Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, liên hệ thực tiễn qua quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam | Tiểu luận chính trị học

Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị là kinh tế cô đọng lại. Chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế.Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hạn chế trong mối quan hệ giữa nền chính trị  và kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
-------------------------
TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH TRỊ HỌC
ĐỀ TÀI: MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN QUA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨAVIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: ThS Lưu Văn Thắng
Sinh viên: Nguyễn Thị A
Mã số sinh viên: 2151070345
Lớp:
Hà Nội, tháng 3 năm 2022
2
MỤC LỤ
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
I. Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................3
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................3
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................4
IV. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài..........................................................4
NỘI DUNG.......................................................................................................5
I. Một số khái niệm về chính trị, kinh tế.......................................................5
1. Chính trị.....................................................................................................5
2. Kinh tế.......................................................................................................7
II. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế theo chủ nghĩa Mác – Lê nin...8
1. Chính trị sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị kinh tế
đọng lại..............................................................................................................9
2. Chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế........................14
III. Liên hệ thực tiễn về mối quan hệ qua quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.................................17
1. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...........17
2. Hạn chế trong mối quan hệ giữa nền chính trị kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.........................................19
3. Phương hướng đảm bảo mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.................................20
KẾT LUẬN....................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................25
3
MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
thể thấy, từ khi nhà nước ra đời, chính trị kinh tế đã luôn hai
lĩnh vực có mối quan hệ mật thiết với nhau với cả tình hình phát triển của
đất nước. Mối quan hệ này được hình thành kế thừa như một vị trí vững
chắc để quyết định tới sự vận động của mọi hội. Trải qua nhiều hình thái
nhà nước thì mỗi một chế độ chính trị sẽ luôn một nền kinh tế tồn tại
thích hợp với thể chế chính trị đó. Nếu mối quan hệ giữa chính trị kinh tế
ổn định thì lẽ đương nhiên các loại hoạt động khác sẽ diễn ra một cách dễ
dàng. Sau hơn 30 năm đổi mới, mô hình kinh tế kết hợp với chính trị đã từng
bước được xác lập, phát huy tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên thì với ảnh
hưởng của đại dịch COVID-19 như hiện nay thì cần chú trọng hơn nữa thay
đổi và thích ứng hai hoạt động này sao cho theo kịp với thế giới.
vậy, việc nghiên cứu đề tài “mối quan hệ giữa kinh tế chính trị,
liên hệ thực tiễn qua quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa Việt Nam” hợp cấp thiết bởi đề tài này không chỉ
mang tính lý luận khô khan mà còn cần ứng dụng phù hợp.
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Làm sáng tỏ mối quan hệ giữa kinh tế chính
trị, để từ đó liên hệ thực tiễn qua quá trình phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Tìm hiểu một số khái niệm về kinh tế, chính trị
+ Đưa ra mối quan hệ kinh tếchính trị theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác- Lênin
+ Liên hệ qua quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa ở nước ta
4
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giữa kinh tế chính trị, liên hệ
thực tiễn qua quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam, từ khi ra đời cho đến ngày nay
IV. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Với bản thân, sau khi nghiên cứu đề tài này giúp em hiểu hơn về sự
liên quan, gắn của kinh tế chính trị. Đây một đề tài hết sức thực tế,
đem đến cho em cái nhìn dễ dàng hơn về bộ môn chính trị học cũng như tự
đánh giá, việc nắm chắc được nội dung sẽ giúp em nhìn nhận về trách nhiệm
của bản thân trong việc góp phần xây dựng đất nước ngày nay.
5
NỘI DUNG
I. Một số khái niệm về chính trị, kinh tế
1. Chính trị
Có thể nói trải qua từng thời kì cũng như sự khác nhau về vị trí, khu vực
mà hình thành nên nhiều quan điểm về chính trị.
* Phương Tây
- Cổ đại:
+ Platon: Chính trị là nghệ thuật cung đình.
+ Arixtot: Chính trị là khoa học lãnh đạo con người là khoa học kiến trúc
xã hội và con người là động vật chính trị.
- Trung đại: trong vòng 5 thế kỉ thì họ cho rằng chính trị là quyền lực của
thượng đế, của chúa trời,
- Cận-hiện đại:
+ Max Weber: (Nhà hội học Đức đầu thế kỷ XX) chính trị khát
vọng tham gia quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các
quốc gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đoàn người trong một quốc gia.
+ Quan điểm của Mỹ: (VHCT Mỹ): Chính trị tìm kiếm giải pháp để
thực hiện phân phối các lợi ích. Bánh lợi ích hạn lòng tham thìđáy
ai cũng muốn nên diễn ra cuộc đấu tranh giành lấynó thế ai mạnh thì được
nhiều, muốn hội ổn định thì phải chia bớt bánh lợi ích cho các giai cấp
khác.
+ Harold Laswell: ai lấy được cái khi nào, nơi nào bằng cách
nào
+ sản: Chính trị một “Nhà hát” vở diễn, nghệ sỹ, người xem,
cách bày trí sân khấu, nhà phê bình.
* Phương Đông
- Cổ đại (VIII TCN – III TCN)
+ Khổng Tử: Chính trị là công việc của người quân tử, làm cho chính
đạo, chính danh
6
+ Mặc Tử: Kiêm ái
+ Hàn Phi Tử: coi trọng Hình - Danh
- Cận đại ( XIX SCN – nay )
+ Trung Quốc: Chính trị là xắp đặt lo liệu quản lý để xã hội có kỷ cương
nền nếp.
Tôn Trung Sơn cho rằng chínhviệc của dân chúng, trị quản ->
Chính trị là quản lý việc của dân chúng
Mao Trạch Đông: Chính trị là chiến tranhkhông có sự đổ máu. Và
ngược lại
+ Nhật Bản: Chính trị khát vọng hoạt động tìm kiếm những khả
năng áp đặt quyền lực chính trị
+ Việt Nam: Chính trị hoạt động của một giai cấp, một chính đảng,
một tập đoàn hội nhằm giành duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà
nước, duy trì ổn định, trật tự xã hội.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về chính trị:
+ Chính trị là lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác.
+ Chính trị quan hệ lợi ích, đấu tranh giai cấp trước hết lợi ích
giai cấp.
+ Cái căn bản nhất của chính trị việc tổ chức quyền lực nhà nước,
sự tham gia vào công việc Nhà nước, định hướng cho nhà nước, xác định
hình thức, nội dung, nhiệm vụ của Nhà nước.
+ Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dựng nhà nước
về mặt kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so
với kinh tế.
+ Chính trị giống đại số hơn số học và càng giống toán học cao cấp hơn
là toán học sơ cấp.
+ Chính trị là một khoa học và là một nghệ thuật.
=> Từ tất cả quan điểm đó thể xác định rằng Chính trị hoạt động
trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia với vấn
7
đề giành, giữ, tổ chức sử dụng quyền lực nhà nước; sự tham gia của
nhân dân vào công việc nhà nước hội; là hoạt động chính trị thực tiễn
của các giai cấp, đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những
khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thoả mãn lợi
ích.
Dưới góc độ quan hệ với kinh tế thì chính trị thực chất quan hệ về
lợi ích, là vấn đề định hướng, tạo động lực cho phát triển kinh tế.
2. Kinh tế
Cũng giống như chính trị thì kinh tế cũng có cho mình nhiều định nghĩa
khác nhau
- Theo tiếng Hy Lạp “oikonomike” (nghệ thuật quản kinh tế gia
đình) còn theo La tinh là “economic” (tính hiệu quả, tiết kiệm).
- Theo chủ nghĩa Mác nin thì kinh tế toàn bộ phương thức sản
xuất và trao đổi của một chế độ hội, là nguồn gốc của mọi biến đổi hội
và những đảo lộn chính trị .
1
- Kinh tế là một phạm trù khoa học và có thể hình dung cụ thể qua những
nội dung
+ tổng hòa các quan hệ sản xuất dựa trên một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất, tạo thành cơ sở kinh tế của một xã hội nhất định. Nền tảng
kinh tế được tạo bởi các quan hệ sở hữu vềliệu sản xuất, quan hệ tổ chức
và quan lý sản xuất, quan hệ phân phối.
+ Là yếu tố quyết định mọi biến đổi xã hội, mọi đảo lộn chính trị. Những
điều này là kết quả tất yếu của sự phát triển kinh tế.
+ Kinh tế, trong mỗi một chế độ xã hội, là nền kinh tế quốc dân, với đầy
đủ nội dung của nó.
=> Tóm lại thực chất của kinh tế là lợi ích kinh tế, hiệu quả kinh tế và
sự phát triển lực lượng sản xuất gắn liền với mỗi thành viên tham gia các
1[2, tr.371]
8
quá trình sản xuất tái sản xuất cũng như lợi ích của mỗi tập đoàn, giai
cấp và các nhóm xã hội.
