



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61470371
1.Vấn đề cơ bản của triết hoc:
- Vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức - đây chính là vấn đề cơ bản của triết
học. Ph.Ăngghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”
- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn.
• Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào? Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện
tượng, sự vật, hay sự vận động đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay
nguyên nhân tinh thần đóng vai trò là cái quyết định.
+ Chủ nghĩa duy vật: Cho rằng vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Vật
chất quyết định ý thức.
+ Chủ nghĩa duy tâm: Cho rằng ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai. Ý thức quyết định vật chất.
• Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Nói cách
khác, khi khám phá sự vật và hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận
thức được sự vật và hiện tượng hay không.
+ Khả tri luận: Tin rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới.
+ Bất khả tri luận: Cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới một cách đầy đủ.
Ví dụ 1: Chủ nghĩa duy vật
Tình huống: Một nhà khoa học nghiên cứu về sự hình thành của vũ trụ và cho rằng vũ trụ
được hình thành từ vụ nổ Big Bang, từ đó phát triển thành các hành tinh và sự sống.
Giải thích: Theo chủ nghĩa duy vật, vật chất (vũ trụ) tồn tại trước và quyết định sự phát
triển của ý thức (sự sống và nhận thức của con người). Vật chất là cơ sở của mọi hiện tượng trong vũ trụ.
Ví dụ 2: Chủ nghĩa duy tâm
Tình huống: Một triết gia cho rằng thế giới xung quanh chúng ta chỉ là sự phản chiếu của
ý thức con người, và mọi hiện tượng đều bắt nguồn từ tư duy và ý thức.
Giải thích: Theo chủ nghĩa duy tâm, ý thức là tính thứ nhất và quyết định vật chất. Thế giới
vật chất chỉ tồn tại trong ý thức của con người. lOMoAR cPSD| 61470371
Ví dụ 3: Khả tri luận-
Tình huống: Một nhà nghiên cứu tin rằng con người có thể hiểu và giải thích được mọi
hiện tượng tự nhiên thông qua khoa học và công nghệ.
Giải thích: Theo khả tri luận, con người có khả năng nhận thức và hiểu biết về thế giới
xung quanh. Nhờ vào sự phát triển của khoa học, con người có thể khám phá và giải thích
các hiện tượng tự nhiên.
Ví dụ 4: Bất khả tri luận
Tình huống: Một triết gia cho rằng có những hiện tượng và bản chất của vũ trụ mà con
người không bao giờ có thể hiểu hết được.
Giải thích: Theo bất khả tri luận, con người không thể nhận thức đầy đủ về thế giới. Có
những giới hạn trong khả năng nhận thức của con người mà không thể vượt qua.
2. Vật chất và ý thức:
- Mối quan hệ vật chất và ý thức là "Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại".
a) Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình:
Đối với chủ nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần vốn có của con người đã bị trừu tượng hoá,
tách khỏi con người hiện thực thành một lực lượng thần bí, tiên thiên. Họ coi ý thức là
tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ
là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hoá yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều vai
trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý
thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt
động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan.
b) Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
* Vật chất quyết định ý thức: lOMoAR cPSD| 61470371
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: vật chất là cái có trước, còn ý
thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức: Ý thức dưới bất kỳ hình thức
nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà trong nội
dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người.
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức: Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc
tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người
không phải là "soi gương", "chụp ảnh" hoặc là "phản ánh tâm lý" như con vật mà
là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt
động vật chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát
triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh
để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức: Mọi sự tồn tại, phát
triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi
thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. VD: Trong đời sống xã hội, vai
trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ở vai trò của kinh tế đối
với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế
giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì
ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một
cách máy móc vào vật chất.
- Thứ hai, Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Nhờ họat đông thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện,
hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại.
- Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn.
* Ý nghĩa phương pháp luận: lOMoAR cPSD| 61470371
- Tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan. Trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, chúng ta
đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện
có. Phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan, nếu không làm như vậy,
chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật hiện
tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được
gán cho đối tượng cái mà nó không có.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người,
chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo;
phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng,
coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động
chủ quan, chúng ta còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích,
phải biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động
cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.
