



















Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KĨ THUẬT TP HỒ CHÍ MINH KHOA ĐÀO TẠO QUỐC TẾ MÔN HỌC : T RIẾT HỌC MÁC LÊNIN TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI : MỐI QUAN HỆ GIỮA TỰ NHIÊN VỚI XÃ HỘI VÀ
VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
GVHD:PGS.TS Đoàn Đức Hiếu
SVTH: 1. Phùng Anh Tuấn: 23143087
2. Lê Quốc Thắng: 23143080 1
Nhận xét của giảng viên
………………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
…………………………………………………………… ……………………
Điểm: …………… Ký tên 2 Mục lục:
I. Lời mở đầu: ........................................................................ 4
1. Lý do chọn đề tài: ............................................................... 4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: ...................................... 5
3. Đối tượng nghiên cứu: ......................................................... 5
II. Nội Dung: .......................................................................... 6
Chương 1: Cơ sở lý luận......................................................... 6
1. Khái niệm về tự nhiên, xã hội ........................................... 6
1.1 Tự nhiên: ........................................................................... 6
1.2 Xã hội: ............................................................................... 6
2. Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội ................................ 6
2.1 Xã hội – bộ phận đặc thù của tự nhiên ............................... 7
2.2 Tự nhiên – Nền tảng của xã hội ......................................... 8
2.3 Tác động của xã hội đến tự nhiên ...................................... 9
2.4 Những yếu tố tác động đến mối quan hệ và xã hội ............ 11
2.5 Con người với tự nhiên và xã hội ...................................... 13
Chương 2: Vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam ................. 14
2.1 Môi trường là gì ? Vai trò của môi trường đối với đời sống ... 14
2.2 Thực trạng .............................................................................. 17
2.3 Nguyên nhân ........................................................................... 19
2.4 Hậu quả................................................................................... 20
2.5 Giải pháp ................................................................................ 21
Kết luận ....................................................................................... 26
Tài liệu tham khảo ...................................................................... 27 3 I. Lời mở đầu: 1. Lý do chọn đề tài: - Thế g ới
i chúng ta sinh sống được cấu thành từ rất nhiều
các mối quan hệ, từ những mối quan hệ vô cơ đơn giản
cho đến những mối quan hệ hữu cơ vô phức tạp. Trong đó
, hai yếu tố tự nhiên và xã hội cũng là một trong những
mối quan hệ biện chứng cơ bản. Chúng chính là nền tảng
cho sự tồn tại của thế giới loài người hiện nay. Bởi lẽ thế
giới chúng ta hình thành không chỉ các yếu tố tự nhiên để
tạo nên những điều kiện sống tất yếu mà còn cần đến xã
hội và quy luật của xã hội. Chính vì vậy tìm hiểu mối
quan hệ giữa tự nhiên và xã hội chính là tìm hiểu về điều
căn bản nhất trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới.
- Song song với đó, yếu tố con người cũng tác động mạnh
mẽ đến tự nhiên và xã hội. Từ khi xuất hiện, loài người
đã được tạo hóa ưu ái ban cho tự nhiên, nơi cung cấp môi
trường sống và những yếu tố cơ bản để tồn tại và phát
triển. Trải qua hàng triệu năm tiến hóa, con người dần trở
nên hoàn thiện hơn, ngày càng phát triển hơn. Điều này
mang đến những tác động tích cực cũng như là tiêu cực
đối với tự nhiên. Cho đến xã hội loài người hiện nay thì
phần tiêu cực trở nên phổ biến hơn. Nguyên nhân chủ
yếu là do con người gây nên, sự toàn phá của con gây ra
những hậu quả nặng nề cho tự nhiên và chính con người
cũng là nhân tố bị ảnh hưởng nhiều nhất. Ở V ệ i t Nam, ô 4
nhiễm môi trường đang gây ra ảnh hưởng rất lớn và là
vấn đề nhức nhối và vô cùng cấp thiết ,đáng báo động.
2. Mục đích chọn đề tài nghiên cứu:
- Nội dung tiểu luận nêu lại quan điểm về vấn đề Triết học
chủ nghĩa Mác-Lênin về “Quan hệ giữa tự nhiên và xã
hội và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay của Việt
Nam’’. Nhằm nêu rõ những hậu quả và tác hại nặng nề
của ô nhiễm môi trường gây ra cho đời sống xã hội loài
người. Từ đó tuyên truyền thay đổi nhận thức của những
cá nhân trong xã hội để từ nhận thức tạo ra hành động
góp phần thay đổi môi trường theo hướng tích cực.