Từ khái niệm về kinh tế chính trị, một lần nữa ta thể khẳng định
rằng mối quan hệ giữa hai hoạt động này là mối quan hệ cơ bản hàng đầu của
đời sống xã hội. Ở trong đời sống chính trị, quyền lực nhà nước được giai cấp
thống trị sử dụng để thực hiện xử các quan hệ kinh tế quan hệ lợi ích
kinh tế. Giai cấp cầm quyền thể thay đổi hệ thống quan hệ kinh tế khi đã
chắc chắn về quyền lực của nhà nước dễ dàng trở thành nền tảng của hệ
thống chính trị, thực hiện lợi ích của giai cấp cầm quyền với mục tiêu phát
triển xã hội toàn diện.
II. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế theo chủ nghĩa Mác – Lê nin
những người bắt rễ lý luận cho mối quan hệ giữa chính trị kinh tế
C.Mác Ph.Ăng-ghen đã xem xét, cân nhắc giải quyết những vấn đề
bắt nguồn từ sự liên quan này. Dưới góc quan sát của các nhà chính trị học
theo chủ nghĩa Mác Lê-nin thì, ta thể thấy vị trí của kinh tế - chính trị
giống như cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Kinh tế đóng một vai trò vô
cùng quan trọng, quyết định quá trình hình thành lịch sử chính trị. Đồng thời
thì kiến trúc thượng tầng chính trị cho mình tính độc lập tương đối,
tác động trở lại đối với hạ tầng cơ sở. Kinh tế thay đổi đồng nghĩa dẫn đến sự
thay đổi của chính trị hay thể coi kinh tế nội dung chính trị hình
thức. Và mâu thuẫn của kinh tế suy cho cùng quyết định mâu thuẫn trên lĩnh
vực chính trị, tưởng. Dựa trên sở nghiên cứu của C.Mác Ăng-ghen,
Lê-nin đã phát triển sâu hơn và ứng dụng lý luận vào thực tế ngay từ quá trình
xây dựng chủ nghĩa hội Liên tổng kết về bản chất của quan hệ
chính trị với kinh tế gồm hai nội dung:
9
- Chính trị sự biểu hiện tập trung của kinh tế , chính trị kinh tế
2
đọng lại .
3
- Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế .
4
1. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị là kinh tế cô
đọng lại
- Trước hết chính trị sự biểu hiện tập trung của kinh tế nghĩa điều
quan trọng nhất trong mối quan hệ này kinh tế cái quyết định. rất
nhiều biểu hiện của kinh tế trong số đó thì chính trị được coi ưu tiên
nhất. Chính trị khác với những yếu tố khác không trực tiếp nêu lên các
hiện tượng kinh tế riêng lẻ mà tập trung vào sự logic khách quan của kinh tế.
- Đầu tiên kinh tế quyết định chính trị. Tương ứng với một hình thái kinh
tế thì tồn tại một nhà nước chính trị. Kinh tế đã tạo ra chính trị với tư cách
một chế độ bao gồm: thể chế chính trị, công cụ, phương tiện để thỏa mãn nhu
cầu, mục đích chính trị. Một điều dễ dàng nhận ra khi nghiên cứu về mối quan
hệ này chính trị được nhờ sự ra đời, tồn tại từng bước phát triển của
kinh tế. Sự diễn ra của các hoạt động kinh tế với những đòi hỏi khách quan
của sự biến đổi góp phần tạo dựng sự bền vững cho sợi dây liên kết này.
+ Trong lịch sử phát triển của loài người từ khi ra đời cho đến ngày nay
thì tồn tại 5 hình thái kinh tế tương ứng với 5 kiểu nhà nước: cộng sản nguyên
thủy, chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và cộng sản chủ
nghĩa.
Cộng sản nguyên thủy: tự cung tự cấp, kinh tế thời kỳ này là tất cả mọi
người có một sự sở hữu chung về tư liệu sản xuất và công cụ lao động. Với cơ
sở kinh tế như trên thì xã hội cộng sản nguyên thủy vẫn chưa sự xuất hiện
của giai cấp nên Nhà nước chưa được thiết lập
2[8, tr.349]
3[8, tr.147]
4[8, tr.349]
10
Chiếm hữu lệ: Đến thời kỳ này con người đã tiến hóa khôn
ngoan hơn, của cải dư thừa tương đối dẫn đến việc chế độ công hữu được thay
đổi thành chế độ tư hữu. Chính mâu thuẫn về kinh tế đã mở ra một xã hội đầu
tiên nhà nước nhà nước chủ với sự tồn tại của hai giai cấp chính
chủ nô và nô lệ.
Nhà nước phong kiến: Đây nhà nước ra đời sau khi chế độ chiếm
hữu lệ tan hoặc xuất hiện trực tiếp từ sự tan của hội cộng sản
nguyên thủy. Khác với chế độ bóc lột bằng sức lao động thì sở kinh tế của
nhà nước phong kiến là phương thức sản xuất phong kiến với nét đặc trưng là
chế độ chiếm hữu ruộng đất của vua chúa phong kiến và giai cấp địa chủ.
bản chủ nghĩa: nhà nước bản ra đời với sự xuất hiện của nền
kinh tế sản xuất hàng hóa. sở quyền sở hữu nhân đối với liệu sản
xuất và hoạt động sản xuất vì lợi nhuận đã xây dựng nên hệ thống kinh tế.
Cộng sản chủ nghĩa: thể thấy đây hình thái nhà nước phát triển
cao hoàn thiện nhất. hội chủ nghĩa được hình thành theo nguyên tắc
phân phối theo lao động: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” nền
kinh tế mang tính xã hội hóa tương ứng với nền dân chủ cộng sản.
+ hội từ trước tới nay phát triển luôn tồn tại song song lúc nào
cũng hướng tới sự hoàn thiện trên nhiều phương diện. Bởi thếnếu kinh tế
mang tính thứ nhất thì chính trị chắc chắn là đứng cạnh đó. Trình độ phát triển
kinh tế quy định trình độ phát triển của chính trị. Người lao động công cụ
lao động càng phát triển thì trình độ chính trị càng phát triển.
+ Sự tập trung của chính trị chủ yếu duy chính trị, đường lối chính
trị thể chế chính trị. một lĩnh vực mang tính chính xác, thực hiện công
việc thông qua quyền lực sự thực thi các quy định thì chính trị phản ánh
kinh tế một cách khách quan hướng tới một hội công bằng khi không chú
trọng vào những nhu cầu mang tính nhân quan tâm nhiều hơn đến
những đòi hỏi thể hiện tính cộng đồng như xã hội, dân tộc, quốc gia.
11
+ Những yếu tố thuộc về lực lượng sản xuất (tư liệu sản xuất người
lao động) hay quan hệ sản xuất đều những vấn đề ảnh hưởng lớn đến kinh
tế, được chính trị khái quát chỉ ra. Bên cạnh đó thì những xu hướng biến
động, phát triển trong kinh tế trên thế giới, rồi căn cứ vào đó tìm ra thời
hội phù hợp để thực thi, áp dụng vào các hoạt động kinh tế để hướng tới
những lợi ích tốt nhất.
+ Nếu xét về cơ sở tạo nên mối quan hệ gắn bó này có thể kể đến nguyên
nhân khách quan của các hiện tượng chính trị đó chính là các quan hệ kinh tế
nói chung, các quan hệ sở hữu, quản lý, phân phối điều này còn được
C.Mác khẳng định: Để tìm ra những nguyên nhân biến đổi xã hội, những đảo
lộn chính trị, không thể tìm trong đầu óc người ta phải tìm trong những
biến đổi của phương thức sản xuất phương thức trao đổi, phải thông qua
đầu óc để phát hiện ra chúng ở trong những điều kiện vật chất hiện có của sản
xuất, phải lấy những điều kiện kinh tế và những tiến triển của những điều kiện
ấy để giải thích chính trị và lịch sử chứ không phải ngược lại .
5
- Chính trị không ngoài mục đích nào khác hướng vào sự phát triển
của kinh tế.
+ Với nhiệm vụ quyền hạn của mình, hệ thống chính trị sử dụng
những đường lối chiến lược phát triển phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế.
Các căn cứ khoa học cũng như việc phân tích đúng thực trạng kinh tế hội
lúc bấy giờ sẽ giúp cho nhà nước xác định mục tiêu phương án tối ưu
nhất. một sự qua lại nhất định rằng khi kinh tế phát triển thì chủ trương
đường lối mà Đảng và Nhà nước đó đang thực hiện là đúng đắn, có thể tồn tại
lâu dài để phát triển cao hơn ngược lại. Nhìn lại quá trình phát triển của
lịch sử loài người thì lẽ phần nào ta hiểu được tại sao lại xuất hiện nhiều
kiểu nhà nước. Việc xuất hiện của các nhà nước mới, kế tiếp nhau là biểu hiện
cho sự kế thừa khi chế độ không còn khả năng để tiếp tục tạo dựng hội
5[2, tr.42-44] C.Mác và Ph. Ăng-ghen; Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t.19, tr164-166, t.20, tr.42-
44
12
hay tìm ra hướng đi đúng cho sự phát triển kinh tế. Xây dựng chính trị chính
là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế.
