Nâng cao tính khoa học của nghiên cứu gia đình môn Chủ nghĩa xã hội và khoa học | Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

"Gần đây trong xã hội ta rất nhiều người bàn bạc về vấn đề gia đình,ở
nông thôn vấn đề gia đình, họ hàng nổi lên khá rầm rộ" (Trần Đình Hượu, 1996:49) - đó là nhận xét xác đáng của một cô' học giả đáng kính. Gia đình là mối quan tâm không chỉ của người bình thường, mà của cả giới nghiên cứu. Vẫn theo lời học giả trên, "Nhiều chương trình nghiên cứu trong nirớc và hợp tác quốc tế do Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn thanh niẽn, Viện Xã hội học.
Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 47028186
Phần II
MT S CH ĐỂ GIA ĐÌNH HIỆN NAY _
__________________■ ___
NÂNG CAO TÍNH KHOA HC CA
NGHIÊN CU GIA ĐÌNH
"Gần đây trong xã hội ta rất nhiều người bàn bạc về vấn đề gia đình, ở nông thôn
vấn đề gia đình, họ hàng nổi lên khá rầm rộ" (Trần Đình Hượu, 1996:49) - đó nhận
xét xác đáng của một cô' học giả đáng kính. Gia đình mối quan tâm không chỉ của
người bình thường, mà của cả giới nghiên
cứu. Vẫn theo lời học giả trên, "Nhiều chương trình nghiên cứu trong nirớc và hợp tác
quốc tế do Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn thanh niẽn, Viện Xã hội học... chủ trương cũng
thường gặp nhau một điểm chung gia đình". Những nghiên cứu vể gia đình dựa trên
các phương pháp thu thập dữ liệu của hội học như điều tra dùng bảng hỏi, phỏng vấn,
thảo luận nhóm v.v. đirợc triển khai nhiều nơi; các ấn phẩm nghiên cứu về gia đình
được công bố ngày càng nhiều trong những năm gần đây.
Có thể khẳng định rằng đã xuất hiện một phong trào nghiên cứu gia đình với một
lực lượng nghiên cứu khá đỏng đảo. Các ấn phẩm nghiên cứu đã bao quát một diộn rộng
nhiều vấn đề gia đình khác nhau và soi sáng nhiều khía cạnh cùa gia đình mà trước kia
chưa hoặc ít ai biết tới.
Nhưng không thể phủ nhận rằng, bên cạnh một sô' ít ấn phẩm nghiên cứu thực sự
đáp ứng được những yêu cầu chặt chẽ về tính khoa học, khổng phải mọi nghiên cứu đã
và đang tiến hành vgia đình theo phương pháp xã hội học đều đáp ứng đúng và đầy đủ
đòi hỏi đó. Qua hai cuốn sách của các quan nghiên cứu về gia đình và phụ nữ, một
số chuyên đề về gia đình của Tạp chí hội học (số 4, 1995), 2 sô' năm 1998 của Tạp
chí Khoa học về phụ nữ, 16 số ra năm 1997 và 1998 của Tạp chí Vãn hoá nghệ thuật,
chúng tôi đã tìm được 45 bài viết về gia đình áp dụng phương pháp nghiên cứu
hội học. Bài viết này ạẽ phân tích một sô' vấn đề nổi bật về phương pháp nghiên cứu
trong 45 ấn phẩm đó, với hy vọng góp phần nâng cao chất lượng của các nghiên cứu
khoa học về gia đình.
1. "Ly hôn bừa bãi" là nhận xét được một tác giả nêu ra và nhắc lại trong cùng một bài
viết (Trần Đình Hượu, 1996:52, 85). Nhận xét này hàm ý đánh giá tình trạng ly hôn gia tăng
trong thời gian gần đây theo một quan điểm đạo đức truyền thống vốn được không ít người
tán thành, coi ly hôn 164
lOMoARcPSD| 47028186
như một hành động vô trách nhiệm và vô đạo đức. Điều căn bàn hơn và cần nói nhất
đây là nhận xét trên không dựa trên một sự tìm hiểu khách quan những cảm nghiệm mà
đương sự trong một cuộc ly hỏn thường nếm trải.
Trong khi đó, nhiều nghiên cứu hội học về ly hôn các nước khác nhau trcn thê'
giới đã cho thấy, ly hôn hầu như bao giờ cũng rất cãng thẳng đớn đau tình cảm,
thường tạo ra những khó khăn rất lớn về nhiều mặt với một hoặc hai đương sự. Chẳng
hạn, nhà nghiên cứu người Mỹ RobÃt Weiss đã phỏng vấn hàng loạt nam nữ ly hôn và
thấy rằng, vổ mặt tâm lý và xã hội, ly hôn gây đau khổ cho cả hai giới; chỉ một tỷ lệ nhỏ
những người được hỏi có cảm giác khoan khoái vì được tự do và có khả năng sống theo
ý mình. Trong phần lớn các trường hợp, sự tôn trọng và ưa thích mà một cặp vợ chồng
vốn với nhau đã mất đi trước khi họ ly thân. Thay vào đó sự thù địch bất tín.
Những cuộc cãi cọ thường rất gay gắt. Các cặp vợ chồng nếm trải cái Weiss gọi
"sự trầm cảm chia lìa". Việc người vợ (người chổng) cũ đột ngột không chung sống nữa
tạo nên cảm giác lo âu hoảng loạn. Sau một thời gian nào đấy, cả nỗi đau khổ sự
khoan khoái nhường chỗ
cho Iihững cảm giác độc. Những người ly hỏn thấy mình đã lìa bỏ cái thế giới gia
đình yên ổn mà những người khác, dù có mọi vấn đé, vẫn đang sống trong đó (Giddens,
1989:401). Chỉ bằng một thái độ khách quan khoa học, kết hợp với những
phương pháp nghiỏn cứu đáng tin cậy, cuộc khảo sát trôn mới phát hiện cho ta thấy
những người ly hôn đau khổ như thế nào. Rất tiếc chúng ta chưa có nghiên cứu tương tự
ờ Vit Nam để cho thấy các cặp ly hôn nếm trải những gì, liệu sô' đông trong họ có "bừa
bãi" như nhận xét trích ra trẽn đây hay không?
Nhận xét đó không phải là ngoại lộ duy nhất, mà những phán xét đôi tượng nghiôn
cứu của mình vể mặt đạo đức rất phổ biến trong các án phẩm khoa học. Theo ý kiến của
một nhà nghiên cứu nước ngoài (người tập hợp bài vở, biên tập viết giới thiệu cho
một cuốn sách chung giữa các tác giả Mỹ Việt Nam), thì các nhà nghiên cứu Việt
Nam trong cuốn sách "không tránh thứ ngôn ngữ mang đậm màu sắc đạo đức; họ cũng
không thấy như nhiều người phương Tây rằng cần tránh cái vẻ phán xét hay suy vé
đạo đức (...). Đúng sai, công bằng và bất công đểu được khuôn vào dưới góc độ
những giá trị xã hội chủ nghĩa và những dấu tích của đạo đức truyền thống. Điểu đó có
xu hướng cho phép có một sự thuyết giáo đạo dức" (Barry, 1996:16)
Tác phong phán xét đối tượng nghiên cứu của mình về đạo đức như trên xuÁt phát
từ chỗ nhiều nhà nghiên cứu đã không phân biệt được sự khác nhau giữa cách tiếp cận
mà trong xã hội học gọi là "chuẩn mực" (normative
165
approach) với cách tiếp cận "thực nghiệm" khi nghiên cứu gia đình. Cách tiếp cận chuẩn
mực được nhào nặn bởi các truyển thông đạo đức, tởn giio và chính trị. Ở kháp nơi, các
quy phạm, các chuẩn mực đạo đức, các giảo luật nhà nước đểu cần thiết chế h
lOMoARcPSD| 47028186
hành vi gia đình: chọn vợ, chọn chốne như thế nào, giới hạn quan hẹ tình dục trong hôn
nhãn, quyển lợi nghĩa vụ vợ chồng, trách nhiệm làm cha mẹ v.v. Tóm lại, cách tiếp
cận chuẩn mục đối với gia đình dé cập đến những khía cạnh chuẩn mực gia đình, những
gì nén và phải làm, những gì được coi là tốt và xấu, đúng và sai.
Khác vói cách tiếp cận chuẩn mực, cách tiếp cận thực nghiệm
(empirical approach) nhằm trả lời cho những câu hói về gia đình trong thực tế, những
câu trả lời này khòng thể rút ra từ các quy phạm có tính chuãn mực và những điểu đúng
sai. Những câu hòi như: "Lứa tuổi trung bình khi kết hôn lần đầu là bao nhiêu? Nời ta
thường chọn vợ chọn chổng trong thực tế như thế nào? Tỷ lệ ly hôn so vối tỳ lệ kết hôn
là bao nhiêu?", v.v và v.v. chi có thổ được trả lời bằng cách nghicn cứu gia đình như nó
tổn tại trong thực tế, bằng thực nghiệm (tức là thòng tin và dữ liệu có thể được thu thập
đánh giá hthống hiểu những diồn ra trong gia dìnli tại sao). Cách tiếp
cận thực nghiệm là dựa trên cơ sờ thu thập và phân tích dữ liệu để trả lời các câu hỏi đó.
Lẫn lộn các cách tiếp cận chuẩn mực và thực nghiệm thường dẫn dến định kiến và
sai lôch trong nghicn cứu, vi phạm nguyôn tắc bản thứ nhất của khoa học tính khách
quan. Nhà nghiôn cứu cần cô gắng để những yếu tố riêng tư và chù quan của mình càng
ít tham dự vào cuộc kháo sát càng tòt. Tất nhiên, ai cũng có quan điểm của mình về một
vấn để gia đình nào đó. nhưng nhà nghiên cứu khác với người thường ờ chỗ anh ta phài
tìm hiểu để mô tả, lý giải và dự đoán những chù đề được nghiồn cứu. Do đó, anh ta cần
giảm ảnh hưởng của quan điểm riêng đến nghiên cứu của mình.
2. Đổ đánh giá chất lượng các nghiên cứu vgia đình, chúng ta còn có thtập trung vào.
một khía cạnh quan trọng khác nữa trong nghiên cứu: quan điểm lý luân và khái niôm.
Về mặt này, thể nói luận vắng bóng hầu hốt các bài viết trên về gia đình;
không có những nghiên cứu được chỉ đạo bởi các quan niệm lý thuyết; quá ít những nỗ
lực nghiêm túc nhằm kiểm nghiệm lý thuyết và xây
dựng lý thuyết. Ở các công trình này. lý luận xã hội học gia đình hẩu như không tồn tại
đối với đa sô' các nghiên cứu thực nghiệm về gia dinh. Chi 5 trong số 45 ấn phẩm có dổ
cập đến lý luận vẻ gia đình. Trong một bài viết, tác giả cũng chỉ điểm lại các định nghĩa
khác nhau về gia dinh, chứ không 166
làm gì íơn. Ỏ loạt ba bài viết khác, tác giả trình bày một cách lộn xộn và rối rắm nhmg
thòng tin vé các khuynh hướng, các quan niệm lý thuyết trong xã hội hợi gia dinh trên
thế giới, chứ không liên quan tới Việt Nam. Theo nghĩa <ó, luận khỏng gắn với
thực nghiệm, và khỏng có tác dụng định hướng ho thực nghiệm.
H;U quả của tình trạng đó là gì? Trước hết là hicu sai các khái niệm lý luAn cc bàn.
M>t ví dụ; "Gia đình Khổng giáo" là một khái niệm mang tính trừu tượng cao. Đi
thể đo lường nó trong nghiên cứu thực nghiệm, nhà nghiên cứu cần mõ xè íó thành
lOMoARcPSD| 47028186
những khái niệm cụ thể hơn (hay còn gọi những "chi báo thực níniệm" thê "càn
đong đo đếm", lượng hoá được); nói cách khác, họ
cần tha» tác hoá nó. Trong mổt nghiên cứu thực nghiệm cùa mình, có hai tác giả đã (Uy
giàn khái niệm "gia đình Khổng giáo" thành gia đình "sông chung hoậc sèig gần" mẹ
chồng (Hirschma & Mạnh Lợi, 1996:164). Nói cụ thể hơn họ cho rằng gia đình
Khổng giáo hình thái dâu chú rẽ’ "sống chung loặc sống gần" bố mẹ chú rể!
Đâv là một trường hợp điển hình của việc quy già» một khái niệm lý luận tinh tế thành
một chi báo thực nghiệm thò thiển. Liệu chíng ta cần nhác lại dây những lời cùa
Khồng từ về cách nên diễn giải và )iổu các khái niệm Khổng giáo nthế nào?
Iigười hỏi Khổng Tử rằng "hếu" gì, nuôi mẹ phài "hiếu" không. Khổng
Tử đáp: "Ngày nay hiéi nghĩa là nuôi dưỡng cha mẹ. Nhưng người ta cũng nuôi cả chó
lẫn ngựa. Mu viộc chăm sóc cha ipẹ không kèm sự tòn kính, thì khác giữa nuỏi
chi mẹ và nuòi súc vật" (Lang, o. 1946:24). Như vậy, Khổng Từ nhấn mạnh "liếu" của
con cái với cha mẹ; ỏng đòi hòi một người con trai có hiêu khAng pài sự thực thi nghĩa
vụ một cách lạnh lùng, thái độ nồng nhiệt tôn kín). Nói cách khác, gia dinh
Khổng giáo nhấn mạnh đặc biệt cách con cái tôn kínỉ cha mẹ, chứ khổng dưn giản chỉ
nuôi cha mẹ. Theo nghĩa đó. khổng thê châ> nhận việc quy giàn gia đình Khổng giáo
thành gia đình sòng cùng hoẠc gấi cha mẹ chổng!
Qiv giàn thô thiển gia đình Khổng giáo như trôn không phái sai lầm duy nh.t của hai
tác già trên; họ còn đặt câu hỏi sai và hỏi nhẩm đối tượng.
