Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
…...0O0…..
BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài số : 3
PHÂN TÍCH QUAN NIỆM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC. LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN
Họ tên: Dương Thùy Linh sinh viên:
11223411
Lớp: Bảo Hiểm 64A Khóa: 64 GĐ:
D-202
Hà Nội - 11/2022
MỤC LỤC
MỞ
ĐẦU ..............................................................................
............................... 1
NỘI
DUNG ...........................................................................
.............................. 2
1. Khái quát về triết
học ................................................................................. 2
2. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức.... 2
a, Chủ nghĩa duy vật biện
chứng .................................................................2
b, Vật chất quyết định ý
thức ......................................................................3
c, Ý thức tính độc lập tương đối tác động trở lại vật
chất .................6
3. Liên hệ thực
tiễn ......................................................................................
...8
KẾT
LUẬN ............................................................................
............................. 9
MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, Triết học Mác-Lênin một trong những
thành tựu đại nhất trong lịch sử triết học của nhân loại. Triết
học Mác-Lênin giúp con người trang bị được hành trang tri thức
về hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật chung nhất của
mọi khoa học cũng như trong đời sống. Trong Triết học Mác-
Lênin đề cập, phân tích quan niệm duy vật biện chứng về
mối quan hệ giữa vật chất ý thức. Qua đó, ta thấy được vật
chất ý thức tác động qua lại, mối quan hệ biện chứng. Và
trong mối quan hệ ấy, vật chất là cái bản nguyên, giữ vài trò tác
động lên ý thức. Các hệ thống tri thức (quan điểm, quan niệm),
luận chung nhất của con người về thế giới; về chính con
người và về vị trí, vai trò của nó trong thế giới có vai trò đặc biệt
quan trọng trong nhận thức cũng như hoạt động trong thực tiễn
của bản thân em. Qua những do được nêu trên chính động
lực để em lựa chọn đề tài: Phân tích quan niệm duy vật
biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất ý thức. Liên
hệ với thực tiễn.”
1
NỘI DUNG
1. Khái quát về triết học
Tong triết học tồn tại một vấn đề bản lớn, đó mối
quan hệ giữa duy tồn tại. Để giải đáp cho vấn đề ấy,
các nhà triết học cần trả lời cho hai câu hỏi “Vật chất
trước hay ý thức có trước?” và “Con người có thể nhận thức
thế giới đúng như tồn tại hay không?”. Vấn đề bản
ấy chính là căn cứ bản để xác định các trường phái triết
học chính trong lịch sử cũng như giải quyết các vấn đề của
nhận thức và thực tiễn.
Chủ nghĩa nhất nguyên (Chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa
duy tâm) và chủ nghĩa nhị nguyên.
Khả tri luận, bất khả tri luận, hoài nghi luận.
câu hỏi thứ nhất, chủ nghĩa duy vật được xây dựng trên
quan niệm vật chất trước quyết định ý thức (bản
nguyên- bản chất của thế giới vật chất). Chủ nghĩa duy
tâm trường phái triết học xuất phát từ quan điểm ý thức
trước quyết địn vật chất (Bản nguyên bản chất
ý thức). Chủ nghĩa nhị nguyên trường phái xuất phát
từ quan niệm vật chất và y thức tồn tại độc lập với nhau.
Khả tri luận, bất khả tri luận hoài nghi luận ba trường
phái có sự khác nhau trong việc giải quyết mặt thứ hai của
vấn đề bản. Khả tri luận thừa nhận con người khả
năng nhận thức được thé giới của con người. Trái với khả
tri luận, các nhà triết học theo trường phái bất khả tri luận
khẳng định rằng con người không thể hiểu được bản chất
của đối tượng, cảm giác và nhận thức của con người không
phải cái tuyệt đối tin cậy. Có phần liên quan đến bất khả tri
Thuyết hoài nghi luận. Những người theo Thuyết này
nâng sự hoài nghi thành nguyên tắc trong việc xem xét tri
thức, cho rằng chỉ thể biết về mặt hiện tượng (chủ
quan) mà không thể biết được cái bản chất (khách quan).
2. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức
a, Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng hình thức bản thứ ba
của chủ nghĩa duy vật, do C. Mác Ph. Ăngghen xây
dựng vào những năm 40 của thế kỉ XIX, sau đó được
Lênnin phát triển. Với sự thừa kế tinh hoa của các học
thuyết trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa
học đương thời, ngay từ khi mới ra đời chủ nghĩa duy vật
biện chứng đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy
vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa siêu hình và
2
đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ
nghĩa duy vật không chỉ phản ánh hiện thực đúng như
chính bản thân tồn tại còn một công cụ hữu hiệu
giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực
[Giáo trình Triết học Mác - Lênin].
* Phương pháp biện chứng
Phương pháp biện chứng thừa nhận đối tượng qua các mối
liên hệ của với các đối tượng khác sự ảnh hưởng,
ràng buộc giữa chúng. Bên cạnh đấy, nó còn thừa nhận đối
tượng trạng thái vận động biến đổi khuynh hướng
chung phát triển, sự thay đổi về chất nguyên
nhân của sự thay đổi ấy do nguồn gốc bên trong đối
tượng, đó sự đấu tranh giữa các mặt đối lập để thể
phát triển.