VD: Nga sau 7 năm chiến tranh liên tục, nền kinh tế quốc dân bị tàn
phá nghiêm trọng. Kéo theo đó tình hình chính trị không ổn định. Các lực
lượng phản cách mạng điên cuồng chống phá gây bạo loạn ở nhiều nơi. Chính
sách cộng sản thời chiến đã lạc hậu kìm hãm nền kinh tế, tạo nhiều áp lực lên
nhân dân. Nhà nước Nga viết đã quyết định đổi mới nền kinh tế, thay thế
chính sách cộng sản thời chiến bằng chính sách “kinh tế mới NEP” do Lê-nin
khởi xướng (3/1921). Đặc điểm của chính sách NEP nền kinh tế nhiều
thành phần dưới sự kiểm soát của nhà nước, thay thế chế độ trưng thu lương
thực bằng thuế lương thực, phục hồi công nghiệp nặng, phát triển kinh tế
nhân, đẩy mạnh mối liên hệ giữa thành thị với nông thôn,… Sự thay đổi chính
sách kinh tế đã giúp Liên xô vượt qua khó khăn, khôi phục và hoàn thành chế
độ chính trị.
Còn ở Mĩ, 10/1929 rơi vào khủng hoảng kinh tế tài chính nặng ở các lĩnh
vực công nghiệp nông nghiệp. Để đưa đất nước trở lại bình thường, tổng
thống Ru-dơ-ven đã thực hiện “chính sách mới”, với các đạo luật phục hưng
công nghiệp, nông nghiệp, tăng cường vai trò của nhà nước trong kiểm soát
điều tiết nền kinh tế. Sự thay đổi này không chỉ phục hồi kinh tế còn
giúp cho nước Mĩ duy trì nền dân chủ tư sản.
+ Kinh tế là gốcthước đo tính hợp lý của chính trị. Nhìn vào một nền
chính trị của một quốc gia, tathể biết được con đường kinh tế mà nước đó
đang định hướng. Trách nhiệm của chính trị giống như mang trong mình đặc
tính quy định bản chất chế độ kinh tế - của quan hệ sản xuất thống trị, thể
hiện cụ thể qua vai trò của đảng cầm quyền, của nhà nước cai trị kết hợp cùng
hệ thống pháp luật. Trong mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế thì một trong
hai yếu tố biến đổi sẽ làm ảnh hưởng đến yếu tố còn lại. Biến đổi phát
triển kinh tế là nguồn gốc sâu xa của mọi biến đổi về hội và đảo lộn chính
trị.
13
- Kinh tế, xét đến cùng nhân tố quyết định toàn bộ lịch sử vận động
của đời sống chính trị.
+ Nhân tố kinh tế có tính quyết định nhất tác động đến đời sống chính trị
là hệ thống các quan hệ sở hữu. Theo quan điểm của C.Mác, sản xuất vật chất
hoạt động đặc trưng của con người được tiến hành bằng một phương thức
sản xuất nhất định. đó sự tồn tại thống nhất giữa lực lượng sản xuất
quan hệ sản xuất. Hầu hết các điều kiện chính trị đều được cấu thành dựa
trên các quan hệ sản xuất bởi thế mà chính trị cần được xem xét dưới cái nhìn
của một quan hệ sản xuất nhất định. Quan hệ sản xuất hay quan hệ sở hữu
mấu chốt để hình thành nên một kiến trúc thượng tầng đầy đủ.
+ Các cuộc đấu tranh giai cấp chỉ sự phản ánh các quan hệ lợi ích
kinh tế, những mâu thuẫn trong các quan hệ kinh tế. Trong quá trình vận động
phát triển, quan hệ sản xuất luôn đứng yên nhưng ngược lại thì lực lượng
sản xuất công cụ lao động luôn thay đổi. Điều này dẫn tới một thời điểm
con người lực lượng lao động công cụ lao động khi cảm thấy bất đồng
với quan hệ sản xuất sẽ dễ dàng nảy sinh mâu thuẫn. Mâu thuẫn trong lao
động lúc ấy sẽ tạo ra những mâu thuẫn trong quan hệ kinh tế đòi hỏi sự hình
thành giai cấp mới, nhà nước chính trị mới.
- Chính trị sự phản ánh, sự biểu hiện tập trung của kinh tế, đòi hỏi
chính trị hệ thống chính trị phải mang trong mình những quy luật kinh tế
khách quan.
+ mỗi hệ thống chính trị, nếu hiểu đúng, vận dụng tốt những quy luật
kinh tế khách quan thì sẽ đem lại một hiệu quả kinh tế khổng lồ đồng thời đáp
ứng được lợi ích, nhu cầu của con người. Nếu những quy luật như cạnh tranh,
cung – cầu, giá trị hay quy luật lưu thông tiền tệ không được áp dụng chỉ
biết sử dụng luận hay áp đặt quan điểm duy của giai cấp thống trị vào
quá trình xây dựng kinh tế nhà nước chính trị thì chưa chắc hội đó đã
phải hướng đi đúng dễ rơi vào tình trạng quan liêu, bao cấp.
14
+ Cấu trúc và phương thức hoạt động của chính trị phải phù hợp với quy
luật kinh tế.
+ lẽ chính trị tuy phản ánh tính tất yếu của quy luật kinh tế nhưng
không phải sao chép một cách thụ động của kinh tế thực chất nhìn qua
lăng kính duy của hệ thống các tổ chức chính trị. Lăng kính ấy cho thấy
chính trị được thể hiện trong mục tiêu, chiến lược, giải pháp, các công cụ và
phương tiện để kiểm soát, tạo bước đệm phát triển cho toàn bộ các hoạt động
kinh tế hướng tới mục tiêu của đất nước. Tùy thuộc vào định hướng phát triển
của mỗi quốc gia tạo nên sự đa dạng trong tư duy của hệ thống chính trị.
Không thể coi tất cả những nước cùng thực hiện thể chế kinh tế thị trường thì
đều có cùng một thể chế nhà nước chính trị.
VD: Nếu như ở Việt Nam là một nước cộng hòa có nền kinh tế thị trường
theo định hướng hội chủ nghĩa thì Đức lại một nhà nước dân chủ đi
theo kinh tế thị trường hội. Như vậy khi cùng tồn tại một quy luật kinh tế
khách quan nhưng có sự khác biệt rõ nét ở định hướng giai cấp cầm quyền.
2. Chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế
thể thấy, trong suốt quá trình vận động phát triển kinh tế giống
như đang chi phối toàn bộ đời sống chính trị với hàng loạt biểu hiện khác
nhau như xung đột hay sự bất đồng ở việc hình thành các giai cấp, đấu tranh
giai cấp đến sự ra đời của các nhà nước chính trị, các chính đảng. Tuy yếu
tố cốt lõi thể hiện vai trò quyết định nhưng một điều tất nhiên không
phải bất cứ lúc nào nội dung cần giải quyết cũng đều có thể bắt nguồn từ kinh
tế. Bởi vậy Lê-nin không thể phủ nhận được rằng chính trị cũng tác động
trở lại so với kinh tế.
- Thắng lợi của cuộc cách mạng chính trị là tiền đề , điều kiện cho những
biến đổi về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Những cuộc cách mạng
diễn ra chủ yếu diễn ra từ mâu thuẫn khi sự không công bằng, lấn chiếm
trong quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Và cho đến khi cuộc cách mạng
15
thành công thì hệ thống các quan hệ kinh tế được hình thành và từ đó tạo nên
cơ sở cho sự tồn tại, phát triển ổn định của chính trị. Khi một chế độ quản
lý nhà nước phù hợp, việc đổi mới quan hệ sản xuất cũng trở nên dễ dàng hơn
để thích nghi với sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Để tránh được
nhiều mâu thuẫn xảy ra nhất thì hệ thống chính trị cần đảm bảo sự an toàn,
bền vững cho những thành tựu mà kinh tế đem lại
- Chính tr tính độc lập tương đối, chính trị tác động trở lại kinh tế
theo hướng khác nhau. Dù có mối quan hệ mật thiết với kinh tế do kinh tế
quyết định nhưng không thể phủ nhận rằng chính trị còn liên quan đến
nhiều hoạt động khác chứ không riêng kinh tế. Bởi thếtính độc lập
tương đối và có quy luật vận động riêng, có thể tạo ra những nhân tố hay điều
kiện khách quan để tác động vào kinh tế.
+ Khi tác động cùng hướng, kinh tế chính trị đồng quan điểm trong
quá trình đổi mới phát triển thì tất nhiên kinh tế phát triển nhanh hơn.
trường hợp nàychính trị đã nhận thức được đúng xu thế vận động của kinh
tế từ đó đề ra cách giải quyết vấn đề nhanh gọn, chính xác nhất. Cũng có thể
hiểu rằng, lúc này chính trị giống như bàn đạp vững chắc, tạo điều kiện mở
đường cho kinh tế phát triển.
+ Còn khi đi ngược hướng, một số nước chế độ chính trị của mỗi dẫn
tộc lớn sẽ dễ dàng sụp đổ. Lúc này, chính trị giống như đã mắc sai lầm trong
tưởng hay quan điểm, bảo thủ, chưa đổi mới để phù hợp với tình hình
chung của khu vực cũng như thế giới, hệ thống quản chưa sát sao dẫn đến
hậu quả nặng nề.