Dựa tréi lời đáp cho các câu hỏi đặt sai của họ, họ đã đi đến kết luận rằng
80% nhíng người được hỏi không chung sống với ông bà nội (và ngoại nữa ), từ đó siy
ra rằng đại đa sô' gia đình Việt Nam không phải mỏ hình Khổng giáo ( Hrschman & Vũ
Mạnh Lợi, 1996:167).
Tnng khi đó. nhiều nghiên cứu khác lại cho thấy hình gia đình phổ biến tạ châu
thổ sông Hổng cặp vợ chổng trẻ sống chung với bô' mẹ chổng au khi cưới, rồi dần
dẩn tách ra thường bằng cách ãn riêng nhưng vản
167
chung, rồi ăn riêng và riêng. Theo một nguồn, 93,7% trong số 206 phụ nữ kết hôn
nói rằng họ khời đầu cuộc sống hôn nhàn cùng một nhà với bô mẹ chồng, chỉ 6,3%
nhà tự lập hộ riêng ngay sau khi cưới (Võ Phương Lan, 1994). Một nghiên cứu
khác cũng cho kết quả tương tự: hầu hết trong sô' 1.200 phụ nữ có chồng ở sáu xã miền
Bắc thích lập hriêng sau kh cưới, nhưng không đủ khả năng m u a hoặc làtn nhà mới,
nên 73% son , chung với bố mẹ chổng 1-2 năm để chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc làm
nl.a riêng, chỉ 10% có nhà ngay sau lễ cưới (Havanon et al., 1997:22). •
Vậy các tác giả Hirschman Mạnh Lợi đi đến kết luận sai lẩm đó như thế
nào? May mắn thay họ cho biết (trong bài viết của mình) nhừng phương pháp nghiên
cứu họ đã áp dụng, cách họ chọn những người được hỏi ý kiến (tức cách chọn mẫu
lOMoARcPSD| 47028186
nghiên cứu), và họ đặt câu hỏi như thế nào - điều này khiến họ hoàn toàn khác với đa
sô các nghiên cứu khác vé gia đình (như dưới đây ta sẽ rõ). Nhờ thế, người đọc đã biết
sai lầm của hai nhà nghiên cứu này là:
- Đặt câu hỏi chung chung dễ gây sai sót. Hai câu hỏi của họ nhằm kiểm
định hay không hình gia đình sống chung hoặc gần bố mẹ chồng được đặt ra như
sau: "Khi còn bé ông (bà) cố sống cùng làng hoặc gần gia đình bố đẻ hoặc gia đình mẹ
đẻ không?" và "Khi còn nhỏ, anh (chị) có sống cùng với ông (bà) hoặc bà con họ hàng
không?". rang các câu hỏi này quá mông lung, không xác định về mặt thời gian.
"Khi còn bé (nhỏ)" chỉ một thời gian gần như vô định, trong khi đó thời kỳ một cặp vợ
chổng mới cưới chung sống với bố mẹ chồng lại rất xác định, không kéo dài, nhất
trong trường hợp tập tục không đòi hỏi họ là người trực tiếp chịu trách nhiệm chãm sóc
cha mẹ chồng.
- Không hỏi trực tiếp các cặp vợ chồng về nơi cư trú của họ sau khi cưới, mà
hỏi "tất cả những người trong độ tuổi 15-65 trong mỗi gia đình" vé ông bà nội (ngoại)
cùa họ khi họ còn bé. Như vậy, hai tác giả đã hỏi nhầm đối tượng, và điều đó còn kéo
theo những sai sót về trí nhớ của người được hỏi (nhất là khi hỏi về thời xa xưa, lúc họ
còn nhỏ, thêm nữa, nhiều người được hỏi bây giờ đã già).
Điểu cần lưu ý rằng chính các tác giả trên đã phê phán một số nhà nghiên cứu khác
(những người đã khẳng định sự tồn tại của hình hôn nhân nhà chồng) rằng "chỉ
với khối lượng thực nghiệm rất hạn chế, nhiểu học giả khuynh hướng dựa trên những
bằng chứng đầy ấn tượng để khái quát". Nghĩa là hai tác giả muốn bác bò điều đã được
chứng minh là đúng, và bác bỏ một cách sai lầm.
168
Thiếu một tri thức luận vquan hệ qua lại mât thiết giữa con cái đã lây vlấy chổng
và cha mẹ họ còn khiến các tác già trẽn quy quan hệ giữa
gia đình hạt nhún với mẹ chồng (và vợ) chỉ vé một khía cạnh duv nhất: di thâm lần
nhau, thấy rằng hơn 75% người được hỏi mẹ còn sông dã viếng thám mẹ
hàng ngày hoặc hàng tuần. Bằng cách xem xét như vậy, những khác biệt (nếu có) giữa
gia đình Việt Nam và phương Tây về mật quan hệ với bố mẹ chồng (hoặc vợ) đã bị quy
giàn đến mức tối thiểu. Cháng hạn, nếu ta so sánh con số trên đây của hai tác già với tỳ
lệ viếng thăm bỏ mẹ gia đình Anh Willmott Young cung cấp (ờ hai địa bàn dược
nghicn cứu, 30% 43% thăm bô' mẹ ngay ngày hôm trước khi được hỏi ý kiến), thì
ngoài sự khác biôt về tỷ lệ người thăm viếng, chúng ta hầu như không được cho biết gì
về khác biệt giữa hai nền văn hoá. Nhưng như một nhà nghiên cứu gia đình người Anh
đã nêu rõ, "vổ mặt hội học, hộ vấn dc thú nhất những vấn đề vể ý nghĩa" (Morgan,
1985:163) cùa hành dộng sự kiện. Vé mặt này, thể nói dưới góc độ xã hội học, ý
nghĩa cùa các cuộc viếng thăm bố mẹ khác hẳn nhau dối với các cập vợ chồng Anh
Viột Nam, ngay dù tỳ lệ người đi thãm có thể gần hoặc giống nhau. Ở Việt Nam, "thăm
lOMoARcPSD| 47028186
bố mẹ" thể hàm nghĩa trao đổi với bố mẹ sự giúp đữ thiết thục, trong khi tại Anh,
"thăm bô' mẹ" rất có thể chỉ hàm.đúng nghĩa của tù
đó. Rõ ràng, sự khiếm khuyết trong kiến thức lý luận đã đưa các tác giả bài viết nói trên tới
chỗ bỏ qua một đặc điểm quan trọng ca gia đình Việt Nam.
3. Đọc 45 ấn phẩm nghiên cứu gia đình, ta thấy một điểm nổi bật vẻn vẹn một ít trong
số đó cung cấp cho bạn đọc những thông tin cần thiết vé các phương pháp đã áp dụng; đa số
chỉ nêu vắn tát vẻ thời gian địa diôm nghiên cứu. Trừ năm bài tính chất luận, chi
mười trong sô' còn lại nêu phương pháp nghiôn cứu; còn ba mươi bài khác trình bày
luôn kết qnghiôn cứu dưới dạng các con sổ, tỷ lệ phần trăm, bảng biểu, v.v. mà không cho
biết phương pháp nghiên cứu nào đã áp dụng để đi đến kết quả, dung lượng mẫu ra sao, mảu
được chọn như thế nào, cơ cấu mẫu ra sao về giới, lứa
tuổi, tôn giáo, học vấn và nghể nghiệp, v.v. và v.v.
Nhiều bài viết trong cuốn sách "Những nghiôn cứu xã hội học vể gia đình Việt
Nam" là những dụ như vậy. Có bài hoàn toàn khòng dựa irôn cơ sờ bất cứ nghiên cứu
thực nghiệm nào; trái lại, đó chỉ một tiểu luận, phát hiểu những suy nghĩ, ấn tượng
chủ quan cùa tác giả về chủ đề gia đình, không hề lấy một trích dần của các nhà nghiẽn
cứu nào khác.
Do đó bạn đọc, nếu hoài nghi một điểu từ các nghiên cứu này, hoàn toàn không
thể kiểm nghiệm xem những kết quả được trình bày có
169
dáng tin cậy và có căn cứ hay không, mẫu nghiên cứu có đại diện cho cư dâ.n đòng đào
khổng, nguyên tắc giấu tên những người trả lời dược tuân thủ hay không, những chù đ
nhạy cảm (tính dục, mâu thuản vợ chồng, bạo lực gua đình...) được hỏi ra sao. v.v. Nói
cách khác, đằng sau vè ngoài chinh xác, khoa học của kết quả nghiên cứu dưới dạng các
con số, tỷ lệ phần trăm, bán g biểu, một sự mập mờ phi khoa học: người đọc không
dược cho biết chút gì
về phương pháp nghiên cứu đã áp dụng để thu lại kết quả ấy.
Yêu cầu nêu rõ phương pháp nghiên cứu trong một ấn phẩm khoa học không phải
nhầm thoả mãn trí thông thường thc hiện một câu nói nổi tiếng: "Điều quan
trọng khòng phải phát hiện rằng trái đất tròn, mà là làm thế nào người ta đi đến phát
hiện đó". Yêu cầu này nhằm đảm bảo một nguyên tắc bủn khác của duv khoa
học: tính lặp lại (replicability). Tính lặp lại nghĩa những phát hiện của một nghiên cứu
có thgặp bới nhà nghiên cứu khác nếu họ đi theo cùna một số thể thức nghiên cứu, hay
những thể thức tương tự. Cần phân biệt nhà khoa học, người thổ có những thicn vị và
những giá trị ricng, với những thể thức khoa học vốn là các quy ước chung. Ncu các thể
thức mang tính khách quan chung cho mọi người, được nêu cho các nhà nghiên
cứu khác biết, thì các nnghiên cứu khác thể tuân theo chúng, gặp lại, hav bác
bỏ, những phát hiện đã đạt đượe. Tất nhicn rất khó, hoặc không thể gặp lại đúng y hệt
lOMoARcPSD| 47028186
các kết qunghiên cứu trước, nhưng nếu các phát hiện nêu lên được những hình
quan hệ mạnh mẽ nhất quán, dđể nhiều người khảo sát cùng thấy lại, thì chúng đáng
tin cậy hơn.
Trong tình hình chung đó, mười bài viết có nêu phưcrng pháp mà các tác giả đã
áp dụng trong nghiên cứu của mình ngoại lệ hiếm hoi, cần tính điểm cho h
điểu đó. Thật đáng khâm phục tinh thần tự phê bình về mặt khoa học của cố tác giả
Nguyễn Từ Chi, người mờ đầu bài tiểu luận về gia đình của mình đã nêu rõ: "Những gì
viết sau đăy, tự thần chúng, khổng phải là một công trình nghiôn cứu. Đấy chỉ là những
cảm giác đầu tiên chưa thoát khỏi vòng trực cảm thuần tuý..." (Nguyễn Từ Chi, 1997).
Nhừ tinh thần tự phê bình khoa học khá cao của tác giả các bài viết trên, chúng ta đã
biết, họ dùng phương pháp gì để thu thập dữ liệu, chọn mẫu ra sao, đặt câu hỏi như thế
nào, và nói chung dữ liệu của họ đáng tin cậy và có cản cứ tới đâu. Chẳng hạn, trên đây
dựa vào những thông tin về phương pháp nghicn cứu hai tác già cùa một bài viết
cung cấp, chúng ta đã phát hiện được những sai t của họ khi tìm hiểu gia đình Khổng
giáo ở Việt Nam.
170
lOMoARcPSD| 47028186
171
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
Một cuộc khảo sát thực nghiệm khác dật mục đích tìm hiểu "gia đình, riha nước
nhàn đã kct hợp như thế nào trong khi thực hiện các mong rnuốn đòi hỏi cùa
họ trong quá trình hỏn nhân" (Belanger & Khuất Thu lỉổng, 1996:246) ớ Hà Nội trước
và sau công cuộc đổi mới kinh tế xã hội. Tuân theo yêu cầu dối với một ấn phẩm khoa
học thực nghiệm nêu phương pháp nghiên cứu của mình, hai đồng tác giả người
Canada và Việt Nam cho biết họ đã dùng phương pháp phỏng ván nhóm tập trung dối
với nhung người đã kết hỏn ờ Hà Nội thuộc ba trình độ học vấn khác nhau.
ỉ)áng tiếc họ không nói ai (trong số những người tham gia thảo luận nhóm tẠp
trung) không thuộc biên chế nhà nước, "làm ngoài" hay không. vẻ toàn bộ những
người tham gia đều cán bộ nhà nước. Do đó, một trong nhừng kết luận quan trọng cùa
bài viết rằng trước đổi mới, "trong khi lựa chọn, tiêu chuẩn quan trọng của người bạn
đời tương lai là phài làm việc trong quan Nhà nước (tốt nhất là đã có bicn chế)", xem
ra chi đúng với những người trong biên chế nhà nước. Như vậy. trong việc chọn mẩu,
hai
đồng tác già này có lẽ đã sai lệch và thicn vị khi khỏng đưa bất kỳ người ngoài biên chế
nhà nước vào mẫu. Dù rất có thể người ngoài biên chế chi là sô' ít trong cư dan Hà Nội
thời đó, điều này cần được chứng minh bàng con số (mà hai dồng tác già không làm).
Thêm nữa, ngay dẫu điều trên thể đúng, vẫn cần đưa dại diện của những người
ngoài biên chế nhà nước vào niẫu nghiên cứu, đổ nghe ý kiến họ, và đê biết tiêu chuẩn
chọn bạn đời của họ. Tiếc thay, đây cũng là việc mà hai đồng tác già khỏng thực hiện.
Họ cũng không đưa ra bất kỳ lời thuyết minh nào dê giới hạn tính khái quát trong các
kết quà nghiên cứu của họ.
Tóm lại, rất ít bài cung cấp thõng tin về việc làm thê' nào họ đi đến các kết quả
nghiên cứu. Càng ít bài viết nhìn nhận các phương pháp kết quà nghiên cứu cùa mình
băng con mắt tự phc bình khoa học, nồu lên một cách trung thực những thiếu sót và sai
lệch có thể có trong nghicn cứu của mình,
cũng như gợi ý cho những nghiẽn cứu cần tiến hành trong tương lai.