* Phép biện chứng
Phép biện chứng học thuyết nghiên cứu, khái quát biện
chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật
khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc,
phương pháp của nhận thức thực tiễn (với cách
“học thuyết” thì thể khoa học hoặc cũng thể
chưa phải khoa học). Với cách học thuyết về biện
chứng của thế giới, phép biện chứng không chỉ tồn tại với
cách một luận tả biện chứng của thế giới, giải
thích biện chứng của thế giớicòn với cách một hệ
thống phương pháp luận của việc nhận thức thế giới
hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Về không gian, đây cái chỉ vị trí, hình thức tồn tại của
vật chất xét về mặt quảng tính (bề dài, bề rộng, bề cao),
sự cùng tồn tại, trật tự , kết cấu sự tác động lẫn nhau.
Về thời gian, đây hình thức tồn tại của một sự vật, hiện
tượng nào đó, diễn ra nhịp độ nhanh hay chậm, với vận
tốc, nhịp độ như thế nào? Không gian thời gian gắn
mật thiết gắn liền với vật chất, không một dạng vật
chất nào tồn tại ngoài nó. Ngược lại, cũng không thể
thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất.
b, Vật chất quyết định ý thức
Trong quan niệm duy vật biện chứng, vật chất cái bản
nguyên, sự khởi đầu của vạn vật trên thế gian. Tất thảy
mọi thứ đều nguồn gốc từ vật chất ý thức cũng vậy.
Vậy ta sẽ cùng đi vào các vấn đề để trả lời cho mối quan
hệ giữa vật chất ý thức trong quan niệm duy vật biện
chứng.
Một là, vật chất là nguồn gốc của ý thức. Như các nhà khoa
học đã tìm hiểu chứng minh, trái đất đã tồn tại được
khoảng 4,55 tỷ năm trong khi loài
3
người đầu tiên trên thế giới (dạng vượn người) mới chỉ xuất
hiện cách đây khoảng 4 - 7 triệu năm. Con người đạt đến
trình độ phát triển với hệ thống tri thức như ngày hôm nay
cũng đã phải trải qua một quá trình dài phát triển đầy
phức tạp, dần dần ý thức mới được hình thành, phát triển,
trở nên sâu sắc và ý thức là một “bộ phậngắn liền với con
người. con người do thế giới tự nhiên, vật chất sinh
ra nên ta hiểu rằng ý thức – một thuộc tính gắn liền với con
người cũng do thế giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Dựa trê
các thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, nhất là sinh
học thần kinh hiện đại, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định rằng: xét về nguồn gốc tự
nhiên, ý thức chỉ thuộc tính của vật chất, thuộc tính
của một dạng vật chất sống tổ chức cao nhất bộ óc
con người. Bộ não con người một cơ quan cao cấp, phản
ánh ý thức, sự tồn tại của ý thức phụ thuộc vào hoạt động
thần kinh của bộ não để thể đưa ra những hiện thực
khách quan. Sự tiến hóa của thế giới vật chất lịch sử
phát triển khả năng phản ánh thế giới của ý thức từ tháp
đến cao cao nhất chính năng lực phản ánh ý thức.
Như vậy, sự xuất hiện của con người cũng như sự hình
thành bộ óc của con người năng lực phản ánh hiện thực
khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Để tồn
tại, con người cần tạo ra những vật phẩm đáp ứng nhu cầu
của đời sống. Ph. Ăngghen đã chỉ rõ những động lực hội
góp phần mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của ý thức: đầu
tiên lao động; sau lao động đồng thời với lao động
ngôn ngữ. Đó chính là các nhân tố kích thích mạnh mẽ đến
bộ óc của vượn người, giúp chúng được thúc đẩy phát triển
dần dần tiến hóa thành bộ não người ngày nay. Cũng
nhờ đó con người ngày càng nhận thức được thế giới
đồng thời hiểu sâu sắc hơn về nó. Suy cho cùng, ý thức
tồn tại dưới hình thức nào thì cũng đều phản ánh hiện thực
khách quan. Ý thức chỉ được coi như tấm gương phản chiếu
sự phát triển của thế giới khách quan. Sự phát triển phong
phú của đời sống hội chính nhân tố của việc phát
triển duy ý thức sâu sắc hơn qua mỗi thời lịch sử
của nhân loại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Như ta đã
thấy, phản ánh sáng tạo hai thuộc tính không thể
tách rời của ý thức. Trải qua quá trình hoạt động thực tiễn
lâu dài, nhận thức tính phát triển làm cho ý thức ngày
phát triển và sáng tạo hơn. Ví dụ như khi lao động cùng với
các dụng cụ, con người bắt buộc phải cảm nhận công việc
của mình bằng đầy đủ các giác quan, từ đó hệ thống thần
kinh ngày càng được sử dụng nhiều, sự sáng tạo cũng từ
đó sinh ra. Ph. Ăngghen đã khẳng định: Cùng với sự phát
triển của bàn tay, thì từng bước một đầu óc cũng phát
triển, ý thức xuất hiện,
5
trước hết là về những điều kiện của các kết quả có ích thực
tiễn và về sau,... là về những quy luật tự nhiên chi phối các
kết quả ích đó [Giáo trình Triết học Mác-Lênin]. Giữa vật
chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, mà ở đó cái gốc
vật chất nên muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần
phải xem xét nó trong mối quan hệ với vật chất.
