lOMoARcPSD| 60696302
MỤC LỤC
TRANG
A.MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận.
II. Thực trạng của vấn đề.
III.Giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện.
1.Giáo dục nhận thức cho học sinh.
2. Hướng dẫn sử dụng các thiết bị dạy học.
3.phát huy tính tích cực qua việc tìm hiểu, khai thác
nội dung bài.
4.Xác định phương pháp dạy học địa lí theo tinh thần
dạy học tích cực.
5. Hình thức tổ chức dạy học theo hướng tích cực .
6. . Kết hợp với trò chơi học tập.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.Kết luận.
2.Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
3
3
3
3- 4
4- 6
6-7
7-11
11-14
14-15
15 - 19
19-20
20
21
A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mục tiêu của phần Địa lí (trong môn Lịch Sử và Địa lí lớp 5) nhằm cung cấp cho
học sinh một số kiến thức bản, thiết thực về các sự vật, hiện tượng các mối
quan hệ địa ở Việt Nam một số quốc gia trên thế giới. Bước đầu hình thành và
rèn luyện cho học sinh các knăng địa lí, năng lực tự học góp phần bồi dưỡng
nhân cách cho học sinh.
Dạy học Địa lí chiếm vai trò quan trọng nhằm góp phần hình thành và phát triển
học sinh thói quen ham hiểu biết, yêu thiên nhiên đất nước con người, ý thức
hành động bảo vệ thiên nhiên. vậy, việc dạy học Địa lí không những cung cấp cho
học sinh những kiến thức địa lí thuần túy mà còn phải hình thành, phát triển cho các
em các kĩ năng và năng lực tự học. Đó là những nhiệm vụ song song và có tầm quan
trọng như nhau.
Để đạt được mục tiêu nói trên, người giáo viên cần những phương pháp dạy
học thích hợp để giúp cho học sinh không những nắm vững kiến thức địa lí, rèn luyện
lOMoARcPSD| 60696302
kĩ năng, mà còn giáo dục thái độ, phát triển nhân cách, khơi gợi tính tự giác tích cực
học tập của học sinh. Đó là phương pháp dạy - học tích cực. Hay nói cách khác đó
quá trình làm việc tích cực của thầy và trò để đem lại hiệu quả cao nhất. Qua q
trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy việc phát huy tính tích cực của học sinh trong
việc học tập phân môn Địa lí là việc làm cần thiết và hết sức quan trọng, nhằm nâng
cao chất lượng học tập của học sinh theo phương pháp mới, góp phần giáo dục toàn
diện cho học sinh Tiểu học. Học tập tích cực học sinh là chủ thể của hoạt động, chỉ
có hoạt động mới có thể tự phát hiện, tự chiếm lĩnh, tự giải quyết vấn đề. Bằng hoạt
động học tập tích cực, chđộng, mỗi học sinh tự hình thành nhân cách của mình.
Học hoạt động thay đổi cách nghĩ đến cách làm, cách sống. Nói về vai thoạt
động học tập, người Ấn Độ câu: “Tôi nghe tôi quên, tôi nhìn tôi nhớ, tôi làm tôi
hiểu”. Bằng những nghiên cứu về tâm học, người ta đã tổng kết được tỉ lệ kiến thức
nhớ được sau khi học như sau:
20% qua những gì mà ta nghe được.
30% qua những gì mà ta nhìn được.
50% qua những gì mà ta nghe và nhìn được.
80% qua những gì mà ta nói được.
90 % qua những gì mà ta nói và làm được.
Như vậy rõ ràng học sinh tự chủ tham gia tích cực vào quá trình học thì kết quả
đạt được sẽ cao hơn.
Năm học 2015 2016 năm học thứ hai thực hiện đánh giá học sinh theo thông
30/2014/TT-BGD&ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014. Tiếp tục thực hiện chỉ thị
03/CT-TW của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện đẩy mạnh cuộc vận động Học
tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động Mỗi thầy giáo
cô giáo là tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo” cùng với phong trào thi đua “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực và phong trào thi đua“Dạy tốt - Học
tốt’’.
Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy xây dựng ý thức tự học, tích cực,
chủ động, sáng tạo cho học sinh được quan tâm hơn lúc nào hết. Việc nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo được đặt ra cho tất cả các lớp học, bậc học, đặc biệt bậc
tiểu học đây bậc học nền tảng tạo tiền đề cho các bậc học sau. Do đó việc dạy
cho học sinh cách học tự giác, tích cực để đem lại hiệu quả cao ngay từ bậc tiểu học
luôn vấn đề trăn trở của nhiều giáo viên. Nhưng hiện tại chưa tài liệu nghiên
cứu nào bàn sâu vào vấn đnày, đồng nghiệp nhà trường chưa kinh nghiệm để
giải quyết vấn đnày. Chính vậy, tôi chọn đề tài Một số biện pháp phát huy tính
tích cực của học sinh trong học tập phân môn địa lí lớp 5 ở trường Tiểu học Nga
Trung” để viết sáng kiến kinh nghiệm .
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu nội dung một số biện pháp dạy phân môn địa lớp 5 giúp giáoviên
nắm chắc chương trình phân môn địa lí ở tiểu học và sử dụng phương pháp dạy học
cho phù hợp làm cho chất lượng phân môn địa của học sinh được nâng cao bền
vững.
lOMoARcPSD| 60696302
- Một số hoạt động dạy học phân môn địa nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh lớp 5 trường Tiểu học Nga Trung phợp với học sinh nông thôn, sát với thực
tế nhà trường.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Với đề tài " Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong hoc tập
phân môn địa lí lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Trung, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh
Hóa”.
- Tôi tập trung nghiên cứu đề tài cùng với các em học sinh học 5B trường Tiểuhọc
Nga Trung về:
+ Chương trình môn địa lí lớp 5.
+ Tình trạng học phân môn địa lí của học sinh lớp 5
- Nghiên cứu tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập, tiếp thu kiến thức.
- Nghiên cứu sách giáo khoa Lịch sử Địa lớp 5 ( Phần phân môn Địa lí) - Đồ
dùng dạy – học: Bản đồ, lược đồ, quả địa cầu, tranh ảnh… - Một số tài liệu khác
liên quan.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích
- PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin .
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Con người hoạt động trong lĩnh vực nào cũng cần có kiến thức vĐịa lý. Giáo
viên cầu nối giữa tri thức và nhân loại. Giáo viên có nhiệm vụ giúp học sinh khám
phá những kiến thức cơ bản cần thiết về trái đất. Môi trường sống của con người, về
những hoạt động của loài người trên bình diện quốc tế, quốc gia. Trong thời kỳ công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, địa là một trong những bộ môn quan trọng đòi
hỏi mỗi người phải kiến thức am hiểu về nó. Trong sự nghiệp giáo dục hiện nay
theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, trong những giờ lên lớp tôi luôn giữ
vai trò tổ chức chỉ đạo, học sinh tích cực chủ động nắm tri thức, tạo cho học sinh sự
tham gia hứng thú trách nhiệm. Tôi luôn đảm nhận vai trò xây dựng kế hoạch,
hướng dẫn hoạt dộng và hợp tác học sinh luôn được người dạy theo sát giúp đỡ nên
tích cực tự giác thể hiện sự năng động trong hoạt động học tập. Kết quả học sinh
lớp tôi dạy đã tiếp thu được những nguồn tri thức mới, bằng sự khám phá của bản
thân với sự định hướng giúp đỡ của giáo viên. Khi tự mình khám phá ra tri thức học
sinh scảm nhận được shứng thú, say yêu mến môn học hơn nhiều lần những
gì học sinh tiếp nhận một cách thụ động từ giáo viên.
Để đổi mới phương pháp dạy học một cách hiệu quả, giảng dạy bất cứ môn
giáo viên cũng cần phải có sự hỗ trợ của dụng cụ dạy học hay còn gọi là thiết bị dạy
học, nhất môn địa cần phải có: bản đồ, lược đồ, tranh ảnh địa lý… Kết hợp
lOMoARcPSD| 60696302
các phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh chiếm lĩnh những tri thức một cách
vững chắc để hiểu biết về những sở khoa học, những kỹ năng vận dụng các tri
thức đó vào cuộc sống đồng thời giúp học sinh phát triển toàn diện, rèn luyện tính
tích cực độc lập cho học sinh.
Đặc điểm môn địa lý lớp 5 là giúp các em biết được các svật hiện tượng và mối
quan hệ địa ở Việt Nam một số nước trên thế giới. SGK lớp 5 được biên soạn
phù hợp với tâm nhận thức của học sinh tiểu học và không quá tải về kiến thức.
Tạo điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học giúp học sinh tự rèn
tại lớp, tại nhà. Nhằm giúp các em phát huy hết năng lực của mình cũng như rèn học
sinh tính tự giác học tập.
Học sinh đến với phân môn Địa học sinh nh thành kỹ năng quan sát sự
vật, hiện tượng, thu nhập tìm kiếm tư liệu địa lý từ sách giáo khoa, trong cuộc sống
gần gũi học sinh… Học sinh biết đặt câu hỏi trong quá trình học tập, đặt câu hỏi với
bạn bè, nhóm, với thầy và biết thông tin để giải đáp. Biết nhận đúng các sự vật
hiện tượng địa lý. Học sinh biết trình bày kết quả học tập qua nhiều hình thức: lời
nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, bảng thống kê… Để từ những giờ học trên lớp, các em
biết đem về vận dụng vào cuộc sống phong phú. Để từ đó các em hình thành thái đ
ham học hỏi, tìm hiểu đbiết về quê hương đất nước, môi trường xung quanh. Từ đó
giáo dục cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu quê hương đất nước
và khát khao được học để trở thành con người có ích cho gia đình, xã hội.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
Những thuận lợi và khó khăn khi dạy môn Địa lí lớp 5:
1. Thuận lợi:
- Về sách giáo khoa: được trang bị đầy đủ cho học sinh. Các tranh ảnh, lược
đồ,bản đồ sách giáo khoa đẹp, ràng, chính xác. Các câu hỏi hoặc các yêu cầu
hoạt động được in nghiêng giữa bài gợi ý cho giáo viên tổ chức các hoạt động, khai
thác thông tin được dễ dàng. Câu hỏi cuối bài giúp giáo viên kiểm tra việc thực hiện
mục tiêu bài và củng cố kiến thức. Phần tóm tắt trọng tâm bài được đóng khung rất
rõ. Sách giáo viên có phần bổ sung thông tin, giúp giáo viên mở rộng kiến thức. Về
chương trình: Cấu trúc nội dung theo từng chủ đề, từng bài cụ thể. Mục tiêu, nội dung
chương trình nhẹ nhàng phù hợp với lứa tuổi học sinh.
- Mấy năm gần đây, nhà trường quan tâm hơn rất nhiều việc mua sắm đồ
dùngdạy học, trang thiết bmáy móc phục vụ cho việc dạy học: tranh ảnh, quả địa
cầu…. Ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo sát sao việc dạy và học. Nhà trường, công
đoàn luôn động viên giáo viên tìm tòi những sáng kiến dạy học tích cực nhất những
môn mà nhiều người vẫn coi môn phụ nhưng tầm quan trọng của chúng là không
nhỏ.
- Giáo viên: bằng tinh thần yêu nghề, mến trẻ không ngừng trau dồi kiến
thức,bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Đồng nghiệp tích cực dự giờ, góp ý thẳng
thắn với nhau giúp nhau cùng tiến bộ, vững vàng hơn trong giảng dạy nhiều
sáng kiến, cách dạy học hay, hình thức dạy học phong phú phù hợp từng bài, phù hợp
từng đối tượng học sinh.
2. Khó khăn:
lOMoARcPSD| 60696302
Qua việc dự giờ, tìm hiểu các giờ dạy Địa của các bạn đồng nghiệp tôi nhận
thấy: Hiện nay nhiều giáo viên Tiểu học khi dạy giờ Địa đã cố gắng sử dụng các
thiết bị dạy học Địa lí (bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh, bảng số liệu,...) để minh họa cho
lời giảng của mình ít chú ý đến việc cho học sinh khai thác kiến thức từ các nguồn
này. Do vậy mà cách dạy học tích cực hướng tập trung vào học sinh chưa được thực
hiện một cách triệt để.
Một số giáo viên đã cố gắng phát huy tính tích cực tự giác của học sinh làm cho
giờ Địa được sinh động bằng cách tạo không khí học tập sôi nổi như tổ chức để
học sinh thảo luận, làm việc trong phiếu, tổ chức tchơi học tập... nhưng số tiết học
kiểu này còn quá ít chỉ được thực hiện trong những giờ thao giảng, thanh tra
hoặc thi giáo viên giỏi. vậy vấn đề năng thực hành địa của học sinh không
được thực hiện thường xuyên.
Thiết bị, đồ dùng dành cho phân môn Địa được cấp phát, nhà trường mua bổ
sung xong đã cũ, chưa được thay thế hết nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng dạy
và học.
Về phía phụ huynh: do điều kiên kinh tế của nhân dân Nga Trung còn gặp nhiều
khó khăn, trình độ hiểu biết còn hạn nên việc chăm lo đến chất lượng học tập của
con em chưa tốt.
Về phía học sinh: các em chưa có sự chuẩn bị tốt cho các giờ học địa lí, chủ yếu
dựa vào kênh chữ để phát biểu mà ít đề cập đến kênh hình, biểu đồ, lược đồ và ít rèn
luyện kỹ năng địa lí.
3.Nguyên nhân:
- Về giáo viên: một số giáo viên chưa tìm hiểu, cập nhật thông tin kịp thời
vềcác yếu tố tự nhiên, vcon người, về cuộc sống xung quanh để htrợ cho môn
học.
Do yếu tkhách quan nên giáo viên chưa điều kiện tổ chức các buổi sinh hoạt
ngoại khóa cho học sinh để kết hợp với học tập. Một số ít giáo viên trong quá trình
dạy phân môn địa chưa chú ý đến việc xâu chuỗi mỗi quan hệ giữa các đối tượng
địa lí để học sinh nắm bài một cách sâu sắc.
- Về phía học sinh: c em chưa chú trọng môn học này, chủ yếu còn học
thuộcnhiều hơn học hiểu để mở rộng vốn sống. Đa số học sinh lớp tôi chủ nhiệm đều
là con nhà nông, hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có điều kiện tiếp xúc, học hỏi
các hoạt động giáo dục sinh hoạt ngoại khóa như tham quan, du lịch…
- Về phía phụ huynh: Nhiều phụ huynh vẫn chưa nhận thức được tầm
quantrọng của phân môn Địa lí, vẫn còn tư tưởng coi là môn học phụ, chỉ mong con
giỏi Toán và Tiếng Việt là được rồi.
- Trong điều kiện tài chính nhà trường cho phép, nhà trường đã mua sắm các
đồdùng dạy học nhưng vẫn còn thiếu chủng loại hoặc thiếu số lượng ( 2lớp trong
cùng khối sử dụng chung một bộ đồ dùng).
Xuất phát từ những tình hình thực tế của lớp những thuận lợi, khó khăn nói
trên, bản thân tôi luôn suy nghĩ làm sao tìm ra phương pháp dạy học tốt nhất để giúp
các em học tốt môn học này bằng cách học tự giác, tích cực và có niềm hứng thú say
mê môn học. Làm được điều đó chính là giúp các em nắm được những kiến thức cơ
lOMoARcPSD| 60696302
bản về Địa lí, có kĩ năng địa lí và năng lực tự học. Các em có những nhận thức đúng
đắn về cuộc sống thế giới xung quanh mình, các em thêm yêu quê hương, đất nước.
Từ nhận thức đó, tôi đã suy nghĩ, chọn và nghiên cứu đề tài “Mét số biện pháp phát
huy tính tích cực của học sinh trong học tập phân môn Địa lớp 5 trường Tiểu
học Nga Trung, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa”.