- Xem xét những yếu tố tác động đến môi trường, làm rõ
mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, bàn về tác động qua
lại giữa chúng, tìm hiểu về thực trạng, nguyên nhân và
hậu quả ô nhiễm môi trường sinh thái ở V ệ i t Nam hiện
nay. Đồng thời đưa ra những giải pháp khắc phục và hạn
chế tối đa những tác động tiêu cực đến môi trường.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Xem xét những yếu tố tác động đến môi trường, làm rõ
mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, bàn về tác động qua
lại giữa chúng, tìm hiểu về thực trạng, nguyên nhân và
hậu quả ô nhiễm môi trường sinh thái ở V ệ i t Nam hiện
nay. Đồng thời đưa ra những giải pháp khắc phục và hạn
chế tối đa những tác động tiêu cực đến môi trường. 5 II. Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận
1. Khái niệm về tự nhiên xã hội 1.1 Tự nhiên:
* Tự nhiên theo nghĩa rộng: Là toàn bộ t ế h giới v ật chất
tồn tại khách quan. Với nghĩa này thì con người, xã hội
loài người là một bộ phận, hơn nữa là một bộ phận đặc thù của thế g ới i tự nhiên.
- Xét về mặt tiến hoá, con người có nguồn gốc từ tự nhiên,
là con đẻ của tự nhiên, là sản phẩm và là sản phẩm cao
nhất của quá trình tiến hoá của thế giới vật chất. Con
người với bộ óc hoàn chỉnh là sản phẩm của thế giới vật chất.
* Tự nhiên theo nghĩa hẹp: Gồm toàn bộ thế giới vật chất
không kể lĩnh vực xã hội (khi nghiên cứu quan hệ tự
nhiên -xã hội ở đây là tự nhiên theo nghĩa hẹp đặc biệt là môi trường tự nhiên.)
1.2 Xã hội: là một nhóm những cá nhân liên quan đến
tương tác xã hội một cách thường xuyên, hoặc một nhóm
xã hội lớn có chung lãnh thổ không gian hoặc xã hội,
thường chịu cùng thẩm quyền chính trị và các kỳ vọng văn hóa chi phối.
2. Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội: 6
2.1 Xã hội – Bộ phận đặc thù của tự nhiên:
- Theo định nghĩa tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại
khách quan vậy con người và xã hội loài người cũng là một
bộ phận của thế giới vật chất ấy - con người và xã hội cũng
là bộ phận của tự nhiên. Nguồn gốc của con người là tự nhiên.
- Quá trình phát triễn của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và
theo quy luật tiến hóa, trong những điều kiện nhất định,
con người đã xuất hiện từ động vật. Con người sống
trong giới tự nhiên như mọi sinh vật khác bởi con người
là một sinh vật của tự nhiên.
- Ngay cả bộ óc con người, cái mà con người vẫn tự hào
cũng chính là sản phẩm cao nhất của vật chất. Chính tự
nhiên là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của con
người. Con người ra đời không chỉ nhờ những quy luật
sinh học mà còn nhờ lao động.
- Lao động là một quá trình được tiến hành giữa con người
với tự nhiên, trong quá trình này con người khai thác và
cải tiến giới tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của
mình. Trong lao động cấu tạo cơ thể người dần hoàn
thiện và do nhu cầu trao đổi thông tin ngôn ngữ xuất
hiện. Lao động và ngôn ngữ là hai kích thích chủ yếu
chuyển biến bộ não động vật thành bộ não người, tâm lý
động vật thành tâm lý người. 7
- Sự hình thành con người đi kèm với sự hình thành các
quan hệ giữa người với người, cộng đồng người dần thay
đổi từ mang tính bầy đàn sang một cộng đồng mớikhác
hẳn về chất, ta gọi đó là xã hội. Đây cũng là quá trình
chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội.
