-
Thông tin
-
Quiz
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, liên hệ thực tiễn - Triết học Mác Lenin | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, liên hệ thực tiễn - Triết học Mác Lenin | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:














Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân …...0O0….. BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài số 3
Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận
chung và liên hệ với thực tiễn
Họ, tên SV: Đào Thị Nhàn MSV: 11216953
Lớp: Triết học Mác - Lênin(221)_24 Khóa: 63 GĐ: D_304 Hà Nội – 4/2022 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 2 NỘI DUNG 2
1. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
từ đó xây dựng phương pháp luận chung 2
a) Phạm trù vật chất trong Triết học Mác-Lênin 2
b) Phạm trù ý thức trong Triết học Mác-Lênin 4
c) Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng 5
d) Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 8
2. Liên hệ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức với thực tiễn 8
a) Đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta 8
b) Đối với bản thân em là một sinh viên 12 KẾT LUẬN 13 TƯ LIỆU THAM KHẢO 13 1 MỞ ĐẦU
Triết học Mác – Lênin ra đời và đã khẳng định: “Triết học là hệ thống quan
điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa
học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và
tư duy”[Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia
sự thật, tr.22]. Mà ta đã biết tất cả các hiện tượng trong thế giới này chỉ có thể
là hiện tượng vật chất hoặc là hiện tượng thuộc ý thức trong con người. Vấn đề
cơ bản của Triết học có hai mặt thì mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi:
Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Bản thân em nhận thấy việc trả lời chính xác câu hỏi này có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc hiểu triết học và vận dụng nó vào thực tiễn cuộc sống nên
em đã chọn cho bài tập lớn của mình đề tài là: “Phân tích quan niệm duy vật
biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa
phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn”. Do đây là lần đầu tiên em
làm tiểu luận và kiến thức của bản thân em có hạn, nên bài viết của em chắc
chắn còn thiếu sót. Em rất mong nhận được lời bổ sung, góp ý từ các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG
1. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, từ đó xây dựng phương pháp luận chung
a) Phạm trù vật chất trong Triết học Mác-Lênin
Vật chất là một phạm trù cơ bản và nền tảng của chủ nghĩa duy vật nói
chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng, vật chất đã được Lênin định
nghĩa như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” [C.Mác và
Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, t.18, tr.171].Như vậy,
định nghĩa vật chất của Lênin thể hiện một số nội dung cơ bản sau: vật chất tồn
tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức; vật chất là cái
gây lên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó (trực tiếp hay gián tiếp) tác 2
động lên các giác quan của con người; vật chất là cái mà cảm giác, tư duy, ý
thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Phương thức tồn tại của vật chất bao gồm vận động cùng không gian và thời gian.
Trong đó, Ph.Ăngghen viết: “Vận động … bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư
duy” [C.Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, t.20,
tr.519]. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất: Thế giới vật chất, từ
những thiên thể khổng lồ đến những hạt cơ bản cực nhỏ, từ vô cơ đến hữu cơ, từ
hiện tượng tự nhiên đến hiện tượng xã hội, tất cả đều ở trạng thái vận động và
biến đổi không ngừng. Ph.Ăngghen đã chia vận động của vật chất thành năm
hình thức cơ bản: cơ học, vật lý, hoá học, sinh học và xã hội. Tuy vậy, Sự vận
động không ngừng của vật chất còn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối.
“Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái ổn
định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ
thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là
điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất.” [Bộ Giáo dục và Đào tạo:
Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.139].
“Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự
cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau. Thời gian là hình thức tồn
tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá
trình.” [Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia
sự thật, tr.142]. Không gian và thời gian là hai hình thức tồn tại khác nhau của
vật chất vận động nhưng chúng không tách rời nhau. Những hệ quả rút ra từ
thuyết tương đối của Albert Einstein đã chứng minh thời gian và không gian có
tính khả biến, vận chất vận động quy định không gian, thời gian. Với vật chất
nói chung, không gian và thời gian là vô tận nhưng đối với một sự vật, hiện
tượng cụ thể, không gian và thời gian là có tận cùng và hữu hạn.
Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó. Triết học Mác-Lênin
khẳng định chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất, mọi bộ
phận của thế giới là những dạng cụ thể của vật chất, có liên hệ vật chất thống
nhất với nhau. Thế giới vật chất không do ai sinh ra và không tự mất đi, tồn tại
vĩnh viễn, trong đó, các sự vật, hiện tượng vận động Không ngừng, là nguồn
gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau. 3
b) Phạm trù ý thức trong Triết học Mác-Lênin
“Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.” [C.Mác và
Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, t.18, tr.138]. Đối với
con người, cả ý thức và vật chất đều tồn tại thực nhưng giữa chúng có sự đối lập
về bản chất: vật chất là hiện thực khách quan, còn ý thức là hiện thực chủ quan.
Cùng một đối tượng phản ánh nhưng với các chủ thể phản ánh khác nhau, có
đặc điểm tâm lý, tri thức, kinh nghiệm, thể chất khác nhau, trong những hoàn
cảnh lịch sử khác nhau... thì kết quả phản ánh đối tượng trong ý thức cũng rất
khác nhau. Đặc biệt, ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo, gắn liền với thực tiễn
xã hội; trong đó, sáng tạo là thuộc tính đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Sự
phản ánh ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt: Một là, trao đổi thông tin
giữa chủ thể và đối tượng phản ánh; hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy
dưới dạng hình ảnh tinh thần; Ba là, hiện thực hoá tư tưởng (thông qua hoạt
động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại).
Sự ra đời của ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng vừa
có nguồn gốc tự nhiên vừa có nguồn gốc xã hội. Trong đó , sự xuất hiện con
người và hình thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực khách
quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Ý thức chỉ là thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người vì ý thức là chức năng của nó.
Xét về nguồn gốc xã hội của ý thức, Ph.Ăng ghen viết: “Trước hết là lao động;
sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ
yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến
chuyển thành bộ óc con người.”[C.Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính
trị Quốc gia Hà Nội, t.20, tr.646]. Ý thức là một hiện tượng mang bản chất xã
hội. Sự phát triển của giới tự nhiên rồi tạo ra tiền đề vật chất có năng lực phản
ánh, chỉ là nguồn gốc sâu xa của ý thức. Hoạt động thực tiễn của loài người mới
là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức.
Khi xem xét về kết cấu của ý thức, ta có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Về
các lớp cấu trúc (hay cấu trúc theo chiều ngang) của ý thức, ý thức bao gồm ba
yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, ngoài ra còn có thể bao gồm
các yếu tố khác. Nhưng trong đó nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý
thức phải là tri thức. Về các cấp độ (hay cấu trúc theo chiều dọc) của ý thức, ý
thức gồm các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức,…Nhiều yếu tố hợp thành ý 4
thức đã quy định tính phong phú, nhiều vẻ trong đời sống tinh thần của con người.
c) Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng
“Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở
lại vật chất.” [Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị
Quốc gia sự thật, tr.174].
*Vai trò của vật chất đối với ý thức- vật chất quyết định ý thức:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Ý thức nằm trong con người, xuất hiện gắn liền với con người nhưng con
người là kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới
tự nhiên, của thế giới vật chất. Thế giới vật chất phải có trước con người tức là
vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau.
Nguồn gốc của ý thức gồm nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên gồm bộ não người và quá trình phản ánh thế giới khách
quan. Bộ não người là một dạng vật chất và thế giới khách quan cũng là thế giới
vật chất. Nguồn gốc xã hội của ý thức gồm lao động và ngôn ngữ. Lao động
chính là hoạt động vật chất, mang tính tất yếu đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của con người. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Từ
đó ta có thể khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
C.Mác từng nói: “Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào
trong bộ óc của con người và được cải biến đi trong đó” [C.Mác và Ph.Ăng
ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, t.23, tr.35]. Bản thân ý thức là
sự phản ánh mà vật nhận tác động bao giờ cũng chứa đựng thông tin về vật tác
động. Ví dụ khi chúng ta quan sát một bông hoa hồng thì bộ não chúng ta ngay
lập tức chép lại, chụp lại hình ảnh bông hoa hồng và tất nhiên, hình ảnh đó lưu
lại trong bộ óc của chúng ta là thông tin về hoa hồng chứ không phải hoa khác.