Để các biện pháp đưa ra sát với thực tế tính khả thi, tôi đã tiến hành điều
tra thực trạng, khảo sát chất lượng đầu năm học 2015 2016 lớp 5B để tìm hiểu
nguyên nhân:
Kết quả khảo sát :
Tổng số HS
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
25em
9 em(36%)
16em(64%)
*Nguyên nhân :
- Học sinh chưa có phương pháp học môn Địa lí và chưa thực sự yêu thích mônhọc.
- Học sinh chưa biết cách khai thác nội dung bài qua các thiết bị học tập như bảnđồ,
lược đồ, quả địa cầu, tranh vẽ, ảnh chụp,…
- Học sinh chưa có kĩ năng phân tích bảng số liệu, biểu đồ.
- Học sinh chưa có thói quen chuẩn bị bài ở nhà (tìm hiểu bài, chuẩn bị đồ dùnghọc
tập, tranh ảnh ...)
- Nhiều em còn xem nhẹ môn học này vì cho đây là môn học phụ (môn học bài) nên
ít đầu tư nghiên cứu mà chỉ đầu tư vào 2 môn Toán, Tiếng Việt.
III. CÁC Gi¶i ph¸p vµ biÖn ph¸p tæ chøc thùc hiÖn ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Giáo dục nhận thức cho học sinh:
Phân môn Địa luôn gắn liền với thiên nhiên, với đất nước đời sống. Việc học
tốt phân môn Địa sẽ giúp các em tìm hiểu tự nhiên, con người và tăng thêm tình
yêu quê hương, yêu đất nước để bước vào cuộc sống một cách tốt đẹp. Từ đó các em
ý thức học tốt phân môn Địa để các em nắm được những kiến thức về Địa lí,
có hiểu biết sâu sắc hơn về mảnh đất các em đang sinh sống. Các em sẽ biết yêu quý
tự nhiên, biết cách sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý và đúng đắn nhất
để phục vụ cho lợi ích của con người dài lâu.
Trong các giờ dạy Địa lí, giáo viên cần lồng ghép giáo dục năng sống, giáo dục
bảo vệ môi trường để giáo dục các em ý thức thực hiện bổn phận của bản thân đối
với đất nước.
Ví dụ: khi dạy bài Nông nghiệp
Giáo viên cho học sinh đọc thầm sách giáo khoa để biết Nông nghiệp gồm 2
ngành chính đó là: Trồng trọt và chăn nuôi.
Học sinh kể tên một số trang trại các em biết. Học sinh có thể kể những việc
làm để giảm thiểu ô nhiễm do chất thải trong chăn nuôi gây ra.
Qua học tập Địa lí, các em hiểu được trách nhiệm bảo vệ tự nhiên của tất cả
mọi người.
2. Hướng dẫn sử dụng tích cực các thiết bị dạy học:
Các thiết bị dạy học Địa lí hiện nay khá phong phú, bao gồm tranh, ảnh, mô hình,
quả địa cầu, bản đồ, băng đĩa, phim giáo khoa,…Khi sử dụng thiết bị dạy học giáo
lOMoARcPSD| 60696302
viên cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung bài học để lựa chọn thiết bị cho phù hợp.
Tránh quá tải về thiết bị trong một giờ học.
Sử dụng thiết bị như một nguồn cung cấp kiến thức chkhông chỉ để minh họa
cho bài giảng. Khi sử dụng giáo viên cần giải thích cho học sinh hiểu: sử dụng thiết
bị nhằm mục đích gì ? Cần tìm những nội dung gì ? và cách thức sử dụng.
2.1. Đối với bản đồ, lược đồ:
Để giúp học sinh khả năng làm việc độc lập, tích cực với bản đồ, lược đồ,
trong quá trình dạy học, giáo viên phải chú trọng rèn luyện một số năng sử dụng
bản đồ.
a. Rèn luyện kĩ năng xác định phương hướng trên bản đồ.
lớp 4, học sinh đã biết xác định các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Sang lớp 5,
học sinh cần xác định thêm bốn hướng phụ nữa Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc,
Tây Nam. Giáo viên cho học sinh thực hành nhiều lần để nhớ được: trên bản đồ phía
trên hướng Bắc, phía dưới hướng Nam, bên phải hướng Đông, bên trái
hướng Tây. Ngoài ra, giáo viên còn giúp học sinh xác định vị trí của khu vực bán
cầu Bắc, bán cầu Nam và đường xích đạo. Chính nhờ việc xác định được các hướng
và vị trí này sẽ giúp các em nắm được vị trí của các nước, các châu lục thể hiện trên
bản đồ, lược đồ một cách dễ dàng.
Ví dụ : Khi dạy bài: “Việt Nam Đất nước chúng ta” địa lí lớp 5, tôi yêu cầu học
sinh quan sát lược đồ Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á để xác định:
- Vị trí của nước ta.
- Phần đất liền của nước ta giáp những nước nào?
- Biển bao bọc phía nào của đất nước ta?
Sau khi quan sát học sinh nêu được:
- Nước ta nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á trongvành
đai nhiệt đới Bắc bán cầu. Phần đất liền nước ta giáp với Trung Quốc, Lào và
Cam-pu-chia.
- Biển bao bọc phía Đông, Nam và Tây Nam của phần đất liền.b. Rèn luyện kĩ
năng đọc bản đ:
Đọc bản đồ không phải đọc các chghi trên bản đồ một quá trình tìm
kiếm kiến thức địa chứa đựng trong các hiệu trên bản đồ, các mức độ cao, thấp
khác nhau.
Đọc bản đồ có 3 mức độ:
Mức độ 1: Học sinh chỉ cần dựa vào hiệu bảng chú giải, chỉ đọc tên các
đối tượng địa lí trên bản đồ( Ví dụ: đây là Hà Nội, kia là Hải Phòng; đây là sông
Hồng, kia là sông Đà,…)
Ví dụ : Đọc bản đồ Bản đồ Tự nhiên Việt Nam học sinh nắm được bản đồ thể hiện
các sự vật, hiện tượng tự nhiên của đất nước Việt Nam như lãnh thổ, sông, núi, đồng
bằng, biển, đảo ... a, Có kĩ năng đọc bản đồ học sinh sẽ nắm vững các kí hiệu thể
hiện trên bản đồ, ví dụ như :
Biên giới O Thành phố, thị xã Thủ đô
Dãy núi Nhà máy thủy điện … Các kí
hiệu về khoáng sản như :
lOMoARcPSD| 60696302
Than đá Thiếc Sắt b, Bản đồ tự nhiên giúp
cho học sinh nắm thêm các kí hiệu về màu sắc:
dụ: màu xanh lá mạ chỉ đồng bằng, màu xanh nước biển đậm nhạt chỉ độ sâu
của biển, màu đỏ đậm nhạt chỉ độ cao của cao nguyên, đồi núi.
Mức độ 2: Học sinh dựa vào bản đồ đtìm ra đặc điểm của đối tượng địa lí.(Ví
dụ: Vị trí dãy núi ở đâu ? Núi cao hay thấp ? Núi có hướng gì…?).
Quan sát lược đồ hình 1, SGK trang 69, học sinh snêu được những dãy núi
hướng Tây Bắc- §ông Nam, những dãy núi có hình cánh cung.
Mức độ 3: Học sinh vận dụng các kiến thức đã có, xác lập các mối quan hệ địa lí
để rút ra những điều mà trên bản đồ không trực tiếp thể hiện.
Ví dụ: Học bài “Sông ngòi”. Em hãy cho biết vì sao sông ngòi ở miền Trung thường
ngắn và dốc? (do miền Trung hẹp ngang, địa hình độ dốc lớn, núi cao phía tây
đồng bằng nhỏ hẹp ở phía đông nên sông ngòi miền Trung ngắn và dốc.)
Gi¸o viên mở rộng kiến thức: Địa hình phần đất liền của nước ta với ¾ diện
tích đồi núi chủ yếu đồi núi thấp, đồng bằng Nam Bộ dải đồng bằng duyên
hải miền Trung hẹp ngang, độ dốc lớn nên sông ngòi miền Trung ngắn và dốc. (Học
sinh kết hợp chỉ bản đồ)
c. Rèn luyện kĩ năng tìm và chỉ vị trí địa lí của các đối tượng trên bản đồ: Để
rèn các kĩ năng này giáo viên cần đưa ra các bài tập cụ thể yêu cầu học sinh dựa vào
bản đồ để xác định vị trí của một đối tượng nào đó.
dụ: Dựa vào Lược đồ công nghiệp Việt Nam (H.3,SGK trang 94), em hãy cho biết
các ngành công nghiệp khai thác dầu, than, a-pa-tít có ở những đâu ?
Học sinh đã nắm vững các hiệu khoáng sản nên tìm ra nhanh chóng: Ngành
công nghiệp khai thác dầu mỏ biển đông (gồm các mỏ: mỏ than, mỏ dầu, mỏ
vàng, mỏ apatit, mỏ crom…ngành công nghiệp khai thác than có ở Quảng Ninh.
Ngành công nghiệp khai thác a-pa-tít có ở Cam Đường (Lào Cai),…
Hoặc : Em hãy tìm và chỉ các nhà máy thủy điện có ở nước ta trên bản đồ.
Học sinh sẽ dựa vào hiệu tìm ra nhanh chóng các nhà máy thủy điện Hòa
Bình, Trị An, Y-a-ly, Thác Bà…
Cần lưu ý : Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách chỉ vị trí một đối tượng
trên bản đồ cho đúng quy định. Chẳng hạn khi chỉ vị trí một dòng sông học sinh phải
chỉ xuôi theo dòng chảy từ thượng nguồn đến hạ nguồn chứ không chỉ theo hướng
ngược lại hoặc chỉ vào một điểm trên sông. Khi chỉ vị trí của một thành phố, thị xã,
thì phải chỉ vào hiệu thể hiện thành phố, thị chứ không chỉ vào chữ ghi tên thành
phố,thị xã. Khi chỉ về một vùng lãnh thổ (một tỉnh, một khu vực, một quốc gia...) thì
phải chỉ theo đường biên giới khép kín của vùng lãnh thổ khu vực đó (chỉ từ trên
xuống dưới, từ trái sang phải).
Khi chỉ bản đồ nên dùng que chỉ dài có đầu nhỏ để chỉ đúng vào các chi tiết của
đối tượng Địa lí và nên đứng bên phải bản đồ.
d. Rèn luyện kĩ năng xác lập mối quan hệ địa lí đơn giản:
Một trong những điều kiện đhọc sinh học tốt và có hứng thú trong môn Địa lí là
các em phải biết xác lập mối quan địa đơn giản giữa các yếu tố thành phần
lOMoARcPSD| 60696302
địa lí như địa hình và khí hậu; địa hình, khí hậu, sông ngòi; thiên nhiên và hoạt động
sản xuất của con người, ... trên sở học sinh biết kết hợp những kiến thức bản đồ
và kiến thức địa lí để so sánh và phân tích, ...
dụ 1: Sau khi trang bị các kiến thức về địa hình, khí hậu, học sinh sẽ giải thích
được: sao nước ta có khí hậu nóng, mưa nhiều ? sao ở nước ta gió và mưa thay
đổi theo mùa?...
( Vì nằm trong vành đai nhiệt đới, nóng ẩm và trong vùng có gió mùa nên đặc điểm
của khí hậu nước ta là: nhiệt độ cao, gió và mưa thay đổi theo mùa).
Ví dụ 2: Khi học bài “Giao thông vận tải” học sinh sẽ giải thích được: Vì sao nước
ta có mạng lưới đường giao thông tỏa đi khắp đất nước và quốc lộ 1A là đường ô tô
dài nhất nước ta?
(Do lãnh thổ kéo dài theo chiều Bắc – Nam, các tuyến đường giao thông chính cũng
chạy theo chiều Bắc Nam: quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh, đường sắt BắcNam...)
2.2. Đối với quả Địa cầu :
Giáo viên cần giúp học sinh nhận biết được: quả Địa cầu là mô hình của Trái Đất,
biểu hiện hình dáng thực tế của Trái Đất được thu nhỏ lại.
+ Cần xác định cho học sinh nắm được 2 địa cực: địa cực phía trên gọi cực Bắc,
địa cực phía dưới gọi là cực Nam.
+ Xác định đường xích đạo đường tròn lớn nhất cách đều 2 cực phân chia
bề mặt của quả địa cầu ra hai nửa bằng nhau, nửa bán cầu có cực Bắc bán cầu Bắc,
nửa bán cầu có cực Nam là bán cầu Nam.
Trên quả cầu thể hiện 6 châu lục và 4 đại dương.
Ví dụ : Tìm vị trí của nước ta trên quả địa cầu.
Học sinh dựa vào các yếu tố : Nước ta nằm trên bán đảo Đông Dương, ở khu vực
Đông Nam Á, trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu. Sau đó giúp các em nhận diện
màu sắc của nước Việt Nam trên quả địa cầu để tìm và chỉ được phần đất liền của
nước ta trên quả địa cầu.
2.3. Đối với tranh ảnh:
Các tranh ảnh dùng trong dạy học Địa rất nhiều loại: tranh ảnh trong sách
giáo khoa, tranh ảnh do giáo viên, học sinh sưu tầm. Khi hướng dẫn học sinh quan
sát tranh, giáo viên phải đưa ra những yêu cầu cụ thể để học sinh quan sát , so sánh
và rút ra kết luận.
Ví dụ: a, Học sinh quan sát ảnh chụp ở hình 2 SGK trang 74 và nêu được:
lOMoARcPSD| 60696302
Hình 2: Cảnh đồng ruộng hạn hán đất đai nứt nẻ, cây lúa héo khô. Vì vậy hạn
hán gây thiệt hại về lúa gạo, hoa màu, làm ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của
nhân dân ta. b, Học sinh quan sát ảnh chụp ở hình 3 SGK trang 74 và nêu được:
Hình 3: Cảnh lụt, nước lũ dâng lên cao làm ngập nhà cửa, gây khó khăn trong việc
đi lại, sinh hoạt làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân ta.
c, Học sinh quan sát ảnh chụp ở hình 3, SGK trang 78 và nêu được:
Vai trò của biển: Nhờ có biển mà khí hậu nước ta trở nên điều hòa hơn. Biển còn
tài nguyên lớn và đường giao thông quan trọng.Ven biển nhiều bãi tắm
phong cảnh đẹp, là những nơi du lịch và nghỉ mát hấp dẫn.
3. Phát huy tính tích cực qua việc tìm hiểu, khai thác nội dung bài:
Sau khi trang bị cho học sinh các kĩ năng về sử dụng các thiết bị dạy học, tôi tiến
hành bước tiếp theo: hướng dẫn các em cách khai thác nội dung bài.
3.1 Khai thác kiến thức từ bản đồ, lược đồ:
a. Về phía giáo viên :
Giáo viên cần xác định kiến thức trong bài mà học sinh cần nắm qua lược đồ, bản
đồ sao cho phù hợp để học sinh có thể sdụng kiến thức, năng đã học tự phát hiện
ra kiến thức mới. Soạn một hệ thống câu hỏi dựa trên lược đồ trong sách giáo khoa
và trình độ học sinh để dẫn dắt học sinh tự khám phá kiến thức. Các câu hỏi thể hiện
dưới nhiều hình thức: tluận, trắc nghiệm (câu đúng sai, câu nhiều lựa chọn), câu
điền khuyết.....
lOMoARcPSD| 60696302
Giáo viên nghiên cứu các loại bản đồ, lược đồ cần để phục vụ từng bài dạy làm
sở hướng dẫn cho học sinh. Từ bản đồ giáo viên dẫn dắt học sinh tự thu nhận được
các kiến thức địa lí. Đó cũng là một biện pháp tích cực đổi mới phương pháp dạy học
của phân môn.
b. Về phía học sinh :
Học sinh phải biết vận dụng những năng địa đã có, tích cực hoạt động với
những nội dung câu hỏi, bài tập mà giáo viên yêu cầu để tự chiếm lĩnh nội dung bài
(theo định hướng của giáo viên).