Thứ tư, vật chất quyết định đến sự vận động phát triển
của ý thức. Các cụ từ xưa đã nói rằng: “Có thực mới vực
được đạo.”. Qua câu nói ấy, ta hiểu được tầm quan trong
của vật chất, cụ thể hơn trong trường hợp này đồ ăn,
đồ ăn ta mới th duy trì sự sống từ đó mới thể
vực được đạo”, mới thể phát triển những ý nghĩ, tiếp
tục trên con đường nâng cao ý thức. Như vậy thể thấy,
mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với vật
chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo. Và
minh chứng ràng nhất cho việc ấy, ý thức của con
người sẽ thay đổi tùy vào hoàn cảnh sống cũng như điều
kiện vật chất họ có. Thế giới tự nhiên, vật chất ngày
càng phát triển, cũng thế ý thức ngày càng phát triển
(cả về mặt nội dung cũng như hình thức phản ánh).
c, Ý thức tính độc lập tương đối tác động trở
lại vật chất
Nếu vật chất quyết định nguồn gốc, nội dung phản ánh
sự vận động phát triển của ý thức thì ý thức có tính độc lập
tương đối tác động lại vật chất. Điều này đã được thể
hiện qua bốn khía cạnh.
Khía cạnh một, tính độc lập tương đối của ý thức. Tính độc
lập ấy được thể chỗ, ý thức phản ánh thế giới vật chất
vào trong bộ óc của con người; nhưng từ khi sinh ra, ý thức
đã xuất hiện, hoạt động không lệ thuộc một cách máy móc
vào vật chất còn tác động ngược vào thế giới vật chất.
Xét trên một phương diện nào đó, ta thể hiểu như
một mối quan hệ nhân quả. Chẳng hạn như trong lớp học,
khi ta đã kết quả cao, ta sẽ lấy kết quả đó làm động lực
để đạt được kết quả cao hơn nữa. Kết quả, chính ý thức
muốn đạt được kết quả cao ấy lại trở thành cái tác động
lên ta để có thể đạt được mục tiêu của bản thân. Ý thức có
thường lạc hậu so với tồn tại hội. cho tới thời điểm
hiện tại – thế kỉ XXI với sự phát triển đỉnh cao của khoa học
thuật, con người ngày càng cởi mở hơn sẵn sàng tiếp
thu những kiến thức mới từ những nền văn hóa khác nhau,
nhưng đâu đó trong hội vẫn còn tồn tại nhiều những ý
thức của hội cũ. thể kể đến những tưởng phong
kiến như: trọng nam kinh nữ, gia trưởng, cha mẹ đặt đâu
con nằm đấy, tục bắt vợ của người dân tộc,... thức trong
trường hợp này đã thoát ly ra khỏi sự phát triển của hội
vật chất, từ đó chứng minh cho tính độc lập của nó. Tuy ý
thức thường chậm so với sự phát triển
6
của hội, nhưng ý thức vẫn thể vượt trước tồn tại của
hội. do khiến ý thức thể đi trước hội tự nhiên,
vật chất đó bởi sau quá trình trải qua hàng trăm năm
nghiên cứu và phát triển, các nhà khoa học dần rút ra được
các quy luật chung thể dự đoán chúng một cách
chính xác trong tương lai. dụ điển hình cho khía cạnh
này, ta thể nhắc đến vào thời điểm quan hệ san xuất
bản đang trong thời đỉnh cao, Các Mác đã dự báo rằng
quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị thay thế bởi một quan
hệ tiế bộ hơn thay thế trong thời gian tới.
Khía cạnh hai, sự tác động của ý thức lên vật chất phải
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ vào các
hoạt động thực tiễn mà con người có thể cải tạo chất lượng
cuộc sống, khôi phục thiên nhiên, bảo vệ gia tăng dân
số của những loài động vật quý hiếm, hay gần gũi hơn
chung tay góp sức giúp đỡ người nghèo, trẻ em mồ côi,...
Những hoạt động đó tuy các hoạt động hội nhưng để
thực hiện được những hoạt động đó thì cần sự đóng góp
của ý thức. Chính vậy con người cần cố gắng phát huy
vai trò tích cực của ý thức, để phản ánh đúng hiện thực
khách quan, vận dụng sáng tạo vào thực tế.
Khía cạnh thứ ba, ý thức vai trò quyết định sự đúng sai,
thành công hay thất bại của hoạt động con người. Ý thức
không thay đổi trực tiếp thế giới con người, cung
cấp những tiêu chuẩn, hệ tri thức khách quan để xác định
mục tiêu, để quyết định những kế hoạch, hoạt động nên
làm. Vai trò đó của ý thức sẽ làm ảnh hưởng đến thế giới
vật chất theo hai hướng: tích cực tiêu cực. Đối với mặt
tích cực, nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực, thể
đưa các tiên đoán, dự báo từ đó các định hướng đúng đắn.
Khi đó, ý thức sẽ động lực để thúc đẩy vật chất phát
triển. Nhưng ngược lại, khi ý thức tác động một cách tiêu
cực, đó khi ý thức phản ánh một cấch sai lệch hiện
tượng, từ đó làm những dự đoán chệch khỏi quỹ đạo của
nó, mọi thứ trở nên nghĩa, thậm chí xấu xa, kìm hãm
sự phát triển của nhân loại.
Khía cạnh thứ cũng khía cạnh cuối cùng, vật chất tác
động vật chất. hội ngày càng phát triển, vai trò của ý
thức ngày càng to lớn. Tuy nhiên, ý thức không thể vượt
quá tiền đề vật chất đã xác định. Ý thức phải dựa vào các
điều kiện khách quan năng lực chủ quan của các chủ
thể hành động.
Tóm lại, mối quan hệ giữa vật chất ý thức mối quan
hệ biện chứng, tức cùng quyết định, tác động lên nhau,
tồn tại độc lấp chứ không bài trừ, xóa bỏ nhau.
