So sánh giữa kinh tế Mác và Hi lạp - Kinh tế Chính trị Mác-Lê nin | Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

So sánh giữa kinh tế Mác và Hi lạp - Kinh tế Chính trị Mác-Lê nin | Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
9 trang 5 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

So sánh giữa kinh tế Mác và Hi lạp - Kinh tế Chính trị Mác-Lê nin | Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

So sánh giữa kinh tế Mác và Hi lạp - Kinh tế Chính trị Mác-Lê nin | Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

43 22 lượt tải Tải xuống
41
NHNG ĐẶC TNG CỦA TƯ TƯỞNG
CNH TRỊ - PHÁP LÝ TRUNG QUỐC C ĐẠI
ĐỖ ĐỨC MINH
*
Tóm tắt: Bài viết phân tích tư tưởng chính trị - pháp của Trung Quốc cổ
đại. Theo tác giả Trung Quốc cổ đại một trung tâm văn hóa lớn, nhiều
dòng tư tưởng chính tr pháp độc đáo. tưởng chính trị - - pháp lý Trung
Quốc cổ đại bị quy định bởi tính đặc thù của điều kiện kinh tế hội và văn -
hóa tưởng hác biệt với tưởng chính trị pháp lý phương y; mang ; k -
những giá trị sâu sắc, đồng thời cũng có những hạn chế nhất định.
Từ khóa: - Phương Đông, chính trị pháp lý, Đức trị, Khổng Tử.
Mở đầu
Lịch sử thế giới thời kỳ cổ đại đã
nhiều hệ thống tư tưởng chính trị , - pháp
lý, Hy trong đó nổi lên các trung tâm
Lạp, Ấn Độ và Trung Quốc. Nghiên cứu
lịch sử tưởng Trung Quốc cổ đại ,
chúng ta thấy phần nổi trội nhất
tưởng chính trị pháp lý. Việc nghiên -
cứu lịch sử tưởng chính trị - pháp
của Trung Quốc cổ đại cho thấy những
yếu tố tiêu biểu qua đó th làm
sáng tỏ đặc trưng của tưởng trị chính
- pháp lý Việt Nam truyền thống.
1. - pháp tưởng chính trị
Trung Quốc cổ đại bị quy định bởi
tính đặc thù của điều kiện kinh tế - xã
hội và văn hóa - tư tưởng
Các học giả Trung Quốc như Hầu
Ngoại Lư, Triệu Kỷ Bân, Đỗ Quốc
Tường, Phùng Hữu Lan, Trấn ...
khi nghiên cứu lịch sử ởng nói
chung, lịch sử tưởng chính trị - pháp
Trung Quốc nói riêng đã bước đầu
thống nhất nhận định: xét góc độ
phương thức sản xuất, nếu như
phương y, điển hình hội Hy -
La, hội phát triển theo con đường
cách mạng, diễn ra một cách dồn dập,
mạnh mẽ, nhanh chóng trong một
khoảng thời gian tương đối ngắn, thì
Trung Quốc nói riêng,
(*)
phương Đông
nói chung, hội lại phát triển theo con
đường duy tân, thay đổi mới một
cách từ từ, chậm chạp, ít đột biến. Mang
đặc điểm của công nông thôn
phương thức sản xuất Châu Á, nên mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất quan
hệ sản xuất trong hội Trung Quốc
không diễn ra mạnh mẽ và đối kháng để
chuyển thành cách mạng hội,
liên tục, kéo i đan xen giữa nhiều
hình thái kinh tế hội khác nhau, -
(*)
Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014
42
nguyên nhân làm cho hội rối loạn
triền miên trong thời kỳ cổ đại sự
“ngưng trệ” của thời kỳ trung cổ. “Nông
nghiệp nền tảng kinh tế nước Trung
Hoa, vương triều nào cũng phải nhờ vào
đó mà tồn tại; dân tộc canh nông, cho
nên thường dùng chính sách trọng nông.
Nhưng qua cảnh thịnh trị buổi đầu
vương triều nào cũng lần lần suy vi
và “hà liễm truy cầu”, rốt cuộc nông dân
nổi loạn. Những cuộc cách mệnh chính
trị đã từng lướt qua không lay động
được cái tổ chức nghìn năm của họ, vì t
chức ấy mật thiết với điều kiện nông
nghiệp, với điều kiện tnhiên vĩnh cửu
của nước Trung Hoa. thế, trải qua
bao nhiêu cuộc biến động, bao nhiêu
cuộc “thay chợ đổi châu”, thế hội
Trung Hoa vẫn như đứng lỳ một chỗ,
mãi đến cuộc Nha phiến chiến tranh mới
thấy rễ gốc lung lay” . Nếu như
(1)
phương Tây các trào lưu tưởng nhà
nước pháp luật thường phát triển theo -
con đường phủ định, thay thế lẫn nhau,
tạo ra những lát cắt, những khoảng phân
định khá rạch ròi trong lịch sử tưởng,
thì Trung Quốc, các trào lưu tưởng
một khi đã được hình thành liền tạo ra
những dòng chảy liên tục trong lịch sử
chúng song song tồn tại với mức độ
ưu trội khác nhau. Những người kế thừa
các tưởng y luôn tỏ ra trung thành
với tưởng cội nguồn, họ chỉ giải
nghĩa hơn những tưởng ban đầu.
Sự phát triển, đổi thay của các quan
điểm chính trtuy nhưng không theo
phương thức phủ định để tạo thành
những bước ngoặt phát triển. vậy, có
thể đồng tình với ý kiến rằng “Sự tách
đôi dòng lịch sử năng động bắt nguồn từ
cổ đại (Hy Lạp) dòng lịch sử tiến
triển ì ạch với phương thức sản xuất
Châu Á một căn cứ lịch sử góp phần
giải thích sự đối lập giữa Đông Tây
phần nào giải ảo sự huyền của
phương Đông”
(2)
.
Xã hội Trung Quốc cổ đại kết cấu
kinh tế những công nông thôn bảo
thủ, hệ tưởng Nho giáo đề cao lễ
nghĩa, coi nhẹ luật pháp, trọng tình hơn
lý... Khác với phương Tây, quyền
quản hội phong kiến do giới quý
tộc tăng lữ nắm, Trung Quốc
những viên chức cao cấp hình thành rất
sớm. Đó một đẳng cấp chắc chắn
không bkhép kín về mặt hội, nhưng
cũng khó thể thâm nhập vào được,
bởi vì nó chỉ được dành riêng cho những
trí thức (Nho học). Triết học phương
Tây ngả về duy duy lý, phân tích mổ
xẻ còn triết học Trung Quốc cổ đại thì
ngả về dùng trực giác. duy phương
Tây thiên về chủ biệt, còn duy Trung
Quốc cổ đại nghiêng về chủ toàn. Ý
thức của người Trung Quốc cổ đại thấm
nhuần chất thơ hơn ý thức của người
(1)
Đào Duy Anh (biên dịch) (1942), Trung Hoa
sử cương từ thượng cổ đến ngày nay, Nxb Quan
Hải Thư, Huế, tr. 89.
(2)
Hoàng Ngọc Hiến, Cộng sinh văn hóa
giao lưu văn hóa Đông Tây, Việt Nam học -
Kỷ yếu ội thảo uốc tế ần thứ nhấtH Q L ,
Nội, tập 2, tr. 81.
Những đặc trưng của tư tưởng chính trị - pháp lý...
43
phương y, trừ trường hợp Hy Lạp
(3)
.