Ví dụ : Khi dạy bài 4 - Sông ngòi (trang 74 SGK)
- Tôi xác định những kiến thức trong bài học sinh cần khai thác qua
kênhchữ trang 74 và lược đồ như sau :
+ Nhận biết mạng lưới sông ngòi nước ta. Nêu tên một số con sông ở ba miền
Bắc, Trung và Nam. Biết vị trí của 3 nhà máy thủy điện : Hòa Bình, Y-a-li, Trị An
- Để giúp học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tôi
đãsoạn hệ thống câu hỏi để dẫn dắt học sinh làm việc với lược đồ.
Đọc thầm phần kênh chtrang 74 quan sát lược đồ hình 1(trang 75/SGK) :
Câu 1 : Đánh dấu nhân vào ô trống ở ý đúng : Mạng lưới sông ngòi nước ta ?
Thưa thớt
Dày đặc, phân bố tập trung miền Bắc và miền Nam
Dày đặc, phân bố rộng khắp trên cả nước
Câu 2 : Điền tên một số con sông vào các bảng sau :
Sông ở miền Bắc
……………………
………………..
……………………
Sông ở miền Trung
……………………
……………………
……………………
……………….. …………….. ………………..
Câu 3 : Nối mỗi ý cột A với một ý cột B đxác định nhà máy thủy điện đó
nằm trên sông nào ?
A. Tên nhà máy thủy điện B.Tên sông
Hòa Bình
Đồng Nai
Y-a-ly
Xê Xan
Trị An
Sông Đà
Như vậy, qua bài tập này học sinh sẽ nắm được : Sông ngòi nước ta dày đặc,
phân bố rộng khắp trên cả nước nêu được tên của các con sông miền Bắc,
miềnTrung,miền Nam cũng như các nhà máy thủy điện của nước ta.
3. 2 Khai thác kiến thức từ bảng số liệu:
a. Về phía giáo viên :
- Xác định kiến thức trong bài mà học sinh cần nắm qua bảng số liệu.
lOMoARcPSD| 60696302
- Soạn một hệ thống các câu hỏi dựa vào bảng số liệu và trình độ của học sinh đểgợi
ý cho học sinh tkhám phá ra kiến thức mới. Các câu hỏi được thể hiện dưới nhiều
hình thức như: tự luận, câu đúng sai, câu nhiều lựa chọn, câu điền khuyết,... b.
Về phía học sinh :
- Giáo viên bồi dưỡng cho HS năng lực so sánh, đối chiếu,phân tích các số liệu.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc với bảng số liệu để theo các bước sau:
Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với bảng số liệu.
Bước 2: Đọc tên bảng số liệu.
Bước 3: Xem tên cột, nắm được ý nghĩa đơn vị thời điểm đi kèm với các số
liệu ở từng cột.
Bước 4: Đối chiếu với các số liệu theo hàng dọc, hàng ngang của bảng số liệu để
rút ra nhận xét.
Ví dụ : Khi dạy Bài 8: Dân số nước ta (trang 83/SGK)
- Giáo viên xác định những kiến thức trong bài học sinh cần khai thác qua bảngsố
liệu :
+ Nắm được số dân của nước ta.
+ So sánh số dân nước ta với số dân các nước trong khu vực Đông Nam Á. - Sau
đó, tôi soạn hệ thống câu hỏi gợi ý học sinh làm việc với bảng số liệu như sau
Câu1: Đọc tên các cột trong bảng số liệu.
Câu 2: Các số liệu trong bảng được ghi vào thời gian nào ? được biểu thị theo
đơn vị nào ?
Câu 3: Số dân Việt Nam năm 2004 là bao nhiêu ?
Câu 4 : Đánh dấu X vào ô trống trước ý đúng: a/ Diện tích nước ta:
b/ Dân số nước ta thuộc hàng:
Rộng lớn. Đông dân.
Nhỏ bé. Ít dân.
Trung bình. Trung bình.
Như vậy từ những câu hỏi gợi ý, câu lệnh rõ ràng mà học sinh đã hoạt động tích
cực, biết khai thác kiến thức từ bảng số liệu. Học sinh theo các câu hỏi gợi ý đó làm
việc một cách tích cực, tự giác cuối cùng đưa ra kết luận: Nước ta có diện tích vào
loại trung bình nhưng số dân lại thuộc hàng các nước đông dân trên thế giới nên mật
độ dân số cao.
3.3. Khai thác kiến thức từ biểu đồ :
Biểu đồ một phương tiện để cụ thể hóa các mối quan hệ vsố liệu bằng hình
vẽ. Biểu đồ có nhiều loại, nhưng SGK lớp 5 đề cập đến biểu đồ hình cột.
a. Về phía giáo viên:
Khi hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ biểu đồ giáo viên cần :
- Xác định kiến thức trong bài học sinh cần nắm được qua biểu đồ. Soạn mộthệ
thống câu hỏi phù hợp để tạo điều kiện cho học sinh khai thác kiến thức mới từ biểu
đồ. Các loại câu hỏi được thể hiện dưới hình thức tự luận, test (câu đúng sai, câu
nhiều lựa chọn, câu điền khuyết,...)
b. Về phía học sinh : Học sinh có kĩ năng đọc từng loại biểu đồ.
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc với biểu đồ hình cột theo các bước sau
lOMoARcPSD| 60696302
Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với biểu đồ
Bước 2: Đọc tên biểu đồ để biết được nội dung của biểu đồ.
Bước 3: Hiểu các giá trị được biểu hiện ở 2 trục : trục dọc và trục ngang.
Bước 4: Đọc các số tương ứng trên 2 trục
Bước 5: So sánh độ cao của các cột và rút ra kết luận.
Ví dụ : Khi dạy bài 14 : Giao thông vận tải (trang 96/ SGK)
Giáo viên xác định những kiến thức trong bài mà HS cần khai thác qua biểu đồ:
+ Nhận biết được những loại hình giao thông vận tải ở nước ta.
+ So sánh khối lượng hàng hóa vận chuyển của từng loại hình giao thông vận tải.
- Sau đó tôi soạn hệ thống câu hỏi gợi ý học sinh làm việc với biểu đồ:
Câu1:Trục dọc, trục ngang biểu hiện gì? Các số liệu được biểu thị bằng đơn vị nào ?
Câu 2 : Em hãy điền số thích hợp vào bảng sau:
Loại hình vận tải
Khối lượng hàng hóa vận chuyển(triệu tấn )
Đường sắt
Đường bộ
Đường sông
Đường biển
Câu 3 : Đánh dấu X vào ô trống trước ý đúng :
Loại hình vận tải có vai trò quan trọng nhất trong vận chuyển hàng hóa là :
Đường sắt
Đường bộ
Đường sông
Đường biển
Học sinh làm việc với biểu đồ dựa vào hệ thống câu hỏi dẫn dắt của giáo viên,
các em đã rút ra được: loại hình vận tải có vai trò quan trọng nhất trong việc chuyên
chở hàng hóa là đường bộ”.
4. Xác định phương pháp dạy học địa lí theo tinh thần dạy học tích cực :
4.1 Phương pháp hình thành các biểu tượng Địa lí:
lớp 5, phương pháp hình thành biểu tượng Địa tốt nhất cho các em quan
sát đối tượng tại thực địa hoặc qua tranh ảnh, băng hình ...
Giáo viên tiến hành cụ thể theo các bước như sau:
Bước 1: Căn cứ vào mục tiêu bài học, giáo viên sẽ lựa chọn đối tượng quan sát,
phù hợp với trình độ học sinh và điều kiện địa phương.
Bước 2: Xác định mục đích quan sát.
Bước 3: Tổ chức hướng dẫn cho học sinh quan sát được về đối tượng. Sau đó giáo
viên cùng học sinh trao đổi thảo luận, xác định và hoàn thiện kết quả, nhằm giúp cho
các em có biểu tượng đúng về đối tượng
Ví dụ: Hình thành biểu tượng rừng rậm nhiệt đới và rừng ngập mặn cho học sinh
lớp 5 qua bài “Đất và rừng” (SGK/ 79).
- Đối tượng quan sát: tranh ảnh (hình 2, hình 3, trang 81/ SGK)
lOMoARcPSD| 60696302
- Những đặc điểm của rừng rậm nhiệt đới và rừng ngập mặn mà học sinh có
thểquan sát từ tranh ảnh là:
+ Rừng rậm nhiệt đới: rừng có nhiều cây, có nhiều tầng, bậc.
+ Rừng ngập mặn: Cây mọc vượt lên mặt nước, cây bộ rễ chùm nhô lên, chủ
yếu là một số loại cây như đước, vẹt, sú.
Hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh quan sát như sau:
Câu1: Nhận xét đặc điểm rừng rậm nhiệt đới và rừng ngập mặn.
Câu 2: Đánh dấu X vào ô trống trước những ý em cho là đúng:
Rừng rậm nhiệt đới là:
Rừng chỉ có một loại cây.
Rừng thưa, rụng lá về mùa khô.
Rừng rậm, có nhiều loại cây, có nhiều tầng, xanh quanh năm.
Rừng ngập mặn là:
Rừng thay lá.
Rừng nơi đất thấp ven biển, c loài cây ưa mặn: đước, vẹt, sú,
Rừng gồm các loài cây có lá nhỏ, nhọn như thông, tùng.
Câu 3: Chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc đơn điền vào chỗ chấm :
- Vùng phân bố của rừng rậm nhiệt đới là ........................ (đồi núi, ven biển) - Vùng
phân bố của rừng ngập mặn ...........................(đồi núi, ven biển nơi có thủy triều
lên xuống hàng ngày).
4.2 Phương pháp hình thành khái niệm Địa lí:
- Hình thành khái niệm Địa lí chung tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Hình thành những biểu tượng đúng bằng cách cho học sinh quan sát các
đối tượng định hình thành khái niệm đồng thời tìm hiểu những hiểu biết sẵn của
học sinh về các đối tượng quan sát.
Bước 2: Đặt câu hỏi hoặc nêu tình huống có vấn đề để học sinh tìm ra những dấu
hiệu chung, bản chất của đối tượng.
Bước 3: Cho học sinh đối chiếu, so sánh các đối tượng cùng loại để lĩnh hội đầy
đủ và vững chắc các dấu hiệu chung bản chất của khái niệm.
Bước 4: Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả.
- Hình thành khái niệm Địa lí riêng: là hình thành khái niệm chỉ những sự vật vàhiện
tượng Địa lí riêng biệt cụ thể. Mỗi khái niệm Địa lí riêng chỉ liên quan đến một đối
tượng và phản ánh đặc điểm riêng của nó. VD: sông Hng, nhà máy thủy điện Y-a-
ly…
- Hình thành khái niệm địa lí tập hợp có thể được tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Giáo viên cần:
+ Xác định những dấu hiệu chung của đối tượng ở khu vực.
+ Lựa chọn nguồn tri thức có liên quan đến đối tượng.
Trên cơ sở đó, xem xét những dấu hiệu nào của đối tượng có thể tổ chức cho học
sinh tìm tòi,phát hiện, những dấu hiệu nào giáo viên phải cung cấp cho học sinh.
lOMoARcPSD| 60696302
Bước 2: Tùy theo trình độ nhận thức của học sinh, giáo viên soạn một hthống
câu hỏi, bài tập nhằm hướng dẫn học sinh làm việc với các nguồn tri thức đã lựa chọn
để phát hiện ra dấu hiệu của đối tượng.
Bước 3: Tổ chức cho học sinh làm việc với các nguồn tri thức theo hệ thống u
hỏi, bài tập đã chuẩn btrước (theo hình thức nhân, nhóm, cả lớp tùy thuộc vào
nội dung), để phát hiện ra dấu hiệu của đối tượng.
Bước 4: Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả phát hiện dấu hiệu của đối tượng
thông qua các nguồn tri thức. Trên sở đó giáo viên bổ sung những dấu hiệu
học sinh không thể tự tìm ra được bằng lời mô tả sinh động của mình nhằm hoàn
thiện khái niệm cho học sinh và yêu cầu học sinh nêu khái niệm.
Ví dụ:
Hình thành khái niệm: “Sông ngòi Việt Nam” (Bài 4 Sông Ngòi,trang 74/SGK)
Vì học sinh đã hiểu sơ lược thế nào là sông ngòi ở lớp 3 nên khái niệm sông ngòi
Việt Nam có thể được hình thành bằng cách bổ sung thêm những đặc điểm như sau:
Hướng dẫn của giáo viên
Kết quả tự phát hiện tri thức
của HS
- GV yêu cầu HS làm việc theo cặp với lược đồ (hình
1) để nhận xét về mạng lưới sông ngòi nước ta (số
lượng, phân bố, ...)
Sông ngòi nước ta dày đặc,
phân bố rộng khắp trên cả nước,
ít sông lớn
GV yêu cầu HS làm việc theo nhóm với ảnh (hình 2,3)
để nhận xét về lượng nước sông trong mùa lũ và mùa
cạn.
Sông ngòi nước ta lượng
nước thay đổi theo mùa.
Làm việc cả lớp
+ GV khai thác vốn hiểu biết của HS hoặc cho xem
băng để các em nhận xét được nước sông vào mùa lũ
rất đục
+ Từ đó GV nói nước sông đục vì chứa nhiều phù sa
Sông ngòi nước ta chứa
nhiều phù sa.
- Từ kết quả tìm tòi trên, học sinh có thể nêu khái niệm về sông ngòi Việt Nam như
sau: sông ngòi Việt Nam dày đặc, phân bố rộng khắp trên cả nước nhưng ít sông lớn,
sông của nước ta có lượng nước thay đổi theo mùa và có nhiều phù sa.
Sau khi trang bị cho học sinh kĩ năng sử dụng bản đồ, quả địa cầu cũng như cách
thực hành trên bản đồ, bảng số liệu, biểu đồ xác định các phương pháp dạy học,
tôi tiến hành các bước tiếp theo: Cách tổ chức lớp học.
5. Hình thức tổ chức dạy học theo hướng tích cực:
Như chúng ta đã biết, với phương pháp dạy học truyền thống thì hình thức tổ chức
dạy học cả lớp phổ biến. Còn với phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi học sinh
phải làm việc nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn thảo luận nhiều hơn thì giáo viên cần tổ
chức linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong một tiết học như: dạy học cá nhân, dạy
học theo nhóm, và dạy học toàn lớp,…
5.1. Hình thức tổ chức dạy học cá nhân:
lOMoARcPSD| 60696302
Giáo viên nên tổ chức cho học sinh làm việc theo phiếu học tập, tạo điều kiện để
mỗi học sinh tự suy nghĩ, tìm tòi, thể hiện tài năng, sở trường của mình. Học tập
nhân còn được tiến hành qua các hoạt động độc lập khác như viết, vẽ, sưu tầm tranh
ảnh…
Ví dụ:
Khi dạy bài 5: Vùng biển nước ta (SGK/ 77)
Tôi cho học sinh làm việc nhân nội dung tìm hiểu “đặc điểm của vùng biển
nước ta” như sau:
PHIẾU BÀI TẬP:
Họ và tên……………………………………………….Lớp: …
Em hãy đọc SGK và hoàn thành vào bảng sau:
Đặc điểm của vùng biển nước ta
Ảnh hưởng của biển đối
với đời sống và sản xuất
Ở vùng biển nước ta, nước không bao giờ đóng băng.
Miền Bắc và miền Trung hay có bão.
Hằng ngày, nước biển có lúc dâng lên, có lúc hạ
xuống.
Sau thời gian làm việc, giáo viên kiểm tra kết quả, thu phiếu bài tập, nhận xét
chốt lại ý kiến đúng.
5.2. Hình thức tổ chức dạy học cả lớp:
Hình thức tổ chức dạy học này thường được dùng phổ biến trong các trường hợp
như: kiểm tra, đặt vấn đề vào bài mới, hướng dẫn cách học lớp nhà. Hoặc
giảng giải minh họa những kiến thức học sinh không khả năng tự học; thông
báo, giao và giải thích nhiệm vụ học tập cho cá nhân, nhóm, lớp.