2.2 Tự nhiên – nền tảng của xã hội:
- Xã hội và tự nhiên thống nhất với nhau nên nó tương tác
với nhau. Đây là một mối quan hệ biện chứng hai chiều:
- Tự nhiên vô cùng quan trọng với xã hội Tự nhiên vừa là
nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường tồn
tại và phát triển của xã hội. Tự nhiên là nguồn gốc của sự
xuất hiện xã hội vì xã hội được hình thành trong sự tiến
hóa của thế giới vật chất.
- Tự nhiên là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì
chính tự nhiên đã cung cấp những điều kiện cần thiết nhất
cho sự sống của con người và cũng chỉ có tự nhiên mới
cung cấp được những điều kiện cần thiết cho các hoạt
động sản xuất xã hội.
- Theo Mác, con người không thể sáng tạo ra được cái gì
nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới hữu
hình bên ngoài. Đó là vật liệu trong đó lao động của con
người được thực hiện, trong đó lao động của con người
tác động, từ đó và nhờ đó, lao độn của con người sản xuất ra sản phẩm. 8
- Tóm lại tự nhiên đã xung cấp mọi thứ cho sự tồn tại của
xã hội, mọi thứ mà lao động của con người cần. Mà chính
lao động đã tạo ra con người và xã hội do đó vai trò của
tự nhiên với xã hội là vô cùng to lớn. Tự nhiên có thể tác
động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất xã hội; có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm xã hội phát triển bởi nó là nền tảng của xã hội.
2.3 Tác động của xã hội đến tự nhiên:
- Tự nhiên tác động đế xã hội nhiều như thế nào thì xã hội
cũng tác động lại vào tự nhiên như thế. Trước hết phải
khẳng định lại rằng xã hội là một bộ phận của tự nhiên
như vậy mỗi thay đổi của xã hội cũng có nghĩa là tự
nhiên thay đổi. Bên cạnh đó xã hội còn tương tác với
phần còn lại của tự nhiên một cách mạnh mẽ.
- Sự tương tác này thông qua các hoạt động thực tiễn của
con người trước hết là quá trình lao động sản xuất. Lao
động là đặc trưng cơ bản đầu tiên phân biệt hoạt động của
con người với động vật. Song lao động cũng là yếu tố
đầu tiên, cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống
nhất hữu cơ giữa xã hội và tự nhiên.
- Bởi "lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con
người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động
của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và 9
kiểm soát sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên". Sự trao
đổi chất giữa con người và tự nhiên thể hiện ở chỗ: tự
nhiên cung cấp cho con người điều kiện vật chất để con
người sống và tiến hành hoạt động sản xuất.
- Cũng chính trong quá trình sử dụng những nguồn vật
chất này con người đã làm biến đổi nó và các điều kiện
môi trường xung quanh tức là làm biến đổi tự nhiên một
cách mạnh mẽ. Hoạt động sống và lao động sản xuất của
con người trong xã hội là vô cùng phong phú nên sự tác
động vào tự nhiên cũng vô cùng phong phú nên sự tác
động vào tự nhiên cũng vô cùng phong phú như khai thác
khoáng sản, đánh bắt cá hay kể cả đốt rừng, đẩy trả rác thải ra tự nhiên...
- Thực tế xã hội luôn tác động tự nhiên. Giờ đây với sức
mạnh của khoa học công nghệ, một lực lượng dân số
khổng lồ, sự tác động này trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ
hết. Vấn đề hiện nay là trong quá trình tác động này con
người cần kiểm tra, điều tiết việc sử dụng khai thác, bảo
quản các nguồn vật chất của tự nhiên, nếu không thì
khủng hoảng sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự nhiên
- xã hội sẽ bị đe dọa. 10
- Ấy vậy mà hiện nay con người lại đang đi ngược lại với
những điều đúng đắn: Con người chính là sinh vật có khả
năng làm biến đổi tự nhiên nhiều nhất - Chính vì vậy họ
đang là sinh vật tàn phá thiên nhiên khủng khiếp nhất.
- Tóm lại trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên xã
hội có vai trò ngày càng quan trọng. Để giữ gìn môi
trường tồn tại và phát triển của mình con người cần nắm
chắc các qui luật tự nhiên, kiểm tra điều tiết sử dụng hợp
lí, bảo quản khai thác có hiệu quả đảm bảo khả năng tái
tạo các nguồn vật chất của tự nhiên, đảm bảo cân bằng hệ
thống tự nhiên - xã hội.