Văn minh Trung Quốc cổ đại văn
minh làng xã, không đặt mục đích chinh
phục thiên nhiên dựa vào thiên
nhiên, gửi gắm tình cảm vào thiên nhiên
để tồn tại lập ra những hương ước
nặng về tình để đối nhân xử thế. Trong
khi đó, nền văn minh phương y
đặc trưng đô thị phát triển sớm, thế
người phương Tây đã ý thức cạnh
tranh với thiên nhiên siêu nhiên,
chinh phục thiên nhiên chinh phục
thế giới để khẳng định sức mạnh của
con người tính. Trong khi văn hóa
phương Tây luôn coi trọng chủ nghĩa
nhân quan niệm quyền lợi nhân
thai nghén cùng với khái niệm công dân;
thì văn hóa Trung Quốc cổ đại nói
chung luôn xem xét con người trong
tổng thể các mối quan hệ hội, coi
trọng những vai trò gia đình dòng họ.
Trong các hiện tượng hội, người ta
luôn luôn thấy cái nền tảng chắc như tục
lệ - tức những tưởng, hành vi lâu
ngày được mọi người thừa nhận. Tục lệ
quyền uy đứng sau ngai vàng sau
pháp luật, “vị tài phán tối cao trong
đời sống con người” được coi trọng.
Tôn giáo giúp sức thêm cho tục lệ, bảo
ai không theo tục lệ thì bị Thượng đế
trừng phạt; khi các thói quen của tổ tiên
hợp với ý muốn của thần linh thì tục lệ
sẽ cùng mạnh hơn luật pháp hạn
chế gắt gao những tự do thời nguyên
thủy. Các tục lệ duy trì các giá trị cộng
đồng, tạo cho xã hội một sự ổn định, trật
tự cả trong khi thay đổi luật pháp
trong khi không luật pháp thành văn.
Do tục lệ bắt nguồn từ trong đời sống,
còn luật pháp do một uy quyền trên cao
đặt ra bắt mọi người phải theo;
(3)
luật
pháp thường do ý chí của nhà cầm
quyền, còn tục lệ là cái được hình thành
từ trong đời sống cộng đồng; cho n
trong trường hợp vi phạm pháp luật,
người ta còn chắc chắn được sự ngưỡng
mộ của ít nhất một nửa dân chúng (tầng
lớp bị trị đối lập với chính quyền);
nhưng nếu vi phạm tục lệ thì chắc chắn
sẽ bị mọi người cừu thị, khinh ghét.
“Người Trung Hoa thuộc về gia đình
chỉ đơn vị phù du trong dòng sinh
hoạt bắt nguồn từ tổ tiên tới bọn cháu
chắt sau này; luật pháp và phong tục bắt
họ phải chịu trách nhiệm về tất cả các
hành vi của mọi người trong gia đình,
mọi người này cũng chịu trách
nhiệm về hành vi của mỗi nhân Họ ...
bị nhốt trong i lưới cổ tục nếu họ
không theo tục lệ hoặc luân của đoàn
thể mắc lỗi nặng tbị luận chê
bai, bị đoàn thể trục xuất. Chính nhờ
những tổ chức mạnh mẽ do dân chúng
lập ra đó theo nhu cầu tâm hồn của
họ, người Trung Hoa thể tồn tại
(3)
Một người Pháp đã nói với học giả Nguyễn
Hiến rằng: “Tôi chưa thấy dân tộc nào yêu
thơ như người Trung Quốc. Đại tướng của họ
thường làm thơ trên lưng ngựa, sau một trận
hỗn chiến; những con buôn của họ cũng biết hội
họp nhau dưới gốc đào, gốc liễu mà ngâm nga;
cả hạng lao động của họ cũng biết trọng thi
nhân; cơ hồ như biết đọc biết viết là họ thưởng
thơ hoặc làm thơ. Tại sao vậy ông?”. Robert
Hart bảo: “Người Trung Hoa trọng tài, yêu văn
chương đâu đâu người ta cũng thấy những
văn đàn thi đàn nho nhỏ, để các hội viên trao
đổi các sáng tác, cả văn lẫn thơ với nhau”.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014
44
trong trật tự lâu như vậy được, hội
được ổn định, mặc dầu quốc gia luật
pháp đều yếu” . Hệ giá trị truyền thống
(4)
trong hội Trung Quốc cổ đại khiến
cho các tranh chấp trong phạm vi gia
đình, họ tộc không đưa ra tòa án và phần
lớn các tranh chấp được giải quyết bằng
phương thức thỏa hiệp. Tuy nhiên, hệ
thống y đã tỏ ra không hiệu quả
khi Trung Quốc bắt đầu công cuộc hiện
đại hóa sau sự sụp đổ của triều đại cuối
cùng vào năm 1911.
2. Những khác biệt của tưởng
chính trị Trung Quốc cổ đại- pháp
so với tưởng chính trị - pháp
phương Tây
S khác nhau trong tưởng, học
thuyết Trung Quốc cổ đại phương
Tây thời cổ đại về nhà nước và pháp luật
thể hiện mức độ quan tâm đối với nhà
nước pháp luật: các nhà tưởng
Trung Quốc cổ đại tựu trung lại cũng bàn
về chính trị con người, xã hội, nhà nước -
pháp luật, nhưng theo “cách riêng”,
mức độ riêng, tạo nên những sắc thái đặc
thù riêng. So sánh với phương y cổ
đại, các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại
ít bàn luận về nhà nước, pháp luật hơn.
Điều này được giải bởi hàng loạt các
yếu tố khách quan chủ quan có nhiều sự -
khác nhau về các giai cấp, mức độ xung
đột, mâu thuẫn hội phương pháp
giải quyết, những điều kiện kinh tế, văn
hóa, lối sống; Các nhà tưởng Trung
Quốc cổ đại quan tâm n cả về đường
lối, phương thức cai trị con người
hội. Bên cạnh sự khác nhau bản nêu
trên, vẫn có thể tìm thấy những nét tương
đồng giữa tưởng, học thuyết của
Trung Quốc cổ đại phương Tây qua
các thời kỳ lịch sử. Chẳng hạn, nguyên
tắc bình đẳng trước pháp luật trong
tưởng nhà nước pháp quyền của các nhà
tưởng Hy Lạp, La cổ đại tương
đồng với tưởng pháp trị của Hàn Phi
Tử khi cho rằng, ý muốn cá nhân của các
vị quân vương cội nguồn của tình
trạng pháp luật, luật pháp đối với
nguồn quý tộc cũng như đối với kẻ hèn
mọn đều phải như nhau. Luận điểm về
nhà nước pháp quyền không loại trừ đạo
đức, thiếu đạo đức hội sẽ hỗn loạn
cũng luận điểm tương đồng (chỉ khác
nhau là mức độ, phạm vi cách thức
áp dụng đạo đức thôi). Do nhiều yếu
tố khách quan chi phối, người Trung
Quốc cổ đại xem ra ít bàn luận đến cách
thức tổ chức bộ máy nhà nước, đến chính
thể như người phương Tây.
(4)
Nhìn chung, tưởng chính trị
duy pháp luật xuất Trung Quốc cổ đại
hiện sớm hơn phương Tây nhưng tri
thức pháp luật Trung Quốc cổ đại
không bằng phương Tây. Tư tưởng Trung
Quốc cổ đại thường gắn với đạo đức,
luân (các nguyên tắc đạo đức trong
mối quan hệ) còn tưởng phương Tây
gắn với pháp luật, đề cao pháp
(nguyên lý, tinh thần bản của pháp
luật) động lực quyền lợi của con
người. Khổng Tử nói: “Xử kiện t ta
cũng xử được như người, nhưng phải
làm sao đừng kiện tụng, không
(4)
Lịch sử văn minh Trung Hoa (Nguyễn Hiến Lê
dịch), Nxb Văn hóa - Thông tin, Nội, tr. 287.
Những đặc trưng của tư tưởng chính trị - pháp lý...
45
phải hơn sao?” Điều đó nghĩa là, cần
giáo hóa dân để họ sống với nhau một
cách tốt đẹp để không xảy ra kiện tụng
biện pháp chủ yếu, pháp luật tuy
nhưng không phải dùng đến. Quan
điểm của cho rằng đạo đức Khổng giáo
kluật tự giác tốt hơn bất kỳ một
bộ luật nào đã khiến cho nhiều nhà sử
học (như Max Weber) kết luận rằng,
luật pháp không phải là phần quan trọng
trong hội phong kiến Trung Quốc
(5)
.