5.3. Hình thức tổ chức dạy học theo nhóm:
Đây một phương pháp động viên được nhiều học sinh tham gia ý kiến, không
chỉ rèn luyện cho học sinh ý thức trách nhiệm trước tập thể, thói quen bạo dạn hoạt
bát còn điều kiện bộc lộ khả năng nhận thức của bản thân mình. Người giáo
viên cần xác định rõ ý nghĩa và tác dụng hình thức dạy học theo nhóm.
Ý nghĩa của hình thức dạy học theo nhóm:
Dạy học theo nhóm nhằm khai thác trí tuệ của tập thể và cũng một hình thức
rèn luyện học sinh thông qua tập thể.
Học sinh được tổ chức trao đổi những điều hiểu biết của mình và đối chiếu với sự
hiểu biết của bạn nên việc học tập sẽ đem lại hiệu quả cao hơn.
Tác dụng của hình thức dạy học theo nhóm:
- Học sinh biết cách trình bày ý kiến của mình đối với người khác.
- Các em biết nghe lựa chọn để tiếp nhận hiểu biết của bạn để bổ sung
vàovốn hiểu biết của mình. Thông qua thảo luận, nâng cao được năng lực của
nhân. Học sinh có điều kiện tập dược cách thức chỉ huy người khác.Việc học theo
lOMoARcPSD| 60696302
nhóm còn có tác dụng xử lí trí tuệ tập thể theo phương châm: “Một cây làm chẳng
nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Tác dụng của hình thức học nhóm rất cao nhưng tổ chức như thế nào để đem lại
hiệu quả đó là vấn đề cần quan tâm. Vì vậy khi tổ chức hình thức dạy học này cũng
khá công phu, đòi hỏi giáo viên có sự chuẩn bị bài thật chu đáo, tiến hành một cách
có khoa học.
Sự chuẩn bị bài ở nhà:
Đối với giáo viên:
Nghiên cứu bài dạy và soạn bài:
Muốn có bài dạy tốt giáo viên cần có sự nghiên cứu bài dạy một cách chu đáo đ
thấy được mục đích bài dạy gì? Từ đó chọn hình thức tổ chức dạy học cho phù
hợp. Khi soạn bài, giáo viên cần xác định được vấn đề, cách giải quyết vấn đề và dự
kiến các tình huống có thể xảy ra để giải đáp cho học sinh.
Khi soạn bài giáo viên cần thể hiện rõ trên giáo án mục đích, yêu cầu bài dạy, các
phương tiện các bước trên lớp. Nội dung bài soạn được chia theo nội dung, phương
pháp rõ ràng.
Chuẩn bị đồ dùng dạy học:
Để có tiết dạy tốt, ngoài việc soạn bài giáo viên cần sự chuẩn bị chu đáo về các
đồ dùng dạy học phục vụ cho bài dạy như bản đồ, lược đồ, quả địa cầu, phiếu bài tập,
phiếu giao việc. Đối với bản đồ, lược đồ thì phải bảo đảm yêu cầu sau:
+ Bản đồ (hoặc lược đồ) đưa ra phải thực sự mẫu mực đạt yêu cầu chính xác (vì
nhiều lược đồ giáo viên tvẽ lấy) to, đmọi đối tượng học sinh đều quan sát
được, đồng thời phải đẹp (có màu sắc) để gây ấn tượng cho học sinh.
+ Giáo viên phải nghiên cứu bản đồ đưa ra, tập trình bày trước nhà đkhi
trình bày trước học sinh được mạch lạc hơn, chính xác và lôi cuốn người nghe.
+ Đối với quả địa cầu: Giáo viên cần nghiên cứu hơn muốn tìm vị trí các
nước (hay một đối tượng địa nào) trên quả địa cầu khó hơn nhiều so với trên bản
đồ (lược đồ).
Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài:
Vào cuối tiết học (phần hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài nhà) tôi giao phiếu học
tập cho từng nhóm. Trong phiếu ghi cụ thể các câu hỏi thảo luận, dụng cụ, tranh ảnh
... cần có để học bài sau.
Để giúp cho học sinh nhiều đồ dùng học tập phong trào thi đua với nhau,
tôi phát động cho học sinh thi đua vẽ lược đồ, sưu tầm tranh ảnh về việc trồng rừng,
tranh ảnh về biển, bờ biển, nơi nghỉ mát, tranh ảnh về các làng nghề thủ công như
dệt thổ cẩm, đồ gốm, dệt chiếu. Tranh ảnh vcác vùng trồng lúa, cây ng nghiệp,
cây ăn quả, tranh ảnh về đàn gia súc, gia cầm, nuôi tôm đánh bắt hải sản.
Nhờ vậy mà các em đã vẽ được nhiều lược đđẹp, sưu tầm được nhiều tranh ảnh,
làm cho các em ngày càng yêu thích môn học.
Ví dụ:
Để học bài “Công nghiệp” tôi hướng dẫn mỗi nhóm HS chuẩn bị các yêu cầu sau
- Nghiên cứu, quan sát bản đồ Hành chính Việt Nam
lOMoARcPSD| 60696302
- Sưu tầm tranh ảnh về một số ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và sản phẩmcủa
chúng.
Đồng thời các nhóm tìm hiểu:
Nhóm1,2: - Tìm hiểu và kể tên các ngành công nghiệp của nước ta.
- Kể tên các sản phẩm của một số ngành công nghiệp - Kể tên một số
sản phẩm công nghiệp xuất khẩu.
Nhóm 3,4:
- Nêu đặc điểm của nghề thủ công ở nước ta .
- Kể một số nghề thủ công nổi tiếng mà em biết.
- Ở địa phương ta có những nghề thủ công nào?
Đối với học sinh:
nhà các em phải tìm hiểu bài theo yêu cầu của phiếu giao việc như kiến thức,
tranh ảnh, dụng cụ cần thiết cho bài học. Có như vậy thì vào tiết học mới các em mới
học tốt được. Nếu các em chỉ ỷ lại, trông chờ vào bài giảng của giáo viên trên lớp thì
sự tiếp thu của các em sẽ phần hạn chế. vậy giáo viên cần động viên các em
chuẩn bị tốt khâu chuẩn bị bài ở nhà.
Cách tổ chức ở lớp:
Đối với học sinh:
Trên sở học sinh giữ vai trò tích cực, chủ động tham gia thảo luận và học hỏi
ý kiến lẫn nhau để tìm ra kiến thức. Cho nên việc phân chia nhóm cũng tính dến các
đối tượng trong lớp. Tùy theo nội dung bài học số lượng đồ dùng dạy học chuẩn
bị được, giáo viên quyết định số học sinh ở mỗi nhóm. thể chia nhóm theo từng
trình độ, hoặc nhóm hỗn hợp đủ trình độ, nhóm theo sở trường, nhóm ngẫu nhiên...
Khi phân nhóm giáo viên nhớ phân luôn nhóm trưởng và thư kí. Không nên cố định
các nhóm cũng như vai trò của từng thành viên.
Tôi luôn luân phiên học sinh làm nhóm trưởng, thư kí để tạo cho các em có lòng
tin bản thân mình, đồng thời giúp các em biết xtình huống nhanh nhẹn. Mặt
khác giúp các em có tính nhút nhát, học sinh tiếp thu chậm, có điều kiện phát biểu ý
kiến của mình và dần dần các em mạnh dạn hơn.Những trường hợp này giáo viên
cần động viên giúp đỡ và khen ngợi kịp thời.
Đối với giáo viên:
Khi cho học sinh thảo luận nhóm, cần tạo cho các nhóm sinh hoạt thảo luận sinh
động, có nội dung sâu sắc, tránh việc chỉ trình bày theo hình thức. Muốn vậy người
giáo viên cần theo dõi sát sao các nhóm thảo luận để kịp thời nhắc nhở những em
thiếu tập trung vào việc thảo luận nhóm.
lớp, khi giao việc cho các nhóm giáo viên cần chú ý đến: nội dung phiếu giao
việc, phiếu bài tập phải rõ, gọn đảm bảo tính vừa sức phù hợp với thời gian thảo
luận.
Khi học sinh phát biểu tôi luôn luôn tôn trọng ý kiến của học sinh đồng thời tôi
khuyến khích và tạo điều kiện cho các em nêu câu hỏi với bạn hoặc với cô giáo. Cả
lớp phát biểu ý kiến, bàn bạc đúng sai một cách sôi nổi. Sau đó giáo viên tổng kết
các ý kiến rồi đưa ra kết luận tôi cũng không quên tuyên dương các ý kiến hay.
Chính những điều đó giúp các em phát huy tính tích cực của mình.
lOMoARcPSD| 60696302
Như vậy học theo nhóm sẽ tạo bầu không khí học tập sôi nổi. Học tập có tổ chức,
trách nhiệm giữa các thành viên trong nhóm sẽ tạo được không khí thi đua lành
mạnh bổ ích. Với cách học này, mỗi học sinh được khuyến khích, phát huy mọi khả
năng cá nhân qua quan sát, nhận xét, phát biểu ý kiến một cách chủ động.
Giáo viên không nên để lớp quá ồn ào, mất trật tự (làm ảnh hưởng đến việc học
tập của các lớp khác) và ng không nên quá (hạn chế đến sự trao đổi ý kiến
của học sinh), bắt buộc học sinh phải im lặng tuyệt đối, phải chấp nhận tiếng ồn trong
phạm vi cho phép để đảm bảo kết quả học tập gây hứng thú sôi nổi. Giáo viên cần
theo dõi quan tâm đến những học sinh dân tộc thiểu số. Khi học sinh phát biểu giáo
viên cũng cần rèn luyện cách nói năng ân cần, lịch sự và sát với nội dung câu hỏi.
6. Kết hợp với trò chơi học tập:
Đối với học sinh tiểu học, môi trường sẽ tác động đến sự nhận thức của các em
rất nhiều. Các em vui vẻ, hứng thú sẽ tiếp thu bài nhanh hơn. Chính vậy cần
tạo ra một không khí vui vẻ ngay từ đầu tiết học bằng những trò chơi khởi động (hoặc
giới thiệu tranh ảnh). Qua tchơi đơn giản ngắn gọn đó, hay những bức tranh đẹp
gây ấn tượng, giúp các em hưng phấn trong học tập, thích đến trường hơn, đến lớp
hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài “Khí hậu” tôi củng cố bằng hình thức trắc nghiệm sau : Đánh
dấu X vào ô trống trước câu trả lời đúng nhất.
a/ Nước ta có khí hậu
Ôn dới
Hàn đới
Nhiệt đới gió mùa
b/ Đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa là :
Nhiệt độ cao quanh năm.
Nhiệt độ cao, gió và mưa thay đổi theo mùa
Một năm chia làm 4 mùa.
Giáo viên viết sẵn vào 2 bảng phụ, học sinh cử đại diện 2 đội lên thi đua đánh dấu
X vào ô trống. Cả lớp nhận xét tuyên dương.
dụ: Khi dạy bài “Dân số nước ta” tôi củng cố bằng cách xác lập mối quan hệ
sau:
Hãy điền nhanh mũi tên và các từ còn thiếu vào sơ đồ sau
Thiếu ăn
Thiếu ..mặc.
Dân số tăng nhanh Hậu quả Thiếu ..ở..
Thiếu .học hành..
(các mũi tên và chữ in nghiêng là học sinh điền)
Khi học sinh trả lời đúng giáo viên cần động viên khen ngợi kịp thời để tạo sự
hưng phấn cho các em.
Như vậy từ cách vào bài, tiến trình bài dạy và cách kết thúc đều hướng học sinh
tập trung vào học sinh. Ngay từ đầu học sinh đã cảm nhận yêu thích môn học.
Trong suốt tiết học các em được tham gia đóng góp ý kiến xây dựng rút ra kiến
thức. Cuối tiết học các em được củng cố bằng các trò chơi học tập vui bổ ích.
Chính những điều đó đã giúp các em học tốt phân môn Địa lí này. Không những thế
mà các em có được ý thức học tập các môn khác như đi học chuyên cần hơn, nề nếp
hơn, ... hình thành ban đầu mt lề lối, nhân cách sống.
lOMoARcPSD| 60696302
Song song với những biện pháp trên, trong những bài dạy tôi thường liên hệ thực
tế để giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài “Giao thông vận tải” tôi thực hiện việc lồng ghép và đưa vào
giáo dục học sinh việc thực hiện an toàn giao thông. Từ việc học sinh nắm được nước
ta mạng lưới giao thông dày đặc tôi giúp học sinh rèn kỹ năng phân tích phán đoán
các tình huống để phòng tránh các tai nạn giao thông khi đi học. khả năng cam
kết thực hiện đúng luật giao thông khi tham gia giao thông đường bộ.
IV.HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Qua thực tế giảng dạy áp dụng những biện pháp nêu trên, tôi thấy sau một thời
gian học tập các em những tiến bộ rệt. Nhiều em vươn lên cả về mặt học tập
lẫn tác phong đạo đức.
Cuối năm học 2015-2016, tôi đã tiến hành kiểm tra chất lượng học sinh kết quả như
sau:
Tổng số HS
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
25em
25 em (100%)
0
Từ kết quả giảng dạy nêu trên tôi tự rút ra cho mình bài học: Muốn phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trước hết người giáo viên phải tích cực
trong soạn giảng, tìm kiếm thông tin, tranh ảnh, tích cực trong việc lựa chọn phương
pháp, hình thức tổ chức cho phù hợp. Trong dạy học, giáo viên luôn luôn khơi gợi ở
học sinh trí tư duy, lòng yêu thích khám phá thiên nhiên, đất nước, con người. Giáo
viên cần nắm vững phương pháp bộ môn, gần gũi yêu thương học sinh, tạo cho các
em niềm tin vững vàng trong học tập cũng như mọi hoạt động khác. Luôn luôn tôn
trọng ý kiến của học sinh, phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập điều
cần thiết. Giáo viên dạy bằng phương pháp tích cực lấy học sinh làm trung tâm. Giáo
viên nhiệt tình, kiên trì, chịu khó chuẩn bị đầy đủ các phương tiện dạy học (giáo án,
đồ dùng dạy học, hệ thống câu hỏi gợi mở, ...). “Yêu nghề, mến trẻ” là động lực thúc
đẩy quá trình dạy học. Luôn tạo sự phối hợp nhịp nhàng đồng btrong hoạt động của
thầy trò, tránh nói nhiều, làm thay cho học sinh. Biết kết hợp nhuần nhuyễn nhiều
phương pháp dạy học để đạt kết quả cao nhất.
Dạy tốt phân môn Địa lí là chúng ta đã góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp
đạt mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh Tiểu học.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực (hướng tập trung vào học
sinh) yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi giáo viên khi lên lớp. Việc rèn luyện
phương pháp học tập (dạy cách học) cho học sinh không chỉ một phương tiện nâng
cao hiệu quả học tập còn mục tiêu dạy học, được quan tâm ngay từ bậc Tiểu
học. Như vậy, dạy học không chỉ là cung cấp tri thức mà phải hướng tới hành động.
Người thầy phải làm thế nào đtrong mi giờ học học sinh hoạt động nhiều hơn, suy
nghĩ nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, thực hành nhiều hơn. Dạy học phát huy tính

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60696302 MỤC LỤC TRANG A.MỞ ĐẦU 2
I. Lí do chọn đề tài 3
II. Mục đích nghiên cứu 3
III. Đối tượng nghiên cứu. 3
IV. Phương pháp nghiên cứu 3- 4
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 4- 6 I. Cơ sở lí luận.
II. Thực trạng của vấn đề. 6-7
III.Giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện.