Dù lần sau không còn ngắm hoa hồng nhưng nhắc tới hoa hồng, hình ảnh nó
vẫn hiện diện trong não của chúng ta. Đó chính là quá trình phản ánh thông
tin.Vì phản ánh thế giới khách quan, thế giới vật chất nên ý thức mang hình ảnh 5
thế giới vật chất, chứa đựng những đặc điểm, quy luật của thế giới vật chất. Ý
thức không thuần túy do con người tưởng tượng ra, dù con người có giàu trí
tưởng tượng thì ý thức không thể thoát ly khỏi thế giới vật chất. Chẳng hạn, câu
ca dao sau: “Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh/ Nước Tháp Mười lấp lánh cá
tôm”. Dù miêu tả vẻ đẹp của đất nước nhưng các câu ca dao vẫn không thoát ly
cảnh quan hiện thực ở miền Tây sông nước. Do vậy, nội dung của ý thức đều do
điều kiện vật chất quyết định.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý
thức. Ý thức không chỉ chụp lại, chép lại thế giới khách quan mà là phản ánh
tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. “…chủ nghĩa duy vật biện chứng
xem xét thế giới vật chất. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến
thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý
thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng
tạo trong phản ánh.” [Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin, Nxb.
Chính trị Quốc gia sự thật, tr.176].
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh điều kiện vật chất, chịu sự quy định của vật chất về
nội dung nên mỗi sự thay đổi của vật chất dù sớm hay muộn cũng dẫn đến sự
thay đổi của ý thức. Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người ngày
càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức – một hình thức
phản ánh của bộ óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
Tục ngữ có câu “Có thực mới vực được đạo” nghĩa là được ăn uống đầy
đủ, con người mới có sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ,
đời sống vật chất được đáp ứng thì chúng ta mới hướng đến đời sống tinh thần.
Điều này chứng minh quan niệm vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
*Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của vật chất thể hiện ở chỗ, ý thức là sự
phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi ra đời, “ý thức
có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một
cách máy móc vào vật chất” [Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin,
Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.178]. Thế giới vật chất vận động và biến đổi, 6
ý thức cũng vậy nhưng ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm hoặc song hành với
hiện thực. Điều này làm rõ thêm tính độc lập tương đối của vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Bản thân ý thức không thể thay đổi bất cứ điều gì trong hiện
thực. Tuy vậy, “…lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật
chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập
vào quần chúng” [C.Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội, t.1, tr.580]. Con người dựa trên tri thức về thế giới khách quan, quy luật
trong nó mà đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp, ý chí quyết tâm để thực
hiện mục tiêu, phục vụ đời sống con người.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở việc chỉ đạo hoạt động của con người.
Con người có tri thức đúng đắn, có ý chí, tình cảm tích cực thì có khả năng hành
động hợp quy luật khách quan, thúc đẩy điều kiện vật chất phát triển. Ví dụ
trong thế kỉ XX, đất nước Việt Nam là một nước nhỏ, ít dân, kém phát triển
nhưng đã giành lại hòa bình độc lập từ các cường quốc lớn như Pháp, Mỹ.
Nguyên nhân là do tinh thần hay chính là ý thức, chúng ta có tri thức sáng tạo,
tình cảm tích cực và ý chí bất khuất. Vận dụng khéo léo, sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin , nước ta đề ra đường lối, chính sách,… phù hợp với điều kiện vật
chất vốn có: lực lượng cách mạng là toàn dân hay trong chiến dịch Điện Biên
Phủ, chúng ta phải đánh chắc thắng chắc, trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử,
chúng ta hiểu khó khăn của kẻ thù mà “thăng tốc, thăng tốc hơn nữa, táo bạo,
táo bạo hơn nữa”… Kết hợp với “tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”,
hai cuộc kháng chiến chống đế quốc của nước ta đã thành công rực rỡ. Ví dụ
này đã khẳng định khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức thúc đẩy điều kiện
vật chất phát triển. Ngược lại, nếu phản ánh sai lệch hiện thực, ý thức kìm hãm
sự phát triển của vật chất. Ý thức có thể quyết định hoạt động của con người
đúng hay sai, thành công hay thất bại.
Thứ tư, “xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của tri thức ngày càng to
lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học
đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” [Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học
Mác-Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.180]. Trong bối cảnh toàn cầu
hóa, tri thức khoa học, tư tưởng chính trị, nhân văn có vai trò hết sức quan trọng. 7
d) Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Từ mối quan hệ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong Triết học Mác-
Lênin, ta rút ra nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết
hợp phát huy tính năng động chủ quan.
Con người phải tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự
nhiên và xã hội tức là mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải
xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có.
Nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, cần phải tránh chủ
nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí.
Con người phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức: phát huy vai
trò của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, bảo thủ, trì trệ,
thiếu sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, tích cực nâng cao tri thức đồng
thời tu dưỡng phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
Ngoài ra, chúng ta phải biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và tập thể; phải
có thái độ khoa học, khách quan, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.
2. Liên hệ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức với thực tiễn
a) Đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta
Ta đã biết giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau.
Nhân tố vật chất giữ vai trò là cơ sở, quyết định, còn nhân tố ý thức lại có tác
dụng trở lại đối với nhân tố vật chất. Trong nhiều trường hợp, nhân tố ý thức có
tác dụng quyết định đến sự thành bại của hoạt động con người. Điều này thể
hiện rõ trong tác động của đường lối, các chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế
của Đảng đối với quá trình đổi mới ở đất nước ta.
Bước qua chiến tranh, nền kinh tế của Việt Nam bị tàn phá nặng nề. Ở
miền Bắc, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất cân
đối, năng suất lao động thấp, sản xuất chưa bảo đảm nhu cầu đời sống, sản xuất
nông nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công
nghiệp, hàng hoá cho xuất khẩu. Ở miền Nam, sau 20 năm chiến tranh, nền kinh
tế bị đảo lộn và suy sụp, nông nghiệp nhiều vùng hoang hoá, lạm phát trầm
trọng…Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV(12-1976) lại đề ra những 8
chỉ tiêu kế hoạch năm 1976-1980 quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản
xuất, vượt quá khả năng của nền kinh tế nước ta trong năm 1975, phấn đấu đạt
20 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu ha khai hoang, 1 triệu 200 ha
rừng mới trồng, 10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi măng… Đặc biệt là đề ra
việc xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí và
đặt nhiệm vụ hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam.
Nhưng đây là những chủ trương sai lầm đó kết hợp với cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp đã tác động xấu tới nền kinh tế cùng đời sống nhân dân. Đến
hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế đề ra chỉ đạt khoảng 50%-60% mức đề ra,
nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp: tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân
1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%.
Qua đến đại hội V(03-1982), nhà nước ta tiếp tục chủ quan, nóng vội đề ra
một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát
triển sản xuất; tiếp tục duy trì cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp,
chậm đổi mới các chính sách chế độ kìm hãm sản xuất; quan liêu và xa rời thực
tế, không nhạy bén với những thay đổi của vận động xã hội, bảo thủ, trì trệ, lạc
quan thiếu cơ sở. Như vậy, chúng ta cũng không thực hiện được mục tiêu tổng
quát do Đại hội lần thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế- xã hội, ổn
định đời sống nhân dân.
Có những nguyên nhân khách quan như hậu quả chiến tranh, bối cảnh quốc
tế… nhưng nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta phạm sai lầm chủ quan như
trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã
nhận định: “… Đảng đã sai phạm sai lầm chủ quan duy ý trí, vi phạm qui luật
khách quan: Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế
nhiều thành phần; đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì
cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc
cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương”. Nhờ đó ta thấy rõ tác động tiêu cực của ý
thức (Ở đây là các chủ trương chính sách về quản lí) đối với vật chất (là nền
kinh tế) trước khi có công cuộc đổi mới. Phép biện chứng duy vật khẳng định
rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải. Mọi đường lối, kế
hoạch đều phải dựa vào tình hình thực tế, những điều kiện và khả năng thực tế,
tôn trọng quy luật khách quan.
Sau đó Đảng và nhà nước ta đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình hình lấy ý
kiến rộng rãi của cơ sở, của nhân dân, và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế.
Tại Đại hội VI(12-1986) Đảng ta đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, rút ra 9
bốn kinh nghiệm lớn, trong đó có kinh nghiệm: phải luôn xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề ra các định hướng
mới đặc biệt là đổi mới kinh tế, thực hiện mục tiêu của ba chương trình kinh tế:
lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, hình thành nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tiểu tư sản, sản xuất
hàng hoá và kinh tế tư bản tư nhân, đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, sử dụng
đúng đắn quan hệ hàng hoá-tiền tệ. Tất cả nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng
hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển. Trong quá trình thực hiện nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ VI, có những nguyên nhân phức tạp đã ảnh hưởng xấu đến
tình hình kinh tế và xã hội của nước ta, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đã nỗ lực khắc phục khó khăn, tìm tòi, khai phá ra con đường đổi mới.