2.4 Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội:
- Có nhiều yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên
và xã hội trong đó quan trọng nhất là trình độ phát triển
của xã hội và sự độ nhận thức, vận dụng qui luật tự
nhiên, xã hội vào hoạt động thực tiễn của con người. Mối
quan hệ tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ phát
triển của xã hội: Thông qua các hoạt động của con người
lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội đã trở nên gắn bó và quy định lẫn nhau.
- Sự gắn bó và quy định này phụ thuộc vào trình độ phát
triển của xã hội mà tiêu chí để đánh giá là phương thức 11
sản xuất. Sự ra đời của những phương thức sản xuất mới
quyết định sự biến chuyển về chất của xã hội loài người.
- Chính phương thức sản xuất quy định tính chất của mối
quan hệ giữa tự nhiên và xã hội vì mỗi phương thức sản
xuất khác nhau sẽ có những công cụ lao động khác nhau
để khai thác giới tự nhiên, sẽ có những mục đích tiến
hành sản xuất khác nhau. Khi công cụ thay đổi, mục đích
sản xuất của mỗi chế độ sản xuất thay đổi thì tính chất
của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên cũng thay đổi theo.
- Ngày nay, khi có khoa học và kĩ thuật phát triển song với
chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa thì con người coi
tự nhiên không chỉ là môi trường sống mà còn là đối
tượng chiếm đoạt nhằm mục đích lợi nhuận. Khủng
hoảng môi trường đã xảy ra ở nhiều nơi và đang đe dọa
sự sống của nhân loại.
- Để tồn tại và phát triển con người phải chung sống hòa
bình với thiên nhiên, thay đổi cách đối xử với tự nhiên
mà quan trọng nhất là phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa - nguồn gốc sâu xa của việc phá hoại tự
nhiên nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Nhiệm vụ này là nhiệm
vụ của tất cả mọi người. Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã 12
hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng các
quy luật trong hoạt động thực tiễn: Mối quan hệ giữa tự
nhiên và con người được thể hiện thông qua hoạt động
của con người. Song con người hành động theo suy nghĩ
do đó mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào
trình độ nhận thức, trước hết là nhận thức các quy luật và
việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn.
- Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo quy
luật thì con người đã tạo ra một thế giới hài hỏa, thuận lợi
cho sự phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại, nếu làm
trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái có sẵn
trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự nhiên
và việc phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội là không tránh khỏi.
2.5 Con người với tự nhiên và xã hội:
- Con người là sự hiện thân giữa sự thống nhất của tự nhiên
và xã hội. Con người là sản phẩm của tự nhiên. Conngười
tạo ra xã hội, con người vốn tồn tại trong tự
nhiên nhưng khi tạo ra xã hội con người vốn không thể
tách rời khỏi xã hội. Con người sống trong môi trường xã
hội ,trong mối quan hệ giữa con người với con người. Vì
thế con người mang bản tính xã hội và bản chất tự nhiên. 13
- Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình
độ nhận thức và vận dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn.
- Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người được thể hiện
thông qua hành động của con người. Song con người
hành động theo suy nghĩ do đó mối quan hệ giữa con
người và xã hội phụ thuộc vào sự nhận thức của con
người,trước hết nhận thức về cái đúng và vận dụng vào
thực tiễn.-Nếu con người nhận thức tốt và áp dụng trong
thực tiễn sẽ tạo ra một thế giới hài hòa ,thuận lợi cho sự
phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại, nếu con người
nhận thức xấu và vận dụng vào thực tiễn sẽ gây ra ô
nhiễm môi trường và sinh vật bị ảnh hưởng nặng nè nhất
chính là con người. Vì vậy, ý thức của mỗi con người có
vai trò cực kỳ quan trọng đối với tự nhiên.
Chương 2: Vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam
2.1 Môi trường là gì ? Vai trò của môi trường đối với đời sống ?
- Môi trường là toàn bộ các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân
tạo bao quanh con người. Theo đó, các yếu tố này có ảnh
hưởng tới đời sống, kinh tế, xã hội cũng sự tự tồn tại,
phát triển của con người, sinh vật và tự nhiên.
* Vai trò của môi trường 14
- Trong suốt lịch sử phát triển loài người, nhu cầu về các
nguồn tài nguyên không ngừng tăng lên về cả số lượng,
chất lượng và mức độ phức tạp theo trình độ phát triển của xã hội.