1.Giáo dục nhận thức cho học sinh. 7-11
2. Hướng dẫn sử dụng các thiết bị dạy học. 11-14
3.phát huy tính tích cực qua việc tìm hiểu, khai thác nội dung bài. 14-15
4.Xác định phương pháp dạy học địa lí theo tinh thần 15 - 19 dạy học tích cực. 19-20
5. Hình thức tổ chức dạy học theo hướng tích cực .
6. . Kết hợp với trò chơi học tập. 20
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 21
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1.Kết luận. 2.Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mục tiêu của phần Địa lí (trong môn Lịch Sử và Địa lí lớp 5) nhằm cung cấp cho
học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự vật, hiện tượng và các mối
quan hệ địa lí ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới. Bước đầu hình thành và
rèn luyện cho học sinh các kỹ năng địa lí, năng lực tự học và góp phần bồi dưỡng nhân cách cho học sinh.
Dạy học Địa lí chiếm vai trò quan trọng nhằm góp phần hình thành và phát triển
ở học sinh thói quen ham hiểu biết, yêu thiên nhiên đất nước con người, có ý thức và
hành động bảo vệ thiên nhiên. Vì vậy, việc dạy học Địa lí không những cung cấp cho
học sinh những kiến thức địa lí thuần túy mà còn phải hình thành, phát triển cho các
em các kĩ năng và năng lực tự học. Đó là những nhiệm vụ song song và có tầm quan trọng như nhau.
Để đạt được mục tiêu nói trên, người giáo viên cần có những phương pháp dạy
học thích hợp để giúp cho học sinh không những nắm vững kiến thức địa lí, rèn luyện lOMoAR cPSD| 60696302
kĩ năng, mà còn giáo dục thái độ, phát triển nhân cách, khơi gợi tính tự giác tích cực
học tập của học sinh. Đó là phương pháp dạy - học tích cực. Hay nói cách khác đó là
quá trình làm việc tích cực của thầy và trò để đem lại hiệu quả cao nhất. Qua quá
trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy việc phát huy tính tích cực của học sinh trong
việc học tập phân môn Địa lí là việc làm cần thiết và hết sức quan trọng, nhằm nâng
cao chất lượng học tập của học sinh theo phương pháp mới, góp phần giáo dục toàn
diện cho học sinh Tiểu học. Học tập tích cực học sinh là chủ thể của hoạt động, chỉ
có hoạt động mới có thể tự phát hiện, tự chiếm lĩnh, tự giải quyết vấn đề. Bằng hoạt
động học tập tích cực, chủ động, mỗi học sinh tự hình thành nhân cách của mình.
Học là hoạt động thay đổi cách nghĩ đến cách làm, cách sống. Nói về vai trò hoạt
động học tập, người Ấn Độ có câu: “Tôi nghe tôi quên, tôi nhìn tôi nhớ, tôi làm tôi
hiểu”. Bằng những nghiên cứu về tâm lí học, người ta đã tổng kết được tỉ lệ kiến thức
nhớ được sau khi học như sau:
20% qua những gì mà ta nghe được.
30% qua những gì mà ta nhìn được.
50% qua những gì mà ta nghe và nhìn được.
80% qua những gì mà ta nói được.
90 % qua những gì mà ta nói và làm được.
Như vậy rõ ràng là học sinh tự chủ tham gia tích cực vào quá trình học thì kết quả
đạt được sẽ cao hơn.
Năm học 2015 – 2016 là năm học thứ hai thực hiện đánh giá học sinh theo thông
tư 30/2014/TT-BGD&ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014. Tiếp tục thực hiện chỉ thị
03/CT-TW của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện và đẩy mạnh cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
”, cuộc vận động “Mỗi thầy giáo
cô giáo là tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo
” cùng với phong trào thi đua “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực
’’ và phong trào thi đua“Dạy tốt - Học tốt’’.
Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy là xây dựng ý thức tự học, tích cực,
chủ động, sáng tạo cho học sinh được quan tâm hơn lúc nào hết. Việc nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo được đặt ra cho tất cả các lớp học, bậc học, đặc biệt là bậc
tiểu học vì đây là bậc học nền tảng tạo tiền đề cho các bậc học sau. Do đó việc dạy
cho học sinh cách học tự giác, tích cực để đem lại hiệu quả cao ngay từ bậc tiểu học
luôn là vấn đề trăn trở của nhiều giáo viên. Nhưng hiện tại chưa có tài liệu nghiên
cứu nào bàn sâu vào vấn đề này, đồng nghiệp nhà trường chưa có kinh nghiệm để
giải quyết vấn đề này. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp phát huy tính
tích cực của học sinh trong học tập phân môn địa lí lớp 5 ở trường Tiểu học Nga
Trung
” để viết sáng kiến kinh nghiệm .
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu nội dung và một số biện pháp dạy phân môn địa lí lớp 5 giúp giáoviên
nắm chắc chương trình phân môn địa lí ở tiểu học và sử dụng phương pháp dạy học
cho phù hợp làm cho chất lượng phân môn địa lí của học sinh được nâng cao bền vững. lOMoAR cPSD| 60696302
- Một số hoạt động dạy học phân môn địa lí nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Trung phù hợp với học sinh nông thôn, sát với thực tế nhà trường.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Với đề tài " Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong hoc tập
phân môn địa lí lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Trung, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa”.
- Tôi tập trung nghiên cứu đề tài và cùng với các em học sinh học 5B trường Tiểuhọc Nga Trung về:
+ Chương trình môn địa lí lớp 5.
+ Tình trạng học phân môn địa lí của học sinh lớp 5
- Nghiên cứu tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập, tiếp thu kiến thức.
- Nghiên cứu sách giáo khoa Lịch sử và Địa lí lớp 5 ( Phần phân môn Địa lí) - Đồ
dùng dạy – học: Bản đồ, lược đồ, quả địa cầu, tranh ảnh… - Một số tài liệu khác có liên quan.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp hệ thống - Phương pháp so sánh - Phương pháp phân tích
- PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin .
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Con người dù hoạt động trong lĩnh vực nào cũng cần có kiến thức về Địa lý. Giáo
viên là cầu nối giữa tri thức và nhân loại. Giáo viên có nhiệm vụ giúp học sinh khám
phá những kiến thức cơ bản cần thiết về trái đất. Môi trường sống của con người, về
những hoạt động của loài người trên bình diện quốc tế, quốc gia. Trong thời kỳ công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, địa lý là một trong những bộ môn quan trọng đòi
hỏi mỗi người phải có kiến thức am hiểu về nó. Trong sự nghiệp giáo dục hiện nay
theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, trong những giờ lên lớp tôi luôn giữ
vai trò tổ chức chỉ đạo, học sinh tích cực chủ động nắm tri thức, tạo cho học sinh sự
tham gia hứng thú và trách nhiệm. Tôi luôn đảm nhận vai trò xây dựng kế hoạch,
hướng dẫn hoạt dộng và hợp tác học sinh luôn được người dạy theo sát giúp đỡ nên
tích cực tự giác thể hiện sự năng động trong hoạt động học tập. Kết quả là học sinh
lớp tôi dạy đã tiếp thu được những nguồn tri thức mới, bằng sự khám phá của bản
thân với sự định hướng giúp đỡ của giáo viên. Khi tự mình khám phá ra tri thức học
sinh sẽ cảm nhận được sự hứng thú, say mê và yêu mến môn học hơn nhiều lần những
gì học sinh tiếp nhận một cách thụ động từ giáo viên.
Để đổi mới phương pháp dạy học một cách hiệu quả, giảng dạy bất cứ môn gì
giáo viên cũng cần phải có sự hỗ trợ của dụng cụ dạy học hay còn gọi là thiết bị dạy
học, nhất là ở môn địa lý cần phải có: bản đồ, lược đồ, tranh ảnh địa lý… Kết hợp lOMoAR cPSD| 60696302
các phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh chiếm lĩnh những tri thức một cách
vững chắc để hiểu biết về những cơ sở khoa học, những kỹ năng vận dụng các tri
thức đó vào cuộc sống đồng thời giúp học sinh phát triển toàn diện, rèn luyện tính
tích cực độc lập cho học sinh.
Đặc điểm môn địa lý lớp 5 là giúp các em biết được các sự vật hiện tượng và mối
quan hệ địa lý ở Việt Nam và một số nước trên thế giới. SGK lớp 5 được biên soạn
phù hợp với tâm lý nhận thức của học sinh tiểu học và không quá tải về kiến thức.
Tạo điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học và giúp học sinh tự rèn
tại lớp, tại nhà. Nhằm giúp các em phát huy hết năng lực của mình cũng như rèn học
sinh tính tự giác học tập.
Học sinh đến với phân môn Địa lý là học sinh hình thành kỹ năng quan sát sự
vật, hiện tượng, thu nhập tìm kiếm tư liệu địa lý từ sách giáo khoa, trong cuộc sống
gần gũi học sinh… Học sinh biết đặt câu hỏi trong quá trình học tập, đặt câu hỏi với
bạn bè, nhóm, với thầy cô và biết thông tin để giải đáp. Biết nhận đúng các sự vật
hiện tượng địa lý. Học sinh biết trình bày kết quả học tập qua nhiều hình thức: lời
nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, bảng thống kê… Để từ những giờ học trên lớp, các em
biết đem về vận dụng vào cuộc sống phong phú. Để từ đó các em hình thành thái độ
ham học hỏi, tìm hiểu để biết về quê hương đất nước, môi trường xung quanh. Từ đó
giáo dục cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu quê hương đất nước
và khát khao được học để trở thành con người có ích cho gia đình, xã hội.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
Những thuận lợi và khó khăn khi dạy môn Địa lí lớp 5: 1. Thuận lợi: -
Về sách giáo khoa: được trang bị đầy đủ cho học sinh. Các tranh ảnh, lược
đồ,bản đồ ở sách giáo khoa đẹp, rõ ràng, chính xác. Các câu hỏi hoặc các yêu cầu
hoạt động được in nghiêng ở giữa bài gợi ý cho giáo viên tổ chức các hoạt động, khai
thác thông tin được dễ dàng. Câu hỏi cuối bài giúp giáo viên kiểm tra việc thực hiện
mục tiêu bài và củng cố kiến thức. Phần tóm tắt trọng tâm bài được đóng khung rất
rõ. Sách giáo viên có phần bổ sung thông tin, giúp giáo viên mở rộng kiến thức. Về
chương trình: Cấu trúc nội dung theo từng chủ đề, từng bài cụ thể. Mục tiêu, nội dung
chương trình nhẹ nhàng phù hợp với lứa tuổi học sinh. -
Mấy năm gần đây, nhà trường quan tâm hơn rất nhiều việc mua sắm đồ
dùngdạy học, trang thiết bị máy móc phục vụ cho việc dạy học: tranh ảnh, quả địa
cầu…. Ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo sát sao việc dạy và học. Nhà trường, công
đoàn luôn động viên giáo viên tìm tòi những sáng kiến dạy học tích cực nhất là những
môn mà nhiều người vẫn coi là môn phụ nhưng tầm quan trọng của chúng là không nhỏ. -
Giáo viên: bằng tinh thần yêu nghề, mến trẻ không ngừng trau dồi kiến
thức,bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Đồng nghiệp tích cực dự giờ, góp ý thẳng
thắn với nhau giúp nhau cùng tiến bộ, vững vàng hơn trong giảng dạy và có nhiều
sáng kiến, cách dạy học hay, hình thức dạy học phong phú phù hợp từng bài, phù hợp
từng đối tượng học sinh. 2. Khó khăn: lOMoAR cPSD| 60696302
Qua việc dự giờ, tìm hiểu các giờ dạy Địa lí của các bạn đồng nghiệp tôi nhận
thấy: Hiện nay nhiều giáo viên Tiểu học khi dạy giờ Địa lí đã cố gắng sử dụng các
thiết bị dạy học Địa lí (bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh, bảng số liệu,...) để minh họa cho
lời giảng của mình mà ít chú ý đến việc cho học sinh khai thác kiến thức từ các nguồn
này. Do vậy mà cách dạy học tích cực hướng tập trung vào học sinh chưa được thực
hiện một cách triệt để.
Một số giáo viên đã cố gắng phát huy tính tích cực tự giác của học sinh làm cho
giờ Địa lí được sinh động bằng cách tạo không khí học tập sôi nổi như tổ chức để
học sinh thảo luận, làm việc trong phiếu, tổ chức trò chơi học tập... nhưng số tiết học
kiểu này còn quá ít vì nó chỉ được thực hiện trong những giờ thao giảng, thanh tra
hoặc thi giáo viên giỏi. Vì vậy mà vấn đề kĩ năng thực hành địa lí của học sinh không
được thực hiện thường xuyên.
Thiết bị, đồ dùng dành cho phân môn Địa lí được cấp phát, nhà trường mua bổ
sung xong đã cũ, chưa được thay thế hết nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.
Về phía phụ huynh: do điều kiên kinh tế của nhân dân Nga Trung còn gặp nhiều
khó khăn, trình độ hiểu biết còn có hạn nên việc chăm lo đến chất lượng học tập của con em chưa tốt.
Về phía học sinh: các em chưa có sự chuẩn bị tốt cho các giờ học địa lí, chủ yếu
dựa vào kênh chữ để phát biểu mà ít đề cập đến kênh hình, biểu đồ, lược đồ và ít rèn
luyện kỹ năng địa lí. 3.Nguyên nhân: -
Về giáo viên: một số giáo viên chưa tìm hiểu, cập nhật thông tin kịp thời
vềcác yếu tố tự nhiên, về con người, về cuộc sống xung quanh để hỗ trợ cho môn học.
Do yếu tố khách quan nên giáo viên chưa có điều kiện tổ chức các buổi sinh hoạt
ngoại khóa cho học sinh để kết hợp với học tập. Một số ít giáo viên trong quá trình
dạy phân môn địa lí chưa chú ý đến việc xâu chuỗi mỗi quan hệ giữa các đối tượng
địa lí để học sinh nắm bài một cách sâu sắc. -
Về phía học sinh: các em chưa chú trọng môn học này, chủ yếu còn học
thuộcnhiều hơn học hiểu để mở rộng vốn sống. Đa số học sinh lớp tôi chủ nhiệm đều
là con nhà nông, hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có điều kiện tiếp xúc, học hỏi
các hoạt động giáo dục sinh hoạt ngoại khóa như tham quan, du lịch… -
Về phía phụ huynh: Nhiều phụ huynh vẫn chưa nhận thức được tầm
quantrọng của phân môn Địa lí, vẫn còn tư tưởng coi là môn học phụ, chỉ mong con
giỏi Toán và Tiếng Việt là được rồi. -
Trong điều kiện tài chính nhà trường cho phép, nhà trường đã mua sắm các
đồdùng dạy học nhưng vẫn còn thiếu chủng loại hoặc thiếu số lượng ( 2lớp trong
cùng khối sử dụng chung một bộ đồ dùng).
Xuất phát từ những tình hình thực tế của lớp và những thuận lợi, khó khăn nói
trên, bản thân tôi luôn suy nghĩ làm sao tìm ra phương pháp dạy học tốt nhất để giúp
các em học tốt môn học này bằng cách học tự giác, tích cực và có niềm hứng thú say
mê môn học. Làm được điều đó chính là giúp các em nắm được những kiến thức cơ lOMoAR cPSD| 60696302
bản về Địa lí, có kĩ năng địa lí và năng lực tự học. Các em có những nhận thức đúng
đắn về cuộc sống thế giới xung quanh mình, các em thêm yêu quê hương, đất nước.
Từ nhận thức đó, tôi đã suy nghĩ, chọn và nghiên cứu đề tài “Mét số biện pháp phát
huy tính tích cực của học sinh trong học tập phân môn Địa lí lớp 5 trường Tiểu
học Nga Trung, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa”.

