Một số vấn đề trong triết học - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
2) Phương diện nhận thức luận.Phương diện bản thể luận đặt ra và trả lời các câu hỏi: Thế giới được hìnhthành từ yếu tố nào, tồn tại hay tư duy, tự nhiên hay tinh thần? Nếu tồn tại sinh ravà quyết định tư duy thì quá trình đó diễn ra như thế nào? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Chương I.
1. Vấn đề cơ bản của triết học, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
tối cao của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề mối quan hệ
giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và tự nhiên”(24, tr.403). Vấn đề này đã hình
thành một cách tự phát “từ thời hết sức xa xưa, khi con người hoàn toàn chưa biết
về cấu trúc thân thể của họ và chưa biết giải thích những điều thấy trong giấc
mơ, họ đã đi đến cho quan niệm rằng tư duy và cảm giác của họ không phải là hoạt
động của chính thân thể họ mà là hoạt động của một linh hồn đặc biệt nào đó cư
trú trong thân thể và rời bỏ thân thể khi họ chết ngay từ thuở đó, họ đã phải suy nghĩ về
quan hệ giữa linh hồn ấy với thế giới bên ngoài” (24, tr.403). Khi phân
tích luận điểm này, các nhà triết học Mác-xít thống nhất quan điểm cho rằng, vấn
đề cơ bản của triết học bao gồm hai phương diện: 1) Phương diện bản thể luận và
2) Phương diện nhận thức luận.
Phương diện bản thể luận đặt ra và trả lời các câu hỏi: Thế giới được hình
thành từ yếu tố nào, tồn tại hay tư duy, tự nhiên hay tinh thần? Nếu tồn tại sinh ra
và quyết định tư duy thì quá trình đó diễn ra như thế nào? Và ngược lại, nếu tư duy
sinh ra và quyết định tồn tại thì quá trình đó là thế nào? Tinh thần con người là gì?
Tinh thần đó có sẵn trong đầu óc con người hay từ đâu tới? Tinh thần có quan hệ
với thế giới bên ngoài như thế nào? Phương diện này có thể triển khai thành một
hệ vấn đề mang tính phái sinh như: 1) Quan hệ giữa vật chất (bộ óc người) và ý
thức (sản phẩm bộ óc người), có phải vật chất quyết định ý thức hay ngược lại?. 2)
Quan hệ giữa yếu tố sinh lý và tâm lý của nó? 3) Quan hệ giữa đời sống vật chất
và đời sống tinh thần? 4) Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa đời sống và ngôn ngữ?
Phương diện nhận thức luận đặt ra và trả lời những câu hỏi: “Những suy
nghĩ của chúng ta về thế giới xung quanh ta có quan hệ như thế nào với bản thân
thế giới ấy? Tư duy của chúng ta có thể nhận thức được thế giới hiện thực không?
Trong các quan niệm và khái niệm của chúng ta về thế giới hiện thực, chúng ta có
thể phản ánh được một hình ảnh đúng đắn của hiện thực không?” (24, tr.405). Bản
chất của nhận thức là gì? Quá trình nhận thức diễn ra như thế nào? Con người có
khả năng nhận thức đúng vạn vật trong thế giới hay không? Quan hệ giữa chủ thể
và khách thể với các hình thức nhận thức như thế nào?
Hai phương diện quan hệ biện chứng với nhau, giải quyết đúng vấn đề bản
thể luận sẽ cho cơ sở khoa học để giải quyết đúng vấn đề nhận thức luận và khi có quan điểm
đúng về nhận thức luận sẽ có cơ sở phương pháp luận để lý giải khoa học những vấn đề bản thể luận.
Nhất nguyên luận hay chủ nghĩa nhất nguyên là khuynh hướng công nhận thế
giới hình thành chỉ từ một nguồn gốc, hoặc vật chất hoặc tinh thần. Khuynh hướng
này chia thành hai trường phái đối lập là duy vật và duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật quan niệm vật chất có trước, thế giới hữu cơ sinh ra từ thế
giới vô cơ. Thế giới hữu cơ có quá trình tiến hóa lâu dài, con người là sản phẩm
tiến hóa từ loài Linh trưởng thông qua quá trình lao động. Tư duy, ý thức là sản
phẩm của bộ óc con người - một tổ chức vật chất có cấu trúc đặc biệt.
Theo những người duy vật, tinh thần không phải từ cõi siêu nhiên thần bí nào
đó nhập vào thể xác mà là sản phẩm của bộ óc người. Tinh thần tồn tại trong bộ óc
và thể hiện thông qua sự hoạt động của bộ óc. Với tư cách là một cơ quan nhận
thức, bộ óc người chuyển hóa các dữ liệu được cập nhật từ thế giới bên ngoài
thông qua các giác quan nhận biết thành những yếu tố tinh thần có tính trật tự được
sắp xếp và phân loại (thành các khái niệm, phạm trù, quy luật, vv.). Ăngghen
khẳng định: “Nếu người ta đặt câu hỏi rằng, tư duy và ý thức là gì, chúng từ đâu
đến, thì người ta sẽ thấy rằng, chúng là sản vật của bộ óc con người và bản thân
con người là sản vật của giới tự nhiên” (23, tr.55)
Chủ nghĩa duy vật phát triển qua các hình thức lịch sử như: (1) Chủ nghĩa
duy vật mộc mạc - ngây thơ thời cổ đại khẳng định khởi nguyên thế giới là các
yếu tố vật chất hữu hình như đất, nước, lửa, không khí. (2) Chủ nghĩa duy vật máy
móc - siêu hình thế kỷ XVI - XVIII nhìn nhận thế giới trong trạng thái tĩnh tại,
không có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau, nếu có vận động thì do sự thúc đẩy từ
bên ngoài. (3) Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác- xít giải thích thế giới trên nền
tảng duy vật và phép biện chứng, nhìn nhận thế giới trong trạng thái vận động
không ngừng, vận động xuất phát từ mâu thuẫn nội tại.
Chủ nghĩa duy tâm quan niệm tinh thần có trước sinh ra và quyết định vật
chất. Khi giải thích quá trình tinh thần sinh ra vật chất, chủ nghĩa duy tâm chia
thành hai hình thức là duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan.
2. Điều kiện ra đời của triết học Mác-Lênin. CÒN NHA
Về phương diện xã hội, chủ nghĩa tư bản loại bỏ những tập tục lạc hậu, lối
sống lạc hậu phong kiến xây dựng một lối sống công nghiệp hiện đại, đẩy mạnh
giáo dục, phát triển khoa học công nghệ, nâng cao trình độ dân trí, xây dựng các
trường đại học, viện nghiên cứu.
Về phương diện chính trị, chủ nghĩa tư bản đã xóa bỏ chế độ quân chủ chuyên
chế, xây dựng nền dân chủ, tôn trọng nhân quyền, bảo đảm quyền công dân và các quyền tự do cá nhân.