7
3. Liên hệ thực tiễn
Trong kinh tế chính trị, từ chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng
Cộng sản Việt Nam ta đã những thành công trong việc
vận dung mối quan hệ giữa ý thức vật chất vào trong
thực tiễn. Sau nhũng thất bại cùng với những thành công
đã đạt đc, Đảng đã rút ra được bài học kinh nghiệm quý
giá: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng đều xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.”
Trong việc xây dựng nền kinh tế mới. Hiện nay, người dân
đã hiểu, tiếp thu vận dụng những quy luật trong nền
kinh tế các nhà khoa học đã đúc kết được. Đất nước ta
đang đẩy mạnh đi vào thời công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Đảng ta chủ trương: huy động ngày càng cao mội
nguồn lực trong ngoài nước”, muốn vậy phải nâng cao
năng lực lãnh đạo sức mạnh của toàn dân tộc, đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, đưa đất nước sơm ra khỏi tình
trạng đói nghèo, kém phát triển.
Trong những phân tích trên, tính độc lập tương đối của ý
thức của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra bức tranh phức tạp
của lịch sử phát triển của ý thức hội cũng như tinh thần
nói chung. Thực tiễn khi vận dụng tính độc lập của ý thức
vào thực tiễn, ta sẽ thu đợc nhiều điều ý nghĩa và kết quả t
lớn. Sau quá trình quan sát rút kinh nghiệm, Đảng ta
cho rằng trong quá trình hội nhập mạnh mẽ như hiện nay,
việc cố gắng và giữ gìn bản sắc dân tộc từ thời xưa là hoàn
tòan cần thiết. Nhưng bên cạnh đấy vẫn không ngừng cố
gắng tiếp thu những tinh hoa thê giới để làm giàu đẹp van
hóa Việt Nam.
Đối với bản thân em, đầu tiên em thấy mình cần xác định
các yếu tố, điều kiện khách quan ảnh hưởng đến kết quả
cũng như quá trình học tập của bản thân. một sinh viên
của Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, khi theo học chương
trình tín chỉ, em nhận thấy mình cần xác định được các
điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến học tập của mình để tôn
trọng hành động theo quy luật khách quan. dụ như
nắm rõ nội quy nhà trường, các điều kiện cần để đăng
tín chỉ, thời gian đăng tín chỉ lên kế hoạch phân chia
thời gian học tập cho hợp cũng như đáp ứng đầy đủ
những yêu cầu của giảng viên đề ra. Thứ hai, ý thức sự
tác động trơ lại vật chất nên cần phải phát huy tính sáng
tạo của ý thức. Để làm được việc ấy thì việc cần làm là chủ
động trau dồi kiến thức, đọc sách, không phụ thuộc vào
người khác, cố gắng đưa ra ý kiến của bản thân trong các
cuộc thảo luận. Từ khi bắt đầu lên đại học, em cảm thấy
rằng mình phải tiếp thu một khối lượng kiến thức rất lớn,
thầy trong trường chỉ người dẫn đường, giúp em
tiếp cận các kiến thức. Để thể hoàn toàn tiếp thu được
bài học, em cần học trước xem lại bài một cách cẩn
thận và kĩ lưỡng trước và sau mỗi giờ học. Có
8
như vậy em mới thể tiếp thu kiến thức tự tin hơn
trong phần làm bài tập. Khi làm bài tập, em sẽ cố gắng
không phụ thuộc vào đáp án, cố gắng tìm ra kết quả bằng
chính khả năng của mình. Đến khi không thể tìm ra đáp
án, mới tham khảo nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, thầy cô.
Thứ ba, chủ động tiếp thu cái mới, tránh bị lạc hậu, tụt lùi.
Đó khi các bạn trong lớp những câu hỏi, ý kiến cho
bài đã được học, em sẽ lắng nghe suy nghĩ về quan
điểm của bạn để cải thiện duy của mình đồng thời tiếp
thu thêm các ý kiến đúng đắn. Cuối cùng khi giải thích cho
sự vật, hiện tượng nào đó cần xét cả yếu tố vật chất
tinh thần, yếu tố khách quan và điều kiện khách quan. Quá
trình học tập tại Kinh tế Quốc Dân chính vật chất đang
hoạt động còn ý thức trong quá trình học tập bộ óc của
sinh viên. Chính ý thức của bản thân em trong việc học tập
đã giúp em đặt ra các mục tiêu ràng, cụ thể, bệ
phóng vững chắc cho tương lai sau này. Nếu bản thân
những nhận thức đúng về hoạt động học tập, nắm vững tri
thức trong suốt quá trình học, cố gắng tham gia các hoạt
động phù họp với thực tế khách quan. Từ đó em sự cố
gắng, năng lực để vượt qua mọi thách thức. Đây chính
là tác động tích cực của ý thức lên vật chất.
KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu mối quan hệ giữa vật chất ý thức
trong quan niệm duy vật biện chứng, chúng ta thấy được
vật chất cái tồn tại trước, cái bản nguyên. Vật chất
yếu tố quyết định ý thức. Ý thức cái sau như một
tâm gương phản chiếu lại hiện thực khách quan của hội
tự nhiên, vật chất. Nhưng vậy ý thức vẫn luôn tồn tại
độc lập tương đối những tác động trở ại vật chất.
Trong hoạt động thực tiễn, vật chất yếu tố sở, quyết
định cho các yếu tố tinh thần. Do vậy, để thể phát huy
hết khả năng cả mình, em cần nhìn nhận mọi thứ dưới hiện
thực khách quan, không bóp méo hiện thực. Khi đã làm
được như vậy, em tin rằng bản thân sẽ là một nhân tố, một
mảnh ghép đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước
sau này, giúp đất ngước ngày càng phát triển, sánh vai với
bạn bè quốc tế năm châu.
