Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị - Kinh tế Chính trị Mác-Lê nin | Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị - Kinh tế Chính trị Mác-Lê nin | Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

1 | P a g e
SINH VIÊN THỰC HIỆN
HỌ VÀ TÊN MÃ SINH VIÊN
Nguyễn Thị Việt T
QHQT49B11447
Nguyễn Mạnh Hải Anh
QHQT49C11092
Nguyễn Tuấn Anh
QHQT49C11095
Nguyễn Việt Anh
QHQT49C11096
Nguyễn Xuân Giáp
QHQT49C11185
Đỗ Ngọc Gia Linh
QHQT49C11259
Nguyễn Ngọc Minh
QHQT49C11312
Nguyễn Hoàng Đông Thuỵ
QHQT49C11442
Phạm Thuỳ Trang
QHQT49C11458
Trương Vũ Phương Uyên
QHQT49C11483
MỤC LỤC
SINH VIÊN THỰC HIỆN ....................................................................................................... 1
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 3
NỘI DUNG ................................................................................................................................ 4
I. MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC-LÊNIN .......................................................................................................... 4
1. Khái niệm kinh tế ........................................................................................................ 4
2. Khái niệm chính trị ...................................................................................................... 4
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ Ở CÁC NƯỚC TƯ BẢN PHÁT
TRIỂN .................................................................................................................................... 5
1. Giai đoạn chính trị tối đa ............................................................................................. 5
2. Giai đoạn chính trị tối thiểu. ........................................................................................ 7
3. Giai đoạn chính trị hỗn hợp. ........................................................................................ 9
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG HỆ THỐNG CÁC
NƯỚC XHCN ..................................................................................................................... 10
1. Mô hình phát triển dựa trên nền tảng tập trung hóa cao độ về chính trị và kinh tế ... 10
2. Mô hình phát triển dựa trên cơ sở nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị - Mô hình chính sách kinh tế mới (NEP) ở Liên Xô .......................................... 12
a. Sự ra đời của Chính sách kinh tế mới (NEP) của Liên Xô (1921) ......................... 13
b. Nội dung cơ bản của Chính sách NEP .................................................................. 13
c. Những bất đồng xảy ra giữa các đảng viên trong Đảng Cộng sản Liên Xô .......... 14
d. Kết quả và ý nghĩa ................................................................................................. 14
e. Ý nghĩa của NEP đối với Việt Nam ........................................................................ 15
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 18
LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử của nhân loại, kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực quan trọng không
thể tách rời. Mối quan hệ giữa chúng đã luônchủ đề được quan tâm trong nhiều thế
kỷ qua. Kinh tế chính trị ảnh hưởng đến nhau theo nhiều cách khác nhau và thể
có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển của quốc gia. Nhóm tác giả đã
tìm hiểu về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, gồm các khái niệm căn bản, các thời
lịch sử quan trọng thể hiện mối quan hệ nêu trên các nước bản phát triển
các mô hình kinh tế chính trị nổi bật ở hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.
Mặc nhóm đã cố gắng hết sức trong việc đối chiếu kiểm tra các thông tin
được đưa vào báo cáo, song thể không tránh khỏi sai sót. Nhóm tác giả kính mong
quý thầy các bạn đóng góp ý kiến để nhóm tác giả sớm cải thiện và gửi tới độc giả
bản báo cáo hoàn thiện nhất.
Nhóm tác giả
NỘI DUNG
I. MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC-LÊNIN
1. Khái niệm kinh tế
“Kinh tế”, theo tiếng gốc Hy Lạp là “Oikonomike”, nghĩa là sự tiết kiệm là sự lựa
chọn để đem lại lợi nhuận và hiệu quả tối ưu. Hiện nay có 2 giác độ tiếp cận khác nhau
về vấn đề kinh tế.
1
Thứ nhất, đó là toàn bộ các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân - gồm
tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất hội. theo quan điểm của chủThứ hai,
nghĩa Mác-Lênin, kinh tế được hiểu lĩnh vực sản xuất, các quan hệ kinh tế của
một chế độ xã hội.
Thực chất của các quan hệ kinh tế việc các giai cấp sử dụng quyền lực nhà
nước để giải quyết các quan hệ lợi ích kinh tế giữa người với người trong sản xuất
nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng sức sản xuất.
2. Khái niệm chính trị
“Chính trị”, nguyên gốc tiếng Latin “Politic”, nghệ thuật quản lý, công
việc của nhà nước hay hội. Theo nghiên cứu của các nhà kinh điển Mác-xít, 6
cách hiểu về chính trị.
2
Thứ nhất, chính trị là quan hệ xã hội đặc biệt giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia
- trong đó quan hệ giữa các giai cấp đóng vai trò cơ bản.
Thứ hai, chính trị là một quan hệ kinh tế nhưng đó là một quan hệ kinh tế đặc biệt
- là loại quan hệ kinh tế được “cô đọng lại”.
Thứ ba, chính trị của giai cấp sản thái độ của giai cấp ấy trong cuộc đấu
tranh tự giải phóng khỏi áp bức bóc lột, việc giai cấp sản vươn lên giành lấy
quyền
1
PGS. TS. Nguyễn Văn Vĩnh và PGS. TS. Lê Văn Đính (Đồng chủ biên), (tái Giáo trình Chính trị học đại cương
bản lần thứ hai), NXB Giáo dục Việt Nam (2015).
2
PGS. TS. Nguyễn Văn Vĩnh và PGS. TS. Lê Văn Đính (Đồng chủ biên), (tái Giáo trình Chính trị học đại cương
bản lần thứ hai), NXB Giáo dục Việt Nam (2015).
lực nhà nước từ trong tay các giai cấp bóc lột, là việc sử dụng nhà nước vào sự nghiệp
xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, chính trị một loại hình, một phương diện hợp thành của văn hóa
trong hội giai cấp nhà nước - đó văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ, văn
hóa ứng xử, ...
Thứ năm, chính trị một khoa học nghệ thuật. Tính khoa học của chính trị
thể hiện tính logic khách quan của - phải đảm bảo sự phù hợp giữa mục tiêu
chính trị với quy luật, xu hướng vận động phát triển của hội loài người lợi ích
giai cấp, của quản đại quần chúng nhân dân. Tính nghệ thuật của chính trị thể hiện
vai trò của nhân tố chủ quan trong việc lựa chọn khả năng tối ưu tạo lập chế để
hiện thực hóa khả năng đã được lựa chọn.
Thứ sáu, trung tâm của các quan hệ chính trị vấn đề chính quyền, việc
giành, giữ thực thi quyền lực nhà nước, việc xác định hình thức, nhiệm vụ, nội
dung và cơ chế hoạt động của nhà nước đối với toàn bộ đời sống xã hội.
Tóm lại, chính trị là quan hệ giữa các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong xã hội
đương đại - xã hội dân chủ - chính trị còn là quan hệ giữa các cộng đồng (các nhóm lợi
ích, các lực lượng xã hội, các công dân) với Nhà nước.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ Ở CÁC NƯỚC TƯ BẢN
PHÁT TRIỂN
1. Giai đoạn chính trị tối đa.
Thời kỳ hình thành chủ nghĩa tư bản, còn gọi là giai đoạn chính trị tối đa, đã diễn
ra từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII. Đây thời kỳ tích luỹ của bản chủ nghĩa, đặc
biệt các sản tài phiệt, thông qua việc tích trữ đầu tiền của họ để kiếm lợi
nhuận.
Trong giai đoạn này, một mặt giai cấp tư sản thực hiện lý thuyết trọng thương, họ
cho rằng chỉ ngành thương nghiệp mới tạo ra của cải. Sự giàu của các quốc gia
chủ yếu dựa vào tiêu chí số lượng vàng, bạc, đá quý, hương liệu quốc gia đó
được. thể lấy các nhà buôn tàu thuộc East India Company Anh làm dụ: East
India Company được thành lập vào năm 1600 trở thành công ty thương mại lớn
nhất của Anh, điều hành các hoạt động kinh doanh như buôn bán hàng hóa thực
hiện những
chiến dịch xâm lược đối với các khu vực khác để chiếm đoạt tài nguyên. Công ty này
tích trữ vận chuyển trở về Anh các sản phẩm từ các khu vực khác nhau như trà, gia
vị, vải, đồng, thiếc đá quý. Những sản phẩm này được bán ra với giá cao trên thị
trường Anh, tạo ra lợi nhuận lớn cho công ty và giai cấp tư sản Anh.
Mặt khác, giai cấp sản cũng cấu kết với thế lực phong kiến để tước đoạt của
người sản xuất tăng cường sự vét thuộc địa bằng hình thức bạo lực chính trị.