3. 2 nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật:
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
- “Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ,
quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc
giữa các đối tượng với nhau. Liên hệ là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi
của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi. Ngược lại, cô lập (tách
rời) là trạng thái của các đối tượng, khi sự thay đổi của đối tượng này không ảnh
hưởng gì đến các đối tượng khác, không làm chúng thay đổi.
- Quan điểm biện chứng duy vật cho rằng, các sự vật, hiện tượng của thế giới tồn tại
trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau, thâm nhập, chuyển hóa lẫn
nhau, chứ không hề tách biệt nhau. Cơ sở của sự tồn tại đa dạng các mối liên hệ đó
là tính thống nhất vật chất của thế giới; theo đó, các sự vật, hiện tượng phong phú
trong thế giới chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.
- Tính chất của mối liên hệ phổ biến:
• Tính khách quan: Có mối liên hệ, tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với
nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng vật chất với các hiện tượng tinh thần. lOMoAR cPSD| 61470371
Có các mối liên hệ giữa những hiện tượng tinh thần với nhau. Suy đến cùng, đều là
sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa và phụ thuộc lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng.
• Tính phổ biến: Bất kỳ nơi đâu, trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy đều có vô
vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ những vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận
động, chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển
hóa lẫn nhau không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư duy,
mà còn diễn ra giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
• Tính đa dạng, phong phú: Có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối liên hệ
về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn
bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ riêng chỉ tác động
trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa
nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ
tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất cũng có mối liên
hệ không bản chất chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Có mối liên hệ chủ yếu và có mối liên hệ thứ yếu...
Nguyên tắc toàn diện:
+) Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể
thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó.
+) Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó
và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy, nhận thức
mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều
mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng.
+) Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với
môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong
không gian, thời gian nhất định, tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối
tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.
+) Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy
mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn
trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật nguỵ biện.
* Nguyên lý về sự phát triển: lOMoAR cPSD| 61470371
- Sự phát triển là sự vận động đi lên, là quá trình tiến lên thông qua bước nhảy; sự vật,
hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế; nó chỉ ra nguồn gốc bên
trong của sự vận động, phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng.
- Các sự vật, hiện tượng của thế giới tồn tại trong sự vận động, phát triển và chuyển
hóa không ngừng. Cơ sở của sự vận động đó là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng và mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong mỗi sự vật, hiện tượng. - Tính chất:
• Tính khách quan: Nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng,
chứ không phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý
muốn chủ quan của con người.
• Tính phổ biến: Sự phát triển có mặt ở khắp mọi nơi trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
• Tính kế thừa: Sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, phủ
định sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ
• Tính đa dạng, phong phú: tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống
nhau. Tính đa dạng và phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và
thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó...
Nguyên tắc phát triển:
+) Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến
đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh
hướng phát triển của nó trong tương lai.
+) Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi
giai đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp
tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
+) Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó
phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
+) Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các
yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
4. Cặp phạm trù chung riêng, nguyên nhân – kết quả: lOMoAR cPSD| 61470371 *Cái chung và cái riêng:
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định. Cái đơn
nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một sự vật, hiện
tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác.
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những
có ở một sự vật, một hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng
(nhiều cái riêng) khác nữa.
- Cả cái chung lẫn cái đơn nhất đều không tồn tại độc lập, tự thân, chúng là thuộc tính nên
phải gắn với đối tượng xác định. Chỉ cái riêng (đối tượng, quá trình, hiện tượng riêng)
mới tồn tại độc lập. Cái chung và cái đơn nhất đều chỉ tồn tại trong cái riêng, như là các mặt của cái riêng.
- Cái chung không tồn tại độc lập, mà là một mặt của cái riêng và liên hệ không tách rời
với cái đơn nhất, hệt như cái đơn nhất liên hệ chặt chẽ với cái chung.