4. Khác hản với tình trang thiếu vắng những ý kiến tự phc bình phương pháp và
kết quả nghiôn cứu của minh sự dồi dào các kiến nghị cho các nhà hoạt động thực
tiễn. Rất nhiều trong số 15 bài viết trong cuốn sách nghiên cứu Mỹ - Việt (đã dản trên
đủy) déu đưa ra những kiến nghị thực tiễn. Nói theo lời ruột nhà nghicn cứu người Mỹ,
nhiều bài viết của các tác già Việt Nam, "các phái hiện cùa nghiên cứu trực tiếp dẫn
tới những kiến nghvề chính sách" (Ikirry, 1996:16). Các nhà làm luật, hoạch định chính
sách và những người làm cỏng tác thực tiễn, v.v. hẳn không thiếu những kiến nghị, lời
khuyên từ phía giới nghiên cứu. Chỉ có điều, độ khả thi và sự mới mỏ cùa các kiến nghị
thì cán phải bàn, vì chúng phụ thuộc vào nhiều nhàn tố, trước hết là độ tin cậy và có càn
cứ
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
của bản thân các kết quả nghiên cứu.
Trong bài viết về tính dục trẻ vị thành niên, hiếp dâm trẻ em và lạm dụng tình dục
trẻ em, v.v. (đăng trên một ' của tạp chí "Vietnam social sciences" bằng tiếng Anh),
một số tác giả nêu kiến nghị về giải pháp bằng cách yêu cầu mọi người tìm hiểu và thực
thi bluật hình sự trừng trị những tôi trên. Để tăng sức nặng cho kiến nghị của minh,
các tác giũ đó còn trích dần nhiều điều luật liên quan của bộ luật hình sự (Vietnam social
sciences, 1996).
Nhiều nhà nghicn cứu lập luận rằng: những nhà tài trợ cho một dự án, một đề tài
nghiên cứu rất cán đã "đặt hàng" những kiến nghị thực tiền, nên giới khoa học
phải thực hiện theo đơn đặt hàng này. Nhưng bảo rầng một kiến nghị chung chung (ví
dụ "Nhà nước cần quan tâm...", hay "quan tâm thôi chưa đủ, nhà nước nên giúp đỡ...")
bổ ích cũng đúng, mà nói rằng nó vu (vì không nhằm vào một ai rõ ràng, không
đề đạt một hành động
cụ thể nào) cũng không sai.
Tinh trạng lạm phát kiến nghị cho các nhà hoạch định chính sách, vể phần mình,
thiếu những nhận xét tự phê bình những thỏng tin phương pháp nghiên cứu... phản
ánh sự tự-tin thái qcủa nhiều nhà nghiên cúu. Điều này quả khác hẳn với một thực
tiễn phổ biến trong khoa học hội phương Tây. Theo một tác giả Mỹ, "nhiều nhà
nghiên cứu phương Tây thái độ hoài nghi đối với những chính sách xuất phát trực
tiếp từ nghiên cún, người ta cho rằng họ (tức các nhà nghiên cứu - MHB.) thể
không nhn xa trông rộng do họ bỏ qua một điều đó trong khuôn khổ hạn họp cua
nghiên cứu của mình" (Barry, 1996:16-17). Thiết nghĩ tinh thần thận trọng khia học này
đáng là bài học cho nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam chúng ta.
Quá nhiều kiến nghị còn một gốc rễ sâu xa: không phân biệt dươc những nghiên
cứu ứng dụng với nghiên cứu thuần tuý. Nghiên cứu ứng ciụig được tiến hành theo một
cách thức sao cho kiến thức thu về có thổ được CIC nhà hoạch định chính sách, các nhà
tài trợ, các nhà hoạt động thực tiễn, vv. áp dụng. Nhưng ngoài nghiên cứu ứng dụng,
còn có nghiên cứu bản (lioic nghiên cứu thuần tuý), thực chất chỉ nhằm hiểu
đúng hơn, chính Xic hơn gia đình và các vấn đề của nó. Ai đó rất thể chất vấn tính
thiết thvc và bổ ích trực tiếp của nghiên cứu cơ bản, song thật khó nói được rằig khi
nào thì một nghiên cứu mới thoạt nhìn quá hàn lâm viện hoá ra lại d;n đến những phát
hiộn có giá trị ứng dụng cao.
172
Liên quan đến các kiến nghị, còn một vấn đề nữa: nhiều bài viết đưa ra những kiến
nghị không hề xuất phát từ các bằng chứng và lập luận trong cuốc nghiên cứu, mà đột
nhiên được đé xuất, như "từ trên trời rơi xuống" vậy. Khỏi cần nói những kiến nghị kiểu
y thật vô cân cứ đến đâủ!
lOMoARcPSD| 47028186
173
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
Chúng tôi mới dọc phân tích một số lượng nhò các ấn phẩm nghiên cứu về
gia đình gần dây, từ một sô' sách báo chuyên môn hẹp, nên bỏ sót rất nhiều ấn phẩm
khác. Cần có một sự bao quát rộng rãi hơn nữa sô lượng ấn phẩm trước khi rút ra những
kết luận chắc chắn tình hình nghiên cứu gia đình. Thêm vào đó, nhũng nhận xét, đánh
giá trên đày xuất phát từ các quy ước chung của giới học thuật quốc tế, nhưng rất có thể
bị coi không thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Dù sao chúng tôi cũng mạnh dạn
đưa ra V kiến cùa mình với hy vọng góp ý, trao đổi nhằm nâng cao tính khoa học cùa
nghiên cứu gia đình.
SÁCH BÁO TRÍCH DN
- Barry, K. (ed.) 1996. Vietnam's women in transition. London: Macmillan Press
Limited.
- Belanger, D. & Khuất Thu Hồng. 1996 "Một số biến đổi trong hôn nhân gia đình
Hà Nội". Trong sách: Tương Lai (chù biến). Những nghiên cứu xã hội học về gia đình
Việt Nam. Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
- Giddens, A. 1989. Sociology. London: Polity Press.
- Havanon, N. & Archavannitknl, K. 1997. Production reproduction and family well-
being. The analysis o f gender relations in Vietnamese household. Hanoi: The
population council.
- Hirschman, Ch. & Vũ Mạnh Lợi. 1996. "Gia đình và cơ cấu hộ gia
đình
Việt Nam. Vài
nét đại cương từ một cuộc khảo sát hội học gần đây". Trong sách: Tương Lai (chủ
biến). Những nghiên cứu hội học về gia đình Việt Nam. Nội: Nhà xuất bàn Khoa
học xã hội.
- Lang, o. 1946. Chinese family and society. New Haven: Yale Univcrsiụ Press.
- Morgan. D.H.J. 1985. The family, politics and social theory. London Routlcdgc and
Kegan Paul.
- Nguyễn Từ Chi. 1997. "Nhận xét bước đầu về gia đình của người Việl" Tạp chí Vùn
hoá nghệ thuật, N. 1.
- Trần Đình Ilượu. 19% "Gia đình giáo dục gia dinh". Trong sách: Tương Lai (chù
bién) Những nghiên cứu xã hội học vè gia đình Việt Nam. Hà Nội: Khoa học xã hội.
- Vietnam social sciences. 1996. N. 6 (56), pp. 57 - 69.
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
- Vo Phuong Lan. 1994. "A study of the reproductive life of women by the method of
reproductive history life lines". Vietnam social sciences. N. 1.
174
V MT CÁCH NHN DIỆN GIA ĐÌNH VIỆT NAM
(Nhân đọc cun: Yu Insun. 1994. Luật hội \ ’iệt Nưiỉi
thếkỳ WU-X\ III.Ni: Nhà xut há« Khoa hc hi. Nguyn Quang Ngc t chc dch
hiệu đính) Mấy năm gần đày chúng ta đã những nỗ lực đáng kể để dịch và xuất
bàn nhiều công trình nghiên cứu Việt Nam của các học giả nước ngọài, giúp
giới khoa học hội thấy được hình ảnh nước ta qua con mắt người ngoài, cỏng trình
nghiên cứu của Yu Insun là môt trong số đó. Tác già đã tiếp cân được và khai thác một
khối lượng tư liệu đổ sộ bằng cả chữ Hin lẫn các ngón ngữ châu Âu khác nhau do người
phương Tây đã từng đến Việt Nam viết ra, nên cuốn sách thật đáng quý. Những nhà
nghiên cứu Việt Nam quan tâm đến gia dinh truvền thống, nhưng không điều kiện
đọc trực tiếp các tài liệu lịch sử bằng chữ Hán, hoặc tài liệu phương Tây vốn thường
lOMoARcPSD| 47028186
175
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
được lưu trữ tại các thư viện nước ngoài càng tràn trọng hơn cuốn sách này. Sách được
nhiều học giả đánh giá cao nhiều nhà nghicn cứu chúng ta trích dẫn. Thậm chí báo
“Vã/Ỉ nghệ” năm 1999 đã trích đăng dài kỳ (từ số 29 đến 34) các phần khác nhau trong
cuỏn sách, đưa nó đến với đông đảo hcni nữa bạn đọc ngoài giới hàn lâm viện.
Yu Insun xác định mục đích chung của công trình là "chủ yếu nhằm vào viộc tìm
hiểu hội Việt Nam truyền thống, bằng cách tập trung vào gia dinh Viột Nam các thế
kỷ mười bảy và mười tám" (trang 11). Phương pháp cùa ông là từ "cái bản chất thật của
gia đình Viột Nam" ngoại suy ra nhằm "hiểu được tính chất bản của xã hội Việt Nam"
(tr. 12). Xin mờ ngoặc nói thêm: đây tỏi không đồng ý với cách các dịch già chuyến
ngữ từ tiếng Anh. Nguyên văn tác giả dùng thuật ngữ "extrapolation” - ngoại suy'11 - đế
nói ông sử dụng phép duy ngoại suy, từ gia đình suy ra hội. Nhưng bàn tiếng
Việt dịch chệch đi là "việc suy tìm cái bản chất thật của gia đinh Việt Nam".
0) cm t tiếng Anh "extrapolation of the real nature of the Vietnamese family
". Nhng ch đói chiếu vi nguyên bn tiếng Anh trong bài này là ly t cun: Yu
Insun. 1990. Law and Society in Seventeenth and Eighteenth Century Vietnam. Seoul: Asia
Research Center. Korea University.
Để hiểu đúng gia đình, qua đó biết xã hội Việt Nam các thế kỷ XVII-
XVIII, tác giả sử dụng bộ Quốc triều hình luật (luật Hồng Đức) như một căn cứ khoa
học, nhung ông rất ý thức về sự khác biệt giữa luật hiện thực hội. Ông không
coi văn bản luật căn cứ khoa học chủ yếu. Trái lại, ông xác định rằng đê’ hiểu đúng
hiện thực hội, phải vượt ra khỏi vãn bàn luật. Ông viết rằng ông tìm hiểu gia đình
"bằng cách khảo sát hệ thống phiíip luật đương thời” chù yếu phần I cuốn sách, còn
trong các phần sau, ông "xem xét bối cảnh hội rộng rãi hơn" (tr.15). đây ông sử
dụng khá nhiều liệu khác - các tác phẩm văn học Việt Nam, ghi chép của người Trung
Quốc và phương Tây, v.v. Chẳng hạn ông viết: "Câu hỏi mà chúng tôi đặt ra là các quy
định trên đây của bộ Luật nhà đa phàn ánh đến chừng mực nào địa vị thực sự cùa
người chồng và người vợ trong xã hội thời kỳ nhà Lê. Có thể cho rằng các quy định ấy
đã không được tuân thủ chặt chẽ" (tr. 114).
Đó là phương hướng khoa học đúng đắn cho một công trình nghiên ciru vốn đặt ra
một trong nhiều mục đích là tìm hiếu gia dinh Việt Nam như nó hiện hữu trong thực tế,
chứ không phải trên văn bàn luật.
Nhưng đáng tiếc, tác giả chỉ đúng ở phương hướng chung. Còn trong cách chứng
minh, lập luận cụ thể, cuốn sách đã bộc lộ nhiều sai lầm, hở bài viết này muốn
nói tới. Không phải một nhà sử học, tôi không khả năng điều kiộn xác minh giá
trị nhận thức của công trình. Cuốn sách nhiêu phần; đây tôi không bàn đến phần
tác giả xem xét vãn bản luật Việt Nam và so sánh nó với luật Trung Quốc, và phần ông
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
đặt gia đình trong bối cảnh rộng hơn của làng và nhà nước. Ở đây tôi chỉ khoanh lại và
để cập đến cách nêu, đặt vấn để khoa học, cách lập luận, chứng minh và giải quyết vấn
để của nhà nghiên cứu trong phần sách mà ông cố gắng phác họa diện mạo thực tế của
gia đình Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Có thể nói trong quá trình chứng
minh luận điểm của mình vể diện mạo thật cùa gia
đình Việt Nam thể hiện qua hai mối quan hệ xương sống ở mỗi gia đình (vợ - chồng
cha mẹ - con cái), ông đã mắc nhiều sai lầm về phương pháp luận. Chúng ta hãy lần
lượt xét cách ỏng chứng minh luận điểm cùa mình từng quan hệ.