Điều này dẫn đến một sự chuyển dịch trong quan hệ kinh tế chính trị, từ sự phát
triển của các quốc gia tư bản đến sự khai thác và tước đoạt các vùng đất mới trong chế
độ thuộc địa. Trong thế kỉ 16, Tây Ban Nha đã tiến hành việc xâm lược thực hiện
chính sách thuộc địa châu Mỹ bằng cách sử dụng lực lượng quân sự cấu kết với
các thế lực phong kiến địa phương để tước đoạt của người sản xuất bản địa. Tây Ban
Nha tuyên bố mục đích của họ để "khai thác" "đem lại sự chữa lành" cho người
bản địa, nhưng thực tế họ sử dụng đóng thuế lao động lệ để thu thập tài
nguyên sản xuất hàng hóa để bán trở lại châu Âu, tăng cường sự giàu quyền
lực của giai cấp tư sản. Tây Ban Nha đã sử dụng quân đội để đàn áp bất kỳ nỗ lực nào
của người bản địa để chống lại chính sách thuộc địa của họ, bao gồm cả việc sử dụng
bạo lực chính trị để giữ cho người dân bản địa bị kiểm soát vọng. Các thế lực
phong kiến địa phương đã được cấu kết với Tây Ban Nha để tăng cường quyền lực
tài nguyên của họ, thường bằng cách trở thành người trung gian trong việc thu thập
thuế và khai thác tài nguyên của bản địa.
Chính trị can thiệp mạnh mẽ vào tất cả các quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là
quá trình kinh tế, tạo ra sự ảnh hưởng chủ động và mạnh mẽ đến nền kinh tế. Để tạo ra
sự ảnh hưởng chủ động mạnh mẽ đến nền kinh tế, các lực lượng chính trị đã sử
dụng quyền lực của mình để xây dựng các hệ thống kinh tế phù hợp với mục đích của
mình. Điều này bao gồm việc tạo ra các quy định pháp luật mới để bảo vệ quyền lợi
của các doanh nghiệp và các tư sản, cũng như việc đưa ra các chính sách kinh tế nhằm
thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ngoài ra, chính trị cũng can thiệp vào các hoạt động
thương mại đưa ra các quyết định về việc sản xuất, tiêu thụ. Chính trị cũng thực
hiện việc kiểm soát giá cả và tiêu chuẩn sản phẩm để đảm bảo chất lượng sản phẩm và
sự công bằng trong thị trường. Một dụ cụ thể về sự can thiệp của chính trị vào kinh
tế trong giai đoạn này chính sách hoàng gia của nước Anh nhằm thúc đẩy sự phát
triển của công
nghiệp dệt lụa. Vào thế kỷ 16, lãnh đạo của nước Anh đã đưa ra các chính sách bảo vệ
cho ngành dệt lụa của nước này, bao gồm cả việc cấm nhập khẩu vải lụa từ các nước
khác. Điều này nhằm bảo vệ các nhà sản xuất lụa trong nước và đẩy mạnh sản xuất lụa
trong nước.
Tóm lại, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở các nước tư bản phát triển trong
giai đoạn thế kỉ 16-17 rất phức tạpđôi khi xung đột. Giai cấp sản đã tận dụng
quyền lực chính trị để tăng cường địa vị và quyền lực của mình trong xã hội, tuy nhiên
điều này đã dẫn đến sự bất ổn và xung đột trong xã hội.
2. Giai đoạn chính trị tối thiểu.
Diễn ra từ thế kỉ XVIII đến đâu thế kỉ XX, giai đoạn chính trị tối thiểu gắn liền
với thờihình thành chủ nghĩa bản tự do cạnh tranh. Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh giai đoạn đầu tiên của hình thái kinh tế bản chủ nghĩa (giai đoạn thấp), ra
đời cùng với chủ nghĩa bản, phát triển mạnh vào thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX. Chủ
nghĩa tư bản phát triển tương đối hòa bình giai đoạn tự do cạnh tranh. Đặc điểm nổi
bật của chủ nghĩa này là sự cạnh tranh giữ vai trò thống trị nền kinh tế. Giữa các nhà tư
bản trong ngành và giữa các ngành đều diễn ra sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt. Ngoài
ra, toàn bộ các hoạt động kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
3
Giai đoạn này chứng kiến cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất (1760-
1840), kỉ nguyên của các phát minh thay thế hệ thống kỹ thuật của thời đại nông
nghiệp bằng một hệ thống kỹ thuật mới với nguồn lực máy hơi nước nguyên,
nhiên vật liệu đã thay đổi thế giới 2 thế kỷ tiếp theo. Cuộc cách mạng này không chỉ
tác động tới lĩnh vực kinh tế còn cả chính trị. Sự phân bố quyền lực chính trị thay
đổi, nền tảng của chủ nghĩa bản đã xuất hiện song song với sự thay đổi của các
chính sách. Chủ nghĩa bảo hộ của giai đoạn trước đã nhường đường cho sự phát triển
của chủ nghĩa tự do. Lúc y, sự phát triển kinh tế theo hướng trọng thương đã bão
4
hòa, lực lượng sản
3
Trường Cao đẳng Y dược Việt Nam, Bài giảng Chính trị số 4: Bản chất các giai đoạn phát triển của CNTB, ngày
01/04/2020
https://caodangyduocvietnam.com/chinh-tri-bai-4-ban-chat-cac-giai-doan-phat-trien-cua-chu-nghia-tu-ban
4
Benedict Macon-Cooney, “The Industrial Revolution, Politics and Public policy”, Chương 2: “First Wage of
Gadgets”, ngày 16/12/2019
https://www.institute.global/insights/tech-and-digitalisation/industrial-revolution-politics-and-public-
policy#first-wave-of-gadgets
xuất phát triển thông qua các công trường thủ công đã dẫn đến sự thay đổi to lớn trong
kết cấu nội bộ nền kinh tế. Vai trò của công nghiệp tăng lên so với thương nghiệp.
Đến thế kỉ XIX, phương thức sản xuất bản chủ nghĩa châu Âu bản đã
được thiết lập đầy đủ. thời điểm này, các nước châu Âu đã trải qua quá trình cách
mạng công nghiệp. Các nhà máy tập trung rất nhiều lao động sử dụng các công
nghệ mới để tăng sản xuất lợi nhuận. Thế kỷ này cũng chứng kiến sự phát triển
mang tính hệ thống của Chủ nghĩa tự do. Giai cấp sản bấy giờ tự do khuyến
khích tưởng tự do nhân, tự do công dân, tự do kinh doanh tự do cạnh tranh.
Mô hình cạnh tranh tự do ra đời cùng với quan điểm về bàn tay vô hình do nhà kinh tế
học người Anh Adam Smith (1723-1790) đề xuất. Theo Adam Smith, sự phát triển
kinh tế phụ thuộc vào quy luật của tự nhiên cho rằng trong các hiện tượng tự nhiên
luôn tồn tại một trật tự có thể thấy được qua quan sát hoặc bằng cảm giác đạo đức. Do
đó, chế kinh tế pháp luật nên tuân theo thay đi ngược lại các trật tự tự nhiên
này. Trong tác phẩm Nghiên cứu về bản chất nguồn gốc của cải của các dân tộc
(1776), Adam Smith đã đưa ra khái niệm “Bàn tay hình” nhằm chứng minh các
luận điểm tôn vinh vai trò điều tiết thị trường của và cho rằng, sự tự dobàn tay vô hình
tự nhiên đã sản sinh ra một hệ thống điều tiết các quan hệ và các lợi ích thị trường đơn
giản và rõ ràng.
5
Quan điểm thịnh hành thời này là: Một nhà nước tốt nhất một nhà nước
tác động vào kinh tế ít nhất. Kinh tế vận động theo hướng các quy luật kinh tế tự điều
tiết. Kinh tế lúc này tự nó đã tuyên ngôn với chính trị - đề cao việc tự do sản xuất kinh
doanh, tự dotưởng đòi hỏi hạn chế vai trò can thiệp quá sâu của nhà nước trong
kinh tế. Nhà nước tư sản đã phát triển trên cơ sở này và tồn tại trong một thời kì lịch sử
tương đối lâu dài, tạo ra sự thay đổi to lớn về kinh tế và những biến đổi nhất định trong
đời sống hội. Tuy nhiên, sự can thiệp tối thiểu của chính trị vào kinh tế khiến kinh
tế thị trường điều kiện phát triển tự do đã làm cho mặt trái của cũng bộc lộ
phát triển không giới hạn: thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo những cuộc đấu tranh
giữa các giai cấp.
5
Hoàng Lê Khánh Linh, “Tìm hiểu các học thuyết về kinh tế của Adam Smith”, Trang Luật Minh Khuê, ngày
23/8/2022.
https://luatminhkhue.vn/tim-hieu-cac-hoc-thuyet-ve-kinh-te-cua-adam-smith.aspx
3. Giai đoạn chính trị hỗn hợp.
Thời kỳ chính trị giữ vai trò hợphay giai đoạn chính trị hỗn hợp là thời chủ
nghĩa tư bản độc quyền (chủ yếu từ những năm 30 của thế kỉ XX đến nay).
Chủ nghĩa bản độc quyền một nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa
bản. Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản mà các tổ chức tư bản độc quyền
tồn tại hầu hết các ngành, các lĩnh vực chúng chi phối sự phát triển của toàn bộ
nền kinh tế.
Có 4 nguyên nhân chủ yếu hình thành của CNTB độc quyền:
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của thành tựu khoa học
- kỹ thuật, những ngành sản xuất mới ngay từ đầu đã trình độ chuyên môn hóa
cao xuất hiện. Đó là các doanh nghiệp lớn, đòi hỏi những loại hình kinh tế tổ chức
mới.