Bên cạnh những thành tựu, chủ nghĩa tư bản có những mặt trái: 1) Không
những không xóa bỏ được áp bức bóc lột mà còn làm cho bóc lột trở nên nặng nề
hơn. 2) Sản sinh ra giai cấp công nhân hiện đại và bóc lột sức lao động của giai
cấp này - đây là nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giai cấp, dẫn đến phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân, tâm điểm là ở Lion (Pháp), Seledi (Đức), phong
trào hiến chương (Anh). Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thường dẫn
đến thất bại vì thiếu đường lối lý luận cách mạng dẫn đường. Trước thực tế đó,
Mác và Ăngghen sáng lập học thuyết đấu tranh giai cấp - hạt nhân của chủ nghĩa Mác. Chương II:
3. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
chất: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất
, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi
sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí giản đơn
cho đến tư duy” (23,tr.519). Theo định nghĩa này, vận động vật chất phải được
hiểu bao quát, trừu tượng chứ không đơn giản hoá và cụ thể hoá thành một dạng
chuyển động cơ học như trước đây.
Vật chất tồn tại bằng cách vận động và chỉ thông qua vận động vật chất mới
biểu hiện sự tồn tại và các thuộc tính cơ bản.
Vật chất và vận động thống nhất, không tách rời nhau. Vì vận động bao giờ
cũng là vận động của một dạng vật chất nào đó, không có vận động tách rời vật
chất và không có dạng vật chất nào tồn tại mà lại không thể hiện thông vận động.
điểm này đã chống lại quan niệm duy tâm và tôn giáo cho rằng có vận động
phi vật chất, có vận động của yếu tố tinh thần.
Bất cứ sự vật nào, ở đâu và lúc nào cũng trong trạng thái vận động, từ các hạt
nhỏ bé trong thế giới vi mô đến các thiên thể trong thế giới vĩ mô, từ giới vô sinh
đến hữu sinh, từ tự nhiên đến xã hội. Ăngghen viết: “Các hình thức và các dạng
khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động, thuộc tính
của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động; về một vật thể không vận động thì không có
gì mà nói cả”(23, tr.743).
Vận động của vật chất có được là nhờ mâu thuẫn giữa các yếu tố, bộ phận, xu
hướng đối lập nhau trong sự vật, do vậy, có thể nói vận động chính là tự thân vận động.
Các hình thức cơ bản của vận động. Vận động của vật chất diễn ra phong
phú và đa dạng phản ánh sự phong phú đa dạng của thế giới, song để nhận thức thế
giới chính xác, chủ nghĩa duy vật biện chứng quy vận động vật chất về 5 hình thức cơ bản:
(1) Vận động cơ học là hình thức vận động thấp, đơn giản nhất, dùng để khái
quát, biểu thị sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
(2) Vận động vật lý là hình thức dùng để khái quát sự dao động phân tử dưới
hình thức nhiệt, sự chuyển động các hạt cơ bản, các điện tử, nguyên tử, các quá
trình nhiệt điện, quang điện, ánh sáng, từ trường, v.v..
(3) Vận động hoá học là vận động của các nguyên tử, phân tử, các quá trình
hoá hợp, phân giải các chất tạo thành các nguyên tố hoá học mới (thể hiện qua các phản ứng hóa học)
(4) Vận động sinh học gắn liền với giới hữu sinh, dùng để khái quát sự trao
đổi chất trong cơ thể sinh vật, sự trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường, sự tiến
hóa và thoái hóa các loài, quy luật đấu tranh sinh tồn, chọn lọc tự nhiên, di truyền, biến dị.
(5) Vận động xã hội là các sự biến diễn ra trong đời sống như sản xuất vật
chất, đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, sự thay thế chế độ xã hội cũ bằng chế
độ mới, vv. Vận động xã hội xuất phát từ các mâu thuẫn xã hội và diễn ra một
cách tất yếu - khách quan thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Giữa các hình thức vận động có sự chuyển hoá lẫn nhau; hình thức vận động
thấp làm tiền đề cho vận động cao hơn, hình thức vận động cao bao hàm hình thức vận động thấp.
- Vận động và đứng im. Vận động là tuyệt đối, đứng im là sự biểu hiện vận
động trong thăng bằng, tức vận động trong sự ổn định tương đối của sự vật, khi sự
vật chưa biến thành cái khác. Nói cách khác, đứng im là tạm thời, tương đối, làm
cơ sở tồn tại cho các sự vật.
Vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn, bởi vì vật chất không tự sinh ra và không
mất đi, chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác nên vận động cũng không thể mất
đi mà chỉ thay đổi hình thức. Hình thức này của vận động vật chất mất đi tất yếu sẽ
phát sinh hình thức khác. Theo Ăngghen, "vận động là cái không thể tạo ra và
cũng không thể tiêu diệt như bản thân vật chất, số lượng của vận động trong thế
giới bao giờ cũng vẫn như thế". Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
chứng minh vận động vật chất được bảo toàn cả về mặt lượng lẫn mặt chất.
1.4.2. Không gian và thời gian
- Khái niệm không gian và thời gian
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan đồng nhất không gian - thời gian với cảm giác
và trạng thái tâm lý của con người. Chủ nghĩa duy vật siêu hình đồng nhất không
gian với khối lượng vật thể, tách không gian - thời gian khỏi vật chất, coi không
gian như cái hộp trống rỗng trong đó chứa đầy vật chất.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít cho rằng, không gian là một khái niệm
dùng để biểu thị: 1) Sự cùng tồn tại và tách biệt giữa các sự vật. 2) Quy mô và mức
độ kết cấu của sự vật. 3) Vị trí và trật tự phân bố của sự vật trong thế giới và trong
một hệ thống vật chất. Còn thời gian là khái niệm phản ánh trạng thái (nhịp điệu)
không ngừng biến đổi, nhanh, chậm, kế tiếp nhau của mọi sự vật, hiện tượng, mọi
quá trình vật chất diễn ra trong vũ trụ. Thời gian phản ánh trình tự diễn biến của
các sự kiện cũng như trình tự xuất hiện, tồn tại và diệt vong của mọi quá trình vật
chất trong không gian. Do vậy không thể tách biệt không gian và thời gian thành
hai hiện tượng, trạng thái, quá trình độc lập.