9

Preview text:

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân …...0O0….. BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài số : 3
PHÂN TÍCH QUAN NIỆM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC. LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN
Họ và tên: Dương Thùy Linh Mã sinh viên: 11223411 Lớp: Bảo Hiểm 64A Khóa: 64 GĐ: D-202 Hà Nội - 11/2022 MỤC LỤC MỞ
ĐẦU ..............................................................................

............................... 1 NỘI
DUNG ...........................................................................

.............................. 2 1. Khái quát về triết
học ................................................................................. 2
2. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.... 2 a, Chủ nghĩa duy vật biện
chứng .................................................................2 b, Vật chất quyết định ý
thức ......................................................................3
c, Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất .................6 3. Liên hệ thực
tiễn ...................................................................................... ...8 KẾT
LUẬN ............................................................................

............................. 9 MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, Triết học Mác-Lênin là một trong những
thành tựu vĩ đại nhất trong lịch sử triết học của nhân loại. Triết
học Mác-Lênin giúp con người trang bị được hành trang tri thức
về hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật chung nhất của
mọi khoa học cũng như trong đời sống. Trong Triết học Mác-
Lênin có đề cập, phân tích quan niệm duy vật biện chứng về
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Qua đó, ta thấy được vật
chất và ý thức tác động qua lại, có mối quan hệ biện chứng. Và
trong mối quan hệ ấy, vật chất là cái bản nguyên, giữ vài trò tác
động lên ý thức. Các hệ thống tri thức (quan điểm, quan niệm),
lý luận chung nhất của con người về thế giới; về chính con
người và về vị trí, vai trò của nó trong thế giới có vai trò đặc biệt
quan trọng trong nhận thức cũng như hoạt động trong thực tiễn
của bản thân em. Qua những lí do được nêu trên chính là động
lực để em lựa chọn đề tài: “Phân tích quan niệm duy vật
biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Liên

hệ với thực tiễn.” 1 NỘI DUNG
1. Khái quát về triết học
Tong triết học tồn tại một vấn đề cơ bản lớn, đó là mối
quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Để giải đáp cho vấn đề ấy,
các nhà triết học cần trả lời cho hai câu hỏi “Vật chất có
trước hay ý thức có trước?” và “Con người có thể nhận thức
thế giới đúng như nó tồn tại hay không?”. Vấn đề cơ bản
ấy chính là căn cứ cơ bản để xác định các trường phái triết
học chính trong lịch sử cũng như giải quyết các vấn đề của
nhận thức và thực tiễn.
 Chủ nghĩa nhất nguyên (Chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa
duy tâm) và chủ nghĩa nhị nguyên.
 Khả tri luận, bất khả tri luận, hoài nghi luận.
Ở câu hỏi thứ nhất, chủ nghĩa duy vật được xây dựng trên
quan niệm vật chất có trước và quyết định ý thức (bản
nguyên- bản chất của thế giới là vật chất). Chủ nghĩa duy
tâm là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm ý thức
có trước và nó quyết địn vật chất (Bản nguyên – bản chất
là ý thức). Chủ nghĩa nhị nguyên là trường phái xuất phát
từ quan niệm vật chất và y thức tồn tại độc lập với nhau.
Khả tri luận, bất khả tri luận và hoài nghi luận là ba trường
phái có sự khác nhau trong việc giải quyết mặt thứ hai của
vấn đề cơ bản. Khả tri luận thừa nhận con người có khả
năng nhận thức được thé giới của con người. Trái với khả
tri luận, các nhà triết học theo trường phái bất khả tri luận
khẳng định rằng con người không thể hiểu được bản chất
của đối tượng, cảm giác và nhận thức của con người không
phải cái tuyệt đối tin cậy. Có phần liên quan đến bất khả tri
là Thuyết hoài nghi luận. Những người theo Thuyết này
nâng sự hoài nghi thành nguyên tắc trong việc xem xét tri
thức, cho rằng chỉ có thể biết về mặt hiện tượng (chủ
quan) mà không thể biết được cái bản chất (khách quan).
2. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức
a, Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba
của chủ nghĩa duy vật, do C. Mác và Ph. Ăngghen xây
dựng vào những năm 40 của thế kỉ XIX, sau đó được
Lênnin phát triển. Với sự thừa kế tinh hoa của các học
thuyết trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa
học đương thời, ngay từ khi mới ra đời chủ nghĩa duy vật
biện chứng đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy
vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa siêu hình và 2
là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ
nghĩa duy vật không chỉ phản ánh hiện thực đúng như
chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu
giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực
[Giáo trình Triết học Mác - Lênin].
* Phương pháp biện chứng
Phương pháp biện chứng thừa nhận đối tượng qua các mối
liên hệ của nó với các đối tượng khác và sự ảnh hưởng,
ràng buộc giữa chúng. Bên cạnh đấy, nó còn thừa nhận đối
tượng ở trạng thái vận động biến đổi có khuynh hướng
chung là phát triển, có sự thay đổi về chất mà nguyên
nhân của sự thay đổi ấy là do nguồn gốc bên trong đối
tượng, đó là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập để có thể phát triển. * Phép biện chứng
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện
chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật
khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc,
phương pháp của nhận thức và thực tiễn (với tư cách là
“học thuyết” thì nó có thể là khoa học hoặc cũng có thể
chưa phải là khoa học). Với tư cách là học thuyết về biện
chứng của thế giới, phép biện chứng không chỉ tồn tại với
tư cách là một lý luận mô tả biện chứng của thế giới, giải
thích biện chứng của thế giới mà còn với tư cách là một hệ
thống phương pháp luận của việc nhận thức thế giới và
hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Về không gian, đây là cái chỉ vị trí, là hình thức tồn tại của
vật chất xét về mặt quảng tính (bề dài, bề rộng, bề cao),
sự cùng tồn tại, trật tự , kết cấu và sự tác động lẫn nhau.