I. Về quan hộ vợ chồng, tác giả cho rằng trong khi văn bản luật tiếp thu đạo Nho
giáo và nhấn mạnh quyền uy của người chồng, thì "địa vị thực sự của vợ chồng thay đổi
nhiểu tùy theo vị trí xã hội và kinh tế của họ" (tr. 115). Với các tầng lớp bình dân, đặc biệt
ờ gia đình hạt nhân, "thực tế, vợ và chồng binh đẳng trong đời sống gia đình" (tr. 121). Tác
giả chứng miiih người vợ thực tế bình đẳng với chồng bằng các luận cứ sau đây:
176
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
Thứ nhủi, "nếu người vợ xuất thân từ một gia đình thế lực giàu hơn chổng,
chị ta thường xu hướng coi thường chổng gia dinh nhà chồng" (tr. 115). Nhưne
tác giả tự thu hẹp phạm vi xác thực trong luận cứ cùa chính mình khi ông viết trang
101: "Việc dàn xếp hỏn nhân nthế đã trờ thánh truyén thống ở các gia đình quan cách
giàu có, họ thường tìm kiếm sự kết giao trong giới địa vị hội cao, thông qua
hòn nhân cúa con cái họ (...) Các gia đình có chức tước cao, theo thói thường, hay cưới
gá con cái mình cho những chỗ môn đãng hộ đôi". Nói cách khác, khi môn đãng hộ dôi
là một xu hướng, thì thực tế có bao nhicu người vợ xuất thân từ gia đình giàu và có địa
vị cao hơn chổng để được hướng địa vị bình dáng hoặc cao hơn chổng? Tác già không
đưa ra một cứ liệu nào trà lời câu hỏi này. Vậy thì dụ tác giả sử dụng chứng
minh người vbình đáng hoặc cao hơn chổng số dông hay không - điéu này rất
đáng ngờ.
Thứ hai, tác giả dùng luận cứ khác là những trường hợp ờ rẽ. trone dó "cliấc chắn
người vợ iru thế hơn" (tr.l 15). Ông cho rằng "hiện tượng đi rể khá phổ biến
hội Việt Nam truyền thống" (tr. 109). Điều đó đúng hay không, cồn bằng chứng cụ
thể mà rất tiếc tác giả lại thiếu. Sau đó ở trang
168 ỏng viết: "trong xã hội Việt Nam con gái sau khi cưới thường được về nhà chồng".
Như thế tác giả tự mâu thuẫn với chính mình. Chúng la nên tin theo ý kiến nào của tác
giả? Ý kiến nào khớp với thực tế? thổ hoài nghi ý kiến cho rằng rổ khá phổ biến.
Nếu rể không phổ biến, thì việc tác già ng một hiện tượng cục bộ đchứng minh
một luận điểm khái quát không phái là một viộc làm có sức thuyết phục. Ây là chưa kổ
ý kiến của tác giả cho rằng :'Không bất bình thường đối với một chàng trai nghèo
tại nhà gái cổng hiến sức lao động của mình khi anh ta không khả năng
dâng nộp các lẻ vật cho cuộc hôn nhàn" (tr. 109). Liệu đúng rể khòng bất bình
thường không nếu xét câu nói cửa miệng trong dân gian dè bỉu cành ờ rè như "chó chui
gầm chạn"?
Thứ ba, một luận cứ chủ chốt để tác già chứng minh người vợ bình đảng
VỚI chổng là phụ nữ vai trò kinh tế tích cực trong gia đình. Nhàn tkinh này, theo
tác giả, thể vượt lên trên các nhân tố khác: "Dù di làmu hay rể, kinh tế bao giờ
cũng nhân tố quyết định vị trí tương quan giữa chổng và vợ" (tr. 115). Một lần nữa,
tôi không đồng ý với việc các dịch giá chuyển từ tiếng Anil "the central factor” trong
nguyên bán thành "nhân tỏ quyết định" trong khi từ này chỉ hàm nghĩa "nhân tố trung
tâm". c giả xein xct vai trò kinh tế của phụ nữ trong sản xuất nòng nghiệp buôn
bán,
đặc biệt buôn bán. Nhưng ông không lưu ý một thực tế là dối với đông đào phụ nữ nỏng dân
bình thường, buôn bán chỉ là một hoạt động nhằm đàm bào
177
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
đời sống vật chất cùa gia đình, không phải hoặc chưa dạt đến mức irú>t hoạt động liỏn
quan tới địa vị và thể nâng cao địa vị cùa họ. Hơn thế nữa, tác già sẽ luận chứng ra
sao nếu được nghe câu ca dao và lối suy luận sau đây: "Trai tay không chăng ăn mày
vợ. gái trăm vạn vãn phái nhờ chổng”. It nhất ta có thổ nói câu ca dao đã cho thấy ở xã
hội nam trị kiểu Khổng giáo tại Việt Nam, tài sản, tình trạng cống hiến kinh tế của
nam nữ đã bị tách rời khỏi địa vị hội họ trong gia đình. Trong khi đó, tác
giá tỏ ra theo thuyết quyết định luận kinh tế, một học thuyết cho rằng mỏi liên hệ
trực tiếp, thảng tuột giữa địa vị kinh tế và địa vị xã hội; từ đó suy ra rằng nếu nâng cao
thu nhập cho phụ nữ, địa vị của họ trong gia đình dứt khoát sẽ cao hơn. Thực tế có đơn
giản như vậy khóng - đó là một nghi vấn.
Thứ tư, đtiếp tục chứng minh địa vị bình đảng cùa người vợ so với chồng, tác
già để cập đến ly hôn. Ông cho rằng trong ba loại ly hôn (rẫy vợ. ly hôn bắt buộc và ly
hôn thòa thuận), thì luật rảy vợ trên cơ sở "bảv lý do" có lẽ chì được thực thi ờ một vài
tầng lớp (học già chính thòng, quan lại), nhung họ gập rắc rối với gia đình nhà vợ. Còn
ngưừi bình dản khỏnịĩ chấp nhận rộng rãi diều này vì "lấy vợ một việc tớn kém dối
với phẩn nhiều người Việt Nam do những đồ sính lễ và các khoản tiôu pha như thù lao
cho đám cưới, thiết dãi khách khứa" (tr. 123). Thêm một cách dịch nữa tỏi không tán
thành: "marriage fee" chỉ nên dịch là "chi phí đám cưới" chứ không the dịch là "ihù lao
cho đám cưới". Tuy nhiên trang 111, tác gia khẳng tíịnh điều ngược lại: "Người nghèo
thể giao ước kết hỏn chi đơn gián bảng đưa trầu cau". Vậy thì điểu nào đúng? Đây
hoàn toàn là một nghi vấn chừng nào tác giả chưa giài quyết dược màu thuẫn trong lập
luận cúa ổng.
Còn loại ly hỏn thứ ba (ly hỏn bằng thỏa thuận chung), tác già phàn tích khá kỹ
và dảc biôt muốn dùng nó để chứng minh địa vị hình dẳng của phụ nữ. Song ông hoàn
toàn không xác định được phổ biên đến mức độ ỉiào. Ông viết một câu đầy mâu
thuẫn: "Ly hôn bằng thòa thuận chung ktong phải điều hiếm thấy trong hội Việt
Nam truyển thống tuy rằng chúng ta không biết được tàn sô' của sự ly hôn đó" (tr.126).
"Khổng biết được tàn số" mà ông lại nói rẳng nó "không phải là điều hiếm thấy" (!).
Một luận cứ nữa tác giả rút ra từ việc phân tích so sánh văn bản iuật ;ủa nhà
với luật Trung Quốc. Theo luật nhà Lê, nếu ngưừi chổng không đăm sóc vợ trong năm
tháng nếu người vợ kiện đến các nhà chức trách, thì sẽ có ly hỏn cưởng bức. Tác gi
viết: "Quy định này không có trong bất k) bộ luật nào cùa Trung Quốc; nó chứng minh
địa vị tương dòi binh dảng giữi vợ
và chồng trong gia đình Việt Nam” (tr.128). Nhưng cách lập luận này àm
178
nảy sinh nhiều nghi vấn. Một là. đây mới chỉ là một nhận xét rút ra lừ việc phân t ch so sánh
các vãn bản luật, chứ chưa có cơ sờ thực tế để khắng đinh
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
dieu liậl này được thực thi đến độ nào. Tác già đã nghi ngờ mức độ thực thi nhiều Jicu
khoàn quy định uy quvền cùa người chồng, vậy thì có lý do gì đẽ kbòng hoài nghi hiệu
lực thực tế cùa điều khoản vổ địa vị người vợ? Chừng nào tác già chưa chứng minh
được mức độ thực (hi điều khoản nàv. thì quyền bình đắng của người vợ chỉ trên
giấy! Hai là, khi người chổng không chăm sóc vợ trong thời hạn nãm tháng, có the đặt
già thuyết rằng chính inh ta đã muò’n ruồng bỏ vợ nhưng chưa tìm được lý do. Vậy thì
địa vị bình ding của người vợ trong trường hợp này có thực sự ý nghĩa hay không?
Tic giả kết luận: "(...) phụ nữ Việt Nam không tự mình cảm thấy bị đe dọa bứi
việc ly hòn. và do đó. họ có thế xin ly hôn dễ dàng và chóng vánh" (tr.l 27). Tỏi không
tin rằng câu tiếng Anh mà tác già dùng "...they were able to ask for divorce easily and
frequently" ÇÔ thể dịch như trên; thay vào đó, nCn dịch "họ thể xin ly hôn dễ
dàng và thường xuycn". Nếu diều tác gịà nhận định là đúng, tỷ lệ ly hôn trong thời kỳ
này phải cao, nhưng đáng tiếc tá: giả không hể nêu được bằng chứng cụ thể, càng không
có dữ liệu dc chứng minh.
Nhu vậy, những nỗ lực của tác giả để chứng minh địa vị bình đắng cua nj'irOri vợ với
chồng chưa có sức thuyết phục.
II. Về quan hộ cha mẹ - con cái, Yu Insun cho rằng "gia đình Việt Nam \u hướng
tập trung vào quan hệ vợ - chồng, khác với gia đình Trung Quòc xu hướng tập trung vào
quan hệ cha - con" (tr. 149). Nếu đối chiếu vứi câJ chữ tiếng Anh tác giả dùng, thiết nghĩ
nên dịch như sau cho sát ý: gia dinh Viét Nam xu hưứne lấy vợ chổng làm trung tâm,
khác với gia đình Trung Quốc vốn lấy cha - con trai làm Irung tàm. Tác già chứng minh rằng
cuan hộ cha m- con cái không phải trung tâm, và lòng lèo bàng các luận cứ như sau: cha
mẹ ít tham dự trực tiếp vào chuyện kết hỏn của con cái;
con céi nghiêng vổ phía độc lập với cha mẹ, v.v.
Yể hôn nhân của con cái, tác giả chỉ nhận xét không đưa bằng chứng cụ thể ràng
họ được tự do.
Theo ông, các vấn để kinh tế xã hội những nhân tỏ chủ chốt liên qtiaỉn liến
việc con cái tách khỏi cha mẹ. Ông phân biệt tình hình hai tầng lớp xã hội: "Con cái
của các gia đình giàu ít khi rời bỏ nhà, bời cha mẹ cliúmg mức đuy quyền lớn
hành động không vâng lời cha mẹ nguy hiểm. Tách khỏi cha mẹ cũng có nghĩa
con cái sẽ mất địa vị xã hội và sự giàu sang về kinh tế mà chúng vẫn được hường. Con
cái của những gia dinh
179
nghèo và thuộc các tầng lớp xã hội thấp thì có xu hướng muôn độc lập hơn, bới vì chúng
chẳng có gì đê’ mất khi ra ở riêng. Hơn nữa, chúng có quyỗn có ruộng đất cổng làng xã
(công điền), và việc được hường cõng điền làm cho
chúng dỗ lập những hộ gia đình riêng cùa mình" (tr. 147-148). Việc con cái tách ra
riêng và "được tự do" có đơn giàn và đạt đến mức độ như tác già trình bày không? Ông
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
thậm chí tả hành vi đó của con cái "cá nhân chủ nghĩa" (tr. 149). Nhưng khi tách
khỏi cha mẹ thì con cái đi đâu? di chỗ khác trong cùng làng hay làng khác? Tác giả không
đặt ra câu hỏi này nên không trả lời; ông dùng khái niệm "ở riêng" khá mơ hồ.
Nếu ông hiểu theo nghĩa i làng khác", thì một chỗ khác ông viết, đoạn
này đật ỏng vào một vấn đề hết sức nan giải, nếu khòng nói là ông tự mâu thuẫn: "Trong
tình thế ấy, một trong những lối thoát khỏi đói nghèo di đến những nơi khác để
mưu tìm vận hội (...) Song những biên cương như thế không phải hạn (...) Thêm
nữa, phần lớn những người Việt Nam đã sống yên ổn trong làng trong gia đình của họ
cũng vẫn giữ thói bảo thủ đặc thù cho một hội nông dân họ không sẵn lòng dời đến
niột nơi không quen biết. Và chính phần đất mong được thừa kế từ tài sàn của cha mẹ -
dù nó nhỏ đến đâu - đã củng cố thêm xu hướng đó. Thế là phần lớn nhân dân có khuynh
hướng sống ở trên mảnh đất mà họ đã sinh ra, chỉ trừ khi họ bị cưỡng ép phải dời đi" (tr.
187-188). Đoạn này cho thấy dù phần ihừa kế tài sản từ cha mẹ có nhỏ đến đàu, con cái
vẫn trông monị^clưạc thừa hưởng, nghĩa tác giả tự mâu thuẫn với chính mình khi trước
dó ông cho rằng con cái "chẳng có gì dê mất khi ra ờ riêng". Thêm nữa, đoạn trích cũng
cho thấy những giới hạn cho việc con cái đi khỏi làng quê của nùnh. Ngoài ra cần tính
tới một thực tế khác tác giả không lưu ý: sự phân biệt đối xử giữa dân chính
ngụ cư ở nhiều nơi khiến người ta rất khó di cư.