Nếu như các nhà ởng Trung Quốc
cổ đại say sưa bàn về đạo đức, lễ nghi
và phép tắc xác lập trật tự, thì các nhà
tưởng phương Tây lại quan tâm đến
pháp luật, cách thức tổ chức quyền lực
nhà nước (mặc họ không phủ nhận
vai trò của đạo đức trong đời sống
hội). Những phạm trù, những biểu hiện
sinh động của đạo đức đã được các nhà
tưởng Trung Quốc cổ đại bàn luận
sâu sắc bao nhiêu thì các nhà tưởng
phương Tây lại mê mải bàn luận về tính
triết của pháp luật (như Hêghen,
K
antơ
(6)
). “Một trong những nét nổi bật
của tưởng chính trị phương Đông cổ
đại đặt các quy phạm đạo đức lên rất
cao, “coi đạo đức là cái căn bản chi phối
sự vận hành các quan hệ hội - nhà
nước và pháp luật” . Tư ởng đạo đức
(7)
học phương Tây thường xuất phát từ
những tín điều của tôn giáo; Trung
Quốc cổ đại, đạo đức học không hoàn
toàn lệ thuộc vào tôn giáo thường
xuất phát từ quan hệ giữa con người với
con người được nhìn qua lăng kính của
Nho giáo. “Khác với phương Đông, pháp
luật trong quan niệm của các nhà Triết
học cổ đại phương Tây ngoài việc tôn
trọng pháp luật còn gắn với yêu cầu
pháp luật phải chứa đựng nội dung công
bằng của số đông” . Nghiên cứu
(8)
tưởng chính trị Trung Quốc cổ đại,
thể nhận thấy, việc xem xét bản chất con
người là vị kỷ hay vị tha (tính bản ác hay
tính bản thiện) một đặc trưng tạo nên
sự khác biệt quan trọng trong các thiết
kế, hình dung về phương pháp quản
hội của mỗi học thuyết tưởng;
chủ nghĩa tôn quân trở thành một thứ
nhân sinh quan của giới học (kẻ sĩ),
trở thành nguyên tắc đạo đức phổ quát ở
Trung Quốc cổ đại. Trong thực tiễn, nền
chính trị Trung Quốc cổ đại bị đánh giá
một thể chế , song về mặt hệ nhân trị
thống pháp luật lại chú trọng đến pháp
trị. Pháp luật Trung Quốc cổ đại (bao
gồm cả những quy phạm tôn giáo, đạo
đức phong kiến, với tính chất đặc quyền
(5)
Tuy nhiên, cách hiểu này đã bị chỉ trích kịch
liệt hiện không còn thịnh hành trong giới
Trung Quốc học, những người đã kết luận rằng,
Trung Quốc phong kiến một hệ thống luật
pháp hình sự và dân sự tinh vi, thể sánh với
bất kỳ hệ thống pháp luật nào ở Châu Âu.
(6)
Hêghen (1770 - 1831), nhà triết học duy tâm
khách quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ
điển Đức, người xây dựng nên phép biện chứng
duy tâm. Immanuel (1724-1804), , đọc Kantơ
được xem là triết gia của nước quan trọng nhất
Đức, hơn nữa triết gia lớn nhất của thời kỳ
cận đại, của nền văn hóa tiên tiến và nhiều lĩnh
vực khoa học nhân văn khác.
(7)
Đại học Quốc gia Nội (Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn Khoa Luật): - Giáo
trình Lịch sử các học thuyết chính tr, tr. 13 - 14.
(8)
Nguyễn Bá Dương, Trần Hậu Thành, Thị
Hoài Thanh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp
quyền hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Quân
đội Nhân dân, Hà Nội, tr. 26.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014
46
man, bất bình đẳng tuyệt đối điển
hình rõ nét của phương Đông) được ban
hành thực hiện nhằm để duy trì bảo
vệ đức hiếu trung, n ti trật tự hội
phong kiến. ết quả của sự dung a K
đạo Khổng với học thuyết thực tiễn
Pháp gia đã m nổi bật địa vị đạo đức
luân trong địa hạt pháp luật (ở đó
những quy phạm pháp luật là những quy
phạm luân Nho giáo, tín ngưỡng hay
thuyết Mệnh Trời).
Nho giáo đã góp phần xây dựng một
dạng thức đặc trưng của tưởng Trung
Quốc cổ đại. Khổng Tử cho rằng: “cha
ăn trộm, con che giấu, cái ngay thẳng
nằm trong đó” (Luận ngữ) nói lên tính
thiếu rạch ròi giữa chính trị và luật pháp.
Từ đời Hán, chủ trương độc tôn Nho đã
bóp méo Nho giáo nguyên thủy đến cực
đoan để phục vụ cho yêu cầu chính trị
độc tài chuyên chế: quân xử thần tử,
thần bất tử bất trung; phụ xử tử vong, tử
bất vong bất hiếu. Tính chất chính trị
độc tài, thống soái, đứng trên chi
phối mọi hình thái ý thức hội khác
(kể cả pháp luật) một điển hình của
Trung Quốc cổ đại. (còn gọi học
Đạo học) được mệnh danh “sự hoàn
thành của Nho giáo Trung Quốc”
(Tống Nho) với trung tâm xoay quanh
vấn đề đưa Nho giáo trở thành tính
khuôn vàng thước ngọc của hội. Các
triều đại phong kiến đã tìm thấy
đường lối cai trị lễ hình những giải -
pháp cần thiết cho nền thống trị: hai yếu
tố cương nhu đủ để đối phó với tình -
hình chính trị kinh tế xã hội lúc hoãn, - -
lúc cấp. Ánh hào quang thần của
vương quyền, tưởng trung quân tuyệt
đối của đạo Nho sự trừng phạt tàn
bạo của pháp luật đảm bảo vững chắc
cho vương vị vương quyền, mang
bản sắc văn hóa pháp Trung Quốc -
cổ đại. Do ảnh hưởng sâu sắc của
tưởng Nho giáo (nhất Tống nho) nên
vị trí vai trò của người phụ nữ trong
hội rất mờ nhạt, bị đối xử bất bình
đẳng so với nam giới. Các quan niệm
trọng nam khinh nữ, đạo đã tam tòng
buộc chặt người phụ nữ vào những
khuôn phép khắc nghiệt hình và chịu
nhiều bất hạnh “Thế giới của “lý” của
(9)
.
“đạo” đã chôn vùi, đày đọa bao nhiêu
người phụ nữ trong Minh sử, họ đã
được tôn liệt nữ đến hơn vạn người?
Họ đã chết ngay từ khi mang thân phận
nữ giới, chết vì câu tiết hạnh” . Khổng
(10)
học càng trở nên độc tôn thì ngày càng
quay về xu hướng bảo thủ, lạc hậu, xa
rời thực tế. Dưới chế độ quân chủ
chuyên chế, yếu tố dân chủ, tưởng tự
do hầu như không được biểu hiện. “Trật
tự hội theo đạo Khổng, dựa trên
luận xã hội đã hoạt động hết sức có hiệu
quả trong nhiều thế k dưới chế độ
phong kiến Trung Hoa thế, không
có một văn bản luật tư theo kiểu phương
(9)
Thất xuất (7 do được bỏ vợ): Luật pháp
phong kiến cho phép người chồng được bỏ vợ
khi họ phạm vào một trong những 7 điều sau
đây: Không có con, Ghen tuông, Ác tật (bị bệnh
nan y), Dâm ô (không đoan chính), Không kính
trọng bố mẹ chồng, Đa hôn (lắm điều), Trộm cắp.
(10)
Nhật Chiêu (1998), Câu chuyện văn chương
Phương Đông, Nxb Giáo dục, tr. 187.
(11)
Michael Bogdan, Luật so sánh, Hồng
Hạnh, Dương Thị Hiền dịch, tr. 167.