Để các biện pháp đưa ra sát với thực tế và có tính khả thi, tôi đã tiến hành điều
tra thực trạng, khảo sát chất lượng đầu năm học 2015– 2016 ở lớp 5B để tìm hiểu nguyên nhân:
Kết quả khảo sát : Tổng số HS Hoàn thành Chưa hoàn thành 25em 9 em(36%) 16em(64%) *Nguyên nhân :
- Học sinh chưa có phương pháp học môn Địa lí và chưa thực sự yêu thích mônhọc.
- Học sinh chưa biết cách khai thác nội dung bài qua các thiết bị học tập như bảnđồ,
lược đồ, quả địa cầu, tranh vẽ, ảnh chụp,…
- Học sinh chưa có kĩ năng phân tích bảng số liệu, biểu đồ.
- Học sinh chưa có thói quen chuẩn bị bài ở nhà (tìm hiểu bài, chuẩn bị đồ dùnghọc tập, tranh ảnh ...)
- Nhiều em còn xem nhẹ môn học này vì cho đây là môn học phụ (môn học bài) nên
ít đầu tư nghiên cứu mà chỉ đầu tư vào 2 môn Toán, Tiếng Việt.
III. CÁC Gi¶i ph¸p vµ biÖn ph¸p tæ chøc thùc hiÖn ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Giáo dục nhận thức cho học sinh:
Phân môn Địa lí luôn gắn liền với thiên nhiên, với đất nước và đời sống. Việc học
tốt phân môn Địa lí sẽ giúp các em tìm hiểu tự nhiên, con người và tăng thêm tình
yêu quê hương, yêu đất nước để bước vào cuộc sống một cách tốt đẹp. Từ đó các em
có ý thức học tốt phân môn Địa lí để các em nắm được những kiến thức về Địa lí,
có hiểu biết sâu sắc hơn về mảnh đất các em đang sinh sống. Các em sẽ biết yêu quý
tự nhiên, biết cách sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý và đúng đắn nhất
để phục vụ cho lợi ích của con người dài lâu.
Trong các giờ dạy Địa lí, giáo viên cần lồng ghép giáo dục kĩ năng sống, giáo dục
bảo vệ môi trường để giáo dục các em ý thức thực hiện bổn phận của bản thân đối với đất nước.
Ví dụ: khi dạy bài Nông nghiệp
Giáo viên cho học sinh đọc thầm sách giáo khoa để biết Nông nghiệp gồm có 2
ngành chính đó là: Trồng trọt và chăn nuôi.
Học sinh kể tên một số trang trại mà các em biết. Học sinh có thể kể những việc
làm để giảm thiểu ô nhiễm do chất thải trong chăn nuôi gây ra.
Qua học tập Địa lí, các em hiểu được trách nhiệm bảo vệ tự nhiên là của tất cả mọi người.
2. Hướng dẫn sử dụng tích cực các thiết bị dạy học:
Các thiết bị dạy học Địa lí hiện nay khá phong phú, bao gồm tranh, ảnh, mô hình,
quả địa cầu, bản đồ, băng đĩa, phim giáo khoa,…Khi sử dụng thiết bị dạy học giáo lOMoAR cPSD| 60696302
viên cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung bài học để lựa chọn thiết bị cho phù hợp.
Tránh quá tải về thiết bị trong một giờ học.
Sử dụng thiết bị như là một nguồn cung cấp kiến thức chứ không chỉ để minh họa
cho bài giảng. Khi sử dụng giáo viên cần giải thích cho học sinh hiểu: sử dụng thiết
bị nhằm mục đích gì ? Cần tìm những nội dung gì ? và cách thức sử dụng.
2.1. Đối với bản đồ, lược đồ:
Để giúp học sinh có khả năng làm việc độc lập, tích cực với bản đồ, lược đồ,
trong quá trình dạy học, giáo viên phải chú trọng rèn luyện một số kĩ năng sử dụng bản đồ.
a. Rèn luyện kĩ năng xác định phương hướng trên bản đồ.
Ở lớp 4, học sinh đã biết xác định các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Sang lớp 5,
học sinh cần xác định thêm bốn hướng phụ nữa là Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc,
Tây Nam. Giáo viên cho học sinh thực hành nhiều lần để nhớ được: trên bản đồ phía
trên là hướng Bắc, phía dưới là hướng Nam, bên phải là hướng Đông, bên trái là
hướng Tây. Ngoài ra, giáo viên còn giúp học sinh xác định vị trí của khu vực bán
cầu Bắc, bán cầu Nam và đường xích đạo. Chính nhờ việc xác định được các hướng
và vị trí này sẽ giúp các em nắm được vị trí của các nước, các châu lục thể hiện trên
bản đồ, lược đồ một cách dễ dàng.
Ví dụ : Khi dạy bài: “Việt Nam – Đất nước chúng ta” địa lí lớp 5, tôi yêu cầu học
sinh quan sát lược đồ Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á để xác định:
- Vị trí của nước ta.
- Phần đất liền của nước ta giáp những nước nào?
- Biển bao bọc phía nào của đất nước ta?
Sau khi quan sát học sinh nêu được:
- Nước ta nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á trongvành
đai nhiệt đới Bắc bán cầu. Phần đất liền nước ta giáp với Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia.
- Biển bao bọc phía Đông, Nam và Tây Nam của phần đất liền.b. Rèn luyện kĩ
năng đọc bản đồ:
Đọc bản đồ không phải là đọc các chữ ghi trên bản đồ mà là một quá trình tìm
kiếm kiến thức địa lí chứa đựng trong các kí hiệu trên bản đồ, ở các mức độ cao, thấp khác nhau.
Đọc bản đồ có 3 mức độ:
Mức độ 1: Học sinh chỉ cần dựa vào kí hiệu ở bảng chú giải, chỉ và đọc tên các
đối tượng địa lí trên bản đồ( Ví dụ: đây là Hà Nội, kia là Hải Phòng; đây là sông
Hồng, kia là sông Đà,…)
Ví dụ : Đọc bản đồ Bản đồ Tự nhiên Việt Nam học sinh nắm được bản đồ thể hiện
các sự vật, hiện tượng tự nhiên của đất nước Việt Nam như lãnh thổ, sông, núi, đồng
bằng, biển, đảo ... a, Có kĩ năng đọc bản đồ học sinh sẽ nắm vững các kí hiệu thể
hiện trên bản đồ, ví dụ như :
Biên giới O Thành phố, thị xã  Thủ đô
Dãy núi  Nhà máy thủy điện … Các kí
hiệu về khoáng sản như : lOMoAR cPSD| 60696302
 Than đá Thiếc Sắt … b, Bản đồ tự nhiên giúp
cho học sinh nắm thêm các kí hiệu về màu sắc:
Ví dụ: màu xanh lá mạ chỉ đồng bằng, màu xanh nước biển đậm nhạt chỉ độ sâu
của biển, màu đỏ đậm nhạt chỉ độ cao của cao nguyên, đồi núi.
Mức độ 2: Học sinh dựa vào bản đồ để tìm ra đặc điểm của đối tượng địa lí.(Ví
dụ: Vị trí dãy núi ở đâu ? Núi cao hay thấp ? Núi có hướng gì…?).
Quan sát lược đồ hình 1, SGK trang 69, học sinh sẽ nêu được những dãy núi có
hướng Tây Bắc- §ông Nam, những dãy núi có hình cánh cung.
Mức độ 3: Học sinh vận dụng các kiến thức đã có, xác lập các mối quan hệ địa lí
để rút ra những điều mà trên bản đồ không trực tiếp thể hiện.
Ví dụ: Học bài “Sông ngòi”. Em hãy cho biết vì sao sông ngòi ở miền Trung thường
ngắn và dốc? (do miền Trung hẹp ngang, địa hình có độ dốc lớn, núi cao ở phía tây
đồng bằng nhỏ hẹp ở phía đông nên sông ngòi miền Trung ngắn và dốc.)
Gi¸o viên mở rộng kiến thức: Địa hình phần đất liền của nước ta với ¾ diện
tích là đồi núi và chủ yếu là đồi núi thấp, đồng bằng Nam Bộ và dải đồng bằng duyên
hải miền Trung hẹp ngang, độ dốc lớn nên sông ngòi miền Trung ngắn và dốc. (Học
sinh kết hợp chỉ bản đồ)
c. Rèn luyện kĩ năng tìm và chỉ vị trí địa lí của các đối tượng trên bản đồ: Để
rèn các kĩ năng này giáo viên cần đưa ra các bài tập cụ thể yêu cầu học sinh dựa vào
bản đồ để xác định vị trí của một đối tượng nào đó.
Ví dụ: Dựa vào Lược đồ công nghiệp Việt Nam (H.3,SGK trang 94), em hãy cho biết
các ngành công nghiệp khai thác dầu, than, a-pa-tít có ở những đâu ?
Học sinh đã nắm vững các kí hiệu khoáng sản nên tìm ra nhanh chóng: Ngành
công nghiệp khai thác dầu mỏ có ở biển đông (gồm các mỏ: mỏ than, mỏ dầu, mỏ
vàng, mỏ apatit, mỏ crom…ngành công nghiệp khai thác than có ở Quảng Ninh.
Ngành công nghiệp khai thác a-pa-tít có ở Cam Đường (Lào Cai),…
Hoặc : Em hãy tìm và chỉ các nhà máy thủy điện có ở nước ta trên bản đồ.
Học sinh sẽ dựa vào kí hiệu và tìm ra nhanh chóng các nhà máy thủy điện Hòa
Bình, Trị An, Y-a-ly, Thác Bà…
Cần lưu ý : Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách chỉ vị trí một đối tượng
trên bản đồ cho đúng quy định. Chẳng hạn khi chỉ vị trí một dòng sông học sinh phải
chỉ xuôi theo dòng chảy từ thượng nguồn đến hạ nguồn chứ không chỉ theo hướng
ngược lại hoặc chỉ vào một điểm trên sông. Khi chỉ vị trí của một thành phố, thị xã,
thì phải chỉ vào kí hiệu thể hiện thành phố, thị xã chứ không chỉ vào chữ ghi tên thành
phố,thị xã. Khi chỉ về một vùng lãnh thổ (một tỉnh, một khu vực, một quốc gia...) thì
phải chỉ theo đường biên giới khép kín của vùng lãnh thổ khu vực đó (chỉ từ trên
xuống dưới, từ trái sang phải).
Khi chỉ bản đồ nên dùng que chỉ dài có đầu nhỏ để chỉ đúng vào các chi tiết của
đối tượng Địa lí và nên đứng bên phải bản đồ.
d. Rèn luyện kĩ năng xác lập mối quan hệ địa lí đơn giản:
Một trong những điều kiện để học sinh học tốt và có hứng thú trong môn Địa lí là
các em phải biết xác lập mối quan hê địa lí đơn giản giữa các yếu tố và thành phần lOMoAR cPSD| 60696302
địa lí như địa hình và khí hậu; địa hình, khí hậu, sông ngòi; thiên nhiên và hoạt động
sản xuất của con người, ... trên cơ sở học sinh biết kết hợp những kiến thức bản đồ
và kiến thức địa lí để so sánh và phân tích, ...
Ví dụ 1: Sau khi trang bị các kiến thức về địa hình, khí hậu, học sinh sẽ giải thích
được: Vì sao nước ta có khí hậu nóng, mưa nhiều ? Vì sao ở nước ta gió và mưa thay đổi theo mùa?...
( Vì nằm trong vành đai nhiệt đới, nóng ẩm và trong vùng có gió mùa nên đặc điểm
của khí hậu nước ta là: nhiệt độ cao, gió và mưa thay đổi theo mùa).
Ví dụ 2: Khi học bài “Giao thông vận tải” học sinh sẽ giải thích được: Vì sao nước
ta có mạng lưới đường giao thông tỏa đi khắp đất nước và quốc lộ 1A là đường ô tô dài nhất nước ta?
(Do lãnh thổ kéo dài theo chiều Bắc – Nam, các tuyến đường giao thông chính cũng
chạy theo chiều Bắc – Nam: quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh, đường sắt BắcNam...)
2.2. Đối với quả Địa cầu :
Giáo viên cần giúp học sinh nhận biết được: quả Địa cầu là mô hình của Trái Đất,
biểu hiện hình dáng thực tế của Trái Đất được thu nhỏ lại.
+ Cần xác định cho học sinh nắm được 2 địa cực: địa cực phía trên gọi là cực Bắc,
địa cực phía dưới gọi là cực Nam.
+ Xác định đường xích đạo là đường tròn lớn nhất cách đều 2 cực và phân chia
bề mặt của quả địa cầu ra hai nửa bằng nhau, nửa bán cầu có cực Bắc là bán cầu Bắc,
nửa bán cầu có cực Nam là bán cầu Nam.
Trên quả cầu thể hiện 6 châu lục và 4 đại dương.
Ví dụ : Tìm vị trí của nước ta trên quả địa cầu.
Học sinh dựa vào các yếu tố : Nước ta nằm trên bán đảo Đông Dương, ở khu vực
Đông Nam Á, trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu. Sau đó giúp các em nhận diện
màu sắc của nước Việt Nam trên quả địa cầu để tìm và chỉ được phần đất liền của
nước ta trên quả địa cầu.
2.3. Đối với tranh ảnh:
Các tranh ảnh dùng trong dạy học Địa lí có rất nhiều loại: tranh ảnh trong sách
giáo khoa, tranh ảnh do giáo viên, học sinh sưu tầm. Khi hướng dẫn học sinh quan
sát tranh, giáo viên phải đưa ra những yêu cầu cụ thể để học sinh quan sát , so sánh và rút ra kết luận.
Ví dụ: a, Học sinh quan sát ảnh chụp ở hình 2 SGK trang 74 và nêu được: lOMoAR cPSD| 60696302
Hình 2: Cảnh đồng ruộng hạn hán đất đai nứt nẻ, cây lúa héo khô. Vì vậy hạn
hán gây thiệt hại về lúa gạo, hoa màu, làm ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của
nhân dân ta. b, Học sinh quan sát ảnh chụp ở hình 3 SGK trang 74 và nêu được:
Hình 3: Cảnh lũ lụt, nước lũ dâng lên cao làm ngập nhà cửa, gây khó khăn trong việc
đi lại, sinh hoạt làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân ta.
c, Học sinh quan sát ảnh chụp ở hình 3, SGK trang 78 và nêu được:
Vai trò của biển: Nhờ có biển mà khí hậu nước ta trở nên điều hòa hơn. Biển còn
là tài nguyên lớn và là đường giao thông quan trọng.Ven biển có nhiều bãi tắm và
phong cảnh đẹp, là những nơi du lịch và nghỉ mát hấp dẫn.
3. Phát huy tính tích cực qua việc tìm hiểu, khai thác nội dung bài:
Sau khi trang bị cho học sinh các kĩ năng về sử dụng các thiết bị dạy học, tôi tiến
hành bước tiếp theo: hướng dẫn các em cách khai thác nội dung bài.
3.1 Khai thác kiến thức từ bản đồ, lược đồ:
a. Về phía giáo viên :
Giáo viên cần xác định kiến thức trong bài mà học sinh cần nắm qua lược đồ, bản
đồ sao cho phù hợp để học sinh có thể sử dụng kiến thức, kĩ năng đã học tự phát hiện
ra kiến thức mới. Soạn một hệ thống câu hỏi dựa trên lược đồ trong sách giáo khoa
và trình độ học sinh để dẫn dắt học sinh tự khám phá kiến thức. Các câu hỏi thể hiện
dưới nhiều hình thức: tự luận, trắc nghiệm (câu đúng sai, câu nhiều lựa chọn), câu điền khuyết..... lOMoAR cPSD| 60696302
Giáo viên nghiên cứu kĩ các loại bản đồ, lược đồ cần để phục vụ từng bài dạy làm
cơ sở hướng dẫn cho học sinh. Từ bản đồ giáo viên dẫn dắt học sinh tự thu nhận được
các kiến thức địa lí. Đó cũng là một biện pháp tích cực đổi mới phương pháp dạy học của phân môn.
b. Về phía học sinh :
Học sinh phải biết vận dụng những kĩ năng địa lí đã có, tích cực hoạt động với
những nội dung câu hỏi, bài tập mà giáo viên yêu cầu để tự chiếm lĩnh nội dung bài
(theo định hướng của giáo viên).