Còn nếu khái niộm "ở riêng" được tác giả hiểu là "ờ chỗ khác trong cùng làng" thì
dù sao đi nữa, có một thực tế rõ ràng mà tác giả diễn giải không chính xác: con cái tách
ra khỏi cha mẹ không "tự do", "cá nhân chủ nghĩa" như tác giả đã hiểu. (Trang 148, ông
viết: "Vào giai đoạn cuối cùa xã hội nhà Lê, việc con cái tách rời khỏi gia đình thái
độ nhân chủ ngliĩa của chúng đã chứng tỏ chúng không ý thức mạnh mẽ về ơn
nghĩa và bổn phận đối với cha mẹ"). Như vậy ở đây tác giả hiểu những hộ riêng mà con
cái lập nên khi tách ra khỏi cha mẹ là cái mà một số xã hội học gọi là "gia đình hạt nhân
biệt lập" (isolated nuclear family) theo nghĩa gia đinh 'ỉó không còn quan hệ nào đáng
kể với mạng lưới thân tộc bên ngoài. Thực ra
con cái ờ riêng nhưng cùng làng đã không tạo thành gia đinh hạt nhãn biệt
180
lập như thế. Trái lại, họ vản giữ quan hệ qua lại đều đặn với cha mẹ: "Quan hộ giữa cha
mẹ và con cái không phải châm dứt sau khi con cái lập hộ gia đình độc lập. Con cái ván
còn bổn phận chịu ơn nghĩa đối với cha mẹ như triíớc, người ta vẫn đòi hòi chúng phải
biết vâng lời, kính trọng cha mẹ trong lúc họ còn sống, phải tuân thủ thời kỳ chịu tang
khi cha mẹ qua dời. Con cái được quyền thừa kế gia tài của cha mẹ và tham gia vào việc
phân chia tài sản. về phía cha mẹ, họ vẫn thấy mình còn bổn phân đối với con cái, phải
dạy bảo chúng và giúp chúng sửa chữa những thói xấu" (tr. 155). Viết như vậy, tác giả
đã tự phù nhận luận điểm của mình về quan hệ cha mẹ - con cái lòng lèo. thó’ doán
ràng con cái dù ờ riêng trong cùng làng vẫn cần sự hổ trợ cùa cha mẹ, ví dụ như khi làm
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
nhà mới, trỏng nom giúp trẻ nhó của họ cùng muôn vàn quan hệ qua lại khác trong đời
thường hàng ngày, và họ vẩn giữ ctn nghĩa và bổn phận nhất định vói cha mẹ. Họ không
"cá nhân chù nghía" như tác giả đã hiểu.
Tóm lại, với so sánh tổng quát về tầm quan trọng của hai mối quan hệ rường cột
irong gia đình Việt Nam, rất tiếc tác già chỉ cố gắng chứng minh một (rằng quan hệ
cha mẹ - con cái lỏng lèo, không phải trung tâm), nhưng không đù sức thuyết phục.
Còn vế thứ hai (quan hệ vợ - chồng được đặt vào trung tâm hơn so với quan hệ cha mẹ -
con cái), thì ông bỏ ngỏ. không chứng minh. Song từ những dẫn giải rải rác đó đây trong
cuốn sách, ta có the thấy chúng nói lên điều ngược lại với nhận định của ỏng. Chảng hạn
ông viết: "Điều ngụ ý rõ ràng một người phụ nữ không đương nhiên hoàn toàn thành
vicn trong gia đình nhà chổng do cuộc hốn nhan; sự hội nhập cùa người vợ vào gia đình
ấy là không có hiệu lực nếu như chị ta khòng có con với chổng" (tr. 126-127). Đó là một
bằng chứng cho thấy quan hệ cha mo * con cái (không phải quan hệ vợ - chồng) mới là
trung tâm, bời vì nếu quan hệ vợ - chồng là trung tâm, tự bản thân việc người vợ kết hỏn
với chổng đã đù dổ người vợ hội nhạp được vào gia đình chổng, chứ không đòi hỏi chị
phải có con làm diéu kiên. Tiếp nữa, tác giả viết: "Điều 377 [D 376] cùa bộ Luật nhà Lô
ghi rõ hình phạt dối với một người vợ đcm bán tài sàn của con cái vốn được thừa kế cùa
chổng mình" (tr. 171), "người mẹ không quyền định đoạt vé tài sản cùa con khi bán
tài sản đó, người mẹ buộc phải được sự đổng ý của con" (tk 171-172). Nếu quả thực quan
hộ vợ chổng là trung tâm ntác giả nhận định, thì sao lại tình trạng hạn chế quyển
của người vợ như thế, và con cái có quyền đến vậy? Rõ ràng bàng chứng mà tác già đưa
ra dã nói lên điều ngược lại với nhận định của ông.
***
181
Như đã nêu rõ ớ trên, tòi không có khả năng và ý định khào sát, đúnh giá toàn bộ
công trình của Yu Insun. Tôi chỉ giới hạn ờ việc xem xét itưa ra những hoài nghi đôi
với cách tác giả nêu lên chứng minh nhận định cùa mình vế diện mạo thật (không
phải trên văn bản luật) của gia đình Việt Nam
các thế kỷ XVII-XVIII. Tôi cũng không kết luận bằng việc trả lời câu hòi: vậy ihực tế
gia dinh trong giai đoạn lịch sử đó là như thế nào? Thiết nghĩ câu hỏi đó dành cho các
nhà sử học. Có thể nói: dựa trên một số bằng chứng thể là thật, tác giả đã đi đến
khái quát hoá không lưu tâm đầy đù (ỉến việc bằng chứng có đại diện cho số đông
hay không. thừ ông xem xét bằng chứng theo cách tiếp cận sử học - một khoa học
nghiên cứu hành vi c on người dưới nhãn quan đặc thù hóa (particularizing perspective),
nghĩa là mỏ tả cả các sự kiện duy nhất - thì vấn đề tính đại diện của bằng chứng khỏng
đặt ra. Nhưng ràng tác giả tỏ ra quan tâm đến tính đại diện; ông viết rang ông tập
trung vào phong tục các tầng lớp dưới miền Bắc "nó mang tính đại diện hơn cho
truyền thống bàn địa Việt Nam" (tr. 18). Như vậy ống muốn từ bằng chứng thật để
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
khái quát hóa, đã vượt ra khỏi cách tiếp cận <lặc thù hóa của sử học bước sang
dùng nhãn quan khái quát hóa
(generalizing perspective) của hội học, nghĩa quan tâm khóng phải đến các sự kiện
duy nhất, những mẫu hình lặp đi lặp lại mang tính phổ biến, thường kỳ của các sự
kiện, của hành vi. quan tâm như vậy song trong thực tế ông đã dừng lại tính đại
diện của khu vực địa lý (miền Bắc) nhóm xã hội (tầng lớp dưới) mà không tiếp tục
quán triệt ycu cầu về tính dại diện của các bang chứng. Thế ncn những bằng chứng có
thể có thật óng đưa ra không chắc đại diện cho số đồng. Và ống cường điệu mức độ
của một số hiện tượng có thể có thật đó. Hơn thế nữa. ông tự mâu thuẫn quá nliiổu.
Chẳng hạn tác giả kết luận: "gia đình Việt Nam đặc trưng ng'íời vợ đã thật
sự bình đẳng với người chồng và tính cá thể hóa của các thành viên trong gia đình" (tr.
13). Nếu làm cõng việc dịch cuốn sách này, thì căn cứ vào nguyên vãn tiếng Anh
tác giả đã dùng, tỏi sẽ trình bày câu trích trên như sau cho sát ý : "Đặc điểm của gia
đình Việt Nam người vợ đã gần như bình đẳng với chồng chủ nghĩa nhân
của các thành viên". Ý đó được tác giả nhắc lại: "Kiểu gia đình nhỏ có đặc trưng là địa
vị người vợ gần như bình đẳng với chồng, con cái khuynh hướng nhân”
(tr.237). Cứ theo những nhận định của ỏng, nhất là đoạn viết về quyền bình đảng và sy
tự
chủ của phụ nữ trong ly hôn (tr.127), người đọc dề thể ngộ nhận rằng -)ất kể pháp
luật quy định ra sao, xã hội Việt Nam giai đoạn này chắc khcng phải giải quvết vấn đề
nam nữ bình quyền. Thiển nghĩ, những nhận xét tủa ông, ngay nếu được chứng minh
một cách đầy thuyết phục - chứ không piải
182
như ỏng đã chứng minh ờ dây - thì lẽ cũng chỉ mang ý nghĩa tương đỏi và trong bôi
cành hẹp, chảng hạn so với Trung Quốc thói, gia dinh Việt Nam chưa đốn mức
"gần như hình dẳng" vợ chổng.
Theo nghĩa đó, sự hoài nghi khoa học đối với những luận điểm cùa Yu Insun về
gia đình Việt Nam thời kỳ này hàm ý rằng bạn đọc nên thận trọng, nên coi chúng như là
những giả thuyết thể đúng, thè không, trừ phi chúng được chứng minh một cách
thuyết phục. nhân thể nói thêm, một vài những dụ về sự không chính xác trong
bàn dịch tiếng Việt (dù đã qua hiệu đính) mà bài viết này đã dẩn ra là một cành báo nữa
ràng bạn đọc cũng cần thận trọng với cả chất lượng bàn dịch công trinh của ỏng sang
tiếng Việt.
| 1/98

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47028186 Phần II
MỘT SỐ CHỦ ĐỂ GIA ĐÌNH HIỆN NAY■ _ __________________■ ___
NÂNG CAO TÍNH KHOA HỌC CỦA
NGHIÊN CỨU GIA ĐÌNH
"Gần đây trong xã hội ta rất nhiều người bàn bạc về vấn đề gia đình, ở nông thôn
vấn đề gia đình, họ hàng nổi lên khá rầm rộ" (Trần Đình Hượu, 1996:49) - đó là nhận
xét xác đáng của một cô' học giả đáng kính. Gia đình là mối quan tâm không chỉ của
người bình thường, mà của cả giới nghiên
cứu. Vẫn theo lời học giả trên, "Nhiều chương trình nghiên cứu trong nirớc và hợp tác
quốc tế do Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn thanh niẽn, Viện Xã hội học... chủ trương cũng
thường gặp nhau ờ một điểm chung là gia đình". Những nghiên cứu vể gia đình dựa trên
các phương pháp thu thập dữ liệu của xã hội học như điều tra dùng bảng hỏi, phỏng vấn,
thảo luận nhóm v.v. đirợc triển khai ở nhiều nơi; các ấn phẩm nghiên cứu về gia đình
được công bố ngày càng nhiều trong những năm gần đây.
Có thể khẳng định rằng đã xuất hiện một phong trào nghiên cứu gia đình với một
lực lượng nghiên cứu khá đỏng đảo. Các ấn phẩm nghiên cứu đã bao quát một diộn rộng
nhiều vấn đề gia đình khác nhau và soi sáng nhiều khía cạnh cùa gia đình mà trước kia
chưa hoặc ít ai biết tới.
Nhưng không thể phủ nhận rằng, bên cạnh một sô' ít ấn phẩm nghiên cứu thực sự
đáp ứng được những yêu cầu chặt chẽ về tính khoa học, khổng phải mọi nghiên cứu đã
và đang tiến hành về gia đình theo phương pháp xã hội học đều đáp ứng đúng và đầy đủ
đòi hỏi đó. Qua hai cuốn sách của các cơ quan nghiên cứu về gia đình và phụ nữ, một
số chuyên đề về gia đình của Tạp chí Xã hội học (số 4, 1995), 2 sô' năm 1998 của Tạp
chí Khoa học về phụ nữ, và 16 số ra năm 1997 và 1998 của Tạp chí Vãn hoá nghệ thuật,
chúng tôi đã tìm được 45 bài viết về gia đình có áp dụng phương pháp nghiên cứu xã
hội học. Bài viết này ạẽ phân tích một sô' vấn đề nổi bật về phương pháp nghiên cứu
trong 45 ấn phẩm đó, với hy vọng góp phần nâng cao chất lượng của các nghiên cứu khoa học về gia đình.
1. "Ly hôn bừa bãi" là nhận xét được một tác giả nêu ra và nhắc lại trong cùng một bài
viết (Trần Đình Hượu, 1996:52, 85). Nhận xét này hàm ý đánh giá tình trạng ly hôn gia tăng
trong thời gian gần đây theo một quan điểm đạo đức truyền thống vốn được không ít người tán thành, coi ly hôn 164 lOMoAR cPSD| 47028186
như một hành động vô trách nhiệm và vô đạo đức. Điều căn bàn hơn và cần nói nhất ở
đây là nhận xét trên không dựa trên một sự tìm hiểu khách quan những cảm nghiệm mà
đương sự trong một cuộc ly hỏn thường nếm trải.
Trong khi đó, nhiều nghiên cứu xã hội học về ly hôn ờ các nước khác nhau trcn thê'
giới đã cho thấy, ly hôn hầu như bao giờ cũng rất cãng thẳng và đớn đau vé tình cảm,
thường tạo ra những khó khăn rất lớn về nhiều mặt với một hoặc cà hai đương sự. Chẳng
hạn, nhà nghiên cứu người Mỹ RobÃt Weiss đã phỏng vấn hàng loạt nam nữ ly hôn và
thấy rằng, vổ mặt tâm lý và xã hội, ly hôn gây đau khổ cho cả hai giới; chỉ một tỷ lệ nhỏ
những người được hỏi có cảm giác khoan khoái vì được tự do và có khả năng sống theo
ý mình. Trong phần lớn các trường hợp, sự tôn trọng và ưa thích mà một cặp vợ chồng
vốn có với nhau đã mất đi trước khi họ ly thân. Thay vào đó là sự thù địch và bất tín.
Những cuộc cãi cọ thường rất gay gắt. Các cặp vợ chồng nếm trải cái mà Weiss gọi là
"sự trầm cảm chia lìa". Việc người vợ (người chổng) cũ đột ngột không chung sống nữa
tạo nên cảm giác lo âu và hoảng loạn. Sau một thời gian nào đấy, cả nỗi đau khổ sự khoan khoái nhường chỗ
cho Iihững cảm giác cô độc. Những người ly hỏn thấy mình đã lìa bỏ cái thế giới gia
đình yên ổn mà những người khác, dù có mọi vấn đé, vẫn đang sống trong đó (Giddens,
1989:401). Chỉ bằng một thái độ vô tư và khách quan khoa học, kết hợp với những
phương pháp nghiỏn cứu đáng tin cậy, cuộc khảo sát trôn mới phát hiện cho ta thấy
những người ly hôn đau khổ như thế nào. Rất tiếc chúng ta chưa có nghiên cứu tương tự
ờ Viột Nam để cho thấy các cặp ly hôn nếm trải những gì, liệu sô' đông trong họ có "bừa
bãi" như nhận xét trích ra trẽn đây hay không?