Triết học Mác - Lênin khẳng định vận động vật chất không thể diễn ra ở đâu
khác ngoài trong không gian và theo thời gian. Không gian - thời gian - vật chất
tồn tại trong sự thống nhất. Không có vật chất tồn tại ngoài không gian, thời gian
và ngược lại, không có không gian, thời gian phi vật chất. Ăngghen viết: “Các
hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài không
gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian” (23, tr.78). Khi phê
phán quan niệm của Kant về tính tiên thiên của không gian và thời gian, quan niệm
của Ma-khơ về tính chủ quan của không gian và thời gian, Lênin viết: “Trong thế
giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không
thể vận động ở đâu khác ngoài trong không gian và theo thời gian” (8, tr.209)
- Các tính chất của không gian và thời gian
(1) Không gian và thời gian mang tính khách quan: Không gian và thời gian
là thuộc tính cố hữu của vật chất, tồn tại không tách rời nhau và không tách rời vật
chất, mối quan hệ nhân quả, phụ thuộc lẫn nhau giữa không gian - thời gian - vật
chất được Thuyết tương đối của Einstein chứng minh.
(2) Không gian và thời gian mang tĩnh vĩnh cửu, vô tận: Không gian và thời
gian là vô thuỷ vô chung, vô cùng vô tận, không có điểm bắt đầu và cũng không có
điểm tận cùng trong vũ trụ. Ăngghen viết: “Cái vĩnh cửu trong thời gian, cái vô tận
trong không gian - là ở chỗ, ở đây không có điểm tận cùng về một phía nào cả, cả
đằng trước lẫn đằng sau, cả ở trên lẫn dưới, cả ở bên phải lẫn bên trái” (23, tr.75).
(3) Tinh ba chiều của không gian và một chiều của thời gian: không gian có
tính ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao), còn thời gian chỉ có một chiều (từ
quá khứ qua hiện tại tới tương lai). CÒN NHA
4. Nguồn gốc và bản chất của ý thức.
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức
Ý thức là gì? Ý thức ra đời như thế nào? Đó là những câu hỏi lớn của triết học
với nhiều phương án trả lời khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan tuyệt đối hóa ý thức, coi đó như một thực
thể siêu tự nhiên (Thần thánh) tồn tại độc lập, sinh ra và quyết định vật chất.
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan đồng nhất ý thức với vật chất, coi vật chất tồn
tại lệ thuộc vào sự cảm nhận (cảm giác, ý thức, tư duy) của con người.
Các nhà thần học Kitô giáo coi con người như là sản phẩm sáng tạo của
Chúa trời, ý thức là một đặc ân mà Chúa ban tặng cho con người với tính cách một
phương tiện (trí khôn) để quản lý muôn loài mà chúa đã sinh ra trước nó.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình coi ý thức như là sản phẩm phái sinh trực tiếp
của vật chất, tương tự như các hiện tượng tự nhiên: mật được tiết từ gan, rượu cất
ra từ gạo, hơi bốc từ nước, lửa đốt lên từ củi, khói sinh ra từ lửa...vv.
Những quan niệm duy tâm, tôn giáo, duy vật siêu hình như đã nói trên đều bị
khoa học phủ nhận bằng thực nghiệm. Quan niệm triết học Mác-Lênin đem lại một
cái nhìn đúng đắn về nguồn gốc và bản chất của ý thức.
2.2. Bản chất của ý thức
2.2.1. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
- Mác và Ăngghen trong Hệ tư tưởng Đức, khẳng định “ý thức không bao giờ
có thể là cái gì khác hơn tồn tại được ý thức” (15, tr.37), ý thức là sự phản
ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo. Ý
thức không là cái gì khác hơn là toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong bộ óc
con người, ý thức có được nhờ sự tác động của thế giới khách quan vào bộ óc con
người, được bộ óc con người cải biến thành cái tinh thần. Mác viết: “Ý niệm chẳng
qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến
đi ở trong đó” (25, tr.35). Lênin khẳng định “cảm giác của chúng ta, ý thức của
chúng ta chỉ là hình ảnh của thế giới bên ngoài, và dĩ nhiên là nếu không có cái bị
phản ánh thì cũng không có cái phản ánh” (25, tr.35).
Ý thức cũng tồn tại nhưng chỉ tồn tại trong bộ óc con người, nó là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách vquan. Thế giới khách quan
là tính thứ nhất, ý thức là
tính thứ hai, thế giới khách quan là cái được phản ánh, ý thức là cái phản ánh; thế
giới khách quan quy định nội dung phản ánh của ý thức.
2.2.2. Ý thức phản ánh thế giới khách quan nhưng không phản ánh nguyên
xi, thụ động, mà phản ánh thông qua hoạt động sáng tạo của bộ óc con người.
Tính sáng tạo đó thể hiện trong 2 điểm sau:
Ý thức cải biến cải vật chất được di chuyển vào trong bộ óc con người thành
cải tinh thần - đó là các biểu tượng, khái niệm, phạm trù giúp con người nắm bắt
bản chất và qui luật vận động của đối tượng nhận thức, qua đó có khả năng tạo nên
“thiên nhiên thứ hai” thoả mãn nhu cầu đời sống. Đây chính là điểm khác biệt giữa
loài người và loài vật.
Để làm ra những công cụ lao động, tạo dựng những trang thiết bị phục vụ sản
xuất và đời sống thì trước hết con người phải thiết lập được mô hình trong đầu óc,
đây chính là điểm khác biệt giữa loài vật vô thức và con người có ý thức. Mác viết:
“Con nhện làm những động tác giống như động tác của người thợ dệt, và bằng
việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong làm cho một số nhà kiến trúc
phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay
từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong
giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây
dựng chúng trong đầu óc của mình rồi. Con người không chỉ làm biến đổi hình thái
những cái do tự nhiên cung cấp, con người cũng đồng thời thực hiện mục đích tự
giác của mình, mục đích ấy quyết định phương thức hoạt động của họ giống như
một quy luật và bắt ý chí của họ phải phục tùng nó” (25, tr.266).
- Trên cơ sở những tri thức đã có, ý thức tạo ra tri thức mới phản ánh đối
tượng, ý thức giúp con người tưởng tượng ra những cái không có trong thực tế,
nhờ vậy có thể dự báo những gì sắp diễn ra trong tương lai, tạo ra những lý thuyết khoa học.
2.2.3. Ý thức là một hiện tượng lịch sử - xã hội
Ý thức luôn là ý thức của những con người cụ thể sống trong những môi
trường lịch sử - xã hội nhất định. Mỗi cá nhân sống trong xã hội luôn chịu tác động cùng một lúc từ 2 phía:
- Từ phía lịch sử - đó là những giá trị nhân bản được kết tinh trong quá trình
phát triển của lịch sử nhân loại, là những nét đẹp của truyền thống dân tộc, truyền
thống cộng đồng và gia tộc, vv. Những giá trị này tác động hàng ngày, hàng giờ
lên đời sống mỗi con người, tạo nên áp lực tâm lý, làm cho suy nghĩ và lối sống
của mỗi cá nhân mang màu sắc truyền thống.