- Cái riêng không vĩnh cửu, nó xuất hiện, tồn tại một thời gian xác định rồi biến thành cái
riêng khác, rồi lại thành cái riêng khác nữa… cứ thế mãi vô cùng.
- Mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái chung thể hiện trước hết ở mối liên hệ lẫn nhau
trong một thể thống nhất gồm các mặt, các yếu tố đơn lẻ vốn có trong một sự vật, hiện
tượng này và các mặt, các yếu tố được lặp lại ở nó và trong các sự vật, hiện tượng khác.
- Mối liên hệ giữa cái chung với cái riêng biểu hiện là mối liên hệ lẫn nhau giữa các thuộc
tính (hay các bộ phận) cùng có ở nhiều đối tượng với từng đối tượng đó được xét như cái
toàn bộ. Như vậy, cái riêng là cái toàn bộ, cái chung chỉ là bộ phận bởi bên cạnh cái chung
thì bất cứ đối tượng (cái riêng) nào cũng còn có cái đơn nhất.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Thứ nhất, vì bản thân cái chung trong mọi sự vật, hiện tượng không phải là một và không
giống nhau hoàn toàn, mà chỉ là biểu hiện của cái chung đã được cá biệt hóa, thì các
phương pháp xuất phát từ cái chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi
hình thức, phải cá biệt hóa cho phù hợp với đặc điểm của từng trường hợp.
- Thứ hai, nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn cái đơn nhất,
thì khi sử dụng một kinh nghiệm nào đó trong điều kiện khác, không nên sử dụng hình
thức hiện có của nó, mà chỉ nên rút ra những mặt chung đối với trường hợp đó, chỉ rút ra
những cái thích hợp với điều kiện nhất định đó. lOMoAR cPSD| 61470371
- Thứ ba, trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định “cái đơn
nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể biến thành “cái đơn
nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để “cái đơn
nhất” có lợi cho con người trở thành “cái chung” và “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.
* Nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
- Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
- Một nguyên nhân nhất định trong hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra một kết quả nhất
định; bởi vậy, nếu các nguyên nhân càng ít khác nhau bao nhiêu, thì các kết quả do chúng
gây ra cũng ít khác nhau bấy nhiêu
- Trong quá trình vận động, phát triển, nguyên nhân và kết quả có thể đổi chỗ, chuyển hóa
cho nhau. Cái mà ở thời điểm hoặc trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì ở thời điểm,
trong mối quan hệ khác lại là kết quả.
- Trên thực tế, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra, do vậy sự phân loại nguyên
nhân thành nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên
nhân bên ngoài... đối với một kết quả vừa mang ý nghĩa lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
*Ý nghĩa phương pháp luận:
- Thứ nhất, để nhận thức được sự vật, hiện tượng ấy nhất thiết phải tìm ra nguyên nhân
xuất hiện của nó; muốn loại bỏ một sự vật, hiện tượng nào đó không cần thiết, thì phải
loại bỏ nguyên nhân sinh ra nó.
- Thứ hai, nguyên nhân có trước kết quả nên khi tìm nguyên nhân của một sự vật, hiện
tượng cần tìm ở các sự vật, sự kiện, mối liên hệ đã xảy ra trước khi sự vật, hiện tượng xuất hiện.
- Thứ ba, để xác định phương hướng đúng cho hoạt động thực tiễn, cần nghiên cứu sự vật,
hiện tượng đó trong mối quan hệ mà nó giữ vai trò là kết quả, cũng như trong mối quan
hệ mà nó giữ vai trò là nguyên nhân, sản sinh ra những kết quả nhất định.
- Thứ tư, một sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra và quyết định, nên
khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng đó không vội kết luận về nguyên nhân nào đã sinh ra lOMoAR cPSD| 61470371
nó. Khi muốn gây ra một sự vật, hiện tượng có ích trong thực tiễn cần phải lựa chọn
phương pháp thích hợp nhất với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể chứ không nên rập khuôn
theo phương pháp cũ. Trong nhận thức và hành động cần dựa vào nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong.
5. Quy luật Lượng chất, quy luật phủ định:
* Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.
- Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật,
hiện tượng làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải là sự vật, hiện tượng khác.
- Đặc điểm cơ bản của chất là nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện
tượng, mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất.
- Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Chất của sự vật
được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc
tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ
bản và thuộc tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại
tạo thành chất của sự vật.
- Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo
thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật.
- Sự thay đổi về chất của sự vật phụ thuộc cả vào sự thay đổi các yếu tố cấu
thành sự vật lẫn sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố ấy.
- Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng
về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc
tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Trong sự vật, hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau; có lượng là yếu tố quy
định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện tượng;
sự vật, hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo.
- Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối, tuỳ theo từng mối
quan hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất; cái là lượng trong mối quan
hệ này, lại có thể là chất trong mối quan hệ khác.
- Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. lOMoAR cPSD| 61470371
- Chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ ( Độ: là giới hạn tồn tại của sự
vật, hiện tượng mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất)
+) Điểm nút: Điểm giới hạn mà tại đó, sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ,
làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm mà tại
đó bắt đầu xảy ra bước nhảy
+) Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự
vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản
trong sự biến đổi về lượng.
- Những thay đổi về lượng chuyển thành những thay đổi về chất và ngược lại;
chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt dễ biến đổi hơn.
- Quy luật chuyển hóa những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và
ngược lại như sau: Mọi đối tượng đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập chất
và lượng, những sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn
đến sự thay đổi căn bản về chất của nó thông qua bước nhảy, chất mới ra đời
tiếp tục tác động trở lại duy trì sự thay đổi của lượng.
*Ý nghĩa phương pháp luận
- Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích luỹ
về lượng để có biến đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ.
- Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu
khách quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng; tư tưởng nôn nóng thường
biểu hiện ở chỗ không chú ý thỏa đáng đến sự tích luỹ về lượng mà cho rằng,
sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên tục; ngược lại,
tư tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ không dám thực hiện bước nhảy, coi
sự phát triển chỉ là những thay đổi về lượng. Do vậy, cần khắc phục cả hai biểu hiện trên.
- Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa
học và quyết tâm thực hiện bước nhảy; tuy đều có tính khách quan, nhưng quy
luật xã hội chỉ diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người; do vậy,
khi thực hiện bước nhảy trong lĩnh vực xã hội, tuy vẫn phải tuân theo điều kiện
khách quan, nhưng cũng phải chú ý đến điều kiện chủ quan, quyết tâm và nghị
lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ động nắm bắt thời
cơ thực hiện kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi mang
tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng. lOMoAR cPSD| 61470371
- Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc
vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó,
phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết
đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
* Quy luật phủ định của phủ định:
- Phủ định biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật, hiện tượng
cũ và là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới. Phủ định
biện chứng là tự phủ định, tự phát triển của sự vật, hiện tượng; là “mắt xích” trong “sợi
dây chuyền” dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ.
- Phủ định biện chứng:
+) Tính khách quan (sự vật, hiện tượng tự phủ định mình do mâu thuẫn bên trong nó gây ra)
+) Tính kế thừa (loại bỏ các yếu tố không phù hợp và cải tạo các yếu tố của sự vật,
hiện tượng cũ còn phù hợp để đưa vào sự vật, hiện tượng mới).
+) Tính phổ biến (diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy)
+) Tính đa dạng, phong phú của phủ định biện chứng thể hiện ở nội dung, hình thức của nó.
- Sau một số (ít nhất là hai) lần phủ định, sự vật, hiện tượng phát triển có tính chu kỳ
theo đường xoáy ốc mà thực chất của sự phát triển đó là sự biến đổi, trong đó giai đoạn
sau vẫn bảo tồn những gì tích cực đã được tạo ra ở giai đoạn trước.