Nhận xét đó không phải là ngoại lộ duy nhất, mà những phán xét đôi tượng nghiôn
cứu của mình vể mặt đạo đức rất phổ biến trong các án phẩm khoa học. Theo ý kiến của
một nhà nghiên cứu nước ngoài (người tập hợp bài vở, biên tập và viết giới thiệu cho
một cuốn sách chung giữa các tác giả Mỹ và Việt Nam), thì các nhà nghiên cứu Việt
Nam trong cuốn sách "không tránh thứ ngôn ngữ mang đậm màu sắc đạo đức; họ cũng
không thấy như nhiều người phương Tây rằng cần tránh cái vẻ phán xét hay suy lý vé
đạo đức (...). Đúng và sai, công bằng và bất công đểu được khuôn vào dưới góc độ cà
những giá trị xã hội chủ nghĩa và những dấu tích của đạo đức truyền thống. Điểu đó có
xu hướng cho phép có một sự thuyết giáo đạo dức" (Barry, 1996:16)
Tác phong phán xét đối tượng nghiên cứu của mình về đạo đức như trên xuÁt phát
từ chỗ nhiều nhà nghiên cứu đã không phân biệt được sự khác nhau giữa cách tiếp cận
mà trong xã hội học gọi là "chuẩn mực" (normative 165
approach) với cách tiếp cận "thực nghiệm" khi nghiên cứu gia đình. Cách tiếp cận chuẩn
mực được nhào nặn bởi các truyển thông đạo đức, tởn giio và chính trị. Ở kháp nơi, các
quy phạm, các chuẩn mực đạo đức, các giảo lý và luật nhà nước đểu cần thiết chế hoá lOMoAR cPSD| 47028186
hành vi gia đình: chọn vợ, chọn chốne như thế nào, giới hạn quan hẹ tình dục trong hôn
nhãn, quyển lợi và nghĩa vụ vợ chồng, trách nhiệm làm cha mẹ v.v. Tóm lại, cách tiếp
cận chuẩn mục đối với gia đình dé cập đến những khía cạnh chuẩn mực gia đình, những
gì nén và phải làm, những gì được coi là tốt và xấu, đúng và sai.
Khác vói cách tiếp cận chuẩn mực, cách tiếp cận thực nghiệm
(empirical approach) nhằm trả lời cho những câu hói về gia đình trong thực tế, mà những
câu trả lời này khòng thể rút ra từ các quy phạm có tính chuãn mực và những điểu đúng
sai. Những câu hòi như: "Lứa tuổi trung bình khi kết hôn lần đầu là bao nhiêu? Người ta
thường chọn vợ chọn chổng trong thực tế như thế nào? Tỷ lệ ly hôn so vối tỳ lệ kết hôn
là bao nhiêu?", v.v và v.v. chi có thổ được trả lời bằng cách nghicn cứu gia đình như nó
tổn tại trong thực tế, bằng thực nghiệm (tức là thòng tin và dữ liệu có thể được thu thập
và đánh giá có hệ thống dê hiểu những gì diồn ra trong gia dìnli và tại sao). Cách tiếp
cận thực nghiệm là dựa trên cơ sờ thu thập và phân tích dữ liệu để trả lời các câu hỏi đó.
Lẫn lộn các cách tiếp cận chuẩn mực và thực nghiệm thường dẫn dến định kiến và
sai lôch trong nghicn cứu, vi phạm nguyôn tắc cơ bản thứ nhất của khoa học là tính khách
quan. Nhà nghiôn cứu cần cô gắng để những yếu tố riêng tư và chù quan của mình càng
ít tham dự vào cuộc kháo sát càng tòt. Tất nhiên, ai cũng có quan điểm của mình về một
vấn để gia đình nào đó. nhưng nhà nghiên cứu khác với người thường ờ chỗ anh ta phài
tìm hiểu để mô tả, lý giải và dự đoán những chù đề được nghiồn cứu. Do đó, anh ta cần
giảm ảnh hưởng của quan điểm riêng đến nghiên cứu của mình.
2. Đổ đánh giá chất lượng các nghiên cứu vể gia đình, chúng ta còn có thể tập trung vào.
một khía cạnh quan trọng khác nữa trong nghiên cứu: quan điểm lý luân và khái niôm.
Về mặt này, có thể nói lý luận vắng bóng hầu hốt các bài viết trên về gia đình;
không có những nghiên cứu được chỉ đạo bởi các quan niệm lý thuyết; quá ít những nỗ
lực nghiêm túc nhằm kiểm nghiệm lý thuyết và xây
dựng lý thuyết. Ở các công trình này. lý luận xã hội học gia đình hẩu như không tồn tại
đối với đa sô' các nghiên cứu thực nghiệm về gia dinh. Chi 5 trong số 45 ấn phẩm có dổ
cập đến lý luận vẻ gia đình. Trong một bài viết, tác giả cũng chỉ điểm lại các định nghĩa
khác nhau về gia dinh, chứ không 166
làm gì íơn. Ỏ loạt ba bài viết khác, tác giả trình bày một cách lộn xộn và rối rắm nhmg
thòng tin vé các khuynh hướng, các quan niệm lý thuyết trong xã hội hợi gia dinh trên
thế giới, chứ không liên quan gì tới Việt Nam. Theo nghĩa <ó, lý luận khỏng gắn với
thực nghiệm, và khỏng có tác dụng định hướng ho thực nghiệm.
H;U quả của tình trạng đó là gì? Trước hết là hicu sai các khái niệm lý luAn cc bàn.
M>t ví dụ; "Gia đình Khổng giáo" là một khái niệm mang tính trừu tượng cao. Đi
có thể đo lường nó trong nghiên cứu thực nghiệm, nhà nghiên cứu cần mõ xè íó thành lOMoAR cPSD| 47028186
những khái niệm cụ thể hơn (hay còn gọi là những "chi báo thực níniệm" có thê "càn
đong đo đếm", lượng hoá được); nói cách khác, họ
cần tha» tác hoá nó. Trong mổt nghiên cứu thực nghiệm cùa mình, có hai tác giả đã (Uy
giàn khái niệm "gia đình Khổng giáo" thành gia đình "sông chung hoậc sèig gần" bô mẹ
chồng (Hirschma & Vũ Mạnh Lợi, 1996:164). Nói cụ thể hơn họ cho rằng gia đình
Khổng giáo là hình thái mà cô dâu chú rẽ’ "sống chung loặc sống gần" bố mẹ chú rể!
Đâv là một trường hợp điển hình của việc quy già» một khái niệm lý luận tinh tế thành
một chi báo thực nghiệm thò thiển. Liệu chíng ta có cần nhác lại ở dây những lời cùa
Khồng từ về cách nên diễn giải và )iổu các khái niệm Khổng giáo như thế nào? Có
Iigười hỏi Khổng Tử rằng "hếu" là gì, và nuôi bô mẹ có phài là "hiếu" không. Khổng
Tử đáp: "Ngày nay hiéi nghĩa là nuôi dưỡng cha mẹ. Nhưng người ta cũng nuôi cả chó
lẫn ngựa. Mu viộc chăm sóc cha ipẹ không kèm sự tòn kính, thì có khác gì giữa nuỏi
chi mẹ và nuòi súc vật" (Lang, o. 1946:24). Như vậy, Khổng Từ nhấn mạnh "liếu" của
con cái với cha mẹ; ỏng đòi hòi một người con trai có hiêu khAng pài sự thực thi nghĩa
vụ một cách lạnh lùng, mà là thái độ nồng nhiệt và tôn kín). Nói cách khác, gia dinh
Khổng giáo nhấn mạnh đặc biệt cách con cái tôn kínỉ cha mẹ, chứ khổng dưn giản chỉ
nuôi cha mẹ. Theo nghĩa đó. khổng thê châ> nhận việc quy giàn gia đình Khổng giáo
thành gia đình sòng cùng hoẠc gấi cha mẹ chổng!
Qiv giàn thô thiển gia đình Khổng giáo như trôn không phái sai lầm duy nh.t của hai
tác già trên; họ còn đặt câu hỏi sai và hỏi nhẩm đối tượng.
Dựa tréi lời đáp cho các câu hỏi đặt sai của họ, họ đã đi đến kết luận rằng
80% nhíng người được hỏi không chung sống với ông bà nội (và ngoại nữa ), từ đó siy
ra rằng đại đa sô' gia đình Việt Nam không phải mỏ hình Khổng giáo ( Hrschman & Vũ Mạnh Lợi, 1996:167).
Tnng khi đó. nhiều nghiên cứu khác lại cho thấy mô hình gia đình phổ biến tạ châu
thổ sông Hổng là cặp vợ chổng trẻ sống chung với bô' mẹ chổng au khi cưới, rồi dần
dẩn tách ra thường bằng cách ãn riêng nhưng vản 167
ở chung, rồi ăn riêng và ở riêng. Theo một nguồn, 93,7% trong số 206 phụ nữ kết hôn
nói rằng họ khời đầu cuộc sống hôn nhàn ờ cùng một nhà với bô mẹ chồng, chỉ có 6,3%
có nhà và tự lập hộ riêng ngay sau khi cưới (Võ Phương Lan, 1994). Một nghiên cứu
khác cũng cho kết quả tương tự: hầu hết trong sô' 1.200 phụ nữ có chồng ở sáu xã miền
Bắc thích lập hộ riêng sau kh cưới, nhưng không đủ khả năng m u a hoặc làtn nhà mới,
nên 73% son , chung với bố mẹ chổng 1-2 năm để chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc làm
nl.a riêng, chỉ 10% có nhà ngay sau lễ cưới (Havanon et al., 1997:22). •
Vậy các tác giả Hirschman và Vũ Mạnh Lợi đi đến kết luận sai lẩm đó như thế
nào? May mắn thay họ có cho biết (trong bài viết của mình) nhừng phương pháp nghiên
cứu họ đã áp dụng, cách họ chọn những người được hỏi ý kiến (tức là cách chọn mẫu lOMoAR cPSD| 47028186
nghiên cứu), và họ đặt câu hỏi như thế nào - điều này khiến họ hoàn toàn khác với đa
sô các nghiên cứu khác vé gia đình (như dưới đây ta sẽ rõ). Nhờ thế, người đọc đã biết
sai lầm của hai nhà nghiên cứu này là: -
Đặt câu hỏi chung chung và dễ gây sai sót. Hai câu hỏi của họ nhằm kiểm
định có hay không mô hình gia đình sống chung hoặc gần bố mẹ chồng được đặt ra như
sau: "Khi còn bé ông (bà) cố sống cùng làng hoặc gần gia đình bố đẻ hoặc gia đình mẹ
đẻ không?" và "Khi còn nhỏ, anh (chị) có sống cùng với ông (bà) hoặc bà con họ hàng
không?". Rõ rang các câu hỏi này quá mông lung, không xác định về mặt thời gian.
"Khi còn bé (nhỏ)" chỉ một thời gian gần như vô định, trong khi đó thời kỳ một cặp vợ
chổng mới cưới chung sống với bố mẹ chồng lại rất xác định, không kéo dài, nhất là
trong trường hợp tập tục không đòi hỏi họ là người trực tiếp chịu trách nhiệm chãm sóc cha mẹ chồng. -
Không hỏi trực tiếp các cặp vợ chồng về nơi cư trú của họ sau khi cưới, mà
hỏi "tất cả những người trong độ tuổi 15-65 trong mỗi gia đình" vé ông bà nội (ngoại)
cùa họ khi họ còn bé. Như vậy, hai tác giả đã hỏi nhầm đối tượng, và điều đó còn kéo
theo những sai sót về trí nhớ của người được hỏi (nhất là khi hỏi về thời xa xưa, lúc họ
còn nhỏ, thêm nữa, nhiều người được hỏi bây giờ đã già).
Điểu cần lưu ý rằng chính các tác giả trên đã phê phán một số nhà nghiên cứu khác
(những người đã khẳng định sự tồn tại của mô hình hôn nhân ở nhà chồng) rằng "chỉ
với khối lượng thực nghiệm rất hạn chế, nhiểu học giả có khuynh hướng dựa trên những
bằng chứng đầy ấn tượng để khái quát". Nghĩa là hai tác giả muốn bác bò điều đã được
chứng minh là đúng, và bác bỏ một cách sai lầm. 168
Thiếu một tri thức lý luận về quan hệ qua lại mât thiết giữa con cái đã lây vợ lấy chổng
và cha mẹ họ còn khiến các tác già trẽn quy quan hệ giữa
gia đình hạt nhún với bô mẹ chồng (và vợ) chỉ vé một khía cạnh duv nhất: di thâm lần
nhau, và thấy rằng hơn 75% người được hỏi có bô mẹ còn sông dã viếng thám bô mẹ
hàng ngày hoặc hàng tuần. Bằng cách xem xét như vậy, những khác biệt (nếu có) giữa
gia đình Việt Nam và phương Tây về mật quan hệ với bố mẹ chồng (hoặc vợ) đã bị quy
giàn đến mức tối thiểu. Cháng hạn, nếu ta so sánh con số trên đây của hai tác già với tỳ
lệ viếng thăm bỏ mẹ ờ gia đình Anh mà Willmott và Young cung cấp (ờ hai địa bàn dược
nghicn cứu, 30% và 43% thăm bô' mẹ ngay ngày hôm trước khi được hỏi ý kiến), thì
ngoài sự khác biôt về tỷ lệ người thăm viếng, chúng ta hầu như không được cho biết gì
về khác biệt giữa hai nền văn hoá. Nhưng như một nhà nghiên cứu gia đình người Anh
đã nêu rõ, "vổ mặt xã hội học, hộ vấn dc lý thú nhất là những vấn đề vể ý nghĩa" (Morgan,
1985:163) cùa hành dộng và sự kiện. Vé mặt này, có thể nói dưới góc độ xã hội học, ý
nghĩa cùa các cuộc viếng thăm bố mẹ là khác hẳn nhau dối với các cập vợ chồng Anh và
Viột Nam, ngay dù tỳ lệ người đi thãm có thể gần hoặc giống nhau. Ở Việt Nam, "thăm lOMoAR cPSD| 47028186
bố mẹ" có thể hàm nghĩa trao đổi với bố mẹ sự giúp đữ thiết thục, trong khi tại Anh,
"thăm bô' mẹ" rất có thể chỉ hàm.đúng nghĩa của tù
đó. Rõ ràng, sự khiếm khuyết trong kiến thức lý luận đã đưa các tác giả bài viết nói trên tới
chỗ bỏ qua một đặc điểm quan trọng của gia đình Việt Nam.