+ Cản trở hướng này nhưng lại phát triển những hướng khác. Nhìn
chung thìtrường hợp này chính trịbản vẫn chưa thực sự bổ sung cho sự
gắn bó liên kết với kinh tế (Gần giống với trường hợp đi ngược hướng nhưng
chưa nghiêm trọng).
16
Bởi vậy mà muốn một xã hội luôn có sự phát triển đi lên đồng nghĩa với
việc kinh tế và chính trị phải phát triển cùng chiều, kinh tế sẽ được ảnh hưởng
tích cực qua chính khi ba phương diện: Đường lối chính sách kinh tế, thể
chế chính trị, chủ thể kinh tế.
- Chính trị định hướng, tạo môi trường chính trị - xã hội ổn định để phát
triển kinh tế. Chính trị bằng việc tổ chức, quan sát, nhìn nhận các chức năng
những năng lực vật chất, tinh thần, điều kiện tác động xung quanh để
những nhận thức trước tiên so với kinh tế, dự đoán được xu hướng vận động
trong tương lai. Từ đó định hướng nhiều khía cạnh của quá trình kinh tế gồm
+ Đường lối phát triển kinh tế được xây dựng một cách hoàn thiện
chính xác. thể kể đến một dụ điển hình như việc Trung Quốc xây dựng
thực hiện sáng kiến “Vành đai con đường”. Sáng kiến này được Chủ
tịch Tập Cận Bình đưa ra ngay sau khi nhận chức với mục tiêu kết nối Trung
Quốc với các nước khu vực Đông Á, Trung Á, Trung Đông, Đông Phi và châu
Âu để hợp tác cùng nhau phát triển kinh tế cũng như thực hiện các mục
tiêu chiến lược khác.
+ Xác định phương hướng quá trình tổ chức thể chế hoá đường lối
bằng nhiều hình thức trực tiếp, gián tiếp hay hỗn hợp. Muốn một quốc gia ổn
định phát triển bền vững thì thể chế chính trị giữ một vị trí rất quan trọng
thế việc thể chế hóa đường lối cần thực hiện đúng đủ trên các
phương diện. Thể chế hóa đường lối chủ yếu thấy được qua việc thừa nhận
những quy tắc chuẩn mực đạo đức, nhà nước thực hiện hiến pháp, pháp luật
để hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội.
+ Quản quá trình phát triển kinh tế. Như Việt Nam hiện nay, nhà
nước, bộ máy chính trị đã và đang thực hiện tốt nhiệm vụ này. Quán triệt quan
điểm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân,
nhân dân. Bên cạnh đó việc chủ động tích cực hội nhập quốc tế.
17
điều quan trọng nhất là thực hiện chức năng quản lý kinh tế của bộ máy chính
trị phải bắt nguồn từ điều kiện thực tiễn và khả năng thực hiện của đất nước.
+ Định hướng xã hội cho phát triển kinh tế. Kinh tế chính trịhội gắn
liền với nhau vậy nên muốn cho kinh tế chính trị ổn định thì hội trước hết
cần hòa bình,…
- Chính trị không chỉ quản lý lãnh đạo kinh tế mà còn tham gia kiểm soát
chặt chẽ những vấn đề then chốt của kinh tế như ngân sách, vốn, hoạt động tổ
chức, tiền tệ …
+ Bằng cách này hay cách khác thì chính trị cũng luôn mặt trong quá
trình quản kinh tế. Những con số kết quả đạt được khi các quan thuộc
lĩnh vực kinh tế đều được báo cáo đẩy đủ cho nhà nước hay quốc hội. Tương
tự thì việc xin đầu hay thu hồi vốn đều cần phải thông qua chính trị. Khi
xác lập thể chế kinh tế nhất định, chính trị đã ảnh hưởng nhiều đến cơ cấu
phương thức vận hành, phân phối sản phẩm của toàn bộ nền kinh tế qua đó
thúc đẩy hoặc nâng cao sự phát triển kinh tế. Đó cách chính trị thực
hiện chức năng quản lí của mình.
+ Thẩm định tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế. Chính trị
giống như người đại diện cho nhà nước về kinh tế, sẽ giúp xác định đúng sai
cho hoạt động kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt nhất. Đảng nhà nước ta vẫn
đang hoàn thành tốt việc thẩm tra, đánh giá, tham gia đóng góp ý kiến đối với
các vấn đề kinh tế.
=> Từ những quan điểm nêu trên thì thể khái quát lại rằng mối
quan hệ của chính trị kinh tế tạo môi trường hội ổn định, giải
phóng sức sản xuất, tạo động lực định hướng phát triển kinh tế. Đây
mối quan hệ bản, nhạy cảm phức tạp của hội, để giải quyết mối
quan hệ này cần tránh 2 khuynh hướng: Tuyệt đối hóa kinh tế và tuyệt đối
hóa chính trị.
18
III. Liên hệ thực tiễn về mối quan hệ qua quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa tên gọi Đảng
Cộng sản Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. được tả một nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục
tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Trải qua quá trình đổi mới phát triển thì thể coi đây bậc cao
nhất cũng như hoàn thiện nhất của nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế thị trường
định hướng hội chủ nghĩa đã tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển đất nước
không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả về chính trị xã hội. Ra đời tính đến nay đã
hơn 20 năm, kinh tế thị trường theo định hướng hội chủ nghĩa đã thay thế
cho nền kinh tế kinh tế kế hoạch. Đây kết quả của quá trình đổi mới
đất nước, được Đảng nhà nước nghiên cứu đưa vào thực thi cho đến ngày
nay vẫn luôn một thay đổi đúng đắn, phù hợp với tình hình của Việt Nam
cũng như khu vực. Tuy chưa hoàn thiện đầy đủ như hình kinh tế của
Trung Quốc nhưng với việc định hướng này cũng đã giúp cho nước ta cải
cách lớn về mặt kinh tế, chính trị.
- Đặc trưng bản của nền kinh tế thị trường hội chủ nghĩa Việt
Nam:
+ Mục tiêu làm cho “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
+ Trong mô hình kinh tế này tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất với bốn thành phần kinh tế chính: nhà nước, tập thể, nhân kinh tế
vốn đầu nước ngoài (trong đó kinh tế nhà nước chính). Kết hợp giữa
cơ chế thị trường với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa, bảo đảm các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
19
+ Việc phân phối được thực hiện dựa trên kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất.
+ Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - hội được
giám sát và quản lí bởi nhà nước với hàng loạt chính sách, pháp luật.
+ Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Hạn chế trong mối quan hệ giữa nền chính trị và kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Dù đã và đang thực hiện quá trình đổi mới nền chính trị cũng như kinh tế
để phù hợp với tình hình phát triển chung ở khu vực cũng như thế giới nhưng
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế chưa đáp ứng hết nhu cầu thực tiễn:
- Chính trị còn can thiệp nhiều vào kinh tế theo duy chủ quan, coi ý
chí con người điều kiện tiên quyết để cải tạo, làm thay đổi thế giới, phủ
nhận tính quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội dẫn đến cản trở trong đa
dạng hình thức cũng như thành phần kinh tế. Chưa lựa chọn được những quan
hệ sản xuất kinh tế phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế cũng như trình độ
của lực lượng sản xuất.
- Tư tưởng luận của Đảng, thái độ, ý thức trong việc xử các khủng
hoảng hay vấn đề kinh tế còn chưa chuẩn xác, cải cách hành chính năng
lực tạo dựng thể chế để đảm bảo cho doanh nghiệp, người dân được tự do
kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng còn nhiều hạn chế.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa còn nhiều
vướng mắc việc nhà nước quản kinh tế qua pháp luật nhưng thực tế thì
chất lượng luật pháp chính sách một số khía cạnh còn chưa nét. Các
văn bản luật pháp hướng dẫn đưa ra không kịp thời nên chưa chấn chỉnh được
20
những tình trạng lợi dụng luật pháp để phân chia không bình đẳng trong kinh
doanh.
- Việc đăng kinh doanh hay cạnh tranh minh bạch còn nhiều bất cập,
Đảng và bộ máy chính trị chưa toàn diện, đồng bộ được việc xử lý các vấn đề,
chưa đạt mục tiêu phát triển đất nước như thiếu tính dân chủ, tính đại chúng
hay chưa phục vụ hoàn toàn lợi ích của toàn dân.
3. Phương hướng đảm bảo mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Nói về mối quan hệ giữa kinh tế chính trị, đây được coi một trong
tám mối quan hệ lớn được Đảng Nhà nước quan tâm nêu ra trong Cương
lĩnh năm 1991. Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới trên nhiều lĩnh vực thì chính trị
và kinh tế cũng không ngoại lệ. Tại đại hội VI của Đảng đã đưa ra những chủ
trương về việc đổi mới “kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị” . Đây chính mục tiêu xuyên suốt cho việc duy trì mối quan hệ
6
giữa chính trị với kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Để thực hiện tốt nhiệm vụ quan trọng này, Việt Nam cần đảm bảo cho
việc hoàn thiện hệ thống định hướng hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nền kinh tế thị trường cần nắm vững
các nguyên tắc cơ bản:
+ Thống nhất biện chứng giữa chính trị kinh tế của quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường. Đảng lãnh đạo kinh tế không nhấn mạnh một
chiều, cứng nhắc những yêu cầu chính trị - hội phải tôn trọng, xử
thỏa đáng các quan hệ về lợi ích của cá nhân, của tầng lớp xã hội, quốc gia
dân tộc. Đồng thời, phải hướng sự phát triển kinh tế vào mục tiêu của chủ
nghĩa hội chứ không bị chị phối bởi mục đích thực dụng, không rơi vào
chủ nghĩa kinh tế.