- Từ phía xã hội đương đại - đó là các quan hệ, qui luật và điều kiện kinh tế,
xã hội, đặc biệt là quan hệ sản xuất đang hiện hành. Các quy luật và quan hệ xã hội
này tác động lên cuộc sống mỗi người, tạo nên áp lực tâm lý buộc phải suy tư và
hành động phù hợp với điều kiện thực tế đương thời chứ không thể làm khác được.
Mác và Ăngghen viết: “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh
cũng tạo ra con người đến mức ấy...Ngay từ đầu ý thức đã là sản phẩm xã hội và
vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại” (15, tr.43,55). Tính xã hội của ý
thức là nhân tố cơ bản tạo nên bản chất con người, mà bản chất con người là “tổng
hoà của các mối quan hệ xã hội”.
5. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
3.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Xuất phát từ quan niệm thế giới thống nhất ở tính vật chất và tính tuyệt đối
của vận động vật chất, phép biện chứng duy vật mác - xít khẳng định vạn vật trong
thế giới không tồn tại một cách biệt lập, tách rời nhau mà có mối liên hệ tác động
qua lại lẫn nhau, theo nghĩa, làm tiền đề tồn tại cho nhau, nương tựa, chuyển hóa
lẫn nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nhau. Mối liên hệ như vậy của
vạn vật trong thế giới gọi là mối liên hệ phổ biến.
- Những đặc trưng cơ bản của mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng xuất phát từ bản tính nội tại của thế
giới, do mâu thuẫn bên trong các sự vật, hiện tượng quy định, do vậy mang tính
khách phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Tính khách quan. Mối liên hệ phổ biến là đặc tính vốn có của bản thân thế
giới, do vậy diễn ra một cách khách quan, độc lập đối với ý thức con người. Ví dụ, trời nắng
làm bốc hơi nước, hơi nước ngưng tụ đến một độ nhất định sẽ phát sinh
| mưa, mưa tác động đến sự sinh trưởng của thực vật. Nắm vững tính khách quan
của mối liên hệ phổ biến, con người sẽ nhận thức đúng, tác động hiệu quả đến sản
xuất và đời sống như đắp đập, khai mương, trong rừng, nuôi thủy - hải sản. Trong
quá khứ, do không nhận thức đúng mối quan hệ giữa tự nhiên và đời sống con
người nên con người đã khai thác tự nhiên một cách tùy tiện, dẫn đến tình trạng
cạn kiệt, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu.
Tinh phổ biến. Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng gọi là phổ biến vì tác
động rộng lớn trong mọi lĩnh vực:
Trong tự nhiên: Định luật vạn vật hấp dẫn của Niutơn chứng minh các thiên
thể trong hệ mặt trời chịu lực hấp dẫn của mặt trời và hấp dẫn lẫn nhau, vạn vật
trên trái đất chịu lực hấp dẫn của trái đất. Sinh lý học chứng minh nhịp điệu vũ trụ
(ngày, đêm, mùa) tác động lớn đến nhịp điệu sinh học, trong đó có con người. Để
bảo tồn sự sống, mọi sinh vật đều có đồng hồ sinh học để điều chỉnh các hành vi,
báo động có có nguy hiểm, thời điểm sinh nở. Sinh học phân tử chứng minh cấu trúc
gen ảnh hưởng quan trọng đến cấu trúc và chức năng cơ thể sinh vật. Hóa học
chứng minh các nguyên tử kết hợp theo nguyên tắc ái lực để tạo thành các nguyên
tố hóa học cơ bản ban đầu cho hình thành sự sống như H2O, CO2, O2, H2SO4.
Đời sống của mọi sinh vật là một chu trình liên hệ nhân quả, mọi sinh vật đều
tồn tại theo nguyên tắc cộng sinh, ký sinh. Động vật hít thở Ox thải khí CO2
ngược lại, thực vật hít thở CO2, thải khí O2, tạo thành một chu trình khép kín.
Trong xã hội: Xã hội là một hệ thống vật chất có tổ chức chặt chẽ, thể hiện
trong quan hệ hai chiều: 1) Liên hệ giữa xã hội và tự nhiên. Tự nhiên là một sinh
của xã hội, là nguồn của cải vô giá cho đời sống con người. Tự nhiên cung cấp
nguyên, nhiên vật liệu, đất đai, khoáng sản cho sản xuất và đời sống. 2) Mối liên
hệ giữa người và người giữa cá nhân và cộng đồng, cộng đồng và cộng đồng, giữa
kinh tế và chính trị, đạo đức.
Trong tư duy: Bản chất tư duy của loài người nói chung, mỗi con người nói
riêng là một quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, tiên
trình đó phụ thuộc vào sự phát triển của điều kiện sống. Trong một cá nhân, năng
lực nhận thức lý tính (trí tuệ) phụ thuộc vào năng lực nhận thức cảm tính (thể lực).
Tính đa dạng. Tính đa dạng của mối liên hệ do tính đa dạng của thế giới
quyết định. Vạn vật trong thế giới liên hệ với nhau dưới nhiều hình thức: Mối liên hệ bên trong
là liên hệ giữa các phần tử của một hệ thống. Ví dụ, sự
đồng hóa và dị hóa trong cơ thể sinh vật, quan hệ giữa các giai cấp trong một nhà nước.
Mối liên hệ bên ngoài là liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau. Ví
dụ, mối liên hệ giữa cơ thể sinh vật và môi trường sống, liên hệ giữa quốc gia này với quốc gia khác.
Mối liên hệ về mặt không gian là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng về
không gian. Ví dụ, mối liên hệ giữa trái đất và mặt trời, do trái đất ở cách mặt trời
một khoảng cách hợp lý nên mới có sự sống, còn các hành tinh khác nằm ở khoảng
cách hoặc quá gần, hoặc quá xa nên sự sống không thể hình thành.
Mối liên hệ về mặt thời gian, mọi sự vật, hiện tượng có một thời gian tồn tại
nhất định, trong tiến trình tồn tại đó, giữa các giai đoạn có mối liên hệ nhất định.
Ví dụ, đời sống của mỗi con người phân thành các giai đoạn như ấu thơ, niên
thiếu, thanh niên, trưởng thành, trung niên, già lão, giữa các giai đoạn đó có mối liên hệ nhân quả.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Qua việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, có thể rút ra kết luận
là: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng trong thế giới, phải dựa trên quan điểm toàn diện.
