khắc phục khó khăn đồng thời phải
tỉnh táo thông minh, nhạy cảm để thích ứng kịp thời với tình hình thực tế biến đổi từng
ngày, từng giờ phải có một cuộc sống năng động chủ quan kết hợp chặt chẽ sự nhạy cảm
giữa sự phát triển của khoa học kĩ thuật với tình hình chung của đất nước ta hiện nay rõ
ràng việc làm bền sự thống nhất giữa nhiều tình ý thức cách mạng và tri thức khoa học là
hết sức cấp bách và cần thiết. Bởi vì trí thức khoa học khoa học có được hay không cũng
nhờ lòng hiểu biết, trí thông minh, ý trí quyết tâm học tập và nhận thức khoa học. Ngược
lại nếu trí thức khoa học phải phát huy được tác dụng trong thực tế thì nó lại trở thành
động lực tăng thêm ý trí và nhiệt tình cách mạng.
Và điều cuối cùng nhưng cũng không kém phần quan trọng là việc cần khắc phục
chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, đầu óc bảo thủ, trì trệ trong quá trình Đổi mới. Ngoài ra,
thế hệ trẻ cần loại bỏ lối sống thụ động, ỷ lại vào gia đình, bạn bè nói riêng và căn bệnh
chủ quan, duy ý chí nói chung. Thái độ tiêu cực này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của 22
bản thân và những người xung quanh. Những người trẻ cần có một thái độ tích cực khi
nhìn nhận mọi vấn đề thuộc mọi lĩnh vực; phải giữ cho mình cái nhìn đa chiều về ý kiến
chứ không được nhìn vấn đề một chiều; phải xem xét kỹ lưỡng trước khi đưa ra đánh giá
chứ không được nóng vội và hời hợt. Để đạt được thái độ này, chúng ta có thể rèn luyện
thói quen đọc sách, thiền và rèn luyện sức khỏe từ bên trong. Trong bất kỳ lĩnh vực hay
bất kỳ khía cạnh cuộc sống nào thì ta cần phải kiên quyết ngăn ngừa lối suy nghĩ, hành
động giản đơn; nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng, bất chấp quy luật
hiện thực khách quan. Những suy nghĩ và thái độ này sẽ đe dọa trực tiếp đến sự phát triển
của đất nước và xấu hơn nữa, nếu không được khắc phục kịp thời, thái độ thụ động, ỷ lại,
bảo thủ, trì trệ, thói thờ ơ lãnh đạm… sẽ khiến cho đất nước bị tụt hậu và gặp những rủi
ro và thách thức không đáng có. Đổi mới là sự nghiệp khó khăn chưa có tiền tệ nhưng
thực tiễn những năm qua đã chứng tở đường lối đổi mới, chủ trương chính sách lớn về đổi
mới, chủ trương chính sách lớn lớn về đổi mới là rất đúng đắn, bước đi là thích hợp. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội còn là sự nghiệp rất mới mẻ, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát
huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan của tính năng động chủ quan, đòi hỏi nhiều công
phu nghiên cứu để khám phá, tìm tòi ra mô hình thích hợp với thực tiễn Việt Nam.Vì việc
xây dựng và phát triển đất nước không phải là việc của mỗi cá nhân mà đó là việc của cả
xã hội, cần sự chung tay của tất cả quần chúng nhân dân nên bản thân em nghĩ cần phải
phê phán thật quyết liệt thói vô trách nhiệm và hay đổ lỗi cho hoàn cảnh. Chỉ khi thái độ
này được đẩy lùi thì ta mới có thể tiến tới mục tiêu xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
C. KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu đề tài ‘‘Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức và sự vận
dụng của Bùi Cát Minh’’ đã cho bản thân em nói riêng và tất cả các cá nhân trong xã hội
nói chung có cơ hội tìm hiểu một cách sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa vật chất với ý
thức, đó là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Khẳng định vật chất luôn
mang tính thứ nhất, tính quyết định, ý thức luôn mang tính thứ hai, bị chi phối, bị quyết
định. Song, ý thức lại có tác động trở lại vô cùng quan trọng đối với vật chất. Nó có thể
làm cho vật chất phát triển, biến đổi theo nhu cầu, ý muốn, nhưng đồng thời nó cũng có
thể làm cho vật chất không phát triển, bị kìm hãm. 23
Vì vậy mà việc nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vô cùng quan
trọng. Vận dụng mối quan hệ này trong việc học hành và phát triển bản thân em mang
một ý nghĩa vô cùng to lớn và có ý nghĩa thực tiễn cao. Bên cạnh bản thân em, em nghĩ
mỗi sinh viên cũng cần phải có được phương pháp để tiếp thu tri thức thời đại, rồi vận
dụng những tri thức đó vào thực tế để có thể cùng xây dựng nên một xã hội ngày càng
phồn vinh và tươi đẹp. Hơn thế nữa, không chỉ bản thân thế hệ trẻ mà toàn thể nhân dân
đều có thể áp dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để xây dựng hệ động lực tinh thần
mạnh mẽ cổ vũ lớn lao cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của toàn Đảng và nhân dân ta. Đó
chính là “xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”, đó là “khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật
cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo làm
lạc hậu”. Đồng thời, chúng ta cũng cần tránh tư tưởng chủ quan duy ý chí, nóng vội trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng Việt Nam ngày một giàu đẹp là một sự nghiệp rất khó khăn và vô cùng
phức tạp như cuộc chiến đấu kháng chiến trường kỳ của Đảng và nhà nước. Với những
biến động trước tình hình kinh tế của nhiều nước trên thế giới đòi hỏi Đảng và nhà nước
phải kiên trì, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc phục khó khăn, đồng thời phải tỉnh táo,
nhạy bén thích ứng kịp thời với thực tế biến đổi từng ngày từng giờ. Quán triệt phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng thành thạo phép
biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu và quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ quan hệ
giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân,
nhất định chúng ta sẽ trở thành những nhà quản lý giỏi góp phần xứng đáng vào công
cuộc đổi mới của đất nước, tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam phát triển cao, từ đó
nâng cao vị trí Việt Nam trên chính trường quốc tế, góp phần củng cố sự ổn định về chính
trị của đất nước. Là một sinh viên trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, đặc biệt là sinh
viên khoa Kinh doanh Quốc Tế, em sẽ tích cực học tập, nghiên cứu và vận dụng, sáng tạo
những tri thức mà mối quan hệ giữa vật chất và ý thực mang lại vào thực tế cuộc sống của
bản thân. Qua những tìm hiểu trên, chúng ta có thể thấy triết học thực sự là một môn khoa
học lý thú, hấp dẫn, thú vị và tuyệt vời, đúng như nhà triết học Voltaire đã từng nói:
‘‘Khám phá ra điều gì đúng và thực hành điều gì tốt, đó là hai mục tiêu quan trọng nhất của triết học’’. 24
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác - Lê nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994
3. Tác phẩm ‘‘Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán’’, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
4. Tác phẩm ‘‘Biện chứng của tự nhiên’, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
5. V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006 25