3. Đọc 45 ấn phẩm nghiên cứu gia đình, ta thấy một điểm nổi bật là vẻn vẹn một ít trong
số đó cung cấp cho bạn đọc những thông tin cần thiết vé các phương pháp đã áp dụng; đa số
chỉ nêu vắn tát vẻ thời gian và địa diôm nghiên cứu. Trừ năm bài có tính chất lý luận, chi
mười trong sô' còn lại có nêu rõ phương pháp nghiôn cứu; còn ba mươi bài khác trình bày
luôn kết quà nghiôn cứu dưới dạng các con sổ, tỷ lệ phần trăm, bảng biểu, v.v. mà không cho
biết phương pháp nghiên cứu nào đã áp dụng để đi đến kết quả, dung lượng mẫu ra sao, mảu
được chọn như thế nào, cơ cấu mẫu ra sao về giới, lứa
tuổi, tôn giáo, học vấn và nghể nghiệp, v.v. và v.v.
Nhiều bài viết trong cuốn sách "Những nghiôn cứu xã hội học vể gia đình Việt
Nam" là những ví dụ như vậy. Có bài hoàn toàn khòng dựa irôn cơ sờ bất cứ nghiên cứu
thực nghiệm nào; trái lại, đó chỉ là một tiểu luận, phát hiểu những suy nghĩ, ấn tượng
chủ quan cùa tác giả về chủ đề gia đình, không hề có lấy một trích dần của các nhà nghiẽn cứu nào khác.
Do đó bạn đọc, nếu hoài nghi một điểu gì dó từ các nghiên cứu này, hoàn toàn không
thể kiểm nghiệm xem những kết quả được trình bày có 169
dáng tin cậy và có căn cứ hay không, mẫu nghiên cứu có đại diện cho cư dâ.n đòng đào
khổng, nguyên tắc giấu tên những người trả lời dược tuân thủ hay không, những chù đề
nhạy cảm (tính dục, mâu thuản vợ chồng, bạo lực gua đình...) được hỏi ra sao. v.v. Nói
cách khác, đằng sau vè ngoài chinh xác, khoa học của kết quả nghiên cứu dưới dạng các
con số, tỷ lệ phần trăm, bán g biểu, là một sự mập mờ phi khoa học: người đọc không dược cho biết chút gì
về phương pháp nghiên cứu đã áp dụng để thu lại kết quả ấy.
Yêu cầu nêu rõ phương pháp nghiên cứu trong một ấn phẩm khoa học không phải
nhầm thoả mãn trí tò mò thông thường thc hiện ớ một câu nói nổi tiếng: "Điều quan
trọng khòng phải ở phát hiện rằng trái đất tròn, mà là làm thế nào người ta đi đến phát
hiện đó". Yêu cầu này là nhằm đảm bảo một nguyên tắc cơ bủn khác của tư duv khoa
học: tính lặp lại (replicability). Tính lặp lại nghĩa là những phát hiện của một nghiên cứu
có thể gặp bới nhà nghiên cứu khác nếu họ đi theo cùna một số thể thức nghiên cứu, hay
những thể thức tương tự. Cần phân biệt nhà khoa học, người có thổ có những thicn vị và
những giá trị ricng, với những thể thức khoa học vốn là các quy ước chung. Ncu các thể
thức mang tính khách quan và chung cho mọi người, được nêu rõ cho các nhà nghiên
cứu khác biết, thì các nhà nghiên cứu khác có thể tuân theo chúng, và gặp lại, hav bác
bỏ, những phát hiện đã đạt đượe. Tất nhicn rất khó, hoặc không thể gặp lại đúng y hệt lOMoAR cPSD| 47028186
các kết quả nghiên cứu trước, nhưng nếu các phát hiện nêu lên được những mò hình
quan hệ mạnh mẽ và nhất quán, dủ để nhiều người khảo sát cùng thấy lại, thì chúng đáng tin cậy hơn.
Trong tình hình chung đó, mười bài viết có nêu rõ phưcrng pháp mà các tác giả đã
áp dụng trong nghiên cứu của mình là ngoại lệ hiếm hoi, và cần tính điểm cho họ vé
điểu đó. Thật đáng khâm phục tinh thần tự phê bình về mặt khoa học của cố tác giả
Nguyễn Từ Chi, người mờ đầu bài tiểu luận về gia đình của mình đã nêu rõ: "Những gì
viết sau đăy, tự thần chúng, khổng phải là một công trình nghiôn cứu. Đấy chỉ là những
cảm giác đầu tiên chưa thoát khỏi vòng trực cảm thuần tuý..." (Nguyễn Từ Chi, 1997).
Nhừ tinh thần tự phê bình khoa học khá cao của tác giả các bài viết trên, chúng ta đã
biết, họ dùng phương pháp gì để thu thập dữ liệu, chọn mẫu ra sao, đặt câu hỏi như thế
nào, và nói chung dữ liệu của họ đáng tin cậy và có cản cứ tới đâu. Chẳng hạn, trên đây
dựa vào những thông tin về phương pháp nghicn cứu mà hai tác già cùa một bài viết
cung cấp, chúng ta đã phát hiện được những sai sót của họ khi tìm hiểu gia đình Khổng giáo ở Việt Nam. 170 lOMoAR cPSD| 47028186
Một cuộc khảo sát thực nghiệm khác dật mục đích tìm hiểu "gia đình, riha nước
và cá nhàn đã kct hợp như thế nào trong khi thực hiện các mong rnuốn và đòi hỏi cùa
họ trong quá trình hỏn nhân" (Belanger & Khuất Thu lỉổng, 1996:246) ớ Hà Nội trước
và sau công cuộc đổi mới kinh tế xã hội. Tuân theo yêu cầu dối với một ấn phẩm khoa
học thực nghiệm là nêu phương pháp nghiên cứu của mình, hai đồng tác giả người
Canada và Việt Nam cho biết họ đã dùng phương pháp phỏng ván nhóm tập trung dối
với nhung người đã kết hỏn ờ Hà Nội thuộc ba trình độ học vấn khác nhau.
ỉ)áng tiếc họ không nói rõ có ai (trong số những người tham gia thảo luận nhóm tẠp
trung) không thuộc biên chế nhà nước, "làm ngoài" hay không. Có vẻ toàn bộ những
người tham gia đều là cán bộ nhà nước. Do đó, một trong nhừng kết luận quan trọng cùa
bài viết rằng trước đổi mới, "trong khi lựa chọn, tiêu chuẩn quan trọng của người bạn
đời tương lai là phài làm việc trong cơ quan Nhà nước (tốt nhất là đã có bicn chế)", xem
ra chi đúng với những người trong biên chế nhà nước. Như vậy. trong việc chọn mẩu, hai
đồng tác già này có lẽ đã sai lệch và thicn vị khi khỏng đưa bất kỳ người ngoài biên chế
nhà nước vào mẫu. Dù rất có thể người ngoài biên chế chi là sô' ít trong cư dan Hà Nội
thời đó, điều này cần được chứng minh bàng con số (mà hai dồng tác già không làm).
Thêm nữa, ngay dẫu điều trên có thể là đúng, vẫn cần đưa dại diện của những người
ngoài biên chế nhà nước vào niẫu nghiên cứu, đổ nghe ý kiến họ, và đê biết tiêu chuẩn
chọn bạn đời của họ. Tiếc thay, đây cũng là việc mà hai đồng tác già khỏng thực hiện.
Họ cũng không đưa ra bất kỳ lời thuyết minh nào dê giới hạn tính khái quát trong các
kết quà nghiên cứu của họ.
Tóm lại, rất ít bài cung cấp thõng tin về việc làm thê' nào họ đi đến các kết quả
nghiên cứu. Càng ít bài viết nhìn nhận các phương pháp và kết quà nghiên cứu cùa mình
băng con mắt tự phc bình khoa học, nồu lên một cách trung thực những thiếu sót và sai
lệch có thể có trong nghicn cứu của mình,
cũng như gợi ý cho những nghiẽn cứu cần tiến hành trong tương lai.
4. Khác hản với tình trang thiếu vắng những ý kiến tự phc bình phương pháp và
kết quả nghiôn cứu của minh là sự dồi dào các kiến nghị cho các nhà hoạt động thực
tiễn. Rất nhiều trong số 15 bài viết trong cuốn sách nghiên cứu Mỹ - Việt (đã dản trên
đủy) déu đưa ra những kiến nghị thực tiễn. Nói theo lời ruột nhà nghicn cứu người Mỹ,
ờ nhiều bài viết của các tác già Việt Nam, "các phái hiện cùa nghiên cứu trực tiếp dẫn
tới những kiến nghị về chính sách" (Ikirry, 1996:16). Các nhà làm luật, hoạch định chính
sách và những người làm cỏng tác thực tiễn, v.v. hẳn không thiếu những kiến nghị, lời
khuyên từ phía giới nghiên cứu. Chỉ có điều, độ khả thi và sự mới mỏ cùa các kiến nghị
thì cán phải bàn, vì chúng phụ thuộc vào nhiều nhàn tố, trước hết là độ tin cậy và có càn cứ 171
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
của bản thân các kết quả nghiên cứu.
Trong bài viết về tính dục trẻ vị thành niên, hiếp dâm trẻ em và lạm dụng tình dục
trẻ em, v.v. (đăng trên một sô' của tạp chí "Vietnam social sciences" bằng tiếng Anh),
một số tác giả nêu kiến nghị về giải pháp bằng cách yêu cầu mọi người tìm hiểu và thực
thi bộ luật hình sự trừng trị những tôi trên. Để tăng sức nặng cho kiến nghị của minh,
các tác giũ đó còn trích dần nhiều điều luật liên quan của bộ luật hình sự (Vietnam social sciences, 1996).
Nhiều nhà nghicn cứu lập luận rằng: những nhà tài trợ cho một dự án, một đề tài
nghiên cứu rất cán có và đã "đặt hàng" những kiến nghị thực tiền, nên giới khoa học
phải thực hiện theo đơn đặt hàng này. Nhưng bảo rầng một kiến nghị chung chung (ví
dụ "Nhà nước cần quan tâm...", hay "quan tâm thôi chưa đủ, nhà nước nên giúp đỡ...")
là bổ ích cũng đúng, mà nói rằng nó vu vơ (vì không nhằm vào một ai rõ ràng, và không
đề đạt một hành động
cụ thể nào) cũng không sai.
Tinh trạng lạm phát kiến nghị cho các nhà hoạch định chính sách, và vể phần mình,
thiếu những nhận xét tự phê bình và những thỏng tin vé phương pháp nghiên cứu... phản
ánh sự tự-tin thái quá của nhiều nhà nghiên cúu. Điều này quả khác hẳn với một thực
tiễn phổ biến trong khoa học xã hội phương Tây. Theo một tác giả Mỹ, "nhiều nhà
nghiên cứu phương Tây có thái độ hoài nghi đối với những chính sách xuất phát trực
tiếp từ nghiên cún, vì người ta cho rằng họ (tức các nhà nghiên cứu - MHB.) có thể
không nhn xa trông rộng do họ bỏ qua một điều gì đó trong khuôn khổ hạn họp cua
nghiên cứu của mình" (Barry, 1996:16-17). Thiết nghĩ tinh thần thận trọng khia học này
đáng là bài học cho nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam chúng ta.
Quá nhiều kiến nghị còn có một gốc rễ sâu xa: không phân biệt dươc những nghiên
cứu ứng dụng với nghiên cứu thuần tuý. Nghiên cứu ứng ciụig được tiến hành theo một
cách thức sao cho kiến thức thu về có thổ được CIC nhà hoạch định chính sách, các nhà
tài trợ, các nhà hoạt động thực tiễn, vv. áp dụng. Nhưng ngoài nghiên cứu ứng dụng,
còn có nghiên cứu cơ bản (lioic nghiên cứu thuần tuý), mà thực chất là chỉ nhằm hiểu
đúng hơn, chính Xic hơn gia đình và các vấn đề của nó. Ai đó rất có thể chất vấn tính
thiết thvc và bổ ích trực tiếp của nghiên cứu cơ bản, song thật khó mà nói được rằig khi
nào thì một nghiên cứu mới thoạt nhìn quá hàn lâm viện hoá ra lại d;n đến những phát
hiộn có giá trị ứng dụng cao. 172
Liên quan đến các kiến nghị, còn một vấn đề nữa: nhiều bài viết đưa ra những kiến
nghị không hề xuất phát từ các bằng chứng và lập luận trong cuốc nghiên cứu, mà đột
nhiên được đé xuất, như "từ trên trời rơi xuống" vậy. Khỏi cần nói những kiến nghị kiểu
này thật vô cân cứ đến đâủ!