Hai là, cạnh tranh tự do, một mặt, bắt buộc các nhà tư bản phải cải thiện kỹ thuật
để mở rộng quy mô tích luỹ; mặt khác, nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật thấp
hoặc bị các doanh nghiệp lớn hơn thâu tóm, hoặc phải liên minh với nhau để trụ vững
trong cạnh tranh.
Ba là, nhiều xí nghiệp vừa và nhỏ phải đóng cửa do khủng hoảng kinh tê; một số
còn lại phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy quá trình tập
trung sản xuất. Tín dụng bản chủ nghĩa mở rộng, trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc
đẩy tập trung sản xuất.
Bốn là, những nghiệp công ty lớn tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục cạnh
tranh với nhau ngày càng khốc liệt, thế nảy sinh xu hướng thỏa hiệp, từ đó hình
thành các tổ chức độc quyền.
6
Bản chất của CNTB độc quyền:giai đoạn phát triển cao của CNTB với những
biểu hiện khác so với giai đoạn tự do cạnh tranh, nhưng vẫn dựa trên sở sở hữu
nhân TBCN về liệu sản xuất bóc lột lao động làm thuê, không những thế tính
chất nhân ngày ng được tập trung cao. Các quy luật kinh tế của CNTB vẫn hoạt
động và phát huy tác dụng chi phối sự vận động của CNTB.
6
Đỗ Đức Nhượng, “Chủ nghĩa tư bản độc quyền là gì?”, trang Vietnambiz.vn, ngày 20/10/2019.
https://vietnambiz.vn/chu-nghia-tu-ban-doc-quyen-monopoly-capitalism-la-gi-20191014180140898.htm
Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ một hình thái biến tướng của
quy luật giá trị thặng dư. thế, bản chất của chủ nghĩa bản không bị thay đổi bởi
sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Sự điều chỉnh quan hệ chính trị với kinh tế của chủ nghĩa bản độc quyền
nhất từ những năm 30 của thế kỉ XX đến nay sẽ dễ sự điều chỉnh do: Chủ nghĩa
bản tồn tại trong thế đối trọng với chủ nghĩa hội. vậy nếu muốn tồn tại, chủ
nghĩa tư bản phải điều chỉnh để thích nghi; Sau thời kỳ tự do phát triển, nền kinh tế thị
trường bộc lộ không giới hạn những mặt trái, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống hội
và đối với sự phát triển kinh tế.
Thời kỳ này, nhà nước vai trò quan trọng trong việc điều tiết can thiệp
mức độ hợp thông qua các chính sách kinh tế các quy định pháp lý, nhằm khắc
phục những mặt trái của thị trường, bảo vệ lợi ích của các nhóm quyền lợi khác nhau
tạo những sở cần thiết cho sphát triển của nền kinh tế trong những điều kiện
khoa học công nghệ và quan hệ kinh tế, chính trị hiện đại.
Sự điều chỉnh này đã giúp chủ nghĩa bản vẫn tiếp tục phát triển. Tuy nhiên,
trong các nước này vẫn còn tồn tại các phe phái chính trị vẫn sức ảnh hưởng lớn
đến các quyết định kinh tế, tham mưu cho nhà nước, chi phối đường lối kinh tế, đường
lối chính trị của nhà nước tư sản nhằm "lái" hoạt động của nhà nước theo hướng có lợi
cho tầng lớp bản độc quyền, cạnh tranh với nhau để giành quyền kiểm soát chính
phủ và định hướng chính sách kinh tế. Vì thế nó dự báo một xu hướng mới phi tư bản,
hậu tư bản trong các nước tư bản hiện đại
III.MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG HỆ THỐNG
CÁC NƯỚC XHCN
1. Mô hình phát triển dựa trên nền tảng tập trung hóa cao độ về chính trị và
kinh tế
Sau Cách mạng tháng Mười (1917), sự ra đời của Nhà nước Xô Viết và các nước
hội chủ nghĩa châu Âu đã mở ra một thời đại mới về chính trị và một nhà nước
kiểu mới - nhà nước của dân, do dân,dân. Song song với việc củng cố chính quyền
của giai cấp sản, Nhà nước Viết chuẩn bị tiền đề cho việc xây dựng nền kinh
tế
hội chủ nghĩa. Dựa vào đường lối kinh tế trong do V.I.Lênin“Luận cương tháng Tư”
vạch ra, Chính quyền Xô Viết đã tiến hành quốc hữu hóa lập tức nhanh chóng toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.
Việc thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa hội của Lênin bị gián đoạn bởi
cuộc nội chiến 1918-1920, khiến nước Nga rơi vào tình trạng “thù trong - giặc ngoài”
- trong nước nội chiến, ngoài bị 14 nước đế quốc bao vây. Trong giai đoạn này,
Nhà nước Viết thực hiện với đặc trưng sự“Chính sách cộng sản thời chiến”
kiểm soátchi phối toàn bộ hoạt động kinh tế thông qua việc cấp phát hiện vật. Đây
được đánh giá là chính sách cần thiết để bảo vệ chính quyền Xô Viết non trẻ
Mục đích trước tiên của chính sách này là tập trung toàn bộ lực lượng của xã hội
của nhà nước vào việc đảm bảo chiến thắng thù trong giặc ngoài. Đồng thời chính
sách cũng nhằm thủ tiêu chủ nghĩa bản gốc rễ của trong nước để nhanh
chóng “vượt qua” không chỉ thời kỳ quá độ giữa chủ nghĩa bản chủ nghĩa
hội, mà nó còn vượt qua chính chủ nghĩa xã hội và tiến thẳng lên chủ nghĩa cộng sản.
Chính sách gồm những nội dung nhằm giúp Nhà nước kiểm soát nền nông
nghiệp, trưng thu lương thực thừa thi hành chế độ lao động cưỡng bức. C thể,
trưng thu lương thực thừa của nông dân; Nhà nước độc quyền mua bán lúa mì để cung
cấp cho thành thị quân đội; Nhà nước kiểm soát việc sản xuất phân phối sản
phẩm không những đối với đại công nghiệp cả trung tiểu công nghiệp; Quốc
hữu hóa cả những xí nghiệp vừa và nhỏ, có từ 5 công nhân trở lên (nếu có động cơ)
10 công nhân trở lênkhông có động cơ; cấm buôn bán trao đổi sản phẩm ở trên thị
trường, nhất lúa mì; thực hiện chế độ tem phiếu; trực tiếp phân phối bằng hiện vật
cho người tiêu dùng; xóa bỏ ngân ng nhà nước; đặt chế độ lao động cưỡng bức với
nguyên tắc .“Không làm thì không ăn”
“Chính sách cộng sản thời chiến” đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của
Nhà nước Viết trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa bản. Chính sách đã huy
động tối đa mọi nguồn của cải, nhân lực của đất nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp
phục vụ cho cuộc chiến đấu chống thù trong, giặc ngoài. Nhờ Nhà nước Viết
mới lương thực để cung cấp cho quân đội nhân dân, bảo đảm đánh thắng thù
trong giặc ngoài. Khi đánh giá về chính sách đó, V.I.Lê-nin đã từng nói: “Trong điều
kiện chiến tranh mà chúng ta đã lâm vào thì về cơ bản chính sách đó là đúng.”
Ngay từ sau khi Lênin qua đời (1924), Liên nhiều nước hội chủ nghĩa
đã thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế với mô hình tập trung hóa, trên cơ
sở kế hoạch hóa để tiến hành công nghiệp hóa cao độ.
Đại hội Đảng Cộng sản (b) Liên lần XIV họp tháng 12 năm 1925 đã đề ra
nhiệm vụ công nghiệp hoá XHCN nhằm biến Liên Xô từ một nước công nghiệp thành
một nước công nghiệp thể tự lực sản xuất lấy máy móc trang thiết bị cần thiết
cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Việc công nghiệp hoá trong điều kiện của Liên
đòi hỏi phải tiến hành với tốc độ nhanh theo đường lối ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng, theo phương châm tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình chính. Đại hội
lần thức XIV đi vào lịch sử là "Đại hội công nghiệp hoá đất nước".
Khách quan nói, chính sách trên đã tạo sở vật chất nhất định một sức
mạnh quốc phòng khá hùng mạnh, giúp Liên bảo vệ được những thành quả cách
mạng. Tuy nhiên, cũng chính trong thời gian này, chính trị lại vận động theo chiều
hướng không bám sát vào thực tiễn, u cầu cũng như tính quy định về sự vận động
khách quan của kinh tế. Không chỉ vậy, chính trị còn can thiệp quá sâu và đôi khi là áp
đặt trên nhiều phương diện của đời sống hội, chi phối nền kinh tế bằng kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, và cuối cùng là xa rời quy luật kinh tế khách quan, lấy cái chủ
quan duy ý chí. Do vậy, có thể nói chủ trương xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa, tập
trung, chỉ tồn tại thành phần kinh tế XHCN với hai hình thức sở hữu nhà nước tập
thể, không chấp nhận kinh tế thị trường sự cạnh tranh, tách rời với việc xây dựng
sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa hội của Đảng Cộng Sản tác dụng thời kỳ
đầu, nhưng do kéo dài dẫn đến tình trạng hội thụ động, trì trệ, làm mất đi một
chế năng động dân chủ, không thể khuyến khích, động viên nhân dân do động lực
tinh thần không gắn liền với động lực khuyến khích lợi ích vật chất. Tình trạng thiếu
dân chủ, thiên về cưỡng chế, mệnh lệnh, sự vi phạm pháp chế XHCN diễn ra phổ biến,
nhất là việc truy nã đàn áp những người bất đồng ý kiến những năm 1930. Mô hình thể
chế này làm cho hội ngày càng cứng, thiếu năng động ngày càng xa rời bản
chất và ý nghĩa đích thực của CNXH.