Khi xem xét các sự vật, hiện tượng phải dựa trên quan điểm toàn diện, vì:
Mỗi sự vật, hiện tượng được cấu thành từ nhiều bộ phận khác nhau, có nhiều mối
quan hệ với thế giới xung quanh, trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Quan điểm
toàn diện gắn liền với quan điểm xem xét khách quan và quan điểm thực tiễn, theo
đó muốn đánh giá đúng đối tượng phải có cái nhìn khách quan, phải căn cứ trên điều kiện thực tế.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi khi nghiên cứu đối tượng phải tuân thủ các yêu
cầu: (1) Nghiên cứu các yếu tố cấu thành đối tượng, tìm mối liên hệ bên trong và
bên ngoài của nó. (2) Cần xem xét đối tượng một cách bao quát từ nhiều chiều,
nhiều phía, nhiều góc độ và hoàn cảnh khác nhau. (3) Phải tìm hiểu mối
(trực tiếp, gián tiếp) giữa đối tượng với thế giới xung quanh môi trường tự nhiên,
quan hệ xã hội). (4) Không nên có tư tưởng giàn đều, mà cần làm nổi rõ một mặt,
một khía cạnh cần thiết nào đó của đối tượng cần thiết cho thực tiễn (nghề nghiệp).
(5) Nghiên cứu đối tượng phải vận dụng nhiều phương pháp khác nhau (biện
chứng, siêu hình, phân tích tổng hợp, thống kê, mô hình hóa, trừu tượng hóa, v.v)
(6) Khi giải quyết những vấn đề thực tiễn phải biết kết hợp nhiều biện pháp và
phương tiện khác nhau (bạo lực, đàm phán hòa bình) sử dụng nhiều lực lượng | khác nhau.
Quan điểm toàn diện giúp chúng ta tránh được những sai lầm: Tư tưởng
giàn đều, coi trọng các mặt, các yếu tố như nhau nên không làm nổi bật được mặt
các yếu tố chính của đối tượng. Tư tưởng phiến diện, đánh giá đối tượng chỉ dựa
trên một mặt nào đó, một mối quan hệ nào đó, rồi bơm to thổi phồng lên. Thuật
ngụy biện, lấy những mặt, những yếu tố không cơ bản thay cho mặt, yếu tố cơ bản,
lấy yếu tố ngẫu nhiên thay cho yếu tố tất nhiên. Quan điểm xa rời thực tiễn, nhận
thức đối tượng chỉ dựa trên lý luận, trên dư luận xã hội, theo những suy luận chủ
quan, cảm tính, tùy tiện.
- Sự vận dụng quan điểm toàn diện của Đảng ta
Trong hai cuộc kháng chiến Đảng ta vận dụng nhiều phương pháp đấu tranh
(vũ trang, đàm phán hòa bình, tranh thủ dư luận xã hội). Vận dụng nhiều thứ quân,
đánh địch trên mọi mặt trận, mọi vùng chiến lược, bằng nhiều thứ vũ khí khác nhau.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng chủ trương đổi mới toàn diện, đa phương
hóa, đa dạng hóa công tác ngoại giao. Vận dụng chính sách giáo dục toàn diện,
phát triển nhiều ngành khoa học công nghệ khác nhau, ưu tiên một số ngành khoa
học tự nhiên, nhưng cũng không xem nhẹ các ngành khoa học xã hội.
6. Nội dung cặp phạm trù Nguyên nhân và kết quả. Ý nghĩa phương pháp luận. Ví dụ vận dụng trong thực tiễn
3. 2. 2. Nguyên nhân và kết quả
- Khái niệm nguyên nhân và kết quả
Nhân quả là một trong những cặp phạm trù gây nhiều tranh luận trong lịch sử
triết học. Chủ nghĩa duy tâm khách quan thường giải thích quan hệ nhân quả dựa
trên thuyết Mục đích luận, theo đó có một nguyên nhân cuối cùng (thượng đế, quy
định sự vận hành của vạn vật. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi nhân quả là sự liên
tưởng của ý thức con người đối với các sự kiện diễn ra một cách nối tiếp liên tục
trong không - thời gian. Những quan niệm trên đều sai lầm, không nói lên tính
khách quan của cặp phạm trù nhân - quả. Triết học Mác-Lênin ra đời đã đem lại
cho nhận thức loài người quan niệm duy vật, khoa học về quan hệ nhân - quả.
7. Nội dung cặp phạm trù nội dung và hình thức. Ý nghĩa phương pháp luận. Ví dụ vận dụng trong thực tiễn
Theo triết học Mác - Lênin, nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động
| lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật,
| hiện tượng với nhau, nhằm gây nên những biến đổi. Ví dụ, sự tác động giữa dây
tóc và dòng điện là nguyên nhân làm bóng đèn sáng; sự tương tác giữa các yếu tố
| trong hạt thóc với đất, nước, độ ẩm, không khí là nguyên nhân làm cho hạt thóc nảy mầm.
Khi nghiên cứu phạm trù nguyên nhân, cần chú ý: 1) Nguyên nhân phải là sų quả,
tác động qua lại giữa các yếu tố tạo nên kết quả), không có sự tác động thì không
thể gọi là nguyên nhân. 2) Nguyên nhân khác với điều kiện. Điều kiện là những
yếu tố phụ trợ, là môi trường, chất xúc tác (bên ngoài) để các yếu tố nguyên nhân
(bên trong tác thành kết quả.
Căn cứ vào tính chất và vai trò của nguyên nhân trong việc tạo thành kết
phép biện chứng duy vật mác - xít phân nguyên nhân thành các dạng: Nguyên nhân
chủ yếu và thứ yếu. Nguyên nhân sâu xa, gián tiếp và nguyên nhân trực tiếp.
Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài. Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động của
các yếu tố thuộc nguyên nhân.
- Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân bao giờ cũng có trước, là căn nguyên tác thành kết quả. Mối
quan hệ này gọi là quan hệ nhân quả hay luật nhân quả. Quan hệ nhân quả có các tính chất: -
Quan hệ nhân quả mang tính đa dạng, phức tạp: 1) Cùng một nguyên nhân
có thể phát sinh nhiều kết quả tùy thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh và mục
đích nhất định. 2) Cùng một kết quả có thể được tạo nên bởi nhiều nguyên nhân
tác động độc lập hoặc cùng chiều, cùng lúc.
Quan hệ nhân quả mang tính tất yếu, khách quan: Quan hệ nhân quả tác
động độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người. Con người không thể bằng ý
thức của mình để tạo nên quan hệ nhân quả. Tính tất yếu khách quan của quan hệ
nhân quả còn thể hiện ở chỗ, những nguyên nhân nhất định sẽ làm phát sinh những
kết quả tương ứng (nhân nào, quả ấy).
Quan hệ nhân quả mang tính phổ biến
: Luật nhân quả bao trùm toàn bộ sự
sinh thành, vận động và phát triển của vạn vật trong vũ trụ từ thế giới vi mô đến vĩ
mô, từ giới vô sinh đến hữu sinh. Tuy nhiên, luật nhân quả trong tự nhiên diễn ra
một cách tự phát, luật nhân quả trong xã hội diễn ra có sự tham gia của con người,
nghĩa là liên quan đến nguyên nhân chủ quan.