Về thời gian, đây là hình thức tồn tại của một sự vật, hiện
tượng nào đó, diễn ra nhịp độ nhanh hay chậm, với vận
tốc, nhịp độ như thế nào? Không gian và thời gian gắn bó
mật thiết và gắn liền với vật chất, không có một dạng vật
chất nào tồn tại ngoài nó. Ngược lại, cũng không thể có
thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất.
b, Vật chất quyết định ý thức
Trong quan niệm duy vật biện chứng, vật chất là cái bản
nguyên, là sự khởi đầu của vạn vật trên thế gian. Tất thảy
mọi thứ đều có nguồn gốc từ vật chất và ý thức cũng vậy.
Vậy ta sẽ cùng đi vào các vấn đề để trả lời cho mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức trong quan niệm duy vật biện chứng.
Một là, vật chất là nguồn gốc của ý thức. Như các nhà khoa
học đã tìm hiểu và chứng minh, trái đất đã tồn tại được
khoảng 4,55 tỷ năm trong khi loài 3
người đầu tiên trên thế giới (dạng vượn người) mới chỉ xuất
hiện cách đây khoảng 4 - 7 triệu năm. Con người đạt đến
trình độ phát triển với hệ thống tri thức như ngày hôm nay
cũng đã phải trải qua một quá trình dài phát triển đầy
phức tạp, dần dần ý thức mới được hình thành, phát triển,
trở nên sâu sắc và ý thức là một “bộ phận” gắn liền với con
người. Mà con người là do thế giới tự nhiên, vật chất sinh
ra nên ta hiểu rằng ý thức – một thuộc tính gắn liền với con
người cũng do thế giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Dựa trê
các thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, nhất là sinh
lý học – thần kinh hiện đại, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định rằng: xét về nguồn gốc tự
nhiên, ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất, là thuộc tính
của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc
con người. Bộ não con người là một cơ quan cao cấp, phản
ánh ý thức, sự tồn tại của ý thức phụ thuộc vào hoạt động
thần kinh của bộ não để có thể đưa ra những hiện thực
khách quan. Sự tiến hóa của thế giới vật chất là lịch sử
phát triển khả năng phản ánh thế giới của ý thức từ tháp
đến cao mà cao nhất chính là năng lực phản ánh – ý thức.
Như vậy, sự xuất hiện của con người cũng như sự hình
thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực
khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Để tồn
tại, con người cần tạo ra những vật phẩm đáp ứng nhu cầu
của đời sống. Ph. Ăngghen đã chỉ rõ những động lực xã hội
góp phần mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của ý thức: đầu
tiên là lao động; sau lao động và đồng thời với lao động là
ngôn ngữ. Đó chính là các nhân tố kích thích mạnh mẽ đến
bộ óc của vượn người, giúp chúng được thúc đẩy phát triển
và dần dần tiến hóa thành bộ não người ngày nay. Cũng
nhờ đó mà con người ngày càng nhận thức được thế giới
đồng thời hiểu sâu sắc hơn về nó. Suy cho cùng, dù ý thức
tồn tại dưới hình thức nào thì cũng đều phản ánh hiện thực
khách quan. Ý thức chỉ được coi như tấm gương phản chiếu
sự phát triển của thế giới khách quan. Sự phát triển phong
phú của đời sống xã hội chính là nhân tố của việc phát
triển tư duy và ý thức sâu sắc hơn qua mỗi thời kì lịch sử của nhân loại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Như ta đã
thấy, phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không thể
tách rời của ý thức. Trải qua quá trình hoạt động thực tiễn
lâu dài, nhận thức lý tính phát triển làm cho ý thức ngày
phát triển và sáng tạo hơn. Ví dụ như khi lao động cùng với
các dụng cụ, con người bắt buộc phải cảm nhận công việc
của mình bằng đầy đủ các giác quan, từ đó hệ thống thần
kinh ngày càng được sử dụng nhiều, sự sáng tạo cũng từ
đó sinh ra. Ph. Ăngghen đã khẳng định: “Cùng với sự phát
triển của bàn tay, thì từng bước một đầu óc cũng phát
triển, ý thức xuất hiện, 5
trước hết là về những điều kiện của các kết quả có ích thực
tiễn và về sau,... là về những quy luật tự nhiên chi phối các
kết quả có ích đó [Giáo trình Triết học Mác-Lênin]. Giữa vật
chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, mà ở đó cái gốc
là vật chất nên muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần
phải xem xét nó trong mối quan hệ với vật chất.
Thứ tư, vật chất quyết định đến sự vận động và phát triển
của ý thức. Các cụ từ xưa đã nói rằng: “Có thực mới vực
được đạo.”. Qua câu nói ấy, ta hiểu được tầm quan trong
của vật chất, cụ thể hơn trong trường hợp này là đồ ăn, có
đồ ăn ta mới có thể duy trì sự sống và từ đó mới có thể
“vực được đạo”, mới có thể phát triển những ý nghĩ, tiếp
tục trên con đường nâng cao ý thức. Như vậy có thể thấy,
mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với vật
chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo. Và
minh chứng rõ ràng nhất cho việc ấy, là ý thức của con
người sẽ thay đổi tùy vào hoàn cảnh sống cũng như điều
kiện vật chất mà họ có. Thế giới tự nhiên, vật chất ngày
càng phát triển, cũng vì thế ý thức ngày càng phát triển
(cả về mặt nội dung cũng như hình thức phản ánh).
c, Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Nếu vật chất quyết định nguồn gốc, nội dung phản ánh và
sự vận động phát triển của ý thức thì ý thức có tính độc lập
tương đối và tác động lại vật chất. Điều này đã được thể hiện qua bốn khía cạnh.