2. Mô hình phát triển dựa trên cơ sở nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị - Mô hình chính sách kinh tế mới (NEP) ở Liên Xô
a. Sự ra đời của Chính sách kinh tế mới (NEP) của Liên Xô (1921)
Sau 7 năm tham chiến, nền kinh tế quốc dân Liên Xô bị tàn phá trầm trọng. Tình
hình chính trị cũng không ổn định. Các lực lượng phản cách mạng điên cuồng chống
phá gây bạo loạnnhiều nơi. Chính sách cộng sản thời chiến đã lạc hậu kìm hãm nền
kinh tế, khiến nhân dân bất bình. Nước Nga viết lâm vào khủng hoảng. Đến đầu
năm 1921, chế độviết đã bị xáo trộn bởi cuộc nổi dậy Kronstadt, các cuộc nổi dậy
của nông dân ở các tỉnh, những hàng dài giận dữ xếp hàng nhận thực phẩm ở các thành
phố, các cuộc đình công của những người lao động đói khổ và chủ nghĩa bè phái trong
Đảng Cộng sản. Nếu các điều kiện không được cải thiện, Đảng Bolshevik phải đối mặt
với khả năng xảy ra một cuộc cách mạng khác. Để giải quyết khủng hoảng tình
trạng khó khăn của đất nước, tháng 3/1921, Đảng Bolshevik quyết định thực hiện
Chính sách Kinh tế mới (NEP) do Lênin đề xướng tại Đại hội Đảng lần thứ X vào
tháng 3 năm 1921.
b. Nội dung cơ bản của Chính sách NEP
Nội dung chủ yếu của NEP là sử dụng Chính sách thuế lương thực thay thế cho
"Chính sách cộng sản thời chiến" nhằm duy trì thúc đẩy sản xuất hàng hoá trong
nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp công nghiệp, phục hồi
tổ chức các hoạt động sản xuất công nghiệp phù hợp với nhu cầu của nông nghiệp
nông dân, tái tổ chức quá trình lưu thông hàng hoá bình ổn thị trường, tăng
cường tài chính Xô-viết v.v.
7
Chính sách bao gồm các nội dung về nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp
và tiền tệ:
Trong nông nghiệp, Nhà nước thủ tiêu chế độ cưỡng bức trưng thu lương thực
(prodrazvyorstka) (prodnalog) thay thế vào đó chế độ thuế lương thực đánh lên
những người nông dân có thể trả theo hình thức của sản phẩm thô nông nghiệp, cụ thể
đây ngũ cốc. Sau khi nộp đủ thuế đã quy định từ trước mùa gieo hạt, nông dân
toàn quyền sử dụng số lương thực dư thừa và được tự do bán ra thị trường.
7
Thanh Dung, “Ý nghĩa chính sách kinh tế mới (NEP) của Liên Xô chi tiết”, trang Accgroup.vn.
https://accgroup.vn/y-nghia-cua-chinh-sach-kinh-te-moi-nep/
Trong công nghiệp, Nhà nước tập trung khôi phục công nghiệp nặng, cho phép
nhân được thuê hoặc xây dựng những nghiệp loại nhỏ (dưới 20 công nhân) dưới sự
kiểm soát của Nhà nước, khuyến khích bản nước ngoài đầu tư, kinh doanh Nga.
Nhà nước nắm các ngành kinh tế chủ chốt, …
Trong lĩnh vực thương nghiệp tiền tệ, nhân được tự do buôn bán, trao đổi;
Nhà nước mở lại các chợ, khôi phục và đẩy mạnh mối liên hệ kinh tế giữa thành thị và
nông thôn. Năm 1924, Nhà nước phát hành đồng rúp mới thay cho các loại tiền cũ.”
8
Chính sách kinh tế mới NEP thể hiện sự chuyển mình kịp thời từ nền kinh tế Nhà
nước nắm độc quyền về mọi mặt sang một nền kinh tế nhiều thành phần và tự do buôn
bán. Nhưng Nhà nước vẫn nắm quyền điều phối chính, giữ các vị trí then chốt để thực
hiện vai trò kiểm soát và điều chế kinh tế.
c. Những bất đồng xảy ra giữa các đảng viên trong Đảng Cộng sản Liên Xô
Bởi NEP cho phép các yếu tố của chủ nghĩa bản, những người trong Đảng
Bolshevik coi như một bước quay trở lại thời chủ nghĩa bản hoặc ít nhất
một sự thừa nhận rằng các chính sách xã hội chủ nghĩa đã thất bại.
Lenin phản ứng bằng cách biện minh cho NEP một biện pháp tạm thời. Ông
lập luận rằng NEP nhằm cung cấp “breathing space” (khoảng thời gian nghỉ) cho
người dân Nganền kinh tế của họ, vốn đang trên bờ vực sụp đổ sau bảy năm chiến
tranh.Ông cho rằng để đạt được chủ nghĩa hội thì phải tạo ra "những điều kiện tiên
quyết vật chất còn thiếu" của hiện đại hóa phát triển công nghiệp, khiến nước Nga
viết bắt buộc phải "quay trở lại chương trình thị trường sự giám sát tập trung
của chủ nghĩa tư bản nhà nước".Hay nói cách khác,Lênin muốn lợi dụng chủ nghĩa bản
làm mắt xích trung gian giữa tiểu sản xuất chủ nghĩa hội, làm phương tiện,con
đường,phương pháp,phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên.
d. Kết quả và ý nghĩa
Chính sách kinh tế mới chỉ được thực hiện trong một thời gian ngắn sau khi
Lênin qua đời, vào năm 1925, chính sách này được thay thế bằng chính sách phát triển
8
Trần Nguyễn Tuyên, “Chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin và ý nghĩa của nó trong tình hình hiện nay”, trang
Hội đồng lý luận Trung ương, ngày 18/4/2021.
https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/chinh-sach-kinh-te-moi-cua-vi-lenin-va-y-nghia-cua-no-trong-tinh-hinh-
hien-nay.html
kinh tế với hình tập trung hóa, trên skế hoạch hóa để tiến hành công nghiệp
hóa cao độ.
Nói chung, NEP là một thành công. Nhờ NEP, trong một thời gian ngắn nền kinh
tế quốc dân đã được phục hồi khối liên minh công-nông được củng cố. Với Chính
sách kinh tế mới này, nước Nga đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính. Tuy
nhiên, không giải quyết được tất cả các vấn đề kinh tế của Nga cũng không tạo
ra kết quả ngay lập tức. Sản xuất nông nghiệp của Nga vẫn trì trệ cho đến năm 1921,
năm tồi tệ nhất của Nạn đói lớn, nhưng sản lượng bắt đầu tăng đáng kể vào năm 1922
sau đó. Vào giữa những năm 1920, sản lượng nông nghiệp của Nga đã được khôi
phục về mức trước Thế chiến thứ nhất. Trở lại năm 1913, Nga đã sản xuất khoảng 80
triệu tấn ngũ cốc. Đến năm 1921, con số này đã giảm xuống dưới 50 triệu tấn – nhưng
sau 4 năm NEP, con số này đã tăng lên 72,5 triệu tấn. Ngoài ra còn những cải tiến
đột ngột trong sản xuất công nghiệp tiền lương của công nhân công nghiệp, tăng
gấp đôi từ năm 1921 đến năm 1924.
Như vậy, Chính sách NEP mang những ý nghĩa sau:
Chính sách kinh tế NEP khẳng định khâu căn bản trong công cuộc khôi phục
kinh tế là bắt nguồn từ nông nghiệp.
NEP ra đời trên sở xem xét toàn diện các nhân tố gây ra cuộc khủng hoảng,
trong đó nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ bên trong, đó những sai lầm về lãnh
đạo, quản trước hết chủ yếu lĩnh vực kinh tế. Do đó, thể thấy NEP
không chỉ là chính sách kinh tế mà còn là đường lối chính tị đúng đắn và dũng cảm để
Nhà nước Nga Xô-viết tháo gỡ khó khăn, điều hành sự phát triển kinh tế-xã hội theo
con đường xã hội chủ nghĩa.