- Kế thừa biện chứng: sự vật, hiện tượng mới ra đời vẫn giữ lại có chọn lọc và cải tạo
yếu tố còn thích hợp để chuyển sang chúng; loại bỏ các yếu tố không còn thích hợp
của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng mới
- Kế thừa siêu hình: đối tượng giữ lại nguyên si những gì bản thân nó đã có ở giai đoạn
phát triển trước, không tự mình rũ bỏ những yếu tố đã tỏ ra lạc hậu hết thời, không còn
phù hợp, thậm chí còn ngáng đường, ngăn cản sự phát triển tiếp theo của chính nó, của đối tượng mới.
- Sự kế thừa nên phủ định biện chứng không phải là phủ định sạch trơn, không loại bỏ
tất cả các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ, mà là điều kiện cho sự phát triển, duy trì và
gìn giữ, lặp lại một số yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng mới sau khi đã được chọn
lọc, cải tạo cho phù hợp và do vậy, sự phát triển của các sự vật, hiện tượng có quỹ đạo
tiến lên như đường xoáy ốc. lOMoAR cPSD| 61470371
*Ý nghĩa phương pháp luận:
- Thứ nhất, quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự vật, hiện
tượng; sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển; sau khi đã trải
qua các mắt xích chuyển hóa, có thể xác định được kết quả cuối cùng của sự phát triển.
- Thứ hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển, đó là quá
trình diễn ra quanh co, phức tạp, không hề đều đặn thẳng tắp, không va vấp, không có những bước thụt lùi.
- Thứ ba, quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới, ra đời phù
hợp với quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao về chất trong sự phát triển.
- Thứ tư, cần ủng hộ sự vật, hiện tượng mới, tạo điều kiện cho nó phát triển hợp quy
luật; biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp lý của sự vật, hiện tượng
cũ làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng mới.
6. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn:
- Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật
chất- cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cảitạo tự nhiên và xã hội
phục vụ nhân loại tiến bộ.
- Thực tiễn gồm những đặc trưng sau:
• Thực tiễn không phải toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động
vật chất - cảm tính. Hoạt động vật chất - cảm tính là những hoạt động mà con người
phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật
chất để làm biến đổi chúng. -> Con người mới làm biến đổi được thế giới khách quan phục vụ cho mình.
• Hoạt động thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con người.
Trong hoạt động thực tiễn con người truyền lại cho nhau những kinh nghiệm từ thế
hệ này qua thế hệ khác. Hoạt động thực tiễn luôn bị giới hạn bởi những điều kiện
lịch sử - xã hội cụ thể. Đồng thời, thực tiễn có trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể của nó.
• Thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ
con người. Con người bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, chủ động tác động
cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới.
- Thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con người.
- Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau: lOMoAR cPSD| 61470371
• Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn có sớm nhất, cơ bản nhất, quan
trọng nhất. Bởi lẽ, ngay từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất với tư cách là
người, con người đã phải tiến hành sản xuất vật chất dù là giản đơn để tồn tại. Sản
xuất vật chất biểu thị mối quan hệ của con người với tự nhiên và là phương thức tồn
tại cơ bản của con người và xã hội loài người. Không có sản xuất vật chất, con người
và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển. Sản xuất vật chất còn là cơ sở
cho sự tồn tại của của các hình thức thực tiễn khác cũng như tất cả các hoạt động
sống khác của con người.
• Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao của con
người nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã
hội,v.v.. tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho con người phát triển. Hoạt động chính
trị - xã hội bao gồm các hoạt động như đấu tranh giai cấp; đấu tranh
giải phóng dân tộc; đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội; đấu tranh cải
tạo các quan hệ chính trị - xã hội, nhằm tạo ra môi trường xã hội dân chủ, lành
mạnh, thuận lợi cho con người phát triển.
• Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Bởi
lẽ, trong hoạt động thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều
kiện không có sẵn trong tự nhiên cũng như xã hội để tiến hành thực nghiệm khoa
học theo mục đích mà mình đã đề ra. Trên cơ sở đó, vận dụng những thành tựu khoa
học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất vật chất, vào cải tạo chính trị - xã hội, cải tạo
các quan hệ chính trị - xã hội phục vụ con người.