Đại hội Đại Biểu toàn Quốc lần thứ VII (6-1991) đã đánh giá tình hình
kinh tế chính trị xã hội Việt Nam sau bốn năm thực hiện đường lối đổi mới.
Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: Tình
hình chính trị của đất nước ổn định, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước,
tốc độ lạm phát được kiềm chế, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận
nhân dân được cải thiện…Nhờ đó, ta càng thấy rõ tác động qua lại giữa ý thức
và vật chất. Nhờ có đường lối đổi mới mà sản xuất phát triển, đời sống của nhân
dân nói chung được cải thiện. Nhưng không chủ quan với những thành tựu đã
đạt được, Đại hội VII(6_1991) đã chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết là: lạm
phát còn ở mức cao, tỷ lệ thất nghiệp cao,…
Đảng đã ngày càng vận dụng đúng đắn phương pháp luận duy vật biện
chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới, tiến hành
đổi mới kinh tế trước để tạo điều kiện đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Nhờ đó,
nước ta mới có thể đạt được những thành tựu to lớn sau đại hội VII. . Lạm phát
được đẩy lùi từ 67% năm 1991 còn 5,2% năm 1993. Tổng sản phẩm trong nước
GDP tăng bình quân 8,2% (mức đề ra cho năm 1991- 1995 là 5,5- 6,5%). Sản
xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, sản lượng lương thực 5 năm
qua tăng 26% so với 5 năm trước đó, vấn đề lương thực được giải quyết… Quan
hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá,
thị trường xuất nhập khẩu được củng cố và mở rộng, nguồn vốn đầu tư nước
ngoài tăng mạnh…kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 1991 – 1995 đạt trên 17 tỷ
USD (kế hoạch là 12 – 15 tỷ USD), đảm bảo nhập các loại vật tư, thiết bị và
hàng hoá đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống,… Khoa học công nghệ có
bước phát triển, đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong 10
sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta, phục vụ cho việc xây dựng đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Chính trị ổn định, chúng ta đã mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo môi trường thuận
lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Với sự thành công của công cuộc đổi mới hơn mười năm (1986 -1995),
chúng ta có thể khẳng định rằng, công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta là
hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử tức là chúng
ta phải thừa nhận giai đoạn phát triển kinh tế thị trường mà trước đây chúng ta
đã phủ nhận nó mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản.
Thực tế trong những năm qua, với những chính sách, chương trình phát
triển kinh tế chính trị xã hội, chính sách ngoại giao hợp lý, chúng ta đã đạt được
những bước tiến rất quan trọng, bình thường hoá quan hệ với Mỹ, là thành viên
của khối ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á). Đặc biệt năm 1998 ta đã
trở thành thành viên của khối APEC ( Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái
Bình Dương)…Từ chỗ bị bao vây cấm vận, nay ta đã bình thường hoá được tất
cả các nước lớn, có quan hệ ngoại giao với 167 nước, quan hệ thương mại với
120 nước. Đồng thời cân bằng quan hệ với các nước lớn, phát triển quan hệ tốt
đẹp với các nước láng giềng trong khu vực. Tăng trưởng GDP tiếp tục tăng cao,
năm 1996 là 9,3%, năm 1997 là 8,2%, năm 1998 là 5,8%. Lạm phát vẫn được
giữ ở mức dưới 10%. Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp vẫn đạt hai con số…
Đời sống của nhân dân ngày càng được ổn định và nâng cao. Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2021-2030 xác định phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam là
nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và xác
định cả tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Tuy nhiên, hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều thay đổi nhanh,
phức tạp, khó lường. Đại hội XIII của Đảng ta chỉ rõ: “Hòa bình, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn,
thách thức. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng đang
bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược,
cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt… Các nước điều
chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngày càng
quan trọng. Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông còn diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các
vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tác động
mạnh, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của 11
thế giới, khu vực và đất nước ta” [ Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, 2021, t.1,
tr.30,31]. Thực tiễn này đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta trong đổi mới phải nắm
vững phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin; phải nhìn thẳng,
đánh giá đúng thực tiễn, đặc biệt dám từ bỏ cả những kết luận của chính mình
nếu như không còn phù hợp để bổ sung, phát triển lý luận trong tình hình mới.