Những đặc trưng của tư tưởng chính trị - pháp lý...
47
Tây nào phát triển được”
(11)
. Các quy
định pháp luật được áp dụng chính thức
vẫn chưa thấm được qua chiếc khiên của
đạo Khổng, nên mặc những ảnh
hưởng to lớn trên các lĩnh vực khác, pháp
luật Trung Quốc cổ đại không được
truyền bá rộng i như các ngành khác vì
vị trí thấp kém của nó. Trong khi đó từ
rất sớm, người phương Tây đã quan
niệm: “các nhà nước thị thành phải được
thiết lập căn cứ trên pháp luật. Đấu tranh
bảo vệ pháp luật cũng quan trọng như
đấu tranh bảo vệ thành phố quê hương”
(Hêraclít
(12)
). Trong tiến trình lịch sử,
từng giai đoạn khác nhau, mối quan hệ
giữa chính trị luật pháp ngày càng
được nhận thức phản ánh chính xác.
Từ thế kỷ XIII, phương Tây đã bản
Hiến pháp đầu tiên (Đại Hiến chương
Anh
(13)
), đặt nền móng pháp cho việc
điều chỉnh những mối quan hệ bản
của hội. Từ rất sớm cho đến hôm
nay, phương Tây đã tìm thấy vai trò quan
trọng của pháp luật với cách một
hình thái ý thức độc lập một công
cụ đắc lực của quyền lực chính trị.
3. - pháp tưởng chính trị
Trung Quốc cổ đại mang những giá
trị sâu sắc đồng thời cũng những
hạn chế nhất định
Nhìn chung, các học thuyết tưởng
đều sự phản ánh thực tiễn lịch sử
được hình thành thông qua ý thức con
người để hướng tới phục vụ cuộc
sống. Giá trị của học thuyết này học hay
thuyết khác thể hiện sự tác động tích
cực của tới sự nhận thức của con
người, tới các quan hệ các mặt của
đời sống hội hiện thực. Thực tiễn đã
chứng minh rằng, học thuyết hay
thuyết làm thay đổi tích cực đời sống xã
hội, có học thuyết, lý thuyết kìm hãm sự
phát triển hội.
(11)
Không nhìn vào hiện
thực hay tương lai của hội mà lại chủ
trương quay về quá khứ, Lão - Trang
muốn chối bỏ hiện thực chạy trốn
vào tự nhiên nhưng không thể phủ nhận
một điều: ý nghĩa và giá trị tiếng chuông
cảnh tỉnh của các ông ngày càng trở nên
sâu sắc trên bước đường phát triển của
nhân loại hải chăng điều đó làm nên . P
sức hấp dẫn tưởng của các ông? Do
không được bắt rễ từ đời sống kinh tế,
thoát ly các quan hệ sản xuất hội
đương thời, nên các học thuyết Đức trị,
Kiêm ái không tìm thấy vai trò quyết
định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội,
từ đó rơi vào lập trường duy tâm và hàm
chứa yếu tố không tưởng. Đương nhiên
Khổng Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử không thể
đi tìm nguyên nhân giai cấp để giải
quyết vấn đề xã hội mà chỉ cho rằng, con
người đã thiếu cái lớn nhất đó tình
thương. Những quan điểm của Nho giáo
như dân vi bang bản, dân vi quý tắ- c
thứ chi quân vi khinh, hằng sản hằng -
(12)
Hêraclít: 520 - - nhà 460 trước Công nguyên
triết học Hy Lạp cổ đại, người không chỉ nổi
tiếng với học thuyết về "dòng chảy" (không ai
có thể tắm hai lần trên một dòng sông), mà còn
bất hủ với quan niệm độc đáo về sự hài hòa
đấu tranh của các mặt đối tập, về tính thống
nhất của vũ trụ.
(13)
Đại Hiến chương (Magna Carta): một
trong những văn bản pháp luật quan trọng trong
lịch sử nước , ban hành năm 1215. Nhiều Anh
đại biểu phương Tây xem đây văn kiện đã
góp phần không nhỏ trong sự phát triển của chủ
nghĩa tự và nền dân chủ thế giớido trên .
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014
48
tâm, thiên ý dân tâm; các tưởng của
Mặc gia như kiêm tương ái, giao tương
lợi, thượng đồng, thượng hiền, phi lễ -
phi nhạc tiết dụng tiết táng- - ... ra đời
trong điều kiện xã hội còn mâu thuẫn đối
kháng giai cấp không được xác lập
trên nền tảng chính quyền của dân, do
dân nên không khả năng hiện thực
hóa. Song, nội dung này cũng thấm đậm
tinh thần dân chủ độc đáo, sáng ngời
những giá trị nhân đạo, nhân văn, phản
ánh những khát khao tốt đẹp của con
người trong đời sống hội áp bức bất
công. Giá trị của học thuyết Khổng Tử
chủ nghĩa nhân bản pháp luật người
Trung Quốc gọi nhân trị chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh “vương đạo
suy vi, đạo lộng hành”, chiến tranh
triền miên... thì “Đức trị” cũng bộc lộ
những hạn chế của mình. Song, mục tiêu
xây dựng hội ọc thuyết Đức trị h
chủ trương (“những người đầu bạc hoa
râm khỏi phải gánh nặng nhọc đi bộ trên
đường sá. Trong nước, người bảy mươi
tuổi có lụa mà mặc, có thịt mà ăn và dân
đen khỏi đói, khỏi lạnh
...
(14)
), phải
chăng cũng không nằm ngoài mục tiêu,
tiến trình của chủ nghĩa hội? Tuy
nhiên, trong các chế độ trước đây, việc
thực hiện chủ trương đó nghĩa giai
cấp thống trị tự phủ định mình. Đời sống
nhân loại từ khi giai cấp đến nay đã
chứng minh thuyết phục quan điểm
mácxít rằng: giai cấp thống trị không bao
tự nguyện từ bỏ địa vị lợi ích ích kỷ
của họ; thậm chí trước yêu cầu của các
giai cấp tiến hành cách mạng, giai cấp
thống trị lỗi thời sẵn sàng sử dụng bạo
lực để đàn áp. Để giải phóng cho mình,
các giai cấp tiến hành cách mạng tất yếu
phải tổ chức ra bạo lực cách mạng để thủ
tiêu bạo lực phản cách mạng.
Nhìn chung, Đạo gia, Nho gia, Mặc
gia đều đưa ra một chủ trương nhằm
bình ổn hội, song những biện pháp
của họ đều mang tính cải lương, không
tưởng duy tâm. vậy, mặc
tưởng trị nước của Khổng, Mặc và Lão -
Trang những giá trị nhất định trong
lịch sử, song sự thành công mà nó mang
lại không được như mong muốn trong
điều kiện loạn lạc luôn xảy ra chiến
tranh như hội Trung Quốc cổ đại.
Trong bối cảnh đó, tư tưởng pháp trị của
Hàn Phi được Tần Thủy Hoàng sử dụng
hiệu quả để thống nhất Trung Quốc
vai trò nhất định trong việc trị
nước về sau.
(14)
Kết luận
Nghiên c u l ch s tư tưởng chính tr -
pháp lý cung c p cho chúng ta tri th c v
s phát tri n tính logíc n i t i trong
những “mạ ồn” của tưởch ngu ng nhân
loi; giúp chúng ta th c ngu n gấy đượ c,
điề u ki n phát sinh phát triển, đặc điểm
đặc trưng, sự ging - khác nhau c a
các dòng tưởng trong sut quá trình
phát sinh, phát tri n c ng nhân ủa tưở
loi. Nghiên cứu, các tư ng chính tr -
pháp lý Trung Qu c c th đại để ấy được
tính đa dạng, phong phú và ph c t p c a
lch s tư tưởng chính tr nhân loi, t đó
có th ch t lc giá tr tinh hoa c a nh ng
tưởng y cho ngày hôm nay vào m c
tiêu đương đại.