Sự thành công của NEP nước Nga Xô-viết trong những năm đầu khôi phục,
phát triển kinh tế-xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa, đã để lại những bài học kinh
nghiệm quý báu, thể áp dụng cho những nước hoàn cảnh, điều kiện kinh tế-xã
hội tương tự cho công cuộc xây dựng nền chủ nghĩa xã hội những nước đó trong
giai đoạn sau này.
e. Ý nghĩa của NEP đối với Việt Nam
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhận định bài học
đầu tiên qua tổng kết 30 năm đổi mới: “Trong quá trình đổi mới chủ động, không
ngừng
| 1/24

Preview text:

SINH VIÊN THỰC HIỆN HỌ VÀ TÊN MÃ SINH VIÊN Nguyễn Thị Việt Trà QHQT49B11447 Nguyễn Mạnh Hải Anh QHQT49C11092 Nguyễn Tuấn Anh QHQT49C11095 Nguyễn Việt Anh QHQT49C11096 Nguyễn Xuân Giáp QHQT49C11185 Đỗ Ngọc Gia Linh QHQT49C11259 Nguyễn Ngọc Minh QHQT49C11312 Nguyễn Hoàng Đông Thuỵ QHQT49C11442 Phạm Thuỳ Trang QHQT49C11458 Trương Vũ Phương Uyên QHQT49C11483 1 | P a g e MỤC LỤC SINH VIÊN THỰC HIỆN
........................................................................................ ....... ... ... .. 1 LỜI MỞ ĐẦU
............................................................................................................... ....... ... .. 3 NỘI DUNG
................................................................................................................................ 4
I. MỐI QUAN HỆ KINH TẾ
VÀ CHÍNH TRỊ THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
........................................................................................... .... ... ... ... ..4 1. Khái niệm kinh tế
............................................................................... ....... ... ... ... ... ... ... 4 2. Khái niệm chính trị
.......................................................................................... .... ...... .. 4
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA
KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ Ở CÁC NƯỚC TƯ BẢN PHÁT TRIỂN
.................................................................................................................................... 5 1. Giai đoạn chính trị tối đa
.............................................................................. ....... ... ... .. 5 2. Giai đoạn chính trị tối thiểu.
.................................................................................. ... ... 7 3. Giai đoạn chính trị hỗn hợp.
............................................................................ .... ... ... .. 9
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA
KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG HỆ THỐNG CÁC NƯỚC XHCN
.............................................................................................. .... ... ... ... ... ... ... .1 0
1. Mô hình phát triển dựa trên nền tảng tập trung hóa cao độ về chính trị và kinh tế . . . 10
2. Mô hình phát triển dựa trên cơ sở nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị - Mô hình chính sách kinh tế mới (NEP) ở Liên Xô ....................... .... ... ... ... ... ...1 2
a. Sự ra đời của Chính sách kinh tế mới (NEP) của Liên Xô (1921)
......................... 13
b. Nội dung cơ bản của Chính sách NEP
......................................... .... ... ... ... ... ... ... ...13 c.
Những bất đồng xảy ra giữa các đảng viên tr
ong Đảng Cộng sản Liên Xô ....... ...14 d. Kết quả và ý nghĩa
........................................................................... .... ... ... ... ... ... ...14 e.
Ý nghĩa của NEP đối với V iệt Nam
........................................................ .... ... ... ... ...15 KẾT LUẬN
.............................................................................................................. .... ...... ... .. 17 DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢO
................................................................ .... ... ... ... . 18 LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử của nhân loại, kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực quan trọng không
thể tách rời. Mối quan hệ giữa chúng đã luôn là chủ đề được quan tâm trong nhiều thế
kỷ qua. Kinh tế và chính trị ảnh hưởng đến nhau theo nhiều cách khác nhau và có thể
có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển của quốc gia. Nhóm tác giả đã
tìm hiểu về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, gồm các khái niệm căn bản, các thời
kì lịch sử quan trọng thể hiện rõ mối quan hệ nêu trên ở các nước tư bản phát triển và
các mô hình kinh tế chính trị nổi bật ở hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù nhóm đã cố gắng hết sức trong việc đối chiếu và kiểm tra các thông tin
được đưa vào báo cáo, song có thể không tránh khỏi sai sót. Nhóm tác giả kính mong
quý thầy và các bạn đóng góp ý kiến để nhóm tác giả sớm cải thiện và gửi tới độc giả
bản báo cáo hoàn thiện nhất. Nhóm tác giả NỘI DUNG
I. MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1. Khái niệm kinh tế
“Kinh tế”, theo tiếng gốc Hy Lạp là “Oikonomike”, nghĩa là sự tiết kiệm là sự lựa
chọn để đem lại lợi nhuận và hiệu quả tối ưu. Hiện nay có 2 giác độ tiếp cận khác nhau về vấn đề kinh tế.1
Thứ nhất, đó là toàn bộ các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân - gồm
tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Thứ hai, theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, kinh tế được hiểu là lĩnh vực sản xuất, là các quan hệ kinh tế của một chế độ xã hội.
Thực chất của các quan hệ kinh tế là việc các giai cấp sử dụng quyền lực nhà
nước để giải quyết các quan hệ lợi ích kinh tế giữa người với người trong sản xuất
nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng sức sản xuất.
2. Khái niệm chính trị
“Chính trị”, nguyên gốc tiếng Latin là “Politic”, là nghệ thuật quản lý, là công
việc của nhà nước hay xã hội. Theo nghiên cứu của các nhà kinh điển Mác-xít, có 6
cách hiểu về chính trị.2
Thứ nhất, chính trị là quan hệ xã hội đặc biệt giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia
- trong đó quan hệ giữa các giai cấp đóng vai trò cơ bản.
Thứ hai, chính trị là một quan hệ kinh tế nhưng đó là một quan hệ kinh tế đặc biệt
- là loại quan hệ kinh tế được “cô đọng lại”.
Thứ ba, chính trị của giai cấp vô sản là thái độ của giai cấp ấy trong cuộc đấu
tranh tự giải phóng khỏi áp bức bóc lột, là việc giai cấp vô sản vươn lên giành lấy quyền
1 PGS. TS. Nguyễn Văn Vĩnh và PGS. TS. Lê Văn Đính (Đồng chủ biên), Giáo trình Chính trị học đại cương (tái
bản lần thứ hai), NXB Giáo dục Việt Nam (2015).
2 PGS. TS. Nguyễn Văn Vĩnh và PGS. TS. Lê Văn Đính (Đồng chủ biên), Giáo trình Chính trị học đại cương (tái
bản lần thứ hai), NXB Giáo dục Việt Nam (2015).
lực nhà nước từ trong tay các giai cấp bóc lột, là việc sử dụng nhà nước vào sự nghiệp
xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, chính trị là một loại hình, là một phương diện hợp thành của văn hóa
trong xã hội có giai cấp và nhà nước - đó là văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ, văn hóa ứng xử, ...
Thứ năm, chính trị là một khoa học và nghệ thuật. Tính khoa học của chính trị
thể hiện ở tính logic khách quan của nó - nó phải đảm bảo sự phù hợp giữa mục tiêu
chính trị với quy luật, xu hướng vận động phát triển của xã hội loài người và lợi ích
giai cấp, của quản đại quần chúng nhân dân. Tính nghệ thuật của chính trị thể hiện ở
vai trò của nhân tố chủ quan trong việc lựa chọn khả năng tối ưu và tạo lập cơ chế để
hiện thực hóa khả năng đã được lựa chọn.
Thứ sáu, trung tâm của các quan hệ chính trị là vấn đề chính quyền, là việc
giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm vụ, nội
dung và cơ chế hoạt động của nhà nước đối với toàn bộ đời sống xã hội.
Tóm lại, chính trị là quan hệ giữa các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong xã hội
đương đại - xã hội dân chủ - chính trị còn là quan hệ giữa các cộng đồng (các nhóm lợi
ích, các lực lượng xã hội, các công dân) với Nhà nước.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ Ở CÁC NƯỚC TƯ BẢN PHÁT TRIỂN
1. Giai đoạn chính trị tối đa.
Thời kỳ hình thành chủ nghĩa tư bản, còn gọi là giai đoạn chính trị tối đa, đã diễn
ra từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII. Đây là thời kỳ tích luỹ của tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt là các tư sản tài phiệt, thông qua việc tích trữ và đầu tư tiền của họ để kiếm lợi nhuận.
Trong giai đoạn này, một mặt giai cấp tư sản thực hiện lý thuyết trọng thương, họ
cho rằng chỉ có ngành thương nghiệp mới tạo ra của cải. Sự giàu có của các quốc gia
chủ yếu dựa vào tiêu chí số lượng vàng, bạc, đá quý, hương liệu mà quốc gia đó có
được. Có thể lấy các nhà buôn tàu thuộc East India Company ở Anh làm ví dụ: East
India Company được thành lập vào năm 1600 và trở thành công ty thương mại lớn
nhất của Anh, điều hành các hoạt động kinh doanh như buôn bán hàng hóa và thực hiện những
chiến dịch xâm lược đối với các khu vực khác để chiếm đoạt tài nguyên. Công ty này
tích trữ và vận chuyển trở về Anh các sản phẩm từ các khu vực khác nhau như trà, gia
vị, vải, đồng, thiếc và đá quý. Những sản phẩm này được bán ra với giá cao trên thị
trường Anh, tạo ra lợi nhuận lớn cho công ty và giai cấp tư sản Anh.
Mặt khác, giai cấp tư sản cũng cấu kết với thế lực phong kiến để tước đoạt của
người sản xuất và tăng cường sự vơ vét thuộc địa bằng hình thức bạo lực chính trị.