- Khi đó, môi trường có chức năng quan trọng trong việc
cung ứng các nguồn tài nguyên. Chức năng này của môi
trường còn gọi là nhóm chức năng sản xuất tự nhiên, gồm:
- Rừng tự nhiên: Có chức năng cung cấp nước, bảo tồn tính
đa dạng sinh học và độ phì nhiêu của đất, nguồn gỗ củi,
dược liệu và cải thiện điều kiện sinh thái.
- Các thuỷ vực: có chức năng cung cấp nước, dinh dưỡng,
nơi vui chơi giải trí và các nguồn thuỷ hải sản.
- Động - thực vật: Cung cấp lương thực, thực phẩm và các nguồn gen quý hiếm.
- Không khí, nhiệt độ, năng lượng mặt trời, nước, gió: Có
chức năng duy trì các hoạt động trao đổi chất. 15
- Các loại quặng, dầu mỏ: Cung cấp năng lượng và nguyên
liệu cho các hoạt động sản xuất…
- Trong quá trình sinh hoạt, sản xuất của con người sẽ đào
thải ra các chất thải vào môi trường. Dưới tác động của vi
sinh vật và các yếu tố môi trường khác, các chất thải này
sẽ bị phân huỷ, biến đổi từ phức tạp thành đơn giản và
tham gia vào hàng loạt các quá trình sinh địa hoá.
- Khả năng tiếp nhận và phân huỷ chất thải trong một khu
vực nhất định gọi là khả năng đệm của khu vực đó. Khi
lượng chất thải lớn hơn khả năng đệm hoặc thành phần
chất thải có nhiều chất độc, vi sinh vật gặp nhiều khó
khăn trong quá trình phân huỷ thì chất lượng môi trường
sẽ giảm và môi trường có thể bị ô nhiễm. Chức năng này
có thể phân loại chi tiết như sau:
- Chức năng biến đổi lý - hoá học (phân huỷ hoá học nhờ
ánh sáng, hấp thụ, tách chiết các vật thải và độc tố);
- Chức năng biến đổi sinh hoá (sự hấp thụ các chất dư thừa,
chu trình ni tơ và cacbon, khử các chất độc bằng con đường sinh hoá); 16
- Chức năng biến đổi sinh học (khoáng hoá các chất thải
hữu cơ, mùn hoá, amôn hoá, nitrat hoá và phản nitrat hoá).
- Môi trường trái đất được xem là nơi lưu trữ và cung cấp
thông tin cho con người. Bởi môi trường là nơi cung cấp
sự ghi chép và lưu trữ lịch sử trái đất, lịch sử tiến hoá của
vật chất và sinh vật, lịch sử xuất hiện và phát triển văn hoá của loài người.
- Đồng thời, môi trường còn cung cấp các chỉ thị không
gian và tín hiệu và báo đưa ra các tín hiệu cũng như báo
động sớm các hiểm hoạ đối với con người và sinh vật
sống trên trái đất như: Phản ứng sinh lý của cơ thể sống
trước khi xảy ra các tai biến tự nhiên và các hiện tượng
tai biến tự nhiên (bão, động đất, núi lửa…).