(14)
Đoàn Trung Còn, , quyển Tứ thơ Mạnh Tử -
Thượng, Nxb Trí Đức, tr. 14 - 15.
Những đặc trưng của tư tưởng chính trị - pháp lý...
49
| 1/9

Preview text:


NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ PHÁP LÝ TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI - ĐỖ ĐỨC MINH *
Tóm tắt: Bài viết phân tích tư tưởng chính trị - pháp lý của Trung Quốc cổ
đại. Theo tác giả Trung Quốc cổ đại là một trung tâm văn hóa lớn, có nhiều
dòng tư tưởng chính trị - pháp lý độc đáo. Tư tưởng chính trị - pháp lý Trung
Quốc cổ đại bị quy định bởi tính đặc thù của điều kiện kinh tế - xã hội và văn hóa tư tưởng; hác k
biệt với tư tưởng chính trị - pháp lý phương Tây; mang
những giá trị sâu sắc, đồng thời cũng có những hạn chế nhất định.
Từ khóa: Phương Đông, chính trị - pháp lý, Đức trị, Khổng Tử. Mở đầu
lý Trung Quốc nói riêng đã bước đầu
Lịch sử thế giới thời kỳ cổ đại đã có thống nhất nhận định: xét ở góc độ
nhiều hệ thống, tư tưởng chính trị - pháp phương thức sản xuất, nếu như ở
lý, trong đó nổi lên ở các trung tâm Hy phương Tây, điển hình là xã hội Hy -
Lạp, Ấn Độ và Trung Quốc. Nghiên cứu La, xã hội phát triển theo con đường
lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, cách mạng, diễn ra một cách dồn dập,
chúng ta thấy phần nổi trội nhất là tư mạnh mẽ, nhanh chóng trong một
tưởng chính trị - pháp lý. Việc nghiên khoảng thời gian tương đối ngắn, thì ở
cứu lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý Trung Quốc nói riêng,(*)phương Đông
của Trung Quốc cổ đại cho thấy những nói chung, xã hội lại phát triển theo con
yếu tố tiêu biểu và qua đó có thể làm đường duy tân, thay cũ đổi mới một
sáng tỏ đặc trưng của tư tưởng chính trị cách từ từ, chậm chạp, ít đột biến. Mang
- pháp lý Việt Nam truyền thống.
đặc điểm của công xã nông thôn và
1. Tư tưởng chính trị - pháp lý phương thức sản xuất Châu Á, nên mâu
Trung Quốc cổ đại bị quy định bởi thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
tính đặc thù của điều kiện kinh tế - xã hệ sản xuất trong xã hội Trung Quốc
hội và văn hóa - tư tưởng
không diễn ra mạnh mẽ và đối kháng để
Các học giả Trung Quốc như Hầu chuyển thành cách mạng xã hội, mà nó
Ngoại Lư, Triệu Kỷ Bân, Đỗ Quốc liên tục, kéo dài và đan xen giữa nhiều
Tường, Phùng Hữu Lan, Lã Trấn Vũ... hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, là
khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng nói
chung, lịch sử tư tưởng chính trị - pháp (*) Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội. 41
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014
nguyên nhân làm cho xã hội rối loạn phương thức phủ định để tạo thành
triền miên trong thời kỳ cổ đại và sự những bước ngoặt phát triển. Vì vậy, có
“ngưng trệ” của thời kỳ trung cổ. “Nông thể đồng tình với ý kiến rằng “Sự tách
nghiệp là nền tảng kinh tế nước Trung đôi dòng lịch sử năng động bắt nguồn từ
Hoa, vương triều nào cũng phải nhờ vào cổ đại (Hy Lạp) và dòng lịch sử tiến
đó mà tồn tại; là dân tộc canh nông, cho triển ì ạch với phương thức sản xuất
nên thường dùng chính sách trọng nông. Châu Á là một căn cứ lịch sử góp phần
Nhưng qua cảnh thịnh trị buổi đầu giải thích sự đối lập giữa Đông và Tây
vương triều nào cũng lần lần mà suy vi và phần nào giải ảo sự huyền bí của
và “hà liễm truy cầu”, rốt cuộc nông dân phương Đông”(2).
nổi loạn. Những cuộc cách mệnh chính
Xã hội Trung Quốc cổ đại có kết cấu
trị đã từng lướt qua mà không lay động kinh tế là những công xã nông thôn bảo
được cái tổ chức nghìn năm của họ, vì tổ thủ, có hệ tư tưởng Nho giáo đề cao lễ
chức ấy có mật thiết với điều kiện nông nghĩa, coi nhẹ luật pháp, trọng tình hơn
nghiệp, với điều kiện tự nhiên vĩnh cửu lý... Khác với ở phương Tây, quyền
của nước Trung Hoa. Vì thế, trải qua quản lý xã hội phong kiến do giới quý
bao nhiêu cuộc biến động, bao nhiêu tộc và tăng lữ nắm, ở Trung Quốc
cuộc “thay chợ đổi châu”, thế mà xã hội những viên chức cao cấp hình thành rất
sớm. Đó là một đẳng cấp chắc chắn
Trung Hoa vẫn như đứng lỳ một chỗ, không bị khép kín về mặt xã hội, nhưng
mãi đến cuộc Nha phiến chiến tranh mới cũng khó có thể thâm nhập vào được,
thấy rễ gốc lung lay”(1). Nếu như ở bởi vì nó chỉ được dành riêng cho những
phương Tây các trào lưu tư tưởng nhà trí thức (Nho học). Triết học phương
nước - pháp luật thường phát triển theo Tây ngả về tư duy duy lý, phân tích mổ
con đường phủ định, thay thế lẫn nhau, xẻ còn triết học Trung Quốc cổ đại thì
tạo ra những lát cắt, những khoảng phân ngả về dùng trực giác. Tư duy phương
định khá rạch ròi trong lịch sử tư tưởng, Tây thiên về chủ biệt, còn tư duy Trung
thì ở Trung Quốc, các trào lưu tư tưởng Quốc cổ đại nghiêng về chủ toàn. Ý
một khi đã được hình thành liền tạo ra thức của người Trung Quốc cổ đại thấm
những dòng chảy liên tục trong lịch sử nhuần chất thơ hơn ý thức của người
và chúng song song tồn tại với mức độ
ưu trội khác nhau. Những người kế thừa (1)
các tư tưởng ấy luôn tỏ ra trung thành
Đào Duy Anh (biên dịch) (1942), Trung Hoa
sử cương từ thượng cổ đến ngày nay, Nxb Quan
với tư tưởng cội nguồn, họ chỉ giải Hải Thư, Huế, tr. 89.
nghĩa rõ hơn những tư tưởng ban đầu. (2) Hoàng Ngọc Hiến, Cộng sinh văn hóa và
Sự phát triển, đổi thay của các quan giao lưu văn hóa Đông Tây, Việt Nam học -
Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Lần thứ nhất, Hà
điểm chính trị tuy có nhưng không theo Nội, tập 2, tr. 81. 42
Những đặc trưng của tư tưởng chính trị - pháp lý...
phương Tây, trừ trường hợp Hy Lạp(3). Do tục lệ bắt nguồn từ trong đời sống,
Văn minh Trung Quốc cổ đại là văn còn luật pháp do một uy quyền trên cao
minh làng xã, không đặt mục đích chinh đặt ra bắt mọi người phải theo;(3)luật
phục thiên nhiên mà dựa vào thiên pháp thường do ý chí của nhà cầm
nhiên, gửi gắm tình cảm vào thiên nhiên quyền, còn tục lệ là cái được hình thành
để tồn tại và lập ra những hương ước từ trong đời sống cộng đồng; cho nên
nặng về tình để đối nhân xử thế. Trong trong trường hợp vi phạm pháp luật,
khi đó, nền văn minh phương Tây có người ta còn chắc chắn được sự ngưỡng
đặc trưng là đô thị phát triển sớm, vì thế mộ của ít nhất một nửa dân chúng (tầng
người phương Tây đã có ý thức cạnh lớp bị trị đối lập với chính quyền);
tranh với thiên nhiên và siêu nhiên, nhưng nếu vi phạm tục lệ thì chắc chắn
chinh phục thiên nhiên và chinh phục sẽ bị mọi người cừu thị, khinh ghét.