6[3, tr.71]
| 1/25

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
------------------------- TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH TRỊ HỌC
ĐỀ TÀI: MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN QUA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: ThS Lưu Văn Thắng Sinh viên: Nguyễn Thị A
Mã số sinh viên: 2151070345
Lớp:
Hà Nội, tháng 3 năm 2022 2 MỤC LỤ
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
I. Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................3
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................3
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................4
IV. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài..........................................................4
NỘI DUNG.......................................................................................................5
I. Một số khái niệm về chính trị, kinh tế.......................................................5
1. Chính trị.....................................................................................................5
2. Kinh tế.......................................................................................................7
II. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế theo chủ nghĩa Mác – Lê nin...8
1. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị là kinh tế cô
đọng lại..............................................................................................................9
2. Chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế........................14
III. Liên hệ thực tiễn về mối quan hệ qua quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.................................17
1. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...........17
2. Hạn chế trong mối quan hệ giữa nền chính trị và kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.........................................19
3. Phương hướng đảm bảo mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.................................20
KẾT LUẬN....................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................25 3 MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể thấy, từ khi nhà nước ra đời, chính trị và kinh tế đã luôn là hai
lĩnh vực có mối quan hệ mật thiết với nhau và với cả tình hình phát triển của
đất nước. Mối quan hệ này được hình thành và kế thừa như một vị trí vững
chắc để quyết định tới sự vận động của mọi xã hội. Trải qua nhiều hình thái
nhà nước thì ở mỗi một chế độ chính trị sẽ luôn có một nền kinh tế tồn tại
thích hợp với thể chế chính trị đó. Nếu mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế
ổn định thì lẽ đương nhiên các loại hoạt động khác sẽ diễn ra một cách dễ
dàng. Sau hơn 30 năm đổi mới, mô hình kinh tế kết hợp với chính trị đã từng
bước được xác lập, phát huy tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên thì với ảnh
hưởng của đại dịch COVID-19 như hiện nay thì cần chú trọng hơn nữa thay
đổi và thích ứng hai hoạt động này sao cho theo kịp với thế giới.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị,
liên hệ thực tiễn qua quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam” là hợp lí và cấp thiết bởi đề tài này không chỉ
mang tính lý luận khô khan mà còn cần ứng dụng phù hợp.
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Làm sáng tỏ mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị, để từ đó liên hệ thực tiễn qua quá trình phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Tìm hiểu một số khái niệm về kinh tế, chính trị
+ Đưa ra mối quan hệ kinh tế và chính trị theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
+ Liên hệ qua quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta 4
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, liên hệ
thực tiễn qua quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam, từ khi ra đời cho đến ngày nay
IV. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Với bản thân, sau khi nghiên cứu đề tài này giúp em hiểu rõ hơn về sự
liên quan, gắn bó của kinh tế và chính trị. Đây là một đề tài hết sức thực tế,
đem đến cho em cái nhìn dễ dàng hơn về bộ môn chính trị học cũng như tự
đánh giá, việc nắm chắc được nội dung sẽ giúp em nhìn nhận về trách nhiệm
của bản thân trong việc góp phần xây dựng đất nước ngày nay. 5 NỘI DUNG
I. Một số khái niệm về chính trị, kinh tế 1. Chính trị
Có thể nói trải qua từng thời kì cũng như sự khác nhau về vị trí, khu vực
mà hình thành nên nhiều quan điểm về chính trị. * Phương Tây - Cổ đại:
+ Platon: Chính trị là nghệ thuật cung đình.
+ Arixtot: Chính trị là khoa học lãnh đạo con người là khoa học kiến trúc
xã hội và con người là động vật chính trị.
- Trung đại: trong vòng 5 thế kỉ thì họ cho rằng chính trị là quyền lực của
thượng đế, của chúa trời, - Cận-hiện đại:
+ Max Weber: (Nhà xã hội học Đức đầu thế kỷ XX) chính trị là khát
vọng tham gia quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các
quốc gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đoàn người trong một quốc gia.
+ Quan điểm của Mỹ: (VHCT Mỹ): Chính trị là tìm kiếm giải pháp để
thực hiện phân phối các lợi ích. Bánh lợi ích có hạn mà lòng tham thì vô đáy
ai cũng muốn nên diễn ra cuộc đấu tranh giành lấynó vì thế ai mạnh thì được
nhiều, muốn xã hội ổn định thì phải chia bớt bánh lợi ích cho các giai cấp khác.
+ Harold Laswell: Là ai lấy được cái gì khi nào, nơi nào và bằng cách nào
+ Tư sản: Chính trị là một “Nhà hát” có vở diễn, nghệ sỹ, người xem,
cách bày trí sân khấu, nhà phê bình. * Phương Đông
- Cổ đại (VIII TCN – III TCN)
+ Khổng Tử: Chính trị là công việc của người quân tử, là làm cho chính đạo, chính danh 6 + Mặc Tử: Kiêm ái
+ Hàn Phi Tử: coi trọng Hình - Danh
- Cận đại ( XIX SCN – nay )
+ Trung Quốc: Chính trị là xắp đặt lo liệu quản lý để xã hội có kỷ cương nền nếp.
 Tôn Trung Sơn cho rằng chính là việc của dân chúng, trị là quản lý ->
Chính trị là quản lý việc của dân chúng
 Mao Trạch Đông: Chính trị là chiến tranh mà không có sự đổ máu. Và ngược lại
+ Nhật Bản: Chính trị là khát vọng là hoạt động tìm kiếm những khả
năng áp đặt quyền lực chính trị
+ Việt Nam: Chính trị là hoạt động của một giai cấp, một chính đảng,
một tập đoàn xã hội nhằm giành và duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà
nước, duy trì ổn định, trật tự xã hội.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về chính trị:
+ Chính trị là lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác.
+ Chính trị là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp.
+ Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà nước, là
sự tham gia vào công việc Nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định
hình thức, nội dung, nhiệm vụ của Nhà nước.
+ Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dựng nhà nước
về mặt kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế.
+ Chính trị giống đại số hơn số học và càng giống toán học cao cấp hơn là toán học sơ cấp.
+ Chính trị là một khoa học và là một nghệ thuật.
=> Từ tất cả quan điểm đó có thể xác định rằng Chính trị là hoạt động
trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia với vấn 7
đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước; là sự tham gia của
nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội; là hoạt động chính trị thực tiễn
của các giai cấp, đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những
khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thoả mãn lợi ích.
Dưới góc độ quan hệ với kinh tế thì chính trị thực chất là quan hệ về
lợi ích, là vấn đề định hướng, tạo động lực cho phát triển kinh tế. 2. Kinh tế
Cũng giống như chính trị thì kinh tế cũng có cho mình nhiều định nghĩa khác nhau
- Theo tiếng Hy Lạp là “oikonomike” (nghệ thuật quản lý kinh tế gia
đình) còn theo La tinh là “economic” (tính hiệu quả, tiết kiệm).
- Theo chủ nghĩa Mác – Lê nin thì kinh tế là toàn bộ phương thức sản
xuất và trao đổi của một chế độ xã hội, là nguồn gốc của mọi biến đổi xã hội
và những đảo lộn chính trị1.
- Kinh tế là một phạm trù khoa học và có thể hình dung cụ thể qua những nội dung
+ Là tổng hòa các quan hệ sản xuất dựa trên một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất, tạo thành cơ sở kinh tế của một xã hội nhất định. Nền tảng
kinh tế được tạo bởi các quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức
và quan lý sản xuất, quan hệ phân phối.
+ Là yếu tố quyết định mọi biến đổi xã hội, mọi đảo lộn chính trị. Những
điều này là kết quả tất yếu của sự phát triển kinh tế.
+ Kinh tế, trong mỗi một chế độ xã hội, là nền kinh tế quốc dân, với đầy đủ nội dung của nó.
=> Tóm lại thực chất của kinh tế là lợi ích kinh tế, hiệu quả kinh tế và
sự phát triển lực lượng sản xuất gắn liền với mỗi thành viên tham gia các 1[2, tr.371] 8
quá trình sản xuất và tái sản xuất cũng như lợi ích của mỗi tập đoàn, giai
cấp và các nhóm xã hội.
Từ khái niệm về kinh tế và chính trị, một lần nữa ta có thể khẳng định
rằng mối quan hệ giữa hai hoạt động này là mối quan hệ cơ bản hàng đầu của
đời sống xã hội. Ở trong đời sống chính trị, quyền lực nhà nước được giai cấp
thống trị sử dụng để thực hiện xử lí các quan hệ kinh tế và quan hệ lợi ích
kinh tế. Giai cấp cầm quyền có thể thay đổi hệ thống quan hệ kinh tế khi đã
chắc chắn về quyền lực của nhà nước và dễ dàng trở thành nền tảng của hệ
thống chính trị, thực hiện lợi ích của giai cấp cầm quyền với mục tiêu phát
triển xã hội toàn diện.
II. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế theo chủ nghĩa Mác – Lê nin
Là những người bắt rễ lý luận cho mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã xem xét, cân nhắc kĩ và giải quyết những vấn đề
bắt nguồn từ sự liên quan này. Dưới góc quan sát của các nhà chính trị học
theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin thì, ta có thể thấy vị trí của kinh tế - chính trị
giống như cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Kinh tế đóng một vai trò vô
cùng quan trọng, quyết định quá trình hình thành lịch sử chính trị. Đồng thời
thì kiến trúc thượng tầng – chính trị có cho mình có tính độc lập tương đối,
tác động trở lại đối với hạ tầng cơ sở. Kinh tế thay đổi đồng nghĩa dẫn đến sự
thay đổi của chính trị hay có thể coi kinh tế là nội dung và chính trị là hình
thức. Và mâu thuẫn của kinh tế suy cho cùng quyết định mâu thuẫn trên lĩnh
vực chính trị, tư tưởng. Dựa trên cơ sở nghiên cứu của C.Mác và Ăng-ghen,
Lê-nin đã phát triển sâu hơn và ứng dụng lý luận vào thực tế ngay từ quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và tổng kết về bản chất của quan hệ
chính trị với kinh tế gồm hai nội dung: 9
- Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế2, chính trị là kinh tế cô đọng lại3.
- Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế4.
1. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị là kinh tế cô đọng lại
- Trước hết chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế có nghĩa điều
quan trọng nhất trong mối quan hệ này là kinh tế là cái quyết định. Có rất
nhiều biểu hiện của kinh tế và trong số đó thì chính trị được coi là ưu tiên
nhất. Chính trị khác với những yếu tố khác là nó không trực tiếp nêu lên các
hiện tượng kinh tế riêng lẻ mà tập trung vào sự logic khách quan của kinh tế.
- Đầu tiên kinh tế quyết định chính trị. Tương ứng với một hình thái kinh
tế thì tồn tại một nhà nước chính trị. Kinh tế đã tạo ra chính trị với tư cách là
một chế độ bao gồm: thể chế chính trị, công cụ, phương tiện để thỏa mãn nhu
cầu, mục đích chính trị. Một điều dễ dàng nhận ra khi nghiên cứu về mối quan
hệ này là chính trị có được nhờ sự ra đời, tồn tại và từng bước phát triển của
kinh tế. Sự diễn ra của các hoạt động kinh tế với những đòi hỏi khách quan
của sự biến đổi góp phần tạo dựng sự bền vững cho sợi dây liên kết này.
+ Trong lịch sử phát triển của loài người từ khi ra đời cho đến ngày nay
thì tồn tại 5 hình thái kinh tế tương ứng với 5 kiểu nhà nước: cộng sản nguyên
thủy, chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và cộng sản chủ nghĩa.
 Cộng sản nguyên thủy: tự cung tự cấp, kinh tế thời kỳ này là tất cả mọi
người có một sự sở hữu chung về tư liệu sản xuất và công cụ lao động. Với cơ
sở kinh tế như trên thì xã hội cộng sản nguyên thủy vẫn chưa có sự xuất hiện
của giai cấp nên Nhà nước chưa được thiết lập 2[8, tr.349] 3[8, tr.147] 4[8, tr.349] 10
 Chiếm hữu nô lệ: Đến thời kỳ này con người đã tiến hóa và khôn
ngoan hơn, của cải dư thừa tương đối dẫn đến việc chế độ công hữu được thay
đổi thành chế độ tư hữu. Chính mâu thuẫn về kinh tế đã mở ra một xã hội đầu
tiên có nhà nước – nhà nước chủ nô với sự tồn tại của hai giai cấp chính là chủ nô và nô lệ.
 Nhà nước phong kiến: Đây là nhà nước ra đời sau khi chế độ chiếm
hữu nô lệ tan rã hoặc xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của xã hội cộng sản
nguyên thủy. Khác với chế độ bóc lột bằng sức lao động thì cơ sở kinh tế của
nhà nước phong kiến là phương thức sản xuất phong kiến với nét đặc trưng là
chế độ chiếm hữu ruộng đất của vua chúa phong kiến và giai cấp địa chủ.
 Tư bản chủ nghĩa: nhà nước tư bản ra đời với sự xuất hiện của nền
kinh tế sản xuất hàng hóa. Cơ sở quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản
xuất và hoạt động sản xuất vì lợi nhuận đã xây dựng nên hệ thống kinh tế.
 Cộng sản chủ nghĩa: có thể thấy đây là hình thái nhà nước phát triển
cao và hoàn thiện nhất. Xã hội chủ nghĩa được hình thành theo nguyên tắc
phân phối theo lao động: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” và nền
kinh tế mang tính xã hội hóa tương ứng với nền dân chủ cộng sản.
+ Xã hội từ trước tới nay phát triển luôn tồn tại song song và lúc nào
cũng hướng tới sự hoàn thiện trên nhiều phương diện. Bởi thế mà nếu kinh tế
mang tính thứ nhất thì chính trị chắc chắn là đứng cạnh đó. Trình độ phát triển
kinh tế quy định trình độ phát triển của chính trị. Người lao động và công cụ
lao động càng phát triển thì trình độ chính trị càng phát triển.
+ Sự tập trung của chính trị chủ yếu ở tư duy chính trị, đường lối chính
trị và thể chế chính trị. Là một lĩnh vực mang tính chính xác, thực hiện công
việc thông qua quyền lực và sự thực thi các quy định thì chính trị phản ánh
kinh tế một cách khách quan hướng tới một xã hội công bằng khi không chú
trọng vào những nhu cầu mang tính cá nhân mà quan tâm nhiều hơn đến
những đòi hỏi thể hiện tính cộng đồng như xã hội, dân tộc, quốc gia. 11
+ Những yếu tố thuộc về lực lượng sản xuất (tư liệu sản xuất và người
lao động) hay quan hệ sản xuất đều là những vấn đề ảnh hưởng lớn đến kinh
tế, được chính trị khái quát và chỉ ra. Bên cạnh đó thì những xu hướng biến
động, phát triển trong kinh tế trên thế giới, rồi căn cứ vào đó tìm ra thời cơ
hội phù hợp để thực thi, áp dụng vào các hoạt động kinh tế để hướng tới
những lợi ích tốt nhất.
+ Nếu xét về cơ sở tạo nên mối quan hệ gắn bó này có thể kể đến nguyên
nhân khách quan của các hiện tượng chính trị đó chính là các quan hệ kinh tế
nói chung, các quan hệ sở hữu, quản lý, phân phối và điều này còn được
C.Mác khẳng định: Để tìm ra những nguyên nhân biến đổi xã hội, những đảo
lộn chính trị, không thể tìm trong đầu óc người ta mà phải tìm trong những
biến đổi của phương thức sản xuất và phương thức trao đổi, phải thông qua
đầu óc để phát hiện ra chúng ở trong những điều kiện vật chất hiện có của sản
xuất, phải lấy những điều kiện kinh tế và những tiến triển của những điều kiện
ấy để giải thích chính trị và lịch sử chứ không phải ngược lại5.
- Chính trị không ngoài mục đích nào khác là hướng vào sự phát triển của kinh tế.
+ Với nhiệm vụ và quyền hạn của mình, hệ thống chính trị sử dụng
những đường lối và chiến lược phát triển phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế.
Các căn cứ khoa học cũng như việc phân tích đúng thực trạng kinh tế xã hội
lúc bấy giờ sẽ giúp cho nhà nước xác định rõ mục tiêu và phương án tối ưu
nhất. Có một sự qua lại nhất định rằng khi kinh tế phát triển thì chủ trương
đường lối mà Đảng và Nhà nước đó đang thực hiện là đúng đắn, có thể tồn tại
lâu dài để phát triển cao hơn và ngược lại. Nhìn lại quá trình phát triển của
lịch sử loài người thì có lẽ phần nào ta hiểu được tại sao lại xuất hiện nhiều
kiểu nhà nước. Việc xuất hiện của các nhà nước mới, kế tiếp nhau là biểu hiện
cho sự kế thừa khi chế độ cũ không còn khả năng để tiếp tục tạo dựng xã hội
5[2, tr.42-44] C.Mác và Ph. Ăng-ghen; Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t.19, tr164-166, t.20, tr.42- 44 12
hay tìm ra hướng đi đúng cho sự phát triển kinh tế. Xây dựng chính trị chính
là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế.