Điều này dẫn đến một sự chuyển dịch trong quan hệ kinh tế và chính trị, từ sự phát
triển của các quốc gia tư bản đến sự khai thác và tước đoạt các vùng đất mới trong chế
độ thuộc địa. Trong thế kỉ 16, Tây Ban Nha đã tiến hành việc xâm lược và thực hiện
chính sách thuộc địa ở châu Mỹ bằng cách sử dụng lực lượng quân sự và cấu kết với
các thế lực phong kiến địa phương để tước đoạt của người sản xuất bản địa. Tây Ban
Nha tuyên bố mục đích của họ là để "khai thác" và "đem lại sự chữa lành" cho người
bản địa, nhưng thực tế là họ sử dụng đóng thuế và lao động nô lệ để thu thập tài
nguyên và sản xuất hàng hóa để bán trở lại châu Âu, tăng cường sự giàu có và quyền
lực của giai cấp tư sản. Tây Ban Nha đã sử dụng quân đội để đàn áp bất kỳ nỗ lực nào
của người bản địa để chống lại chính sách thuộc địa của họ, bao gồm cả việc sử dụng
bạo lực chính trị để giữ cho người dân bản địa bị kiểm soát và vô vọng. Các thế lực
phong kiến địa phương đã được cấu kết với Tây Ban Nha để tăng cường quyền lực và
tài nguyên của họ, thường là bằng cách trở thành người trung gian trong việc thu thập
thuế và khai thác tài nguyên của bản địa.
Chính trị can thiệp mạnh mẽ vào tất cả các quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là
quá trình kinh tế, tạo ra sự ảnh hưởng chủ động và mạnh mẽ đến nền kinh tế. Để tạo ra
sự ảnh hưởng chủ động và mạnh mẽ đến nền kinh tế, các lực lượng chính trị đã sử
dụng quyền lực của mình để xây dựng các hệ thống kinh tế phù hợp với mục đích của
mình. Điều này bao gồm việc tạo ra các quy định pháp luật mới để bảo vệ quyền lợi
của các doanh nghiệp và các tư sản, cũng như việc đưa ra các chính sách kinh tế nhằm
thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ngoài ra, chính trị cũng can thiệp vào các hoạt động
thương mại và đưa ra các quyết định về việc sản xuất, tiêu thụ. Chính trị cũng thực
hiện việc kiểm soát giá cả và tiêu chuẩn sản phẩm để đảm bảo chất lượng sản phẩm và
sự công bằng trong thị trường. Một ví dụ cụ thể về sự can thiệp của chính trị vào kinh
tế trong giai đoạn này là chính sách hoàng gia của nước Anh nhằm thúc đẩy sự phát triển của công
nghiệp dệt lụa. Vào thế kỷ 16, lãnh đạo của nước Anh đã đưa ra các chính sách bảo vệ
cho ngành dệt lụa của nước này, bao gồm cả việc cấm nhập khẩu vải lụa từ các nước
khác. Điều này nhằm bảo vệ các nhà sản xuất lụa trong nước và đẩy mạnh sản xuất lụa trong nước.
Tóm lại, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở các nước tư bản phát triển trong
giai đoạn thế kỉ 16-17 là rất phức tạp và đôi khi xung đột. Giai cấp tư sản đã tận dụng
quyền lực chính trị để tăng cường địa vị và quyền lực của mình trong xã hội, tuy nhiên
điều này đã dẫn đến sự bất ổn và xung đột trong xã hội.
2. Giai đoạn chính trị tối thiểu.
Diễn ra từ thế kỉ XVIII đến đâu thế kỉ XX, giai đoạn chính trị tối thiểu gắn liền
với thời kì hình thành chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh là giai đoạn đầu tiên của hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa (giai đoạn thấp), ra
đời cùng với chủ nghĩa tư bản, phát triển mạnh vào thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX. Chủ
nghĩa tư bản phát triển tương đối hòa bình ở giai đoạn tự do cạnh tranh. Đặc điểm nổi
bật của chủ nghĩa này là sự cạnh tranh giữ vai trò thống trị nền kinh tế. Giữa các nhà tư
bản trong ngành và giữa các ngành đều diễn ra sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt. Ngoài
ra, toàn bộ các hoạt động kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.3
Giai đoạn này chứng kiến cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất (1760-
1840), kỉ nguyên của các phát minh thay thế hệ thống kỹ thuật cũ của thời đại nông
nghiệp bằng một hệ thống kỹ thuật mới với nguồn lực là máy hơi nước và nguyên,
nhiên vật liệu đã thay đổi thế giới 2 thế kỷ tiếp theo. Cuộc cách mạng này không chỉ
tác động tới lĩnh vực kinh tế mà còn cả chính trị. Sự phân bố quyền lực chính trị thay
đổi, nền tảng của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện song song với sự thay đổi của các
chính sách. Chủ nghĩa bảo hộ của giai đoạn trước đã nhường đường cho sự phát triển
của chủ nghĩa tự do. 4Lúc này, sự phát triển kinh tế theo hướng trọng thương đã bão hòa, lực lượng sản
3 Trường Cao đẳng Y dược Việt Nam, Bài giảng Chính trị số 4: Bản chất các giai đoạn phát triển của CNTB, ngày 01/04/2020
https://caodangyduocvietnam.com/chinh-tri-bai-4-ban-chat-cac-giai-doan-phat-trien-cua-chu-nghia-tu-ban
4 Benedict Macon-Cooney, “The Industrial Revolution, Politics and Public policy”, Chương 2: “First Wage of Gadgets”, ngày 16/12/2019
https://www.institute.global/insights/tech-and-digitalisation/industrial-revolution-politics-and-public- policy#first-wave-of-gadgets
xuất phát triển thông qua các công trường thủ công đã dẫn đến sự thay đổi to lớn trong
kết cấu nội bộ nền kinh tế. Vai trò của công nghiệp tăng lên so với thương nghiệp.
Đến thế kỉ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở châu Âu cơ bản đã
được thiết lập đầy đủ. Ở thời điểm này, các nước châu Âu đã trải qua quá trình cách
mạng công nghiệp. Các nhà máy tập trung rất nhiều lao động và sử dụng các công
nghệ mới để tăng sản xuất và lợi nhuận. Thế kỷ này cũng chứng kiến sự phát triển
mang tính có hệ thống của Chủ nghĩa tự do. Giai cấp tư sản bấy giờ tự do khuyến
khích tư tưởng tự do cá nhân, tự do công dân, tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh.
Mô hình cạnh tranh tự do ra đời cùng với quan điểm về bàn tay vô hình do nhà kinh tế
học người Anh Adam Smith (1723-1790) đề xuất. Theo Adam Smith, sự phát triển
kinh tế phụ thuộc vào quy luật của tự nhiên vì cho rằng trong các hiện tượng tự nhiên
luôn tồn tại một trật tự có thể thấy được qua quan sát hoặc bằng cảm giác đạo đức. Do
đó, cơ chế kinh tế và pháp luật nên tuân theo thay vì đi ngược lại các trật tự tự nhiên
này. Trong tác phẩm Nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc của cải của các dân tộc
(1776), Adam Smith đã đưa ra khái niệm “Bàn tay vô hình” nhằm chứng minh các
luận điểm tôn vinh vai trò điều tiết thị trường của bàn tay vô hình và cho rằng, sự tự do
tự nhiên đã sản sinh ra một hệ thống điều tiết các quan hệ và các lợi ích thị trường đơn giản và rõ ràng.5
Quan điểm thịnh hành ở thời kì này là: Một nhà nước tốt nhất là một nhà nước
tác động vào kinh tế ít nhất. Kinh tế vận động theo hướng các quy luật kinh tế tự điều
tiết. Kinh tế lúc này tự nó đã tuyên ngôn với chính trị - đề cao việc tự do sản xuất kinh
doanh, tự do tư tưởng và đòi hỏi hạn chế vai trò can thiệp quá sâu của nhà nước trong
kinh tế. Nhà nước tư sản đã phát triển trên cơ sở này và tồn tại trong một thời kì lịch sử
tương đối lâu dài, tạo ra sự thay đổi to lớn về kinh tế và những biến đổi nhất định trong
đời sống xã hội. Tuy nhiên, sự can thiệp tối thiểu của chính trị vào kinh tế khiến kinh
tế thị trường có điều kiện phát triển tự do đã làm cho mặt trái của nó cũng bộc lộ và
phát triển không giới hạn: thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo và những cuộc đấu tranh giữa các giai cấp.
5 Hoàng Lê Khánh Linh, “Tìm hiểu các học thuyết về kinh tế của Adam Smith”, Trang Luật Minh Khuê, ngày 23/8/2022.
https://luatminhkhue.vn/tim-hieu-cac-hoc-thuyet-ve-kinh-te-cua-adam-smith.aspx
3. Giai đoạn chính trị hỗn hợp.
Thời kỳ chính trị giữ vai trò hợp lí hay giai đoạn chính trị hỗn hợp là thời kì chủ
nghĩa tư bản độc quyền (chủ yếu từ những năm 30 của thế kỉ XX đến nay).
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư
bản. Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản mà các tổ chức tư bản độc quyền
tồn tại ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực và chúng chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Có 4 nguyên nhân chủ yếu hình thành của CNTB độc quyền:
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của thành tựu khoa học
- kỹ thuật, những ngành sản xuất mới mà ngay từ đầu đã có trình độ chuyên môn hóa
cao xuất hiện. Đó là các doanh nghiệp lớn, đòi hỏi những loại hình kinh tế tổ chức mới.