Ba hình thức thực tiễn này có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
- Thực tiễn là cầu nối con người với tự nhiên, xã hội, nhưng đồng thời thực tiễn cũng tách
con người khỏi thế giới tự nhiên, để “làm chủ” tự nhiên.
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
• Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức: Chính thực tiễn cung cấp những tài liệu,
vật liệu cho nhận thức của con người. Không có thực tiễn thì không có nhận thức,
không có khoa học, không có lý luận, bởi lẽ tri thức của con người xét đến cùng đều
được nảy sinh từ thực tiễn.
• Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Nhận thức của con người là nhằm phục vụ
thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn chứ không phải để trang trí, hay phục
vụ cho những ý tưởng viển vông. Nếu không vì thực tiễn, nhận thức sẽ mất phương
hướng, bế tắc. Mọi tri thức khoa học - kết quả của nhân thức chỉ có ý nghĩa khi nó
được áp dụng vào đời sống thực tiễn một cách trực tiếp hay gián tiếp để phục vụ con người. lOMoAR cPSD| 61470371
• Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý: Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy
nhất để kiểm tra chân lý, bác bỏ sai lầm. Chỉ có thực tiễn mới có thể vật chất hoá
được tri thức, hiện thực hoá được tư tưởng, qua đó mới khẳng định được chân lý
hoặc phủ định một sai lầm nào đó.
7. Sản xuất vật chất và vai trò của sản xuất vật chất:
- Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải
xã hội, nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. - Vai trò:
+) Sản xuất vật chất là tiền đề trực tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt của con người” nhằm duy trì
sự tồn tại và phát triển của con người nói chung cũng như từng cá thể người nói riêng.
+) Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con người. Hoạt động sản xuất
vật chất là cơ sở hình thành nên quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người, từ đó hình
thành nên các quan hệ xã hội khác - quan hệ giữa người với người về chính trị, pháp luật, đạo
đức, tôn giáo... Sản xuất vật chất đã tạo ra các điều kiện, phương tiện bảo đảm cho hoạt động
tinh thần của con người và duy trì, phát triển phương thức sản xuất tinh thần của xã hội.
+) Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người. Nhờ hoạt động sản
xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tư duy, tình cảm, đạo
đức…Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản, quyết định nhất đối với sự hình thành, phát triển
phẩm chất xã hội của con người.
- Để nhận thức và cải tạo xã hội, phải xuất phát từ đời sống sản xuất, từ nền sản xuất vật chất
xã hội. Xét đến cùng, không thể dùng tinh thần để giải thích đời sống tinh thần; để phát triển
xã hội phải bắt đầu từ phát triển đời sống kinh tế- vật chất.
8. Quan hệ biện chứng LLSX và QHSX:
* Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức
sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu
nhất định của con người và xã hội.
- Lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực tiễn của con người, nhưng bản thân năng lực
thực tiễn này bị quy định bởi những điều kiện khách quan mà trong đó con người sống và
hoạt động. Vì vậy, lực lượng sản xuất luôn có tính khách quan. Tuy nhiên, quá trình phát
triển lực lượng sản xuất là kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa khách quan và chủ quan
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất là phát triển ở cả tính chất và trình độ. Tính chất của
lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hoá trong việc sử dụng tư lOMoAR cPSD| 61470371
liệu sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao động và công cụ lao động.
*Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người trong quá trình
sản xuất vật chất, bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản
lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
* Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất có tác
động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản
xuất tác động trở lại to lớn đối với lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược
lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ
bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.
- Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất:
+) Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi
hỏi khách quan của nền sản xuất.
+) Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im”
tương đối của quan hệ sản xuất.
+) Quan hệ sản xuất từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng
sản xuất trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tất yếu: Phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển.
+) Những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và
do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả
những quan hệ xã hội của mình.
VD: Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa
Các cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp
Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới trong lịch
sử, quyết định đến nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
+) Vai trò của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự phù
hợp biện chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. lOMoAR cPSD| 61470371
+) Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là một trạng thái trong đó quan hệ
sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển.
+) Nếu quan hệ sản xuất “đi sau” hay “vượt trước” trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đều là không phù hợp.