Nhân - quả là vòng tuần hoàn liên tục, nguyên nhân tác thành kết quả, đến
lượt mình, trong kết quả lại hình thành nguyên nhân để sinh ra một kết quả mới.
Sự tác động trở lại của nguyên nhân đối với kết quả. Nguyên nhân là yếu tố
tác thành kết quả, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại tác động trở lại nguyên
nhân. Sự tác động trở lại này theo hai chiều hướng: (1) Nếu kết quả có ý nghĩa tích
cực thì sẽ tác động tốt, thúc đẩy nguyên nhân, làm cho kết quả mới nên tốt hơn. (2)
Nếu kết quả có ý nghĩa tiêu cực thì sẽ tác động xấu trở lại nguyên nhân. Ví dụ ô
nhiễm môi trường là hậu quả những hành vi thiếu hiểu biết của con người, sẽ làm
suy giảm nguồn nước, sa mạc hóa đất đai, ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe, nòi
giống người và các sinh vật nuôi sống con người.
- Khi nghiên cứu luật nhân quả, cần chú ý: (1) Nguyên nhân có trước kết quả
về mặt thời gian, nhưng đôi khi do điều kiện vật lý, trạng thái tâm lý, bối cảnh
không gian, nên ta thấy ngược lại. (2) Không phải cái gì theo thứ tự trước sau cũng
là quan hệ nhân quả. Ví dụ, những hiện tượng tự nhiên như xuân - hạ - thu - đông,
hay ngày - đêm là mang tính tuần hoàn chứ không theo quan hệ nhân quả. (3) Các
nguyên nhân tác động ngược chiều nhau có thể triệt tiêu kết quả, các nguyên nhân
tác động cùng chiều làm cho kết quả có thể tăng thêm.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Vì nhân quả mang tính phổ biến, nên khi thấy kết quả xuất hiện thì phải tìm
nguyên nhân sinh ra kết quả đó. Khi nguyên nhân được phát hiện, phải xác định
đúng loại hình nguyên nhân. Cần chú ý đến nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân
bên trong và nguyên nhân chủ quan. Quán triệt nguyên tắc này, cần chống lại
Thuyết định mệnh và Mục đích luận.
Vì nhân quả mang tính tất yếu, khách quan, nên muốn nhận thức đúng kết
quả, phải xuất phát từ nhận thức đúng nguyên nhân. Muốn có kết quả tốt, cần phát
huy những nguyên nhân tích cực, muốn loại bỏ hậu quả phải loại bỏ các nguyên
nhân sinh ra nó. Quán triệt nguyên tắc này cần chống lối suy
diễn chủ quan, lấy nguyên cớ thay cho nguyên nhân, hoặc khi hậu quả xảy ra thì đổ lỗi cho hoàn cảnh.
Trong thực tiễn, cần chú ý đến sự tác động giữa điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan để có thể làm cho nguyên nhân tác động cùng chiều (hợp lực)
hay ngược chiều (triệt tiêu nhau) nhằm thu được kết quả mong muốn.
Trong xã hội hiện đại, nhiều hậu quả phát sinh do nguyên nhân chủ quan như
suy thoái, ô nhiễm môi trường, chiến tranh, đói nghèo, bệnh tật - đây cũng là
những vấn đề toàn cầu của thời đại, mà việc giảm thiểu, loại trừ đòi hỏi sự chung
sức của mọi quốc gia. Những vấn đề như tai nạn giao thông, hiện tượng tự tử, tự
kỷ, tha hóa đạo đức, suy thoái văn hóa, vv. cũng là vấn nạn của nhiều quốc gia đòi
hỏi cần có những phương án giải quyết trên nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Sự ra đời
của toán xác suất, lý thuyết thống kê, tâm lý xã hội, xã hội học giúp nghiên cứu
phạm trù nhân quả, nhằm đưa ra những phương án giải quyết khả thi những căn
bệnh trên của thời đại.
8. Nội dung cặp phạm trù Bản chất và Hiện tượng. Ý nghĩa phương pháp luận. Ví dụ vận dụng trong thực tiễn
3. 2.4. Nội dung và hình thức
- Khái niệm nội dung và hình thức
Nội dung là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả các mặt, các yếu tố, các
đặc trưng, các quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng. Hình thức là phạm trù dùng để
biểu thị phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ
tương đối bền vững giữa các yếu tố trong sự vật đó, là cách thức tổ chức và kết cấu
của sự vật. Ví dụ, nội dung của một tác phẩm văn học (tiểu thuyết) là chủ đề cuộc
sống mà tác phẩm đó phản ánh (các tuyến nhân vật, mâu thuẫn xã hội, giải quyết
mâu thuẫn, chủ đề tư tưởng), còn hình thức là phương pháp miêu tả (hiện thực,
trừu tượng, viễn tưởng), ngôn ngữ hay văn phong thể hiện, kết cấu tác phẩm, cách trình bày tác phẩm.
-Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
Nội dung và hình thức là hai của cùng một sự vật, tồn tại trong sự thống nhất
không tách rời nhau. Sự thống nhất đó thể hiện cụ thể trong một số điểm hữu cơ sau:
Mọi sự vật, hiện tượng bao giờ cũng chứa đựng một nội dung nhất định, và
nội dung đó luôn được thể hiện bằng một hình thức tương ứng. Không có nội dung
tồn tại độc lập tách khỏi hình thức và cũng không có hình thức không hàm chứa
| bất kỳ một nội dung nào. Ví dụ trong một phương thức sản xuất, lực lượng sản
xuất (người lao động, tư liệu sản xuất, khoa học - công nghệ) đóng vai trò là nội
dung, còn quan hệ sản xuất (hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, trình độ tổ chức
quản lý sản xuất, cách thức phân phối sản phẩm lao động đóng vai trò là hình thức.
Sự phù hợp giữa nội dung và hình thức chỉ là tương đối, bởi vì, cùng một nội
dung có thể được thể hiện qua nhiều hình thức. Ngược lại, cùng một hình thức có
thể chứa đựng những nội dung khác nhau. Ví dụ, một cái nhà có thể sử dụng vào
nhiều công dụng khác nhau, để ở hay làm văn phòng, cho thuê bán hàng, vv.
Nội dung bao giờ cũng giữ vai trò quyết định so với hình thức. Nội dung là
yếu tố động, luôn luôn thay đổi, còn hình thức mang tính ổn định, khi nội dung
thay đổi sớm muộn sẽ kéo theo sự thay đổi của hình thức. Trong lĩnh vực xã hội,
điều này được phản ánh bằng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong đời sống thực tế khi kinh tế thay
đổi thì lối sống (phong tục, tập quán, cách ăn mặc, sinh hoạt...) cũng phải thay đổi tương ứng.
Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung. Hình thức bị quyết định
bởi nội dung, nhưng nó cũng có tính độc lập tương đối, tác động trở lại nội dung
theo hai hướng: 1) Nếu hình thức phù hợp với nội dung thì sẽ thúc đẩy nội dung
phát triển. Ví dụ, trong giai đoạn đầu khi phương thức sản xuất mới hình thành,
quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất nên thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển nhanh. 2) Nếu hình thức không phù hợp (tân tiến quá hay lạc hậu quá) so
với nội dung thì sẽ cản trở sự phát triển của nội dung. Ví dụ, trong giai đoạn sau,
khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất nên kìm hãm sự
phát triển lực lượng sản xuất.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
Vì nội dung quyết định hình thức, nên trong nhận thức và hành động, phải
dựa trên nội dung. Khi muốn thay đổi hình thức thì phải dựa trên cơ sở thay đổi
của nội dung. Chống chủ nghĩa hình thức, đặc biệt trong nghiên cứu khoa học,
giáo dục, lối sống. Trong lối sống, bệnh hình thức thể hiện cụ thể thành một căn
bệnh phô trương hình thức, từ đó phát sinh lối sống xa hoa lãng phí, đua đòi chạy
theo các mốt thời trang và các phương tiện sống khác.
Vì cùng một nội dung có thể biểu hiện qua nhiều hình thức khác nhau, bởi
vậy cần sử dụng sự đa dạng về hình thức để chuyển tải nội dung. Chống chủ nghĩa
bảo thủ, bệnh giáo điều trong nhận thức và thực tiễn.
Vì hình thức tác động trở lại nội dung, nên cần chú ý đến sự phù hợp giữa
nội dung và hình thức. Khi nội dung thay đổi, cần năng động thay đổi hình thức,
chống thái độ trì trệ, không muốn đổi mới. Đồng thời cũng chống chủ nghĩa chủ
quan duy ý chí, phát triển hình thức thái quá, không chú ý đến nội dung, chạy theo
mốt thời thượng, dẫn đến ngụy trang, giả tạo.
3.2.5. Bản chất và hiện tượng
- Khái niệm bản chất và hiện tượng
Bản chất là phạm trù dùng để biểu thị sự tổng hợp tất cả những mặt, những
mối liên hệ tất yếu tương đối ổn định hợp thành một thể thống nhất hữu cơ bên
trong sự vật, quy định sự tồn tại, vận động, phát triển và diệt vong của sự vật đó.
Hiện tượng là những biểu hiện ra bên ngoài của bản chất. Ví dụ, bản chất con
người là sự thống nhất biện chứng giữa phương diện sinh học và xã hội. Còn hiện
tượng là mọi hành vi ăn, nói, giao tiếp xã hội, lao động, học tập, v.v, của người đó
phản ánh con người là một thực thể sinh học - xã hội.
Triết học Mác-Lênin cho rằng, phạm trù bản chất có những điểm tương đồng
với các phạm trù cái chung, quy luật, tính tất yếu: 1) Thuộc tính chung của một
giống loài nào đó là cái cơ bản để tạo nên bản chất của loài đó; song không phải
cái chung nào cũng tạo nên bản chất mà chỉ là những cái chung
tất yếu, còn những cái chung mang tính ngẫu nhiên thì không phải là cái bản chất.
2) Nói đến bản chất là đề cập đến quy luật vận động và phát triển của sự vật. Song
bản chất rộng hơn quy luật, vì một bản chất có thể thể hiện qua
khác nhau. 3) Bản chất mang tính tất yếu, nhưng không phải cái tất yếu nào cũng mang tính bản chất. cơ bản mang tính luật nhiều quy
- Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Bản chất và hiện tượng là hai mặt trong quá trình biểu hiện của một sự vật,
giữa chúng có quan hệ thống nhất biện chứng, thể hiện:
Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua các hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ
cũng là sự phản ánh một mặt, một khía cạnh, một thuộc tính nào đó của bản chất.
Không có bản chất tồn tại thuần túy mà không tự biểu hiện mình thông qua các
hiện tượng, và cũng không có hiện tượng nào mà không phản ánh bất kỳ một thuộc
tính gì đó của bản chất. Lênin viết: “Cái hiện ra ngoài là bản chất trong một tính
quy định của nó, trong một mặt của những mặt của nó, trong một vòng khâu của
nó. Bản chất hình như là cái đó. Bề ngoài là sự hiện ra của bản thân bản chất ở
trong bản thân nó” (10, tr.141)
Khi bản chất cũ mất đi thì các hiện tượng do nó sinh ra cũng sẽ mất theo. Khi
bản chất mới hình thành thì cũng làm phát sinh các hiện tượng mới tương ứng. Ví
dụ, khi kinh tế xã hội phát triển thì đường phố, nhà cửa xây dựng khang trang hơn,
lối sống xã hội thay đổi.
Tuy bản chất và hiện tượng có sự thống nhất biện chứng, song giữa chúng
nhiều lúc cũng bao hàm mâu thuẫn, thể hiện:
Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, cái nội dung, cái thống nhất, còn
hiện tượng phản ánh cái riêng, hình thức bề ngoài, ngẫu nhiên. Cùng một bản chất
nhưng có thể được thể hiện ra ngoài bằng nhiều hiện tượng khác nhau. Do vậy,
hiện tượng đa dạng và phong phú hơn bản chất. Ví dụ, nước biển (bản chất) và
những con song (hiện tượng).
Bản chất ẩn dấu bên trong, còn hiện tượng biểu hiện ra bên ngoài. Hiện tượng
phản ánh bản chất, nhưng nhiều khi xuyên tạc, làm sai khác bản chất. Mác nhận
định: “Nếu hình thái biểu hiện và bản chất của sự vật trực tiếp thống nhất với nhau
thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa” (26, tr.67). Lênin cho rằng, “cái không bản chất,
cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám chắc, không ngồi vững
bằng bản chất. Sự vận động của con sông - bọt ở bên trên và luồng nước sâu ở
dưới. Nhưng bọt nước cũng là biểu hiện của bản chất” (10, tr.137).
Bản chất tương đối ổn định, biến đổi từ từ và rất chậm. Còn hiện tượng mang
tính nhất thời, biến đổi nhanh, thoáng qua rồi mất. Ví dụ, thời gian là một phạm trù
vĩnh cửu, còn các hiện tượng như xuân, hạ, thu, đông thì trôi đi rồi lại đến theo chu kỳ hàng năm.
Sự tác động trở lại của hiện tượng đối với bản chất. Hiện tượng bị quyết
định bởi bản chất, nhưng hiện tượng cũng tác động trở lại bản chất, có thể dần dần
làm cho bản chất bị tha hóa, biến đổi. Điển hình là trong đời sống xã hội, các hiện
tượng lặp đi lặp lại tạo thành thói quen, thói quen tạo nên bản tính con người.