Hai là, cạnh tranh tự do, một mặt, bắt buộc các nhà tư bản phải cải thiện kỹ thuật
để mở rộng quy mô tích luỹ; mặt khác, nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật thấp
hoặc bị các doanh nghiệp lớn hơn thâu tóm, hoặc phải liên minh với nhau để trụ vững trong cạnh tranh.
Ba là, nhiều xí nghiệp vừa và nhỏ phải đóng cửa do khủng hoảng kinh tê; một số
còn lại phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy quá trình tập
trung sản xuất. Tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc
đẩy tập trung sản xuất.
Bốn là, những xí nghiệp và công ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục cạnh
tranh với nhau ngày càng khốc liệt, vì thế nảy sinh xu hướng thỏa hiệp, từ đó hình
thành các tổ chức độc quyền.6
Bản chất của CNTB độc quyền: là giai đoạn phát triển cao của CNTB với những
biểu hiện khác so với giai đoạn tự do cạnh tranh, nhưng vẫn dựa trên cơ sở sở hữu tư
nhân TBCN về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê, không những thế tính
chất tư nhân ngày càng được tập trung cao. Các quy luật kinh tế của CNTB vẫn hoạt
động và phát huy tác dụng chi phối sự vận động của CNTB.
6 Đỗ Đức Nhượng, “Chủ nghĩa tư bản độc quyền là gì?”, trang Vietnambiz.vn, ngày 20/10/2019.
https://vietnambiz.vn/chu-nghia-tu-ban-doc-quyen-monopoly-capitalism-la-gi-20191014180140898.htm
Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một hình thái biến tướng của
quy luật giá trị thặng dư. Vì thế, bản chất của chủ nghĩa tư bản không bị thay đổi bởi
sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Sự điều chỉnh quan hệ chính trị với kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền rõ
nhất từ những năm 30 của thế kỉ XX đến nay sẽ dễ có sự điều chỉnh do: Chủ nghĩa tư
bản tồn tại trong thế đối trọng với chủ nghĩa xã hội. Vì vậy nếu muốn tồn tại, chủ
nghĩa tư bản phải điều chỉnh để thích nghi; Sau thời kỳ tự do phát triển, nền kinh tế thị
trường bộc lộ không giới hạn những mặt trái, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội
và đối với sự phát triển kinh tế.
Thời kỳ này, nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết và can thiệp ở
mức độ hợp lý thông qua các chính sách kinh tế và các quy định pháp lý, nhằm khắc
phục những mặt trái của thị trường, bảo vệ lợi ích của các nhóm quyền lợi khác nhau
và tạo những cơ sở cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế trong những điều kiện
khoa học công nghệ và quan hệ kinh tế, chính trị hiện đại.
Sự điều chỉnh này đã giúp chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục phát triển. Tuy nhiên,
trong các nước này vẫn còn tồn tại các phe phái chính trị vẫn có sức ảnh hưởng lớn
đến các quyết định kinh tế, tham mưu cho nhà nước, chi phối đường lối kinh tế, đường
lối chính trị của nhà nước tư sản nhằm "lái" hoạt động của nhà nước theo hướng có lợi
cho tầng lớp tư bản độc quyền, cạnh tranh với nhau để giành quyền kiểm soát chính
phủ và định hướng chính sách kinh tế. Vì thế nó dự báo một xu hướng mới phi tư bản,
hậu tư bản trong các nước tư bản hiện đại
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG HỆ THỐNG CÁC NƯỚC XHCN
1. Mô hình phát triển dựa trên nền tảng tập trung hóa cao độ về chính trị và kinh tế
Sau Cách mạng tháng Mười (1917), sự ra đời của Nhà nước Xô Viết và các nước
xã hội chủ nghĩa ở châu Âu đã mở ra một thời đại mới về chính trị và một nhà nước
kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân. Song song với việc củng cố chính quyền
của giai cấp vô sản, Nhà nước Xô Viết chuẩn bị tiền đề cho việc xây dựng nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Dựa vào đường lối kinh tế trong “Luận cương tháng Tư” do V.I.Lênin
vạch ra, Chính quyền Xô Viết đã tiến hành quốc hữu hóa lập tức nhanh chóng toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Việc thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lênin bị gián đoạn bởi
cuộc nội chiến 1918-1920, khiến nước Nga rơi vào tình trạng “thù trong - giặc ngoài”
- ở trong nước nội chiến, ở ngoài bị 14 nước đế quốc bao vây. Trong giai đoạn này,
Nhà nước Xô Viết thực hiện “Chính sách cộng sản thời chiến” với đặc trưng là sự
kiểm soát và chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế thông qua việc cấp phát hiện vật. Đây
được đánh giá là chính sách cần thiết để bảo vệ chính quyền Xô Viết non trẻ
Mục đích trước tiên của chính sách này là tập trung toàn bộ lực lượng của xã hội
và của nhà nước vào việc đảm bảo chiến thắng thù trong giặc ngoài. Đồng thời chính
sách cũng nhằm thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và gốc rễ của nó ở trong nước để nhanh
chóng “vượt qua” không chỉ là thời kỳ quá độ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội, mà nó còn vượt qua chính chủ nghĩa xã hội và tiến thẳng lên chủ nghĩa cộng sản.
Chính sách gồm những nội dung nhằm giúp Nhà nước kiểm soát nền nông
nghiệp, trưng thu lương thực thừa và thi hành chế độ lao động cưỡng bức. Cụ thể,
trưng thu lương thực thừa của nông dân; Nhà nước độc quyền mua bán lúa mì để cung
cấp cho thành thị và quân đội; Nhà nước kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản
phẩm không những đối với đại công nghiệp mà cả trung và tiểu công nghiệp; Quốc
hữu hóa cả những xí nghiệp vừa và nhỏ, có từ 5 công nhân trở lên (nếu có động cơ) và
10 công nhân trở lên dù không có động cơ; cấm buôn bán trao đổi sản phẩm ở trên thị
trường, nhất là lúa mì; thực hiện chế độ tem phiếu; trực tiếp phân phối bằng hiện vật
cho người tiêu dùng; xóa bỏ ngân hàng nhà nước; đặt chế độ lao động cưỡng bức với
nguyên tắc “Không làm thì không ăn”.
“Chính sách cộng sản thời chiến” đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của
Nhà nước Xô Viết trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa tư bản. Chính sách đã huy
động tối đa mọi nguồn của cải, nhân lực của đất nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp
phục vụ cho cuộc chiến đấu chống thù trong, giặc ngoài. Nhờ nó Nhà nước Xô Viết
mới có lương thực để cung cấp cho quân đội và nhân dân, bảo đảm đánh thắng thù
trong giặc ngoài. Khi đánh giá về chính sách đó, V.I.Lê-nin đã từng nói: “Trong điều
kiện chiến tranh mà chúng ta đã lâm vào thì về cơ bản chính sách đó là đúng.”
Ngay từ sau khi Lênin qua đời (1924), Liên Xô và nhiều nước xã hội chủ nghĩa
đã thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế với mô hình tập trung hóa, trên cơ
sở kế hoạch hóa để tiến hành công nghiệp hóa cao độ.
Đại hội Đảng Cộng sản (b) Liên Xô lần XIV họp tháng 12 năm 1925 đã đề ra
nhiệm vụ công nghiệp hoá XHCN nhằm biến Liên Xô từ một nước công nghiệp thành
một nước công nghiệp có thể tự lực sản xuất lấy máy móc và trang thiết bị cần thiết
cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Việc công nghiệp hoá trong điều kiện của Liên Xô
đòi hỏi phải tiến hành với tốc độ nhanh và theo đường lối ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng, theo phương châm tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính. Đại hội
lần thức XIV đi vào lịch sử là "Đại hội công nghiệp hoá đất nước".
Khách quan mà nói, chính sách trên đã tạo cơ sở vật chất nhất định và một sức
mạnh quốc phòng khá hùng mạnh, giúp Liên Xô bảo vệ được những thành quả cách
mạng. Tuy nhiên, cũng chính trong thời gian này, chính trị lại vận động theo chiều
hướng không bám sát vào thực tiễn, yêu cầu cũng như tính quy định về sự vận động
khách quan của kinh tế. Không chỉ vậy, chính trị còn can thiệp quá sâu và đôi khi là áp
đặt trên nhiều phương diện của đời sống xã hội, chi phối nền kinh tế bằng kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, và cuối cùng là xa rời quy luật kinh tế khách quan, lấy cái chủ
quan duy ý chí. Do vậy, có thể nói chủ trương xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa, tập
trung, chỉ tồn tại thành phần kinh tế XHCN với hai hình thức sở hữu nhà nước và tập
thể, không chấp nhận kinh tế thị trường và sự cạnh tranh, tách rời với việc xây dựng
cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng Sản có tác dụng thời kỳ
đầu, nhưng do kéo dài dẫn đến tình trạng xã hội thụ động, trì trệ, làm mất đi một cơ
chế năng động và dân chủ, không thể khuyến khích, động viên nhân dân do động lực
tinh thần không gắn liền với động lực khuyến khích lợi ích vật chất. Tình trạng thiếu
dân chủ, thiên về cưỡng chế, mệnh lệnh, sự vi phạm pháp chế XHCN diễn ra phổ biến,
nhất là việc truy nã đàn áp những người bất đồng ý kiến những năm 1930. Mô hình thể
chế này làm cho xã hội ngày càng xơ cứng, thiếu năng động và ngày càng xa rời bản
chất và ý nghĩa đích thực của CNXH.