thế giới để khẳng định sức mạnh của “Người Trung Hoa thuộc về gia đình và
con người lý tính. Trong khi văn hóa chỉ là đơn vị phù du trong dòng sinh
phương Tây luôn coi trọng chủ nghĩa cá hoạt bắt nguồn từ tổ tiên tới bọn cháu
nhân và quan niệm quyền lợi cá nhân chắt sau này; luật pháp và phong tục bắt
thai nghén cùng với khái niệm công dân; họ phải chịu trách nhiệm về tất cả các
thì văn hóa Trung Quốc cổ đại nói hành vi của mọi người trong gia đình,
chung luôn xem xét con người trong mà mọi người này cũng chịu trách
tổng thể các mối quan hệ xã hội, coi nhiệm về hành vi của mỗi cá nhân... Họ
trọng những vai trò gia đình và dòng họ. bị nhốt trong cái lưới cổ tục và nếu họ
Trong các hiện tượng xã hội, người ta không theo tục lệ hoặc luân lý của đoàn
luôn luôn thấy cái nền tảng chắc như tục thể mà mắc lỗi nặng thì bị dư luận chê
lệ - tức những tư tưởng, hành vi lâu bai, bị đoàn thể trục xuất. Chính nhờ
ngày được mọi người thừa nhận. Tục lệ những tổ chức mạnh mẽ do dân chúng
là quyền uy đứng sau ngai vàng và sau lập ra đó theo nhu cầu và tâm hồn của
pháp luật, là “vị tài phán tối cao trong họ, mà người Trung Hoa có thể tồn tại
đời sống con người” và được coi trọng.
Tôn giáo giúp sức thêm cho tục lệ, bảo (3) Một người Pháp đã nói với học giả Nguyễn
ai không theo tục lệ thì bị Thượng đế Hiến Lê rằng: “Tôi chưa thấy dân tộc nào yêu
thơ như người Trung Quốc. Đại tướng của họ
trừng phạt; khi các thói quen của tổ tiên thường làm thơ trên lưng ngựa, sau một trận
hợp với ý muốn của thần linh thì tục lệ hỗn chiến; những con buôn của họ cũng biết hội
sẽ vô cùng mạnh hơn luật pháp và hạn họp nhau dưới gốc đào, gốc liễu mà ngâm nga;
cả hạng lao động của họ cũng biết trọng thi
chế gắt gao những tự do thời nguyên nhân; cơ hồ như biết đọc biết viết là họ thưởng
thủy. Các tục lệ duy trì các giá trị cộng thơ hoặc làm thơ. Tại sao vậy ông?”. Robert
đồng, tạo cho xã hội một sự ổn định, trật Hart bảo: “Người Trung Hoa trọng tài, yêu văn
chương và đâu đâu người ta cũng thấy những
tự cả trong khi thay đổi luật pháp và văn đàn thi đàn nho nhỏ, để các hội viên trao
trong khi không có luật pháp thành văn. đổi các sáng tác, cả văn lẫn thơ với nhau”. 43
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014
trong trật tự lâu như vậy được, xã hội đồng giữa tư tưởng, học thuyết của
được ổn định, mặc dầu quốc gia và luật Trung Quốc cổ đại và phương Tây qua
pháp đều yếu”(4). Hệ giá trị truyền thống các thời kỳ lịch sử. Chẳng hạn, nguyên
trong xã hội Trung Quốc cổ đại khiến tắc bình đẳng trước pháp luật trong tư
cho các tranh chấp trong phạm vi gia tưởng nhà nước pháp quyền của các nhà
đình, họ tộc không đưa ra tòa án và phần tư tưởng Hy Lạp, La Mã cổ đại tương
lớn các tranh chấp được giải quyết bằng đồng với tư tưởng pháp trị của Hàn Phi
phương thức thỏa hiệp. Tuy nhiên, hệ Tử khi cho rằng, ý muốn cá nhân của các
thống này đã tỏ ra không có hiệu quả vị quân vương là cội nguồn của tình
khi Trung Quốc bắt đầu công cuộc hiện trạng vô pháp luật, luật pháp đối với
đại hóa sau sự sụp đổ của triều đại cuối nguồn quý tộc cũng như đối với kẻ hèn cùng vào năm 1911.
mọn đều phải như nhau. Luận điểm về
2. Những khác biệt của tư tưởng nhà nước pháp quyền không loại trừ đạo
chính trị - pháp lý Trung Quốc cổ đại đức, thiếu đạo đức xã hội sẽ hỗn loạn
so với tư tưởng chính trị - pháp lý cũng là luận điểm tương đồng (chỉ khác phương Tây
nhau là ở mức độ, phạm vi và cách thức
Sự khác nhau trong tư tưởng, học áp dụng đạo đức mà thôi). Do nhiều yếu
thuyết ở Trung Quốc cổ đại và phương tố khách quan chi phối, người Trung
Tây thời cổ đại về nhà nước và pháp luật Quốc cổ đại xem ra ít bàn luận đến cách
thể hiện ở mức độ quan tâm đối với nhà thức tổ chức bộ máy nhà nước, đến chính
nước và pháp luật: các nhà tư tưởng thể như người phương Tây.(4)
Trung Quốc cổ đại tựu trung lại cũng bàn
Nhìn chung, tư tưởng chính trị và tư
về chính trị - con người, xã hội, nhà nước duy pháp luật Trung Quốc cổ đại xuất
và pháp luật, nhưng theo “cách riêng”, hiện sớm hơn phương Tây nhưng tri
mức độ riêng, tạo nên những sắc thái đặc thức pháp luật ở Trung Quốc cổ đại
thù riêng. So sánh với phương Tây cổ không bằng phương Tây. Tư tưởng Trung
đại, các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại Quốc cổ đại thường gắn với đạo đức,
ít bàn luận về nhà nước, pháp luật hơn. luân lý (các nguyên tắc đạo đức trong
Điều này được lý giải bởi hàng loạt các mối quan hệ) còn tư tưởng phương Tây
yếu tố khách quan - chủ quan có nhiều sự gắn với pháp luật, đề cao pháp lý
khác nhau về các giai cấp, mức độ xung (nguyên lý, tinh thần cơ bản của pháp
đột, mâu thuẫn xã hội và phương pháp luật) và động lực là quyền lợi của con
giải quyết, những điều kiện kinh tế, văn người. Khổng Tử nói: “Xử kiện thì ta
hóa, lối sống; Các nhà tư tưởng Trung cũng xử được như người, nhưng phải
Quốc cổ đại quan tâm hơn cả về đường làm sao đừng có kiện tụng, há không
lối, phương thức cai trị con người và xã
hội. Bên cạnh sự khác nhau cơ bản nêu (4) Lịch sử văn minh Trung Hoa (Nguyễn Hiến Lê
trên, vẫn có thể tìm thấy những nét tương dịch), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr. 287. 44
Những đặc trưng của tư tưởng chính trị - pháp lý...