Đảng ta khẳng định: “Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của
xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ
một mô hình có sẵn nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước
đi, hình thức và cách làm phù hợp” [Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, 2001, tr.81].
b) Đối với bản thân em là một sinh viên
Thứ nhất, vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thế giới khách quan. Sinh viên chọn ngành,
chọn trường học phải căn cứ vào khả năng học tập của bản thân, điểm mạnh,
điểm yếu và cả khả năng kinh tế của gia đình. Khi đã là sinh viên thì cần đặc
biệt tôn trọng tính khách quan và tuân theo các quy luật khách quan như: tuân
thủ thời khóa biểu, đi học đúng giờ, không được nghỉ quá số buổi quy định,
chấp hành đúng kỷ luật thi cử hay quy chế cấm thi, học lại,…
Thứ hai, sinh viên cần phát huy tính năng động chủ quan tức phải phát huy
tính năng động, tích cực, sáng tạo của ý thức. Nếu xét cấu trúc ý thức theo chiều
ngang, tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Sinh viên hay chính bản thân em phải
luôn luôn bổ sung thêm tri thức cho bản thân bằng cách xem trước bài học, lắng
nghe thầy cô giảng, tích cực trao đổi xây dựng bài, đọc và nghiên cứu tài liệu,
giáo trình, sách. Ngoài ra, sinh viên nên tham gia các hoạt động Đoàn, Đội, hoạt
động tình nguyện để có nhiều cơ hội làm việc nhóm, thuyết trình, giao tiếp,…
hay đi làm thêm để bổ sung cho mình những tri thức không có trong sách vở,
điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc sau này. Ngoài tri thức, tình cảm và
ý chí cũng là các yếu tố quan trọng. Muốn học tốt, sinh viên cần phải yêu việc
học, không học vì bị bắt ép, vì để so thành tích. Sinh viên cần có ý chí, niềm tin
vào bản thân, có hoài bão, ước mơ, đặt kế hoạch để thực hiện nó. Ước mơ, hoài
bão sẽ khác nhau với từng sinh viên, có bạn muốn học bổng, có bạn muốn bằng
loại giỏi, trúng tuyển Big4…Căn cứ vào nó mà mỗi sinh viên lập kế hoạch học
tập cho riêng mình. Cuộc sống sinh viên có nhiều cám dỗ, nhiều bạn chơi quá
đà hoặc chỉ để ý lợi trước mắt từ việc làm thêm mà bỏ bê việc học. Nhưng nếu 12
ham học hỏi và ý chí vững vàng, chắc chắn sẽ có động lực vượt qua khó khăn
trong học tập, đạt được những mục tiêu cao đẹp.
Thứ ba, sinh viên cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh
bảo thủ trì trệ. Sinh viên phải tiếp thu có chọn lọc các kiến thức, không để bản
thân thụ động, bảo thủ và không chủ quan trước mọi tình huống. Khi làm việc
nhóm, bản thân em sẽ lắng nghe và tiếp thu các góp ý hay của các thành viên
khác cùng các thầy cô. Khi đăng ký môn học, sinh viên cũng không nên vì
muốn ra trường sớm nhưng chủ quan, đánh giá sai khả năng của mình dẫn đến
đăng kí quá nhiều môn học, bản thân không hoàn thành nổi. KẾT LUẬN
Theo quan điểm Triết học Mác-Lênin, vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thức nhưng ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Từ đó, ta rút ra nguyên
tắc luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ
quan. Mọi đường lối, mục tiêu, chính sách,… khả thi, hiệu quả đều phải xuất
phát từ tiền đề vật chất hiện có.
Đảng và Nhà nước ta đã và đang vận dụng đúng đắn, sáng suốt điều này.
Chúng ta hãy có niềm tin Đảng và Nhà nước sẽ lãnh đạo Việt Nam ta ngày một
phồn vinh, hạnh phúc. Nếu là sinh viên, chúng ta cần cố gắng nâng cao tri thức
và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức. “Học đi đôi với hành”, sinh viên hãy vận
dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào con đường học tập để thực hiện
những ước mơ, hoài bão đã đặt ra. TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, 2021
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, 2001
5. Website: https://luatduonggia.vn/moi-quan-he-bien-chung-giua-vat-chat-va-y-
thuc-trong-nen-kinh-te-nuoc-ta-hien-nay/ ngày truy nhập: 27/04/2022 13