Ví dụ : Khi dạy bài 4 - Sông ngòi (trang 74 SGK) -
Tôi xác định những kiến thức trong bài mà học sinh cần khai thác qua
kênhchữ trang 74 và lược đồ như sau :
+ Nhận biết mạng lưới sông ngòi nước ta. Nêu tên một số con sông ở ba miền
Bắc, Trung và Nam. Biết vị trí của 3 nhà máy thủy điện : Hòa Bình, Y-a-li, Trị An -
Để giúp học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tôi
đãsoạn hệ thống câu hỏi để dẫn dắt học sinh làm việc với lược đồ.
Đọc thầm phần kênh chữ trang 74 và quan sát lược đồ hình 1(trang 75/SGK) :
Câu 1 : Đánh dấu nhân vào ô trống ở ý đúng : Mạng lưới sông ngòi nước ta ?  Thưa thớt
 Dày đặc, phân bố tập trung ở miền Bắc và miền Nam 
Dày đặc, phân bố rộng khắp trên cả nước
Câu 2 : Điền tên một số con sông vào các bảng sau : Sông ở miền Bắc Sông ở miền Trung Sông ở miền Nam …………………… …………………… ………………… ……………….. …………………… ………………… …………………… …………………… ………………… ……………….. …………….. ………………..
Câu 3 : Nối mỗi ý ở cột A với một ý ở cột B để xác định nhà máy thủy điện đó nằm trên sông nào ?
A. Tên nhà máy thủy điện B.Tên sông Hòa Bình Đồng Nai Y-a-ly Xê Xan Trị An Sông Đà
Như vậy, qua bài tập này học sinh sẽ nắm được : Sông ngòi nước ta dày đặc,
phân bố rộng khắp trên cả nước và nêu được tên của các con sông ở miền Bắc,
miềnTrung,miền Nam cũng như các nhà máy thủy điện của nước ta.
3. 2 Khai thác kiến thức từ bảng số liệu:
a. Về phía giáo viên :
- Xác định kiến thức trong bài mà học sinh cần nắm qua bảng số liệu. lOMoAR cPSD| 60696302
- Soạn một hệ thống các câu hỏi dựa vào bảng số liệu và trình độ của học sinh đểgợi
ý cho học sinh tự khám phá ra kiến thức mới. Các câu hỏi được thể hiện dưới nhiều
hình thức như: tự luận, câu đúng sai, câu nhiều lựa chọn, câu điền khuyết,... b.
Về phía học sinh :

- Giáo viên bồi dưỡng cho HS năng lực so sánh, đối chiếu,phân tích các số liệu.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc với bảng số liệu để theo các bước sau:
Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với bảng số liệu.
Bước 2: Đọc tên bảng số liệu.
Bước 3: Xem tên cột, nắm được ý nghĩa đơn vị và thời điểm đi kèm với các số liệu ở từng cột.
Bước 4: Đối chiếu với các số liệu theo hàng dọc, hàng ngang của bảng số liệu để rút ra nhận xét.
Ví dụ : Khi dạy Bài 8: Dân số nước ta (trang 83/SGK)
- Giáo viên xác định những kiến thức trong bài mà học sinh cần khai thác qua bảngsố liệu :
+ Nắm được số dân của nước ta.
+ So sánh số dân nước ta với số dân các nước trong khu vực Đông Nam Á. - Sau
đó, tôi soạn hệ thống câu hỏi gợi ý học sinh làm việc với bảng số liệu như sau
Câu1: Đọc tên các cột trong bảng số liệu.
Câu 2: Các số liệu trong bảng được ghi vào thời gian nào ? Và được biểu thị theo đơn vị nào ?
Câu 3: Số dân Việt Nam năm 2004 là bao nhiêu ?
Câu 4 : Đánh dấu X vào ô trống trước ý đúng: a/ Diện tích nước ta:
b/ Dân số nước ta thuộc hàng:
 Rộng lớn.  Đông dân.  Nhỏ bé.  Ít dân.
 Trung bình.  Trung bình.
Như vậy từ những câu hỏi gợi ý, câu lệnh rõ ràng mà học sinh đã hoạt động tích
cực, biết khai thác kiến thức từ bảng số liệu. Học sinh theo các câu hỏi gợi ý đó làm
việc một cách tích cực, tự giác và cuối cùng đưa ra kết luận: Nước ta có diện tích vào
loại trung bình nhưng số dân lại thuộc hàng các nước đông dân trên thế giới nên mật độ dân số cao.
3.3. Khai thác kiến thức từ biểu đồ :
Biểu đồ là một phương tiện để cụ thể hóa các mối quan hệ về số liệu bằng hình
vẽ. Biểu đồ có nhiều loại, nhưng SGK lớp 5 đề cập đến biểu đồ hình cột.
a. Về phía giáo viên:
Khi hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ biểu đồ giáo viên cần :
- Xác định kiến thức trong bài mà học sinh cần nắm được qua biểu đồ. Soạn mộthệ
thống câu hỏi phù hợp để tạo điều kiện cho học sinh khai thác kiến thức mới từ biểu
đồ. Các loại câu hỏi được thể hiện dưới hình thức tự luận, test (câu đúng sai, câu
nhiều lựa chọn, câu điền khuyết,...)
b. Về phía học sinh : Học sinh có kĩ năng đọc từng loại biểu đồ.
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc với biểu đồ hình cột theo các bước sau lOMoAR cPSD| 60696302
Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với biểu đồ
Bước 2: Đọc tên biểu đồ để biết được nội dung của biểu đồ.
Bước 3: Hiểu các giá trị được biểu hiện ở 2 trục : trục dọc và trục ngang.
Bước 4: Đọc các số tương ứng trên 2 trục
Bước 5: So sánh độ cao của các cột và rút ra kết luận.
Ví dụ : Khi dạy bài 14 : Giao thông vận tải (trang 96/ SGK)
Giáo viên xác định những kiến thức trong bài mà HS cần khai thác qua biểu đồ:
+ Nhận biết được những loại hình giao thông vận tải ở nước ta.
+ So sánh khối lượng hàng hóa vận chuyển của từng loại hình giao thông vận tải.
- Sau đó tôi soạn hệ thống câu hỏi gợi ý học sinh làm việc với biểu đồ:
Câu1:Trục dọc, trục ngang biểu hiện gì? Các số liệu được biểu thị bằng đơn vị nào ?
Câu 2 : Em hãy điền số thích hợp vào bảng sau: Loại hình vận tải
Khối lượng hàng hóa vận chuyển(triệu tấn ) Đường sắt Đường bộ Đường sông Đường biển
Câu 3 : Đánh dấu X vào ô trống trước ý đúng :
Loại hình vận tải có vai trò quan trọng nhất trong vận chuyển hàng hóa là :  Đường sắt  Đường bộ  Đường sông  Đường biển
Học sinh làm việc với biểu đồ dựa vào hệ thống câu hỏi dẫn dắt của giáo viên,
các em đã rút ra được: loại hình vận tải có vai trò quan trọng nhất trong việc chuyên
chở hàng hóa là đường bộ”.
4. Xác định phương pháp dạy học địa lí theo tinh thần dạy học tích cực :
4.1 Phương pháp hình thành các biểu tượng Địa lí:
Ở lớp 5, phương pháp hình thành biểu tượng Địa lí tốt nhất là cho các em quan
sát đối tượng tại thực địa hoặc qua tranh ảnh, băng hình ...
Giáo viên tiến hành cụ thể theo các bước như sau:
Bước 1: Căn cứ vào mục tiêu bài học, giáo viên sẽ lựa chọn đối tượng quan sát,
phù hợp với trình độ học sinh và điều kiện địa phương.
Bước 2: Xác định mục đích quan sát.
Bước 3: Tổ chức hướng dẫn cho học sinh quan sát được về đối tượng. Sau đó giáo
viên cùng học sinh trao đổi thảo luận, xác định và hoàn thiện kết quả, nhằm giúp cho
các em có biểu tượng đúng về đối tượng
Ví dụ: Hình thành biểu tượng rừng rậm nhiệt đới và rừng ngập mặn cho học sinh
lớp 5 qua bài “Đất và rừng” (SGK/ 79). -
Đối tượng quan sát: tranh ảnh (hình 2, hình 3, trang 81/ SGK) lOMoAR cPSD| 60696302 -
Những đặc điểm của rừng rậm nhiệt đới và rừng ngập mặn mà học sinh có
thểquan sát từ tranh ảnh là:
+ Rừng rậm nhiệt đới: rừng có nhiều cây, có nhiều tầng, bậc.
+ Rừng ngập mặn: Cây mọc vượt lên mặt nước, cây có bộ rễ chùm nhô lên, chủ
yếu là một số loại cây như đước, vẹt, sú.
Hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh quan sát như sau:
Câu1: Nhận xét đặc điểm rừng rậm nhiệt đới và rừng ngập mặn.
Câu 2: Đánh dấu X vào ô trống trước những ý em cho là đúng:
Rừng rậm nhiệt đới là:
 Rừng chỉ có một loại cây.
 Rừng thưa, rụng lá về mùa khô.
 Rừng rậm, có nhiều loại cây, có nhiều tầng, xanh quanh năm. Rừng ngập mặn là:  Rừng thay lá.
 Rừng ở nơi đất thấp ven biển, có các loài cây ưa mặn: đước, vẹt, sú,
 Rừng gồm các loài cây có lá nhỏ, nhọn như thông, tùng.
Câu 3: Chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc đơn điền vào chỗ chấm :
- Vùng phân bố của rừng rậm nhiệt đới là ........................ (đồi núi, ven biển) - Vùng
phân bố của rừng ngập mặn là ...........................(đồi núi, ven biển nơi có thủy triều lên xuống hàng ngày).
4.2 Phương pháp hình thành khái niệm Địa lí:
- Hình thành khái niệm Địa lí chung tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Hình thành những biểu tượng đúng bằng cách cho học sinh quan sát các
đối tượng định hình thành khái niệm đồng thời tìm hiểu những hiểu biết sẵn có của
học sinh về các đối tượng quan sát.
Bước 2: Đặt câu hỏi hoặc nêu tình huống có vấn đề để học sinh tìm ra những dấu
hiệu chung, bản chất của đối tượng.
Bước 3: Cho học sinh đối chiếu, so sánh các đối tượng cùng loại để lĩnh hội đầy
đủ và vững chắc các dấu hiệu chung bản chất của khái niệm.
Bước 4: Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả.
- Hình thành khái niệm Địa lí riêng: là hình thành khái niệm chỉ những sự vật vàhiện
tượng Địa lí riêng biệt cụ thể. Mỗi khái niệm Địa lí riêng chỉ liên quan đến một đối
tượng và phản ánh đặc điểm riêng của nó. VD: sông Hồng, nhà máy thủy điện Y-a- ly…
- Hình thành khái niệm địa lí tập hợp có thể được tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Giáo viên cần:
+ Xác định những dấu hiệu chung của đối tượng ở khu vực.
+ Lựa chọn nguồn tri thức có liên quan đến đối tượng.
Trên cơ sở đó, xem xét những dấu hiệu nào của đối tượng có thể tổ chức cho học
sinh tìm tòi,phát hiện, những dấu hiệu nào giáo viên phải cung cấp cho học sinh. lOMoAR cPSD| 60696302
Bước 2: Tùy theo trình độ nhận thức của học sinh, giáo viên soạn một hệ thống
câu hỏi, bài tập nhằm hướng dẫn học sinh làm việc với các nguồn tri thức đã lựa chọn
để phát hiện ra dấu hiệu của đối tượng.
Bước 3: Tổ chức cho học sinh làm việc với các nguồn tri thức theo hệ thống câu
hỏi, bài tập đã chuẩn bị trước (theo hình thức cá nhân, nhóm, cả lớp tùy thuộc vào
nội dung), để phát hiện ra dấu hiệu của đối tượng.
Bước 4: Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả phát hiện dấu hiệu của đối tượng
thông qua các nguồn tri thức. Trên cơ sở đó giáo viên bổ sung những dấu hiệu mà
học sinh không thể tự tìm ra được bằng lời mô tả sinh động của mình nhằm hoàn
thiện khái niệm cho học sinh và yêu cầu học sinh nêu khái niệm. Ví dụ:
Hình thành khái niệm: “Sông ngòi Việt Nam” (Bài 4 Sông Ngòi,trang 74/SGK)
Vì học sinh đã hiểu sơ lược thế nào là sông ngòi ở lớp 3 nên khái niệm sông ngòi
Việt Nam có thể được hình thành bằng cách bổ sung thêm những đặc điểm như sau:
Hướng dẫn của giáo viên
Kết quả tự phát hiện tri thức của HS
- GV yêu cầu HS làm việc theo cặp với lược đồ (hình Sông ngòi nước ta dày đặc,
1) để nhận xét về mạng lưới sông ngòi nước ta (số phân bố rộng khắp trên cả nước, lượng, phân bố, ...) ít sông lớn
GV yêu cầu HS làm việc theo nhóm với ảnh (hình 2,3) Sông ngòi nước ta có lượng
để nhận xét về lượng nước sông trong mùa lũ và mùa nước thay đổi theo mùa. cạn. Làm việc cả lớp
Sông ngòi nước ta có chứa
+ GV khai thác vốn hiểu biết của HS hoặc cho xem nhiều phù sa.
băng để các em nhận xét được nước sông vào mùa lũ rất đục
+ Từ đó GV nói nước sông đục vì chứa nhiều phù sa
- Từ kết quả tìm tòi trên, học sinh có thể nêu khái niệm về sông ngòi Việt Nam như
sau: sông ngòi Việt Nam dày đặc, phân bố rộng khắp trên cả nước nhưng ít sông lớn,
sông của nước ta có lượng nước thay đổi theo mùa và có nhiều phù sa.
Sau khi trang bị cho học sinh kĩ năng sử dụng bản đồ, quả địa cầu cũng như cách
thực hành trên bản đồ, bảng số liệu, biểu đồ và xác định các phương pháp dạy học,
tôi tiến hành các bước tiếp theo: Cách tổ chức lớp học.
5. Hình thức tổ chức dạy học theo hướng tích cực:
Như chúng ta đã biết, với phương pháp dạy học truyền thống thì hình thức tổ chức
dạy học cả lớp là phổ biến. Còn với phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi học sinh
phải làm việc nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn thảo luận nhiều hơn thì giáo viên cần tổ
chức linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong một tiết học như: dạy học cá nhân, dạy
học theo nhóm, và dạy học toàn lớp,…
5.1. Hình thức tổ chức dạy học cá nhân: lOMoAR cPSD| 60696302
Giáo viên nên tổ chức cho học sinh làm việc theo phiếu học tập, tạo điều kiện để
mỗi học sinh tự suy nghĩ, tìm tòi, thể hiện tài năng, sở trường của mình. Học tập cá
nhân còn được tiến hành qua các hoạt động độc lập khác như viết, vẽ, sưu tầm tranh ảnh… Ví dụ:
Khi dạy bài 5: Vùng biển nước ta (SGK/ 77)
Tôi cho học sinh làm việc cá nhân ở nội dung tìm hiểu “đặc điểm của vùng biển nước ta” như sau: PHIẾU BÀI TẬP:
Họ và tên……………………………………………….Lớp: …
Em hãy đọc SGK và hoàn thành vào bảng sau:
Đặc điểm của vùng biển nước ta
Ảnh hưởng của biển đối
với đời sống và sản xuất

Ở vùng biển nước ta, nước không bao giờ đóng băng.
Miền Bắc và miền Trung hay có bão.
Hằng ngày, nước biển có lúc dâng lên, có lúc hạ xuống.
Sau thời gian làm việc, giáo viên kiểm tra kết quả, thu phiếu bài tập, nhận xét và
chốt lại ý kiến đúng.