Khía cạnh một, tính độc lập tương đối của ý thức. Tính độc
lập ấy được thể ở chỗ, ý thức là phản ánh thế giới vật chất
vào trong bộ óc của con người; nhưng từ khi sinh ra, ý thức
đã xuất hiện, hoạt động không lệ thuộc một cách máy móc
vào vật chất mà còn tác động ngược vào thế giới vật chất.
Xét trên một phương diện nào đó, ta có thể hiểu nó như
một mối quan hệ nhân quả. Chẳng hạn như trong lớp học,
khi ta đã có kết quả cao, ta sẽ lấy kết quả đó làm động lực
để đạt được kết quả cao hơn nữa. Kết quả, chính ý thức
muốn đạt được kết quả cao ấy lại trở thành cái tác động
lên ta để có thể đạt được mục tiêu của bản thân. Ý thức có
thường lạc hậu so với tồn tại xã hội. Dù cho tới thời điểm
hiện tại – thế kỉ XXI với sự phát triển đỉnh cao của khoa học
kĩ thuật, con người ngày càng cởi mở hơn và sẵn sàng tiếp
thu những kiến thức mới từ những nền văn hóa khác nhau,
nhưng đâu đó trong xã hội vẫn còn tồn tại nhiều những ý
thức của xã hội cũ. Có thể kể đến những tư tưởng phong
kiến như: trọng nam kinh nữ, gia trưởng, cha mẹ đặt đâu
con nằm đấy, tục bắt vợ của người dân tộc,... .Ý thức trong
trường hợp này đã thoát ly ra khỏi sự phát triển của xã hội
vật chất, từ đó chứng minh cho tính độc lập của nó. Tuy ý
thức thường chậm so với sự phát triển 6
của xã hội, nhưng ý thức vẫn có thể vượt trước tồn tại của
xã hội. Lí do khiến ý thức có thể đi trước xã hội tự nhiên,
vật chất đó là bởi vì sau quá trình trải qua hàng trăm năm
nghiên cứu và phát triển, các nhà khoa học dần rút ra được
các quy luật chung và có thể dự đoán chúng một cách
chính xác trong tương lai. Ví dụ điển hình cho khía cạnh
này, ta có thể nhắc đến vào thời điểm quan hệ san xuất tư
bản đang trong thời kì đỉnh cao, Các Mác đã dự báo rằng
quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị thay thế bởi một quan
hệ tiế bộ hơn thay thế trong thời gian tới.
Khía cạnh hai, sự tác động của ý thức lên vật chất phải
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ vào các
hoạt động thực tiễn mà con người có thể cải tạo chất lượng
cuộc sống, khôi phục thiên nhiên, bảo vệ và gia tăng dân
số của những loài động vật quý hiếm, hay gần gũi hơn là
chung tay góp sức giúp đỡ người nghèo, trẻ em mồ côi,...
Những hoạt động đó tuy là các hoạt động xã hội nhưng để
thực hiện được những hoạt động đó thì cần sự đóng góp
của ý thức. Chính vì vậy con người cần cố gắng phát huy
vai trò tích cực của ý thức, để phản ánh đúng hiện thực
khách quan, vận dụng sáng tạo vào thực tế.
Khía cạnh thứ ba, ý thức có vai trò quyết định sự đúng sai,
thành công hay thất bại của hoạt động con người. Ý thức
không là thay đổi trực tiếp thế giới con người, mà nó cung
cấp những tiêu chuẩn, hệ tri thức khách quan để xác định
mục tiêu, để quyết định những kế hoạch, hoạt động nên
làm. Vai trò đó của ý thức sẽ làm ảnh hưởng đến thế giới
vật chất theo hai hướng: tích cực và tiêu cực. Đối với mặt
tích cực, nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực, nó có thể
đưa các tiên đoán, dự báo từ đó các định hướng đúng đắn.
Khi đó, ý thức sẽ là động lực để thúc đẩy vật chất phát
triển. Nhưng ngược lại, khi ý thức tác động một cách tiêu
cực, đó là khi ý thức phản ánh một cấch sai lệch hiện
tượng, từ đó làm những dự đoán chệch khỏi quỹ đạo của
nó, mọi thứ trở nên vô nghĩa, thậm chí là xấu xa, kìm hãm
sự phát triển của nhân loại.
Khía cạnh thứ tư cũng là khía cạnh cuối cùng, vật chất tác
động vật chất. Xã hội ngày càng phát triển, vai trò của ý
thức ngày càng to lớn. Tuy nhiên, ý thức không thể vượt
quá tiền đề vật chất đã xác định. Ý thức phải dựa vào các
điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hành động.
Tóm lại, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan
hệ biện chứng, tức là cùng quyết định, tác động lên nhau,
tồn tại độc lấp chứ không bài trừ, xóa bỏ nhau. 7
3. Liên hệ thực tiễn
Trong kinh tế và chính trị, từ chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng
Cộng sản Việt Nam ta đã có những thành công trong việc
vận dung mối quan hệ giữa ý thức và vật chất vào trong
thực tiễn. Sau nhũng thất bại cùng với những thành công
đã đạt đc, Đảng đã rút ra được bài học kinh nghiệm quý
giá: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng đều xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.”