2. Mô hình phát triển dựa trên cơ sở nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị - Mô hình chính sách kinh tế mới (NEP) ở Liên Xô
a. Sự ra đời của Chính sách kinh tế mới (NEP) của Liên Xô (1921)
Sau 7 năm tham chiến, nền kinh tế quốc dân Liên Xô bị tàn phá trầm trọng. Tình
hình chính trị cũng không ổn định. Các lực lượng phản cách mạng điên cuồng chống
phá gây bạo loạn ở nhiều nơi. Chính sách cộng sản thời chiến đã lạc hậu kìm hãm nền
kinh tế, khiến nhân dân bất bình. Nước Nga Xô viết lâm vào khủng hoảng. Đến đầu
năm 1921, chế độ Xô viết đã bị xáo trộn bởi cuộc nổi dậy Kronstadt, các cuộc nổi dậy
của nông dân ở các tỉnh, những hàng dài giận dữ xếp hàng nhận thực phẩm ở các thành
phố, các cuộc đình công của những người lao động đói khổ và chủ nghĩa bè phái trong
Đảng Cộng sản. Nếu các điều kiện không được cải thiện, Đảng Bolshevik phải đối mặt
với khả năng xảy ra một cuộc cách mạng khác. Để giải quyết khủng hoảng và tình
trạng khó khăn của đất nước, tháng 3/1921, Đảng Bolshevik quyết định thực hiện
Chính sách Kinh tế mới (NEP) do Lênin đề xướng tại Đại hội Đảng lần thứ X vào tháng 3 năm 1921.
b. Nội dung cơ bản của Chính sách NEP
Nội dung chủ yếu của NEP là sử dụng Chính sách thuế lương thực thay thế cho
"Chính sách cộng sản thời chiến" nhằm duy trì và thúc đẩy sản xuất hàng hoá trong
nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp, phục hồi
và tổ chức các hoạt động sản xuất công nghiệp phù hợp với nhu cầu của nông nghiệp
và nông dân, tái tổ chức quá trình lưu thông hàng hoá và bình ổn thị trường, tăng
cường tài chính Xô-viết v.v.7
Chính sách bao gồm các nội dung về nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp và tiền tệ:
Trong nông nghiệp, Nhà nước thủ tiêu chế độ cưỡng bức trưng thu lương thực
(prodrazvyorstka) và thay thế vào đó là chế độ thuế lương thực (prodnalog) đánh lên
những người nông dân có thể trả theo hình thức của sản phẩm thô nông nghiệp, cụ thể
ở đây là ngũ cốc. Sau khi nộp đủ thuế đã quy định từ trước mùa gieo hạt, nông dân
toàn quyền sử dụng số lương thực dư thừa và được tự do bán ra thị trường.
7 Thanh Dung, “Ý nghĩa chính sách kinh tế mới (NEP) của Liên Xô chi tiết”, trang Accgroup.vn.
https://accgroup.vn/y-nghia-cua-chinh-sach-kinh-te-moi-nep/
Trong công nghiệp, Nhà nước tập trung khôi phục công nghiệp nặng, cho phép tư
nhân được thuê hoặc xây dựng những xí nghiệp loại nhỏ (dưới 20 công nhân) dưới sự
kiểm soát của Nhà nước, khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư, kinh doanh ở Nga.
Nhà nước nắm các ngành kinh tế chủ chốt, …
Trong lĩnh vực thương nghiệp và tiền tệ, tư nhân được tự do buôn bán, trao đổi;
Nhà nước mở lại các chợ, khôi phục và đẩy mạnh mối liên hệ kinh tế giữa thành thị và
nông thôn. Năm 1924, Nhà nước phát hành đồng rúp mới thay cho các loại tiền cũ.”8
Chính sách kinh tế mới NEP thể hiện sự chuyển mình kịp thời từ nền kinh tế Nhà
nước nắm độc quyền về mọi mặt sang một nền kinh tế nhiều thành phần và tự do buôn
bán. Nhưng Nhà nước vẫn nắm quyền điều phối chính, giữ các vị trí then chốt để thực
hiện vai trò kiểm soát và điều chế kinh tế.
c. Những bất đồng xảy ra giữa các đảng viên trong Đảng Cộng sản Liên Xô
Bởi vì NEP cho phép các yếu tố của chủ nghĩa tư bản, những người trong Đảng
Bolshevik coi nó như một bước quay trở lại thời kì chủ nghĩa tư bản – hoặc ít nhất là
một sự thừa nhận rằng các chính sách xã hội chủ nghĩa đã thất bại.
Lenin phản ứng bằng cách biện minh cho NEP là một biện pháp tạm thời. Ông
lập luận rằng NEP nhằm cung cấp “breathing space” (khoảng thời gian nghỉ) cho
người dân Nga và nền kinh tế của họ, vốn đang trên bờ vực sụp đổ sau bảy năm chiến
tranh.Ông cho rằng để đạt được chủ nghĩa xã hội thì phải tạo ra "những điều kiện tiên
quyết vật chất còn thiếu" của hiện đại hóa và phát triển công nghiệp, khiến nước Nga
Xô viết bắt buộc phải "quay trở lại chương trình thị trường có sự giám sát tập trung
của chủ nghĩa tư bản nhà nước".Hay nói cách khác,Lênin muốn lợi dụng chủ nghĩa bản
làm mắt xích trung gian giữa tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện,con
đường,phương pháp,phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên.
d. Kết quả và ý nghĩa
Chính sách kinh tế mới chỉ được thực hiện trong một thời gian ngắn và sau khi
Lênin qua đời, vào năm 1925, chính sách này được thay thế bằng chính sách phát triển
8 Trần Nguyễn Tuyên, “Chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin và ý nghĩa của nó trong tình hình hiện nay”, trang
Hội đồng lý luận Trung ương, ngày 18/4/2021.
https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/chinh-sach-kinh-te-moi-cua-vi-lenin-va-y-nghia-cua-no-trong-tinh-hinh- hien-nay.html
kinh tế với mô hình tập trung hóa, trên cơ sở kế hoạch hóa để tiến hành công nghiệp hóa cao độ.
Nói chung, NEP là một thành công. Nhờ NEP, trong một thời gian ngắn nền kinh
tế quốc dân đã được phục hồi và khối liên minh công-nông được củng cố. Với Chính
sách kinh tế mới này, nước Nga đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính. Tuy
nhiên, nó không giải quyết được tất cả các vấn đề kinh tế của Nga và cũng không tạo
ra kết quả ngay lập tức. Sản xuất nông nghiệp của Nga vẫn trì trệ cho đến năm 1921,
năm tồi tệ nhất của Nạn đói lớn, nhưng sản lượng bắt đầu tăng đáng kể vào năm 1922
và sau đó. Vào giữa những năm 1920, sản lượng nông nghiệp của Nga đã được khôi
phục về mức trước Thế chiến thứ nhất. Trở lại năm 1913, Nga đã sản xuất khoảng 80
triệu tấn ngũ cốc. Đến năm 1921, con số này đã giảm xuống dưới 50 triệu tấn – nhưng
sau 4 năm NEP, con số này đã tăng lên 72,5 triệu tấn. Ngoài ra còn có những cải tiến
đột ngột trong sản xuất công nghiệp và tiền lương của công nhân công nghiệp, tăng
gấp đôi từ năm 1921 đến năm 1924.
Như vậy, Chính sách NEP mang những ý nghĩa sau:
Chính sách kinh tế NEP khẳng định khâu căn bản trong công cuộc khôi phục
kinh tế là bắt nguồn từ nông nghiệp.
NEP ra đời trên cơ sở xem xét toàn diện các nhân tố gây ra cuộc khủng hoảng,
trong đó nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ bên trong, đó là những sai lầm về lãnh
đạo, quản lý mà trước hết và chủ yếu là lĩnh vực kinh tế. Do đó, có thể thấy NEP
không chỉ là chính sách kinh tế mà còn là đường lối chính tị đúng đắn và dũng cảm để
Nhà nước Nga Xô-viết tháo gỡ khó khăn, điều hành sự phát triển kinh tế-xã hội theo
con đường xã hội chủ nghĩa.
Sự thành công của NEP ở nước Nga Xô-viết trong những năm đầu khôi phục,
phát triển kinh tế-xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa, đã để lại những bài học kinh
nghiệm quý báu, có thể áp dụng cho những nước có hoàn cảnh, điều kiện kinh tế-xã
hội tương tự và cho công cuộc xây dựng nền chủ nghĩa xã hội ở những nước đó trong giai đoạn sau này.
e. Ý nghĩa của NEP đối với Việt Nam
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhận định bài học
đầu tiên qua tổng kết 30 năm đổi mới: “Trong quá trình đổi mới chủ động, không ngừng