5.2. Hình thức tổ chức dạy học cả lớp:
Hình thức tổ chức dạy học này thường được dùng phổ biến trong các trường hợp
như: kiểm tra, đặt vấn đề vào bài mới, hướng dẫn cách học ở lớp và ở nhà. Hoặc
giảng giải và minh họa những kiến thức mà học sinh không có khả năng tự học; thông
báo, giao và giải thích nhiệm vụ học tập cho cá nhân, nhóm, lớp.
5.3. Hình thức tổ chức dạy học theo nhóm:
Đây là một phương pháp động viên được nhiều học sinh tham gia ý kiến, không
chỉ rèn luyện cho học sinh ý thức trách nhiệm trước tập thể, thói quen bạo dạn hoạt
bát mà còn có điều kiện bộc lộ khả năng nhận thức của bản thân mình. Người giáo
viên cần xác định rõ ý nghĩa và tác dụng hình thức dạy học theo nhóm.
Ý nghĩa của hình thức dạy học theo nhóm:
Dạy học theo nhóm nhằm khai thác trí tuệ của tập thể và cũng là một hình thức
rèn luyện học sinh thông qua tập thể.
Học sinh được tổ chức trao đổi những điều hiểu biết của mình và đối chiếu với sự
hiểu biết của bạn nên việc học tập sẽ đem lại hiệu quả cao hơn.
Tác dụng của hình thức dạy học theo nhóm: -
Học sinh biết cách trình bày ý kiến của mình đối với người khác. -
Các em biết nghe và lựa chọn để tiếp nhận hiểu biết của bạn để bổ sung
vàovốn hiểu biết của mình. Thông qua thảo luận, nâng cao được năng lực của cá
nhân. Học sinh có điều kiện tập dược cách thức chỉ huy người khác.Việc học theo lOMoAR cPSD| 60696302
nhóm còn có tác dụng xử lí trí tuệ tập thể theo phương châm: “Một cây làm chẳng
nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.

Tác dụng của hình thức học nhóm rất cao nhưng tổ chức như thế nào để đem lại
hiệu quả đó là vấn đề cần quan tâm. Vì vậy khi tổ chức hình thức dạy học này cũng
khá công phu, đòi hỏi giáo viên có sự chuẩn bị bài thật chu đáo, tiến hành một cách có khoa học.
Sự chuẩn bị bài ở nhà:
Đối với giáo viên:
Nghiên cứu bài dạy và soạn bài:
Muốn có bài dạy tốt giáo viên cần có sự nghiên cứu bài dạy một cách chu đáo để
thấy được mục đích bài dạy là gì? Từ đó chọn hình thức tổ chức dạy học cho phù
hợp. Khi soạn bài, giáo viên cần xác định được vấn đề, cách giải quyết vấn đề và dự
kiến các tình huống có thể xảy ra để giải đáp cho học sinh.
Khi soạn bài giáo viên cần thể hiện rõ trên giáo án mục đích, yêu cầu bài dạy, các
phương tiện và các bước trên lớp. Nội dung bài soạn được chia theo nội dung, phương pháp rõ ràng.
Chuẩn bị đồ dùng dạy học:
Để có tiết dạy tốt, ngoài việc soạn bài giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo về các
đồ dùng dạy học phục vụ cho bài dạy như bản đồ, lược đồ, quả địa cầu, phiếu bài tập,
phiếu giao việc. Đối với bản đồ, lược đồ thì phải bảo đảm yêu cầu sau:
+ Bản đồ (hoặc lược đồ) đưa ra phải thực sự mẫu mực đạt yêu cầu chính xác (vì
nhiều lược đồ giáo viên tự vẽ lấy) và to, rõ để mọi đối tượng học sinh đều quan sát
được, đồng thời phải đẹp (có màu sắc) để gây ấn tượng cho học sinh.
+ Giáo viên phải nghiên cứu kĩ bản đồ đưa ra, tập trình bày trước ở nhà để khi
trình bày trước học sinh được mạch lạc hơn, chính xác và lôi cuốn người nghe.
+ Đối với quả địa cầu: Giáo viên cần nghiên cứu kĩ hơn vì muốn tìm vị trí các
nước (hay một đối tượng địa lí nào) trên quả địa cầu khó hơn nhiều so với trên bản đồ (lược đồ).
Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài:
Vào cuối tiết học (phần hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà) tôi giao phiếu học
tập cho từng nhóm. Trong phiếu ghi cụ thể các câu hỏi thảo luận, dụng cụ, tranh ảnh
... cần có để học bài sau.
Để giúp cho học sinh có nhiều đồ dùng học tập và có phong trào thi đua với nhau,
tôi phát động cho học sinh thi đua vẽ lược đồ, sưu tầm tranh ảnh về việc trồng rừng,
tranh ảnh về biển, bờ biển, nơi nghỉ mát, tranh ảnh về các làng nghề thủ công như
dệt thổ cẩm, đồ gốm, dệt chiếu. Tranh ảnh về các vùng trồng lúa, cây công nghiệp,
cây ăn quả, tranh ảnh về đàn gia súc, gia cầm, nuôi tôm đánh bắt hải sản.
Nhờ vậy mà các em đã vẽ được nhiều lược đồ đẹp, sưu tầm được nhiều tranh ảnh,
làm cho các em ngày càng yêu thích môn học. Ví dụ:
Để học bài “Công nghiệp” tôi hướng dẫn mỗi nhóm HS chuẩn bị các yêu cầu sau
- Nghiên cứu, quan sát bản đồ Hành chính Việt Nam lOMoAR cPSD| 60696302
- Sưu tầm tranh ảnh về một số ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và sản phẩmcủa chúng.
Đồng thời các nhóm tìm hiểu:
Nhóm1,2: - Tìm hiểu và kể tên các ngành công nghiệp của nước ta.
- Kể tên các sản phẩm của một số ngành công nghiệp - Kể tên một số
sản phẩm công nghiệp xuất khẩu. Nhóm 3,4:
- Nêu đặc điểm của nghề thủ công ở nước ta .
- Kể một số nghề thủ công nổi tiếng mà em biết.
- Ở địa phương ta có những nghề thủ công nào?
Đối với học sinh:
Ở nhà các em phải tìm hiểu bài theo yêu cầu của phiếu giao việc như kiến thức,
tranh ảnh, dụng cụ cần thiết cho bài học. Có như vậy thì vào tiết học mới các em mới
học tốt được. Nếu các em chỉ ỷ lại, trông chờ vào bài giảng của giáo viên trên lớp thì
sự tiếp thu của các em sẽ có phần hạn chế. Vì vậy giáo viên cần động viên các em
chuẩn bị tốt khâu chuẩn bị bài ở nhà.
Cách tổ chức ở lớp:
Đối với học sinh:
Trên cơ sở học sinh giữ vai trò tích cực, chủ động tham gia thảo luận và học hỏi
ý kiến lẫn nhau để tìm ra kiến thức. Cho nên việc phân chia nhóm cũng tính dến các
đối tượng trong lớp. Tùy theo nội dung bài học và số lượng đồ dùng dạy học chuẩn
bị được, giáo viên quyết định số học sinh ở mỗi nhóm. Có thể chia nhóm theo từng
trình độ, hoặc nhóm hỗn hợp có đủ trình độ, nhóm theo sở trường, nhóm ngẫu nhiên...
Khi phân nhóm giáo viên nhớ phân luôn nhóm trưởng và thư kí. Không nên cố định
các nhóm cũng như vai trò của từng thành viên.
Tôi luôn luân phiên học sinh làm nhóm trưởng, thư kí để tạo cho các em có lòng
tin ở bản thân mình, đồng thời giúp các em biết xử lí tình huống nhanh nhẹn. Mặt
khác giúp các em có tính nhút nhát, học sinh tiếp thu chậm, có điều kiện phát biểu ý
kiến của mình và dần dần các em mạnh dạn hơn.Những trường hợp này giáo viên
cần động viên giúp đỡ và khen ngợi kịp thời.
Đối với giáo viên:
Khi cho học sinh thảo luận nhóm, cần tạo cho các nhóm sinh hoạt thảo luận sinh
động, có nội dung sâu sắc, tránh việc chỉ trình bày theo hình thức. Muốn vậy người
giáo viên cần theo dõi sát sao các nhóm thảo luận để kịp thời nhắc nhở những em
thiếu tập trung vào việc thảo luận nhóm.
Ở lớp, khi giao việc cho các nhóm giáo viên cần chú ý đến: nội dung phiếu giao
việc, phiếu bài tập phải rõ, gọn đảm bảo tính vừa sức và phù hợp với thời gian thảo luận.
Khi học sinh phát biểu tôi luôn luôn tôn trọng ý kiến của học sinh đồng thời tôi
khuyến khích và tạo điều kiện cho các em nêu câu hỏi với bạn hoặc với cô giáo. Cả
lớp phát biểu ý kiến, bàn bạc đúng sai một cách sôi nổi. Sau đó giáo viên tổng kết
các ý kiến rồi đưa ra kết luận và tôi cũng không quên tuyên dương các ý kiến hay.
Chính những điều đó giúp các em phát huy tính tích cực của mình. lOMoAR cPSD| 60696302
Như vậy học theo nhóm sẽ tạo bầu không khí học tập sôi nổi. Học tập có tổ chức,
có trách nhiệm giữa các thành viên trong nhóm sẽ tạo được không khí thi đua lành
mạnh bổ ích. Với cách học này, mỗi học sinh được khuyến khích, phát huy mọi khả
năng cá nhân qua quan sát, nhận xét, phát biểu ý kiến một cách chủ động.
Giáo viên không nên để lớp quá ồn ào, mất trật tự (làm ảnh hưởng đến việc học
tập của các lớp khác) và cũng không nên quá gò bó (hạn chế đến sự trao đổi ý kiến
của học sinh), bắt buộc học sinh phải im lặng tuyệt đối, phải chấp nhận tiếng ồn trong
phạm vi cho phép để đảm bảo kết quả học tập gây hứng thú sôi nổi. Giáo viên cần
theo dõi quan tâm đến những học sinh dân tộc thiểu số. Khi học sinh phát biểu giáo
viên cũng cần rèn luyện cách nói năng ân cần, lịch sự và sát với nội dung câu hỏi.
6. Kết hợp với trò chơi học tập:
Đối với học sinh tiểu học, môi trường sẽ tác động đến sự nhận thức của các em
rất nhiều. Các em vui vẻ, hứng thú sẽ tiếp thu bài nhanh hơn. Chính vì vậy mà cần
tạo ra một không khí vui vẻ ngay từ đầu tiết học bằng những trò chơi khởi động (hoặc
giới thiệu tranh ảnh). Qua trò chơi đơn giản ngắn gọn đó, hay những bức tranh đẹp
gây ấn tượng, giúp các em hưng phấn trong học tập, thích đến trường hơn, đến lớp hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài “Khí hậu” tôi củng cố bằng hình thức trắc nghiệm sau : Đánh
dấu X vào ô trống trước câu trả lời đúng nhất. a/ Nước ta có khí hậu
b/ Đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa là :  Ôn dới
Nhiệt độ cao quanh năm.  Hàn đới
Nhiệt độ cao, gió và mưa thay đổi theo mùa   Nhiệt đới gió mùa Một năm chia làm 4 mùa.
Giáo viên viết sẵn vào 2 bảng phụ, học sinh cử đại diện 2 đội lên thi đua đánh dấu
X vào ô trống. Cả lớp nhận xét tuyên dương.
Ví dụ: Khi dạy bài “Dân số nước ta” tôi củng cố bằng cách xác lập mối quan hệ sau:
Hãy điền nhanh mũi tên và các từ còn thiếu vào sơ đồ sau Thiếu ăn Thiếu ..mặc. Dân số tăng nhanh Hậu quả Thiếu ..ở..
Thiếu .học hành..
(các mũi tên và chữ in nghiêng là học sinh điền)
Khi học sinh trả lời đúng giáo viên cần động viên khen ngợi kịp thời để tạo sự hưng phấn cho các em.
Như vậy từ cách vào bài, tiến trình bài dạy và cách kết thúc đều hướng học sinh
tập trung vào học sinh. Ngay từ đầu học sinh đã có cảm nhận yêu thích môn học.
Trong suốt tiết học các em được tham gia đóng góp ý kiến xây dựng và rút ra kiến
thức. Cuối tiết học các em được củng cố bằng các trò chơi học tập vui và bổ ích.
Chính những điều đó đã giúp các em học tốt phân môn Địa lí này. Không những thế
mà các em có được ý thức học tập các môn khác như đi học chuyên cần hơn, nề nếp
hơn, ... hình thành ban đầu một lề lối, nhân cách sống. lOMoAR cPSD| 60696302
Song song với những biện pháp trên, trong những bài dạy tôi thường liên hệ thực
tế để giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài “Giao thông vận tải” tôi thực hiện việc lồng ghép và đưa vào
giáo dục học sinh việc thực hiện an toàn giao thông. Từ việc học sinh nắm được nước
ta có mạng lưới giao thông dày đặc tôi giúp học sinh rèn kỹ năng phân tích phán đoán
các tình huống để phòng tránh các tai nạn giao thông khi đi học. Có khả năng cam
kết thực hiện đúng luật giao thông khi tham gia giao thông đường bộ.
IV.HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Qua thực tế giảng dạy áp dụng những biện pháp nêu trên, tôi thấy sau một thời
gian học tập các em có những tiến bộ rõ rệt. Nhiều em vươn lên cả về mặt học tập
lẫn tác phong đạo đức.
Cuối năm học 2015-2016, tôi đã tiến hành kiểm tra chất lượng học sinh kết quả như sau: Tổng số HS Hoàn thành Chưa hoàn thành 25em 25 em (100%) 0
Từ kết quả giảng dạy nêu trên tôi tự rút ra cho mình bài học: Muốn phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trước hết người giáo viên phải tích cực
trong soạn giảng, tìm kiếm thông tin, tranh ảnh, tích cực trong việc lựa chọn phương
pháp, hình thức tổ chức cho phù hợp. Trong dạy học, giáo viên luôn luôn khơi gợi ở
học sinh trí tư duy, lòng yêu thích khám phá thiên nhiên, đất nước, con người. Giáo
viên cần nắm vững phương pháp bộ môn, gần gũi yêu thương học sinh, tạo cho các
em niềm tin vững vàng trong học tập cũng như mọi hoạt động khác. Luôn luôn tôn
trọng ý kiến của học sinh, phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập là điều
cần thiết. Giáo viên dạy bằng phương pháp tích cực lấy học sinh làm trung tâm. Giáo
viên nhiệt tình, kiên trì, chịu khó chuẩn bị đầy đủ các phương tiện dạy học (giáo án,
đồ dùng dạy học, hệ thống câu hỏi gợi mở, ...). “Yêu nghề, mến trẻ” là động lực thúc
đẩy quá trình dạy học. Luôn tạo sự phối hợp nhịp nhàng đồng bộ trong hoạt động của
thầy và trò, tránh nói nhiều, làm thay cho học sinh. Biết kết hợp nhuần nhuyễn nhiều
phương pháp dạy học để đạt kết quả cao nhất.
Dạy tốt phân môn Địa lí là chúng ta đã góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp và
đạt mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh Tiểu học.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực (hướng tập trung vào học
sinh) là yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi giáo viên khi lên lớp. Việc rèn luyện
phương pháp học tập (dạy cách học) cho học sinh không chỉ là một phương tiện nâng
cao hiệu quả học tập mà còn là mục tiêu dạy học, được quan tâm ngay từ bậc Tiểu
học. Như vậy, dạy học không chỉ là cung cấp tri thức mà phải hướng tới hành động.
Người thầy phải làm thế nào để trong mỗi giờ học học sinh hoạt động nhiều hơn, suy
nghĩ nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, thực hành nhiều hơn. Dạy học phát huy tính