- Ngoài ra, môi trường còn cung cấp và lưu giữ cho con
người các nguồn gen, các loài động vật, thực vật, các hệ
sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp, cảnh quan có
giá trị thẩm mỹ để thưởng ngoạn, tôn giáo và văn hoá khác. 2.2 Thực trạng:
- Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đang là chủ đề nóng
trên các mặt báo và nhận được rất nhiều sự quan tâm của 17
người dân. Trong đó, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm nguồn
nước ở Việt Nam đã và đang ngày càng trở nên nghiêm
trọng hơn. Thông qua các phương tiện truyền thông,
chúng ta có thể dễ dàng thấy được các hình ảnh, cũng
như các bài báo phản ánh về thực trạng môi trường hiện
nay. Mặc dù các ban ngành, đoàn thể ra sức kêu gọi bảo
vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước,... nhưng có vẻ là chưa
đủ để cải thiện tình trạng ô nhiễm ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
- Tình trạng quy hoạch các khu đô thị chưa gắn liền với vấn
đề xử lý chất thải, xử lý nước thải,... vẫn còn tồn đọng
nên tại các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu đô
thị,...ô nhiễm môi trường đang ở mức báo động. Theo
ước tính, trong tổng số 183 khu công nghiệp trong cả
nước thì có trên 60% khu công nghiệp chưa có hệ thống
xử lý nước thải tập trung. Tại các đô thị, chỉ có khoảng
60% - 70% chất thải rắn được thu gom, cơ sở hạ tầng
thoát nước và xử lý nước thải, chất thải nên chưa thể đáp
ứng được các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Hầu hết
lượng nước thải bị nhiễm dầu mỡ, hóa chất tẩy rửa, hóa
phẩm nhuộm,... chưa được xử lý đều đổ thẳng ra các
sông, hồ tự nhiên. Một ví dụ đã từng được dư luận quan
tâm thì trường hợp sông Thị Vải bị ô nhiễm bởi hóa chất
thải ra từ nhà máy của công ty bột ngọt Vedan suốt 14 năm liền. 18 2.3 Nguyên nhân:
- Đầu tiên, đó chính là sự thiếu ý thức nghiêm trọng và thờ
ơ của người dân. Nhiều người cho rằng những việc mình
làm là quá nhỏ bé, không đủ để làm hại môi trường. Một
số người lại cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách
nhiệm của nhà nước, của các cấp chính quyền...trong khi
số khác lại nghĩ rằng việc môi trường đã bị ô nhiễm thì
có làm gì cũng "chẳng ăn thua", và ô nhiễm môi trường
cũng không ảnh hưởng đến mình nhiều. Và chính những
suy nghĩ này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo dục
cũng như tư duy bảo vệ môi trường của các thế hệ trẻ về sau.
- Thật vậy, người lớn không làm gương để giáo dục trẻ em.
Theo quan sát, tại các trường học, chúng tôi nhiều lần
chứng kiến phụ huynh đưa con đi học đến cổng trường
dừng lại ăn sáng và sau khi ăn xong, thay vì bỏ hộp xôi,
hộp bánh vào thùng rác thì họ lại vứt ngay tại chỗ. Mặc
dù, các trường học có treo rất nhiều tấm biến, khẩu hiệu
cấm xả rác bừa bãi nhưng phụ huynh vẫn thản nhiên xả
rác nơi công cộng thì rất khó hình thành ý thức tốt cho thế hệ trẻ.
- Việc phá hoại môi trường của một người chỉ ảnh hưởng
nhỏ nhưng nếu gọp nhiều người lại thì rất lớn. Một tờ
giấy, vỏ hộp sữa, túi ni-lông,... tuy nhỏ nhưng tích tụ lại
lâu ngày sẽ gây ô nhiễm, mất mỹ quan, rác thải đọng lại 19
trong các lô-cốt gây ra tình trạng cống thoát nước bị
nghẹt mỗi khi mưa lớn hay thủy triều lên.
- Ngoài ra ô nhiễm còn được gây ra bởi tự nhiên. Nó là sự
bào mòn hay sự sụt lở núi đồi, đất ven bờ sông làm dòng
nuớc cuốn theo các chất cơ học như bùn, đất, cát, chất
mùn… hoặc do sự phun trào của núi lửa làm bụi khói bốc
lên cao theo nước mua rơi xuống đất, hoặc do triều cường
nước biển dâng cao vào sâu gây ô nhiễm các dòng sông,
hoặc sự hòa tan nhiều chất muối khoáng có nồng độ quá
cao, trong đó có chất gây ung thư như Arsen, Fluor và
các chất kim loại nặng…
- Điều đáng nói là tự nhiên vốn có sự cân bằng, nước bị ô
nhiễm do tự nhiên sẽ được quá trình tuần hoàn và thời
gian trả lại nguyên vẹn, tuy nhiên với con người thì khác,
đó là một gánh nặng thêm với tự nhiên, khi dân số tăng
quá nhanh và việc sử dụng nước sạch không hợp lý,
không giữ vệ sinh môi trường sẽ phá vỡ cấu trúc tự nhiên vốn có. 2.4 Hậu quả:
+ Đối với môi trường không khí:
- Thủng tầng ô zôn, tăng hiệu ứng nhà kính làm cho Trái
đất nóng lên, làm cho hiện tượng tan băng khiến nước
biển dâng cao ảnh hưởng đến cuộc sống của một số khu vực trên thế giới. 20