VD: Ở Nga sau 7 năm chiến tranh liên tục, nền kinh tế quốc dân bị tàn
phá nghiêm trọng. Kéo theo đó là tình hình chính trị không ổn định. Các lực
lượng phản cách mạng điên cuồng chống phá gây bạo loạn ở nhiều nơi. Chính
sách cộng sản thời chiến đã lạc hậu kìm hãm nền kinh tế, tạo nhiều áp lực lên
nhân dân. Nhà nước Nga Xô viết đã quyết định đổi mới nền kinh tế, thay thế
chính sách cộng sản thời chiến bằng chính sách “kinh tế mới NEP” do Lê-nin
khởi xướng (3/1921). Đặc điểm của chính sách NEP là nền kinh tế nhiều
thành phần dưới sự kiểm soát của nhà nước, thay thế chế độ trưng thu lương
thực bằng thuế lương thực, phục hồi công nghiệp nặng, phát triển kinh tế tư
nhân, đẩy mạnh mối liên hệ giữa thành thị với nông thôn,… Sự thay đổi chính
sách kinh tế đã giúp Liên xô vượt qua khó khăn, khôi phục và hoàn thành chế độ chính trị.
Còn ở Mĩ, 10/1929 rơi vào khủng hoảng kinh tế tài chính nặng ở các lĩnh
vực công nghiệp và nông nghiệp. Để đưa đất nước trở lại bình thường, tổng
thống Ru-dơ-ven đã thực hiện “chính sách mới”, với các đạo luật phục hưng
công nghiệp, nông nghiệp, tăng cường vai trò của nhà nước trong kiểm soát
và điều tiết nền kinh tế. Sự thay đổi này không chỉ phục hồi kinh tế mà còn
giúp cho nước Mĩ duy trì nền dân chủ tư sản.
+ Kinh tế là gốc là thước đo tính hợp lý của chính trị. Nhìn vào một nền
chính trị của một quốc gia, ta có thể biết được con đường kinh tế mà nước đó
đang định hướng. Trách nhiệm của chính trị giống như mang trong mình đặc
tính quy định bản chất và chế độ kinh tế - của quan hệ sản xuất thống trị, thể
hiện cụ thể qua vai trò của đảng cầm quyền, của nhà nước cai trị kết hợp cùng
hệ thống pháp luật. Trong mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế thì một trong
hai yếu tố mà biến đổi sẽ làm ảnh hưởng đến yếu tố còn lại. Biến đổi phát
triển kinh tế là nguồn gốc sâu xa của mọi biến đổi về xã hội và đảo lộn chính trị. 13
- Kinh tế, xét đến cùng là nhân tố quyết định toàn bộ lịch sử vận động
của đời sống chính trị.
+ Nhân tố kinh tế có tính quyết định nhất tác động đến đời sống chính trị
là hệ thống các quan hệ sở hữu. Theo quan điểm của C.Mác, sản xuất vật chất
là hoạt động đặc trưng của con người được tiến hành bằng một phương thức
sản xuất nhất định. Ở đó có sự tồn tại và thống nhất giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Hầu hết các điều kiện chính trị đều được cấu thành dựa
trên các quan hệ sản xuất bởi thế mà chính trị cần được xem xét dưới cái nhìn
của một quan hệ sản xuất nhất định. Quan hệ sản xuất hay quan hệ sở hữu là
mấu chốt để hình thành nên một kiến trúc thượng tầng đầy đủ.
+ Các cuộc đấu tranh giai cấp chỉ là sự phản ánh các quan hệ lợi ích
kinh tế, những mâu thuẫn trong các quan hệ kinh tế. Trong quá trình vận động
và phát triển, quan hệ sản xuất luôn đứng yên nhưng ngược lại thì lực lượng
sản xuất và công cụ lao động luôn thay đổi. Điều này dẫn tới một thời điểm
con người – lực lượng lao động và công cụ lao động khi cảm thấy bất đồng
với quan hệ sản xuất sẽ dễ dàng nảy sinh mâu thuẫn. Mâu thuẫn trong lao
động lúc ấy sẽ tạo ra những mâu thuẫn trong quan hệ kinh tế đòi hỏi sự hình
thành giai cấp mới, nhà nước chính trị mới.
- Chính trị là sự phản ánh, sự biểu hiện tập trung của kinh tế, đòi hỏi
chính trị và hệ thống chính trị phải mang trong mình những quy luật kinh tế khách quan.
+ Ở mỗi hệ thống chính trị, nếu hiểu đúng, vận dụng tốt những quy luật
kinh tế khách quan thì sẽ đem lại một hiệu quả kinh tế khổng lồ đồng thời đáp
ứng được lợi ích, nhu cầu của con người. Nếu những quy luật như cạnh tranh,
cung – cầu, giá trị hay quy luật lưu thông tiền tệ không được áp dụng mà chỉ
biết sử dụng lý luận hay áp đặt quan điểm duy lí của giai cấp thống trị vào
quá trình xây dựng kinh tế và nhà nước chính trị thì chưa chắc xã hội đó đã
phải hướng đi đúng dễ rơi vào tình trạng quan liêu, bao cấp. 14
+ Cấu trúc và phương thức hoạt động của chính trị phải phù hợp với quy luật kinh tế.
+ Có lẽ chính trị tuy phản ánh tính tất yếu của quy luật kinh tế nhưng
không phải sao chép một cách thụ động của kinh tế mà thực chất là nhìn qua
lăng kính tư duy của hệ thống các tổ chức chính trị. Lăng kính ấy cho thấy
chính trị được thể hiện trong mục tiêu, chiến lược, giải pháp, các công cụ và
phương tiện để kiểm soát, tạo bước đệm phát triển cho toàn bộ các hoạt động
kinh tế hướng tới mục tiêu của đất nước. Tùy thuộc vào định hướng phát triển
của mỗi quốc gia mà tạo nên sự đa dạng trong tư duy của hệ thống chính trị.
Không thể coi tất cả những nước cùng thực hiện thể chế kinh tế thị trường thì
đều có cùng một thể chế nhà nước chính trị.
VD: Nếu như ở Việt Nam là một nước cộng hòa có nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì ở Đức lại là một nhà nước dân chủ đi
theo kinh tế thị trường xã hội. Như vậy khi cùng tồn tại một quy luật kinh tế
khách quan nhưng có sự khác biệt rõ nét ở định hướng giai cấp cầm quyền.
2. Chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế
Có thể thấy, trong suốt quá trình vận động và phát triển kinh tế giống
như đang chi phối toàn bộ đời sống chính trị với hàng loạt biểu hiện khác
nhau như xung đột hay sự bất đồng ở việc hình thành các giai cấp, đấu tranh
giai cấp đến sự ra đời của các nhà nước chính trị, các chính đảng. Tuy là yếu
tố cốt lõi thể hiện vai trò quyết định nhưng có một điều tất nhiên là không
phải bất cứ lúc nào nội dung cần giải quyết cũng đều có thể bắt nguồn từ kinh
tế. Bởi vậy mà Lê-nin không thể phủ nhận được rằng chính trị cũng tác động
trở lại so với kinh tế.
- Thắng lợi của cuộc cách mạng chính trị là tiền đề , điều kiện cho những
biến đổi về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Những cuộc cách mạng
diễn ra chủ yếu diễn ra từ mâu thuẫn khi có sự không công bằng, lấn chiếm
trong quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Và cho đến khi cuộc cách mạng 15
thành công thì hệ thống các quan hệ kinh tế được hình thành và từ đó tạo nên
cơ sở cho sự tồn tại, phát triển ổn định của chính trị. Khi có một chế độ quản
lý nhà nước phù hợp, việc đổi mới quan hệ sản xuất cũng trở nên dễ dàng hơn
để thích nghi với sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Để tránh được
nhiều mâu thuẫn xảy ra nhất thì hệ thống chính trị cần đảm bảo sự an toàn,
bền vững cho những thành tựu mà kinh tế đem lại
- Chính trị có tính độc lập tương đối, chính trị tác động trở lại kinh tế
theo hướng khác nhau. Dù có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và do kinh tế
quyết định nhưng không thể phủ nhận rằng chính trị còn có liên quan đến
nhiều hoạt động khác chứ không riêng kinh tế. Bởi thế mà nó có tính độc lập
tương đối và có quy luật vận động riêng, có thể tạo ra những nhân tố hay điều
kiện khách quan để tác động vào kinh tế.
+ Khi tác động cùng hướng, kinh tế và chính trị đồng quan điểm trong
quá trình đổi mới và phát triển thì tất nhiên kinh tế phát triển nhanh hơn. Ở
trường hợp này là chính trị đã nhận thức được đúng xu thế vận động của kinh
tế từ đó đề ra cách giải quyết vấn đề nhanh gọn, chính xác nhất. Cũng có thể
hiểu rằng, lúc này chính trị giống như bàn đạp vững chắc, tạo điều kiện mở
đường cho kinh tế phát triển.
+ Còn khi đi ngược hướng, ở một số nước chế độ chính trị của mỗi dẫn
tộc lớn sẽ dễ dàng sụp đổ. Lúc này, chính trị giống như đã mắc sai lầm trong
tư tưởng hay quan điểm, bảo thủ, chưa đổi mới để phù hợp với tình hình
chung của khu vực cũng như thế giới, hệ thống quản lí chưa sát sao dẫn đến hậu quả nặng nề.
+ Cản trở ở hướng này nhưng lại phát triển ở những hướng khác. Nhìn
chung thì ở trường hợp này chính trị cơ bản vẫn chưa thực sự bổ sung cho sự
gắn bó liên kết với kinh tế (Gần giống với trường hợp đi ngược hướng nhưng chưa nghiêm trọng). 16
Bởi vậy mà muốn một xã hội luôn có sự phát triển đi lên đồng nghĩa với
việc kinh tế và chính trị phải phát triển cùng chiều, kinh tế sẽ được ảnh hưởng
tích cực qua chính khi ở ba phương diện: Đường lối chính sách kinh tế, thể
chế chính trị, chủ thể kinh tế.