Ý nghĩa phương pháp luận
Vì bản chất và hiện tượng vừa căn bản giống nhau, lại vừa có sự sai biệt, cho
nên muốn nhận thức đúng bản chất, phải xuất phát từ nhiều hiện tượng từ nhiều
góc độ, hoàn cảnh khác nhau, trong nhiều thời điểm khác nhau. Tránh hai quan
điểm cực đoan: 1) Thái độ hấp tấp, nóng vội trong nhận thức, lấy một vài hiện
tượng để đi tới quy kết bản chất. 2) Tư tưởng chủ quan, định kiến, suy luận một chiều.
Nhiệm vụ của nhận thức không dừng lại ở hiện tượng mà cần đi sâu vào tìm
hiểu bản chất sâu xa của đối tượng. Lênin viết: “Tư tưởng của người ta đi sâu một
cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một đến bản chất cấp hai,
cứ như thế mãi” (10, tr.268).
Vì bản chất là cái vốn có, khách quan của sự vật, nên cần tìm bản chất trong
sự vật chứ không tìm bên ngoài nó. Muốn cải biến sự vật phải bắt đầu từ nhận thức và cải biến bản chất.
Cần lưu ý, nếu con người có hiện tượng xấu thì cần loại bỏ dần, đừng để lặp
đi lặp lại sẽ tạo thành thói quen bản chất. Trong nhận thức và thực tiễn cần phân
biệt hiện tượng thật và hiện tượng giả. Hiện tượng hàng nhái , hàng giả, hàng kém
chất lượng hiện nay rất phổ biến, nên cần có sự hiểu biết để tránh sự nhầm lẫn.
9. Nội dung quy luật lượng chất. Ý nghĩa phương pháp luận
10. Nội dung quy luật mâu thuẫn. Ý nghĩa phương pháp luận
11. Con đường biện chứng của nhận thức chân lý. Chương III:
12. Vai trò của sản xuất vật chất
Sản xuất vật chất là là hành vi lịch sử đầu tiên của con người, giúp con người
thoát thai khỏi động vật và trạng thái sống bầy đàn để tạo nên cộng đồng xã hội,
Trong tác phẩm Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượng
thành người, Ăngghen, cho rằng “lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn
bộ đời sống loài người, và như thể đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó,
xuất vật chất còn là cơ hội, điều kiện để mỗi người hoàn thiện nhân cách, trí tuệ.
chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” (24, tr.641). Sản
Bởi vì, trong lao động sản xuất con người rèn luyện nhiều đức tính tốt như tinh
thần kỷ luật lao động, tiết kiệm, tinh thần hợp tác, tính kiên trì, cần cù
Sản xuất vật chất là tất yếu khách quan của sự sinh tồn và phát triển xã hội.
Con người không thể thỏa mãn nhu cầu bằng các sản vật có sẵn trong tự
nhiên như muông thú, cây trái, nguồn nước sông suối, loài người không thể ở mãi
trong các hang động, hốc cây. Muốn duy trì nòi giống và nâng cao chất lượng cuộc sống cần
phải lao động, tái tạo ra của cải vật chất bằng các hình thức như trồng trọt, chăn nuôi, dệt vải,
làm nhà. Mác nhấn mạnh rằng, “tiền đề của mọi lịch sử,đó là người ta phải có khả năng sống
đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức
uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản
xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra đời sống vật chất. Hơn
nữa đó là một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà (hiện nay cũng như
hàng nghìn năm về trước) người ta phải thực hiện hằng ngày, hàng giờ chỉ nhằm để duy
trì đời sống con người” (15, tr.40). “Lao động là một điều kiện tồn tại của con
người không phụ thuộc vào bất kỳ hình thái xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên
vĩnh cửu làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa con người với tự nhiên, tức là cho
bản thân sự sống của con người” (25, tr.73).
Sản xuất vật chất là cơ sở hình thành các quan hệ xã hội và con người với từ
cách là thành viên xã hội. Các
• quan hệ xã hội biểu hiện dưới các dạng cụ thể như quan hệ kinh tế, chính
trị, đạo đức, tôn giáo, pháp luật, v.1. Các dạng quan hệ này không thể hình thành
tự phát mà là sản phẩm tác động giữa người và người trong quá trình lao động sản
xuất. Đến lượt mình, các dạng quan hệ xã hội đó tác động trở lại con người, tạo
nên con người với tư cách là một thành viên xã hội. Mác viết: “Người ta không thể
sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt độngchung và trao
đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có
những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự
nhiên, tức là việc sản xuất” (17, tr.552). “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt
trực tiếp tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà
nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật, và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo” (22, tr.500)
Sản xuất vật chất là cơ sở của mọi sự tiến bộ xã hội
Sản xuất vật chất tạo ra của cải vật chất và tiền đề kinh tế thúc đẩy sự phát
triển văn hóa, y tế, dịch vụ xã hội, giáo dục. Trong thời đại ngày nay giáo dục đang
được coi là cội nguồn và động lực thúc đẩy khoa học - công nghệ, do vậy, quốc gia
nào thiết kế được một nền giáo dục có chất lượng cao thì quốc gia đó có cơ hội
phát triển khoa học công nghệ, phát triển các tiến bộ xã hội khác.
13. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mối quan hệ biện chứng của LLSX và QHSX. Vận
dụng xem xét vấn đề thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay.
- Lực lượng sản xuất là sự tổng hợp tất cả mọi yêu tổ vật chất mà con người sử
dụng để sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ giữa
con người với giới tự nhiên và trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người.
- Lực lượng sản xuất được cấu thành từ ba yếu tố: (1) Con người với toàn bộ
sức mạnh cơ bắp, trình độ chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm và kỷ luật lao động
năng lực quản lý sản xuất, khả năng làm chủ khoa học công nghệ, văn hóa giao
tiếp, khả năng tiếp thị. Con người là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội, là chi
thể sản xuất và tiêu dùng. (2) Tư liệu sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa đối
tượng lao động (đất đai, rừng núi, sông biển) và công cụ lao động (cày, cuốc, các
loại máy móc). Đối tượng lao động là yếu tố tĩnh, còn công cụ lao động là yếu tố
động, luôn được cải tiến. (3) Khoa học công nghệ là một hệ thống tri thức về các
giải pháp thực hiện quá trình chế biến vật chất và thông tin. Trong quan niệm
truyền thống, khoa học phát minh) tách rời kỹ thuật máy móc). Hiện nay khoa
học gắn liền với kỹ thuật, gọi là “công nghệ”. Ngày nay, khoa học công nghệ đang