phải hơn sao?” Điều đó có nghĩa là, cần học cổ đại phương Tây ngoài việc tôn
giáo hóa dân để họ sống với nhau một trọng pháp luật còn gắn với yêu cầu
cách tốt đẹp để không xảy ra kiện tụng pháp luật phải chứa đựng nội dung công
là biện pháp chủ yếu, và pháp luật tuy bằng của số đông”(8). Nghiên cứu tư
có nhưng không phải dùng đến. Quan tưởng chính trị Trung Quốc cổ đại, có
điểm của Khổng giáo cho rằng đạo đức thể nhận thấy, việc xem xét bản chất con
và kỷ luật tự giác là tốt hơn bất kỳ một người là vị kỷ hay vị tha (tính bản ác hay
bộ luật nào đã khiến cho nhiều nhà sử tính bản thiện) là một đặc trưng tạo nên
học (như Max Weber) kết luận rằng, sự khác biệt quan trọng trong các thiết
luật pháp không phải là phần quan trọng kế, hình dung về phương pháp quản lý
trong xã hội phong kiến Trung Quốc(5). xã hội của mỗi học thuyết tư tưởng; và
Nếu như các nhà tư tưởng Trung Quốc chủ nghĩa tôn quân trở thành một thứ
cổ đại say sưa bàn về đạo đức, lễ nghi nhân sinh quan của giới có học (kẻ sĩ),
và phép tắc xác lập trật tự, thì các nhà tư trở thành nguyên tắc đạo đức phổ quát ở
tưởng phương Tây lại quan tâm đến Trung Quốc cổ đại. Trong thực tiễn, nền
pháp luật, cách thức tổ chức quyền lực chính trị Trung Quốc cổ đại bị đánh giá
nhà nước (mặc dù họ không phủ nhận là một thể chế nhân trị, song về mặt hệ
vai trò của đạo đức trong đời sống xã thống pháp luật lại chú trọng đến pháp
hội). Những phạm trù, những biểu hiện trị. Pháp luật Trung Quốc cổ đại (bao
sinh động của đạo đức đã được các nhà gồm cả những quy phạm tôn giáo, đạo
tư tưởng Trung Quốc cổ đại bàn luận đức phong kiến, với tính chất đặc quyền
sâu sắc bao nhiêu thì các nhà tư tưởng
phương Tây lại mê mải bàn luận về tính
(5) Tuy nhiên, cách hiểu này đã bị chỉ trích kịch
triết lý của pháp luật (như Hêghen, liệt và hiện không còn thịnh hành trong giới
Kantơ(6)). “Một trong những nét nổi bật Trung Quốc học, những người đã kết luận rằng,
của tư tưởng chính trị phương Đông cổ Trung Quốc phong kiến có một hệ thống luật
pháp hình sự và dân sự tinh vi, có thể sánh với
đại là đặt các quy phạm đạo đức lên rất bất kỳ hệ thống pháp luật nào ở Châu Âu.
cao, “coi đạo đức là cái căn bản chi phối (6) Hêghen (1770 - 1831), nhà triết học duy tâm
sự vận hành các quan hệ xã hội - nhà khách quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ
điển Đức, người xây dựng nên phép biện chứng
nước và pháp luật”(7). Tư tưởng đạo đức duy tâm. Immanuel, đọc là Kantơ (1724-1804),
học phương Tây thường xuất phát từ được xem là triết gia quan trọng nhất của nước
Đức, hơn nữa là triết gia lớn nhất của thời kỳ
những tín điều của tôn giáo; ở Trung cận đại, của nền văn hóa tiên tiến và nhiều lĩnh
Quốc cổ đại, đạo đức học không hoàn vực khoa học nhân văn khác.
toàn lệ thuộc vào tôn giáo mà thường (7) Đại học Quốc gia Hà Nội (Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn - Khoa Luật): Giáo
xuất phát từ quan hệ giữa con người với trình Lịch sử các học thuyết chính trị, tr. 13 - 14.
con người được nhìn qua lăng kính của (8) Nguyễn Bá Dương, Trần Hậu Thành, Lê Thị
Nho giáo. “Khác với phương Đông, pháp Hoài Thanh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Quân
luật trong quan niệm của các nhà Triết đội Nhân dân, Hà Nội, tr. 26. 45
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014
dã man, bất bình đẳng tuyệt đối là điển vương quyền, tư tưởng trung quân tuyệt
hình rõ nét của phương Đông) được ban đối của đạo Nho và sự trừng phạt tàn
hành và thực hiện nhằm để duy trì bảo bạo của pháp luật là đảm bảo vững chắc
vệ đức hiếu trung, tôn ti trật tự xã hội cho vương vị và vương quyền, mang
phong kiến. Kết quả của sự dung hòa bản sắc văn hóa - pháp lý Trung Quốc
đạo Khổng với học thuyết thực tiễn cổ đại. Do ảnh hưởng sâu sắc của tư
Pháp gia đã làm nổi bật địa vị đạo đức tưởng Nho giáo (nhất là Tống nho) nên
luân lý trong địa hạt pháp luật (ở đó vị trí và vai trò của người phụ nữ trong
những quy phạm pháp luật là những quy xã hội rất mờ nhạt, bị đối xử bất bình
phạm luân lý Nho giáo, tín ngưỡng hay đẳng so với nam giới. Các quan niệm thuyết Mệnh Trời).
trọng nam khinh nữ, đạo tam tòng đã
Nho giáo đã góp phần xây dựng một buộc chặt người phụ nữ vào những
dạng thức đặc trưng của tư tưởng Trung khuôn phép khắc nghiệt vô hình và chịu
Quốc cổ đại. Khổng Tử cho rằng: “cha nhiều bất hạnh(9). “Thế giới của “lý” của
ăn trộm, con che giấu, cái ngay thẳng “đạo” đã chôn vùi, đày đọa bao nhiêu
nằm trong đó” (Luận ngữ) nói lên tính người phụ nữ mà trong Minh sử, họ đã
thiếu rạch ròi giữa chính trị và luật pháp. được tôn là liệt nữ đến hơn vạn người?
Từ đời Hán, chủ trương độc tôn Nho đã Họ đã chết ngay từ khi mang thân phận
bóp méo Nho giáo nguyên thủy đến cực nữ giới, chết vì câu tiết hạnh”(10). Khổng
đoan để phục vụ cho yêu cầu chính trị học càng trở nên độc tôn thì ngày càng
độc tài chuyên chế: quân xử thần tử, quay về xu hướng bảo thủ, lạc hậu, xa
thần bất tử bất trung; phụ xử tử vong, tử rời thực tế. Dưới chế độ quân chủ
bất vong bất hiếu. Tính chất chính trị chuyên chế, yếu tố dân chủ, tư tưởng tự
độc tài, thống soái, đứng trên và chi do hầu như không được biểu hiện. “Trật
phối mọi hình thái ý thức xã hội khác tự xã hội theo đạo Khổng, dựa trên dư
(kể cả pháp luật) là một điển hình của luận xã hội đã hoạt động hết sức có hiệu
Trung Quốc cổ đại. Lý học (còn gọi là quả trong nhiều thế kỷ dưới chế độ
Đạo học) được mệnh danh là “sự hoàn phong kiến Trung Hoa và vì thế, không
thành của Nho giáo ở Trung Quốc” có một văn bản luật tư theo kiểu phương
(Tống Nho) với trung tâm xoay quanh vấn đề
tính đưa Nho giáo trở thành (9) Thất xuất (7 lý do được bỏ vợ): Luật pháp
khuôn vàng thước ngọc của xã hội. Các phong kiến cho phép người chồng được bỏ vợ
triều đại phong kiến đã tìm thấy ở khi họ phạm vào một trong những 7 điều sau
đường lối cai trị lễ - hình những giải đây: Không có con, Ghen tuông, Ác tật (bị bệnh
nan y), Dâm ô (không đoan chính), Không kính
pháp cần thiết cho nền thống trị: hai yếu trọng bố mẹ chồng, Đa hôn (lắm điều), Trộm cắp.
tố cương - nhu đủ để đối phó với tình (10) Nhật Chiêu (1998), Câu chuyện văn chương
hình chính trị - kinh tế - xã hội lúc hoãn, Phương Đông, Nxb Giáo dục, tr. 187.
(11) Michael Bogdan, Luật so sánh, Lê Hồng
lúc cấp. Ánh hào quang thần bí của Hạnh, Dương Thị Hiền dịch, tr. 167. 46
Những đặc trưng của tư tưởng chính trị - pháp lý...