- Chính trị định hướng, tạo môi trường chính trị - xã hội ổn định để phát
triển kinh tế. Chính trị bằng việc tổ chức, quan sát, nhìn nhận các chức năng
và những năng lực vật chất, tinh thần, điều kiện tác động xung quanh để có
những nhận thức trước tiên so với kinh tế, dự đoán được xu hướng vận động
trong tương lai. Từ đó định hướng nhiều khía cạnh của quá trình kinh tế gồm
+ Đường lối phát triển kinh tế được xây dựng một cách hoàn thiện và
chính xác. Có thể kể đến một ví dụ điển hình như việc Trung Quốc xây dựng
và thực hiện sáng kiến “Vành đai và con đường”. Sáng kiến này được Chủ
tịch Tập Cận Bình đưa ra ngay sau khi nhận chức với mục tiêu kết nối Trung
Quốc với các nước khu vực Đông Á, Trung Á, Trung Đông, Đông Phi và châu
Âu để hợp tác và cùng nhau phát triển kinh tế cũng như thực hiện các mục tiêu chiến lược khác.
+ Xác định rõ phương hướng quá trình tổ chức thể chế hoá đường lối
bằng nhiều hình thức trực tiếp, gián tiếp hay hỗn hợp. Muốn một quốc gia ổn
định và phát triển bền vững thì thể chế chính trị giữ một vị trí rất quan trọng
vì thế mà việc thể chế hóa đường lối cần thực hiện đúng và đủ trên các
phương diện. Thể chế hóa đường lối chủ yếu thấy được qua việc thừa nhận
những quy tắc chuẩn mực đạo đức, nhà nước thực hiện hiến pháp, pháp luật
để hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội.
+ Quản lý quá trình phát triển kinh tế. Như ở Việt Nam hiện nay, nhà
nước, bộ máy chính trị đã và đang thực hiện tốt nhiệm vụ này. Quán triệt quan
điểm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Bên cạnh đó là việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Và 17
điều quan trọng nhất là thực hiện chức năng quản lý kinh tế của bộ máy chính
trị phải bắt nguồn từ điều kiện thực tiễn và khả năng thực hiện của đất nước.
+ Định hướng xã hội cho phát triển kinh tế. Kinh tế chính trị xã hội gắn
liền với nhau vậy nên muốn cho kinh tế chính trị ổn định thì xã hội trước hết cần hòa bình,…
- Chính trị không chỉ quản lý lãnh đạo kinh tế mà còn tham gia kiểm soát
chặt chẽ những vấn đề then chốt của kinh tế như ngân sách, vốn, hoạt động tổ chức, tiền tệ …
+ Bằng cách này hay cách khác thì chính trị cũng luôn có mặt trong quá
trình quản lí kinh tế. Những con số kết quả đạt được khi các cơ quan thuộc
lĩnh vực kinh tế đều được báo cáo đẩy đủ cho nhà nước hay quốc hội. Tương
tự thì việc xin đầu tư hay thu hồi vốn đều cần phải thông qua chính trị. Khi
xác lập thể chế kinh tế nhất định, chính trị đã ảnh hưởng nhiều đến cơ cấu và
phương thức vận hành, phân phối sản phẩm của toàn bộ nền kinh tế qua đó
thúc đẩy hoặc nâng cao sự phát triển kinh tế. Đó là cách mà chính trị thực
hiện chức năng quản lí của mình.
+ Thẩm định tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế. Chính trị
giống như người đại diện cho nhà nước về kinh tế, sẽ giúp xác định đúng sai
cho hoạt động kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt nhất. Đảng và nhà nước ta vẫn
đang hoàn thành tốt việc thẩm tra, đánh giá, tham gia đóng góp ý kiến đối với các vấn đề kinh tế.
=> Từ những quan điểm nêu trên thì có thể khái quát lại rằng mối
quan hệ của chính trị và kinh tế là tạo môi trường xã hội ổn định, giải
phóng sức sản xuất, tạo động lực và định hướng phát triển kinh tế. Đây là
mối quan hệ cơ bản, nhạy cảm và phức tạp của xã hội, để giải quyết mối
quan hệ này cần tránh 2 khuynh hướng: Tuyệt đối hóa kinh tế và tuyệt đối
hóa chính trị. 18
III. Liên hệ thực tiễn về mối quan hệ qua quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng
Cộng sản Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nó được mô tả là một nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục
tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Trải qua quá trình đổi mới và phát triển thì có thể coi đây là bậc cao
nhất cũng như hoàn thiện nhất của nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển đất nước
không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả về chính trị xã hội. Ra đời tính đến nay đã
hơn 20 năm, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thay thế
cho nền kinh tế cũ – kinh tế kế hoạch. Đây là kết quả của quá trình đổi mới
đất nước, được Đảng và nhà nước nghiên cứu đưa vào thực thi cho đến ngày
nay vẫn luôn là một thay đổi đúng đắn, phù hợp với tình hình của Việt Nam
cũng như khu vực. Tuy chưa hoàn thiện đầy đủ như mô hình kinh tế của
Trung Quốc nhưng với việc định hướng này cũng đã giúp cho nước ta cải
cách lớn về mặt kinh tế, chính trị.
- Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
+ Mục tiêu là làm cho “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
+ Trong mô hình kinh tế này tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất với bốn thành phần kinh tế chính: nhà nước, tập thể, tư nhân và kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài (trong đó kinh tế nhà nước là chính). Kết hợp giữa
cơ chế thị trường với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. 19
+ Việc phân phối được thực hiện dựa trên kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất.
+ Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội được
giám sát và quản lí bởi nhà nước với hàng loạt chính sách, pháp luật.
+ Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Hạn chế trong mối quan hệ giữa nền chính trị và kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Dù đã và đang thực hiện quá trình đổi mới nền chính trị cũng như kinh tế
để phù hợp với tình hình phát triển chung ở khu vực cũng như thế giới nhưng
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế chưa đáp ứng hết nhu cầu thực tiễn:
- Chính trị còn can thiệp nhiều vào kinh tế theo tư duy chủ quan, coi ý
chí con người là điều kiện tiên quyết để cải tạo, làm thay đổi thế giới, phủ
nhận tính quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội dẫn đến cản trở trong đa
dạng hình thức cũng như thành phần kinh tế. Chưa lựa chọn được những quan
hệ sản xuất kinh tế phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế cũng như trình độ
của lực lượng sản xuất.
- Tư tưởng lý luận của Đảng, thái độ, ý thức trong việc xử lý các khủng
hoảng hay vấn đề kinh tế còn chưa chuẩn xác, cải cách hành chính và năng
lực tạo dựng thể chế để đảm bảo cho doanh nghiệp, người dân được tự do
kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng còn nhiều hạn chế.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều
vướng mắc ở việc nhà nước quản lý kinh tế qua pháp luật nhưng thực tế thì
chất lượng luật pháp và chính sách ở một số khía cạnh còn chưa rõ nét. Các
văn bản luật pháp hướng dẫn đưa ra không kịp thời nên chưa chấn chỉnh được 20
những tình trạng lợi dụng luật pháp để phân chia không bình đẳng trong kinh doanh.
- Việc đăng kí kinh doanh hay cạnh tranh minh bạch còn nhiều bất cập,
Đảng và bộ máy chính trị chưa toàn diện, đồng bộ được việc xử lý các vấn đề,
chưa đạt mục tiêu phát triển đất nước như thiếu tính dân chủ, tính đại chúng
hay chưa phục vụ hoàn toàn lợi ích của toàn dân.
3. Phương hướng đảm bảo mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Nói về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đây được coi là một trong
tám mối quan hệ lớn được Đảng và Nhà nước quan tâm nêu ra trong Cương
lĩnh năm 1991. Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới trên nhiều lĩnh vực thì chính trị
và kinh tế cũng không ngoại lệ. Tại đại hội VI của Đảng đã đưa ra những chủ
trương về việc đổi mới “kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị”6. Đây chính là mục tiêu xuyên suốt cho việc duy trì mối quan hệ
giữa chính trị với kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Để thực hiện tốt nhiệm vụ quan trọng này, Việt Nam cần đảm bảo cho
việc hoàn thiện hệ thống định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nền kinh tế thị trường cần nắm vững các nguyên tắc cơ bản:
+ Thống nhất biện chứng giữa chính trị và kinh tế của quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường. Đảng lãnh đạo kinh tế không nhấn mạnh một
chiều, cứng nhắc những yêu cầu chính trị - xã hội mà phải tôn trọng, xử lý
thỏa đáng các quan hệ về lợi ích của cá nhân, của tầng lớp xã hội, quốc gia và
dân tộc. Đồng thời, phải hướng sự phát triển kinh tế vào mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội chứ không bị chị phối bởi mục đích thực dụng, không rơi vào chủ nghĩa kinh tế. 6[3, tr.71]