Trong việc xây dựng nền kinh tế mới. Hiện nay, người dân
đã hiểu, tiếp thu và vận dụng những quy luật trong nền
kinh tế mà các nhà khoa học đã đúc kết được. Đất nước ta
đang đẩy mạnh đi vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Đảng ta chủ trương: “ huy động ngày càng cao mội
nguồn lực trong và ngoài nước”, muốn vậy phải nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức mạnh của toàn dân tộc, đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, đưa đất nước sơm ra khỏi tình
trạng đói nghèo, kém phát triển.
Trong những phân tích trên, tính độc lập tương đối của ý
thức của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra bức tranh phức tạp
của lịch sử phát triển của ý thức xã hội cũng như tinh thần
nói chung. Thực tiễn khi vận dụng tính độc lập của ý thức
vào thực tiễn, ta sẽ thu đợc nhiều điều ý nghĩa và kết quả t
lớn. Sau quá trình quan sát và rút kinh nghiệm, Đảng ta
cho rằng trong quá trình hội nhập mạnh mẽ như hiện nay,
việc cố gắng và giữ gìn bản sắc dân tộc từ thời xưa là hoàn
tòan cần thiết. Nhưng bên cạnh đấy vẫn không ngừng cố
gắng tiếp thu những tinh hoa thê giới để làm giàu đẹp van hóa Việt Nam.
Đối với bản thân em, đầu tiên em thấy mình cần xác định
các yếu tố, điều kiện khách quan ảnh hưởng đến kết quả
cũng như quá trình học tập của bản thân. Là một sinh viên
của Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, khi theo học chương
trình tín chỉ, em nhận thấy mình cần xác định được các
điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến học tập của mình để tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ví dụ như
nắm rõ nội quy nhà trường, các điều kiện cần để đăng kí
tín chỉ, thời gian đăng kí tín chỉ và lên kế hoạch phân chia
thời gian học tập cho hợp lý cũng như đáp ứng đầy đủ
những yêu cầu của giảng viên đề ra. Thứ hai, ý thức có sự
tác động trơ lại vật chất nên cần phải phát huy tính sáng
tạo của ý thức. Để làm được việc ấy thì việc cần làm là chủ
động trau dồi kiến thức, đọc sách, không phụ thuộc vào
người khác, cố gắng đưa ra ý kiến của bản thân trong các
cuộc thảo luận. Từ khi bắt đầu lên đại học, em cảm thấy
rằng mình phải tiếp thu một khối lượng kiến thức rất lớn,
và thầy cô trong trường chỉ là người dẫn đường, giúp em
tiếp cận các kiến thức. Để có thể hoàn toàn tiếp thu được
bài học, em cần học trước và xem lại bài một cách cẩn
thận và kĩ lưỡng trước và sau mỗi giờ học. Có 8
như vậy em mới có thể tiếp thu kiến thức và tự tin hơn
trong phần làm bài tập. Khi làm bài tập, em sẽ cố gắng
không phụ thuộc vào đáp án, cố gắng tìm ra kết quả bằng
chính khả năng của mình. Đến khi không thể tìm ra đáp
án, mới tham khảo và nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, thầy cô.
Thứ ba, chủ động tiếp thu cái mới, tránh bị lạc hậu, tụt lùi.
Đó là khi các bạn trong lớp có những câu hỏi, ý kiến cho
bài đã được học, em sẽ lắng nghe và suy nghĩ về quan
điểm của bạn để cải thiện tư duy của mình đồng thời tiếp
thu thêm các ý kiến đúng đắn. Cuối cùng khi giải thích cho
sự vật, hiện tượng nào đó cần xét cả yếu tố vật chất và
tinh thần, yếu tố khách quan và điều kiện khách quan. Quá
trình học tập tại Kinh tế Quốc Dân chính là vật chất đang
hoạt động còn ý thức trong quá trình học tập là bộ óc của
sinh viên. Chính ý thức của bản thân em trong việc học tập
đã giúp em đặt ra các mục tiêu rõ ràng, cụ thể, là bệ
phóng vững chắc cho tương lai sau này. Nếu bản thân có
những nhận thức đúng về hoạt động học tập, nắm vững tri
thức trong suốt quá trình học, cố gắng tham gia các hoạt
động phù họp với thực tế khách quan. Từ đó em có sự cố
gắng, có năng lực để vượt qua mọi thách thức. Đây chính
là tác động tích cực của ý thức lên vật chất. KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
trong quan niệm duy vật biện chứng, chúng ta thấy được
vật chất là cái tồn tại trước, là cái bản nguyên. Vật chất là
yếu tố quyết định ý thức. Ý thức là cái có sau và như một
tâm gương phản chiếu lại hiện thực khách quan của xã hội
tự nhiên, vật chất. Nhưng dù vậy ý thức vẫn luôn tồn tại
độc lập tương đối và có những tác động trở ại vật chất.
Trong hoạt động thực tiễn, vật chất là yếu tố cơ sở, quyết
định cho các yếu tố tinh thần. Do vậy, để có thể phát huy
hết khả năng cả mình, em cần nhìn nhận mọi thứ dưới hiện
thực khách quan, không bóp méo hiện thực. Khi đã làm
được như vậy, em tin rằng bản thân sẽ là một nhân tố, một
mảnh ghép đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước
sau này, giúp đất ngước ngày càng phát triển, sánh vai với
bạn bè quốc tế năm châu. 9