Tây nào phát triển được”(11). Các quy đời sống xã hội hiện thực. Thực tiễn đã
định pháp luật được áp dụng chính thức chứng minh rằng, có học thuyết hay lý
vẫn chưa thấm được qua chiếc khiên của thuyết làm thay đổi tích cực đời sống xã
đạo Khổng, nên mặc dù có những ảnh hội, có học thuyết, lý thuyết kìm hãm sự
hưởng to lớn trên các lĩnh vực khác, pháp phát triển xã hội.(11)Không nhìn vào hiện
luật Trung Quốc cổ đại không được thực hay tương lai của xã hội mà lại chủ
truyền bá rộng rãi như các ngành khác vì trương quay về quá khứ, Lão - Trang
vị trí thấp kém của nó. Trong khi đó từ muốn chối bỏ hiện thực và chạy trốn
rất sớm, người phương Tây đã quan vào tự nhiên nhưng không thể phủ nhận
niệm: “các nhà nước thị thành phải được một điều: ý nghĩa và giá trị tiếng chuông
thiết lập căn cứ trên pháp luật. Đấu tranh cảnh tỉnh của các ông ngày càng trở nên
bảo vệ pháp luật cũng quan trọng như sâu sắc trên bước đường phát triển của
đấu tranh bảo vệ thành phố quê hương” nhân loại. Phải chăng điều đó làm nên
(Hêraclít(12)). Trong tiến trình lịch sử, ở sức hấp dẫn tư tưởng của các ông? Do
từng giai đoạn khác nhau, mối quan hệ không được bắt rễ từ đời sống kinh tế,
giữa chính trị và luật pháp ngày càng thoát ly các quan hệ sản xuất xã hội
được nhận thức và phản ánh chính xác. đương thời, nên các học thuyết Đức trị,
Kiêm ái không tìm thấy vai trò quyết
Từ thế kỷ XIII, phương Tây đã có bản định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội,
Hiến pháp đầu tiên (Đại Hiến chương từ đó rơi vào lập trường duy tâm và hàm
Anh(13)), đặt nền móng pháp lý cho việc chứa yếu tố không tưởng. Đương nhiên
điều chỉnh những mối quan hệ cơ bản Khổng Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử không thể
của xã hội. Từ rất sớm và cho đến hôm đi tìm nguyên nhân giai cấp để giải
nay, phương Tây đã tìm thấy vai trò quan quyết vấn đề xã hội mà chỉ cho rằng, con
trọng của pháp luật với tư cách là một người đã thiếu cái lớn nhất đó là tình
hình thái ý thức độc lập và là một công thương. Những quan điểm của Nho giáo
cụ đắc lực của quyền lực chính trị.
như dân vi bang bản, dân vi quý - xã tắc
3. Tư tưởng chính trị - pháp lý thứ chi - quân vi khinh, hằng sản hằng
Trung Quốc cổ đại mang những giá
trị sâu sắc đồng thời cũng những (12) Hêraclít: 520 - 460 trước Công nguyên - nhà
hạn chế nhất định
triết học Hy Lạp cổ đại, người không chỉ nổi
Nhìn chung, các học thuyết tư tưởng tiếng với học thuyết về "dòng chảy" (không ai
có thể tắm hai lần trên một dòng sông), mà còn
đều là sự phản ánh thực tiễn lịch sử và bất hủ với quan niệm độc đáo về sự hài hòa và
được hình thành thông qua ý thức con đấu tranh của các mặt đối tập, về tính thống
người và để hướng tới phục vụ cuộc nhất của vũ trụ.
(13) Đại Hiến chương (Magna Carta): là một
sống. Giá trị của học thuyết này hay học trong những văn bản pháp luật quan trọng trong
thuyết khác thể hiện ở sự tác động tích lịch sử nước Anh, ban hành năm 1215. Nhiều
cực của nó tới sự nhận thức của con đại biểu phương Tây xem đây là văn kiện đã
góp phần không nhỏ trong sự phát triển của chủ
người, tới các quan hệ và các mặt của nghĩa tự do và nền dân chủ trên thế giới. 47
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014
tâm, thiên ý dân tâm; các tư tưởng của các giai cấp tiến hành cách mạng tất yếu
Mặc gia như kiêm tương ái, giao tương phải tổ chức ra bạo lực cách mạng để thủ
lợi, thượng đồng, thượng hiền, phi lễ - tiêu bạo lực phản cách mạng.
phi nhạc - tiết dụng - tiết táng... ra đời
Nhìn chung, Đạo gia, Nho gia, Mặc
trong điều kiện xã hội còn mâu thuẫn đối gia đều đưa ra một chủ trương nhằm
kháng giai cấp và không được xác lập bình ổn xã hội, song những biện pháp
trên nền tảng chính quyền của dân, do của họ đều mang tính cải lương, không
dân nên không có khả năng hiện thực tưởng và duy tâm. Vì vậy, mặc dù tư
hóa. Song, nội dung này cũng thấm đậm tưởng trị nước của Khổng, Mặc và Lão -
tinh thần dân chủ độc đáo, sáng ngời Trang có những giá trị nhất định trong
những giá trị nhân đạo, nhân văn, phản lịch sử, song sự thành công mà nó mang
ánh những khát khao tốt đẹp của con lại không được như mong muốn trong
người trong đời sống xã hội áp bức bất điều kiện loạn lạc và luôn xảy ra chiến
công. Giá trị của học thuyết Khổng Tử là tranh như xã hội Trung Quốc cổ đại.
chủ nghĩa nhân bản pháp luật mà người Trong bối cảnh đó, tư tưởng pháp trị của
Trung Quốc gọi là nhân trị chủ nghĩa. Hàn Phi được Tần Thủy Hoàng sử dụng
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh “vương đạo có hiệu quả để thống nhất Trung Quốc
suy vi, bá đạo lộng hành”, chiến tranh và có vai trò nhất định trong việc trị
triền miên... thì “Đức trị” cũng bộc lộ nước về sau.(14)
những hạn chế của mình. Song, mục tiêu Kết luận
xây dựng xã hội mà học thuyết Đức trị
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị -
chủ trương (“những người đầu bạc hoa pháp lý cung cấp cho chúng ta tri thức về
râm khỏi phải gánh nặng nhọc đi bộ trên sự phát triển có tính logíc nội tại trong
đường sá. Trong nước, người bảy mươi những “mạch nguồn” của tư tưởng nhân
tuổi có lụa mà mặc, có thịt mà ăn và dân loại; giúp chúng ta thấy được nguồn gốc,
đen khỏi đói, khỏi lạnh...”(14)), phải điều kiện phát sinh phát triển, đặc điểm
chăng cũng không nằm ngoài mục tiêu, và đặc trưng, sự giống - khác nhau của
tiến trình của chủ nghĩa xã hội? Tuy các dòng tư tưởng trong suốt quá trình
nhiên, trong các chế độ trước đây, việc phát sinh, phát triển của tư tưởng nhân
thực hiện chủ trương đó có nghĩa là giai loại. Nghiên cứu, các tư tưởng chính trị -
cấp thống trị tự phủ định mình. Đời sống pháp lý Trung Quốc cổ đại để thấy được
nhân loại từ khi có giai cấp đến nay đã tính đa dạng, phong phú và phức tạp của
chứng minh thuyết phục quan điểm lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại, từ đó
mácxít rằng: giai cấp thống trị không bao có thể chắt lọc giá trị tinh hoa của những
tự nguyện từ bỏ địa vị và lợi ích ích kỷ tư tưởng ấy cho ngày hôm nay vào mục
của họ; thậm chí trước yêu cầu của các tiêu đương đại.
giai cấp tiến hành cách mạng, giai cấp
thống trị lỗi thời sẵn sàng sử dụng bạo (14) Đoàn Trung Còn, Tứ thơ - Mạnh Tử, quyển
lực để đàn áp. Để giải phóng cho mình, Thượng, Nxb Trí Đức, tr. 14 - 15. 48
Những đặc trưng của tư tưởng chính trị - pháp lý... 49