+) Sự phù hợp diễn ra trong sự vận động phát triển, là một quá trình thường xuyên nảy sinh
mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn. ( mang tính tương đối ) - quy định mục đích, xu hướng
phát triển của nền sản xuất xã hội; hình thành hệ thống động lực thúc đẩy sản xuất phát triển;
đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất.
+) Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai chiều hướng (
thúc đẩy hoặc kìm hãm )
+) Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật
phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
Từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ -> phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ ->
phương thức sản xuất phong kiến -> phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát triển
đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
+) Trong xã hội chủ nghĩa, sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất đòi hỏi tất yếu thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Phương
thức sản xuất xã hội chủ nghĩa dần dần loại trừ đối kháng xã hội. Sự phù hợp không diễn ra
“tự động”, đòi hỏi trình độ tự giác cao trong nhận thức và vận dụng quy luật. Quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội chủ nghĩa có thể bị “biến dạng”
do nhận thức và vận dụng không đúng quy luật.
- Ý nghĩa trong đời sống xã hội:
+) Muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát
triển lực lượng lao động và công cụ lao động. Muốn xoá bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết
lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, từ
tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tuỳ tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí.
+) Là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận
thức và vận dụng đúng đắn sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự vận
dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong
phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay. lOMoAR cPSD| 61470371
9. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội:
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện
thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó, được hình thành một cách khách
quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội.
- Các quan hệ sản xuất là các quan hệ cơ bản, đầu tiên, chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội khác.
- Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm: Quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư,
quan hệ sản xuất mầm mống. (Quan hệ sản xuất thống trị đặc trưng cho cơ sở hạ tầng của xã hội đó)
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế xã
hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
- Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng về chính
trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học…cùng những thiết chế xã hội tương
ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác.
- Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng tồn tại trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và
đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh những cơ sở hạ tầng nhất định. Song, không phải
tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau đối với cơ sở hạ tầng của nó.
- Kiến trúc thượng tầng chính trị và pháp lý có mối liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng.
- Đặc trưng của kiến trúc thượng tầng là sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp thống trị.
b. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội:
* Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng:
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Bởi
vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế xét đến cùng quyết
định tính tất yếu chính trị - xã hội.
+) Cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội sẽ quyết định kiểu
kiến trúc thượng tầng của xã hội ấy. lOMoAR cPSD| 61470371
+) Cơ sở hạ tầng không chỉ sản sinh ra một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng - tức là
quyết định nguồn gốc, mà còn quyết định đến cơ cấu, tính chất và sự vận động, phát triển
của kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng như thế nào thì cơ cấu, tính chất của kiến trúc thượng tầng là như thế ấy. VD:
+) Trong xã hội có đối kháng giai cấp: giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế
->chiếm địa vị thống trị trong đời sống chính trị, tinh thần của xã hội
+) Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng của xã hội.
- Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng đưa tới sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng >< Sự thay
đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp, có những bộ phận của kiến trúc
thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị,
luật pháp,v.v.. Có những nhân tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng thay đổi chậm hơn
như tôn giáo, nghệ thuật,v.v.. Cũng có những nhân tố nào đó của kiến trúc thượng tầng
cũ vẫn được kế thừa để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.
* Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
- Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định nhưng
có sự tác động trở lại to lớn đối với kiến trúc thượng tầng. ( kiến trúc thượng tầng có
tính độc lập tương đối so với cơ sở hạ tầng )
- Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó; ngăn chặn
cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh xoá bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ; định hướng, tổ chức, xây
dựng chế độ kinh tế của kiến trúc thượng tầng.
- Tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều hướng:
Kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với sự phát triển của cơ sở hạ tầng sẽ thúc
đẩy cơ sở hạ tầng phát triển và nếu tác động ngược chiều với sự phát triển của cơ sở hạ
tầng, của cơ cấu kinh tế nó sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng, của kinh tế. (
Phản ánh đúng tính tất yếu )
- Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng thì kiến trúc thượng tầng về chính trị có
vai trò quan trọng nhất, trong đó nhà nước có vai trò tác động to lớn đối với cơ sở hạ tầng.
- Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được củng cố, phát triển dựa trên cơ
sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa và trong chính sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. lOMoAR cPSD| 61470371
- Xây dựng và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ những
đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, phải tích cực chủ động
đấu tranh khắc phục mọi tàn dư tư tưởng lạc hậu của xã hội cũ và đánh bại mọi âm mưu
chống phá của các thế lực thù địch.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính
quy luật để phát triển cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa.
* Ý nghĩa trong đời sống xã hội:
- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cơ
sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị. Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế quyết định chính trị, chính
trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế.
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng trước hết và chủ yếu thông
qua đường lối, chính sách của đảng, nhà nước.
- Nếu tách rời hoặc tuyệt đối hoá một yếu tố nào giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm.
+) Tuyệt đối hoá kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi vào quan điểm
duy vật tầm thường, duy vật kinh tế -> vô chính phủ, bất chấp kỷ cương, pháp luật và
không tránh khỏi thất bại, đổ vỡ.
+) Tuyệt đối hoá về chính trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò của kinh tế sẽ dẫn đến duy
tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn và cũng không tránh khỏi thất bại.
- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất quan tâm đến nhận
thức và vận dụng quy luật này. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương đổi mới toàn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là
trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng vững chắc bằng những hình
thức, bước đi thích hợp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
10. Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng của Nhà nước:
- Nguồn gốc: Nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện nhà nước là do sự phát triển của lực
lượng sản xuất dẫn đến sự dư thừa tương đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu, còn
nguyên nhân trực tiếp đẫn tới sự xuất hiện nhà nước là do mâu thuẫn giai cấp trong xã
hội gay gắt không thể điều hòa được. Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan để “làm
dịu” sự xung đột giai cấp, để duy trì trật tự xã hội trong vòng “ trật tự” mà ở đó, địa vị
và lợi ích của giai cấp thống trị được đảm bảo.
- Nhà nước ra đời trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Nhà nước là sản
phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định khi “xã hội đó đã bị phân lOMoAR cPSD| 61470371
thành những mặt đối lập không thể điều hòa mà xã hội đó bất lực không sao loại bỏ được.
- Bản chất của nhà nước: Nhà nước, về bản chất, là một tổ chức chính trị của một giai
cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
- Nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp, không có nhà nước đứng trên, đứng ngoài giai cấp.
- Nhà nước dù có tồn tại dưới hình thức nào thì cũng phản ánh và mang bản chất giai cấp.
Đo đó, để phân biệt nhà nước với các tổ chức xã hội khác cần phải nhận biết các đặc trưng của nhà nước
- Đặc trưng cơ bản của nhà nước:
+) Một là, nhà nước quản lý cư dân trên một vùng lãnh thổ nhất định: Cư dân trong
cộng đồng nhà nước không chỉ tồn tại quan hệ huyết thống mà còn tồn tại trên cơ sở
quan hệ ngoài huyết thống. Đó là quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội, quan hệ chính trị,..
giữa các thành phần cư dân trong một phạm vi lãnh thổ nhất định.
Về nguyên tắc, quyền lực nhà nước có hiệu lực với tất cả thành viên, tổ chức tồn tại
trong phạm vi biên giới quốc gia.Việc xuất nhập cảnh do nhà nước quản lý.
+) Hai là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng
chế đối với mọi thành viên như: hệ thống chính quyền từ trung ương tới cơ sở, lực lượng
vũ trang, cảnh sát, nhà tù…đó là “những công cụ vũ lực chủ yếu của quyền lực nhà nước”
+) Ba là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền. Để duy trì sự
thống trị của mình, giai cấp thống trị trước hết phải đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà
nước. Mà muốn bộ máy nhà nước hoạt động thì phải có nguồn tài chính. Nguồn tài
chính được nhà nước huy động chủ yếu là do thu thuế, sau đó là quốc trái thu được do
sự cưỡng bức hoặc do sự tự nguyện của công dân.