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
Chúng tôi mới dọc và phân tích một số lượng nhò các ấn phẩm nghiên cứu về
gia đình gần dây, từ một sô' sách báo chuyên môn hẹp, nên bỏ sót rất nhiều ấn phẩm
khác. Cần có một sự bao quát rộng rãi hơn nữa sô lượng ấn phẩm trước khi rút ra những
kết luận chắc chắn vé tình hình nghiên cứu gia đình. Thêm vào đó, nhũng nhận xét, đánh
giá trên đày xuất phát từ các quy ước chung của giới học thuật quốc tế, nhưng rất có thể
bị coi là không thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Dù sao chúng tôi cũng mạnh dạn
đưa ra V kiến cùa mình với hy vọng góp ý, trao đổi nhằm nâng cao tính khoa học cùa nghiên cứu gia đình. SÁCH BÁO TRÍCH DẪN
- Barry, K. (ed.) 1996. Vietnam's women in transition. London: Macmillan Press Limited.
- Belanger, D. & Khuất Thu Hồng. 1996 "Một số biến đổi trong hôn nhân và gia đình ờ
Hà Nội". Trong sách: Tương Lai (chù biến). Những nghiên cứu xã hội học về gia đình
Việt Nam.
Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
- Giddens, A. 1989. Sociology. London: Polity Press.
- Havanon, N. & Archavannitknl, K. 1997. Production reproduction and family well-
being. The analysis o f gender relations in Vietnamese household. Hanoi: The population council.
- Hirschman, Ch. & Vũ Mạnh Lợi. 1996. "Gia đình và cơ cấu hộ gia đình Việt Nam. Vài
nét đại cương từ một cuộc khảo sát xã hội học gần đây". Trong sách: Tương Lai (chủ
biến). Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bàn Khoa học xã hội.
- Lang, o. 1946. Chinese family and society. New Haven: Yale Univcrsiụ Press.
- Morgan. D.H.J. 1985. The family, politics and social theory. London Routlcdgc and Kegan Paul.
- Nguyễn Từ Chi. 1997. "Nhận xét bước đầu về gia đình của người Việl" Tạp chí Vùn
hoá nghệ thuật, N. 1.
- Trần Đình Ilượu. 19% "Gia đình và giáo dục gia dinh". Trong sách: Tương Lai (chù
bién) Những nghiên cứu xã hội học vè gia đình Việt Nam. Hà Nội: Khoa học xã hội.
- Vietnam social sciences. 1996. N. 6 (56), pp. 57 - 69. 173
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
- Vo Phuong Lan. 1994. "A study of the reproductive life of women by the method of
reproductive history life lines". Vietnam social sciences. N. 1. 174
VỀ MỘT CÁCH NHẬN DIỆN GIA ĐÌNH VIỆT NAM • • • •
(Nhân đọc cuốn: Yu Insun. 1994. Luật và xã hội \ ’iệt Nưiỉi
thếkỳ WU-X\ III. Hà Nội: Nhà xuất há« Khoa học xã hội. Nguyễn Quang Ngọc tổ chức dịch
và hiệu đính) Mấy năm gần đày chúng ta đã có những nỗ lực đáng kể để dịch và xuất
bàn nhiều công trình nghiên cứu Việt Nam của các học giả nước ngọài, giúp
giới khoa học xã hội thấy được hình ảnh nước ta qua con mắt người ngoài, cỏng trình
nghiên cứu của Yu Insun là môt trong số đó. Tác già đã tiếp cân được và khai thác một
khối lượng tư liệu đổ sộ bằng cả chữ Hin lẫn các ngón ngữ châu Âu khác nhau do người
phương Tây đã từng đến Việt Nam viết ra, nên cuốn sách thật đáng quý. Những nhà
nghiên cứu Việt Nam quan tâm đến gia dinh truvền thống, nhưng không có điều kiện
đọc trực tiếp các tài liệu lịch sử bằng chữ Hán, hoặc tài liệu phương Tây vốn thường
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
được lưu trữ tại các thư viện nước ngoài càng tràn trọng hơn cuốn sách này. Sách được
nhiều học giả đánh giá cao và nhiều nhà nghicn cứu chúng ta trích dẫn. Thậm chí báo
“Vã/Ỉ nghệ” năm 1999 đã trích đăng dài kỳ (từ số 29 đến 34) các phần khác nhau trong
cuỏn sách, đưa nó đến với đông đảo hcni nữa bạn đọc ngoài giới hàn lâm viện.
Yu Insun xác định mục đích chung của công trình là "chủ yếu nhằm vào viộc tìm
hiểu xã hội Việt Nam truyền thống, bằng cách tập trung vào gia dinh Viột Nam ờ các thế
kỷ mười bảy và mười tám" (trang 11). Phương pháp cùa ông là từ "cái bản chất thật của
gia đình Viột Nam" ngoại suy ra nhằm "hiểu được tính chất cơ bản của xã hội Việt Nam"
(tr. 12). Xin mờ ngoặc nói thêm: đây tỏi không đồng ý với cách các dịch già chuyến
ngữ từ tiếng Anh. Nguyên văn tác giả dùng thuật ngữ "extrapolation” - ngoại suy'11 - đế
nói rõ ông sử dụng phép tư duy ngoại suy, từ gia đình suy ra xã hội. Nhưng bàn tiếng
Việt dịch chệch đi là "việc suy tìm cái bản chất thật của gia đinh Việt Nam".
0) Cà cụm từ tiếng Anh là "extrapolation of the real nature of the Vietnamese family
". Những chỗ đói chiếu với nguyên bản tiếng Anh trong bài này là lấy từ cuốn: Yu
Insun. 1990. Law and Society in Seventeenth and Eighteenth Century Vietnam. Seoul: Asia
Research Center. Korea University.
Để hiểu đúng gia đình, qua đó biết xã hội Việt Nam các thế kỷ XVII-
XVIII, tác giả có sử dụng bộ Quốc triều hình luật (luật Hồng Đức) như một căn cứ khoa
học, nhung ông rất có ý thức về sự khác biệt giữa luật và hiện thực xã hội. Ông không
coi văn bản luật là căn cứ khoa học chủ yếu. Trái lại, ông xác định rằng đê’ hiểu đúng
hiện thực xã hội, phải vượt ra khỏi vãn bàn luật. Ông viết rằng ông tìm hiểu gia đình
"bằng cách khảo sát hệ thống phiíip luật đương thời” chù yếu ờ phần I cuốn sách, còn
trong các phần sau, ông "xem xét bối cảnh xã hội rộng rãi hơn" (tr.15). Ờ đây ông sử
dụng khá nhiều tư liệu khác - các tác phẩm văn học Việt Nam, ghi chép của người Trung
Quốc và phương Tây, v.v. Chẳng hạn ông viết: "Câu hỏi mà chúng tôi đặt ra là các quy
định trên đây của bộ Luật nhà Lê đa phàn ánh đến chừng mực nào địa vị thực sự cùa
người chồng và người vợ trong xã hội thời kỳ nhà Lê. Có thể cho rằng các quy định ấy
đã không được tuân thủ chặt chẽ" (tr. 114).
Đó là phương hướng khoa học đúng đắn cho một công trình nghiên ciru vốn đặt ra
một trong nhiều mục đích là tìm hiếu gia dinh Việt Nam như nó hiện hữu trong thực tế,
chứ không phải trên văn bàn luật.
Nhưng đáng tiếc, tác giả chỉ đúng ở phương hướng chung. Còn trong cách chứng
minh, lập luận cụ thể, cuốn sách đã bộc lộ nhiều sai lầm, sơ hở mà bài viết này muốn
nói tới. Không phải một nhà sử học, tôi không có khả năng và điều kiộn xác minh giá
trị nhận thức của công trình. Cuốn sách có nhiêu phần; ở đây tôi không bàn đến phần
tác giả xem xét vãn bản luật Việt Nam và so sánh nó với luật Trung Quốc, và phần ông 175
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
đặt gia đình trong bối cảnh rộng hơn của làng và nhà nước. Ở đây tôi chỉ khoanh lại và
để cập đến cách nêu, đặt vấn để khoa học, cách lập luận, chứng minh và giải quyết vấn
để của nhà nghiên cứu trong phần sách mà ông cố gắng phác họa diện mạo thực tế của
gia đình Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Có thể nói trong quá trình chứng
minh luận điểm của mình vể diện mạo thật cùa gia
đình Việt Nam thể hiện qua hai mối quan hệ xương sống ở mỗi gia đình (vợ - chồng và
cha mẹ - con cái), ông đã mắc nhiều sai lầm về phương pháp luận. Chúng ta hãy lần
lượt xét cách ỏng chứng minh luận điểm cùa mình từng quan hệ.
I. Về quan hộ vợ chồng, tác giả cho rằng trong khi văn bản luật tiếp thu đạo lý Nho
giáo và nhấn mạnh quyền uy của người chồng, thì "địa vị thực sự của vợ chồng thay đổi
nhiểu tùy theo vị trí xã hội và kinh tế của họ" (tr. 115). Với các tầng lớp bình dân, đặc biệt
ờ gia đình hạt nhân, "thực tế, vợ và chồng binh đẳng trong đời sống gia đình" (tr. 121). Tác
giả chứng miiih người vợ thực tế bình đẳng với chồng bằng các luận cứ sau đây: 176
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
Thứ nhủi, "nếu người vợ xuất thân từ một gia đình có thế lực và giàu có hơn chổng,
chị ta thường có xu hướng coi thường chổng và gia dinh nhà chồng" (tr. 115). Nhưne
tác giả tự thu hẹp phạm vi xác thực trong luận cứ cùa chính mình khi ông viết ờ trang
101: "Việc dàn xếp hỏn nhân như thế đã trờ thánh truyén thống ở các gia đình quan cách
và giàu có, họ thường tìm kiếm sự kết giao trong giới có địa vị xã hội cao, thông qua
hòn nhân cúa con cái họ (...) Các gia đình có chức tước cao, theo thói thường, hay cưới
gá con cái mình cho những chỗ môn đãng hộ đôi". Nói cách khác, khi môn đãng hộ dôi
là một xu hướng, thì thực tế có bao nhicu người vợ xuất thân từ gia đình giàu và có địa
vị cao hơn chổng để được hướng địa vị bình dáng hoặc cao hơn chổng? Tác già không
đưa ra một cứ liệu nào trà lời câu hỏi này. Vậy thì ví dụ mà tác giả sử dụng dê chứng
minh người vợ bình đáng hoặc cao hơn chổng có là số dông hay không - điéu này rất đáng ngờ.
Thứ hai, tác giả dùng luận cứ khác là những trường hợp ờ rẽ. trone dó "cliấc chắn
người vợ có iru thế hơn" (tr.l 15). Ông cho rằng "hiện tượng đi ờ rể khá phổ biến ở xã
hội Việt Nam truyền thống" (tr. 109). Điều đó đúng hay không, cồn có bằng chứng cụ
thể mà rất tiếc tác giả lại thiếu. Sau đó ở trang
168 ỏng viết: "trong xã hội Việt Nam con gái sau khi cưới thường được về ở nhà chồng".
Như thế tác giả tự mâu thuẫn với chính mình. Chúng la nên tin theo ý kiến nào của tác
giả? Ý kiến nào khớp với thực tế? Có thổ hoài nghi ý kiến cho rằng ờ rổ khá phổ biến.
Nếu ở rể không phổ biến, thì việc tác già dùng một hiện tượng cục bộ để chứng minh
một luận điểm khái quát không phái là một viộc làm có sức thuyết phục. Ây là chưa kổ
ý kiến của tác giả cho rằng :'Không có gì là bất bình thường đối với một chàng trai nghèo
rê tại nhà cô gái và cổng hiến sức lao động của mình khi anh ta không có khả năng
dâng nộp các lẻ vật cho cuộc hôn nhàn" (tr. 109). Liệu có đúng ờ rể là khòng bất bình
thường không nếu xét câu nói cửa miệng trong dân gian dè bỉu cành ờ rè như "chó chui gầm chạn"?
Thứ ba, một luận cứ chủ chốt để tác già chứng minh người vợ bình đảng
VỚI chổng là phụ nữ có vai trò kinh tế tích cực trong gia đình. Nhàn tỏ kinh tê này, theo
tác giả, có thể vượt lên trên các nhân tố khác: "Dù là di làm dâu hay ở rể, kinh tế bao giờ
cũng là nhân tố quyết định vị trí tương quan giữa chổng và vợ" (tr. 115). Một lần nữa,
tôi không đồng ý với việc các dịch giá chuyển từ tiếng Anil "the central factor” trong
nguyên bán thành "nhân tỏ quyết định" trong khi từ này chỉ hàm nghĩa "nhân tố trung
tâm". Tác giả xein xct vai trò kinh tế của phụ nữ trong sản xuất nòng nghiệp và buôn bán,
đặc biệt buôn bán. Nhưng ông không lưu ý một thực tế là dối với đông đào phụ nữ nỏng dân
bình thường, buôn bán chỉ là một hoạt động nhằm đàm bào 177
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
đời sống vật chất cùa gia đình, không phải hoặc chưa dạt đến mức irú>t hoạt động liỏn
quan tới địa vị và có thể nâng cao địa vị cùa họ. Hơn thế nữa, tác già sẽ luận chứng ra
sao nếu được nghe câu ca dao và lối suy luận sau đây: "Trai tay không chăng ăn mày
vợ. gái trăm vạn vãn phái nhờ chổng”. It nhất ta có thổ nói câu ca dao đã cho thấy ở xã
hội nam trị kiểu Khổng giáo tại Việt Nam, tài sản, tình trạng và cống hiến kinh tế của
nam và nữ đã bị tách rời khỏi địa vị xã hội mà họ có trong gia đình. Trong khi đó, tác
giá tỏ ra theo thuyết quyết định luận kinh tế, một học thuyết cho rằng có mỏi liên hệ
trực tiếp, thảng tuột giữa địa vị kinh tế và địa vị xã hội; từ đó suy ra rằng nếu nâng cao
thu nhập cho phụ nữ, địa vị của họ trong gia đình dứt khoát sẽ cao hơn. Thực tế có đơn
giản như vậy khóng - đó là một nghi vấn.
Thứ tư, để tiếp tục chứng minh địa vị bình đảng cùa người vợ so với chồng, tác
già để cập đến ly hôn. Ông cho rằng trong ba loại ly hôn (rẫy vợ. ly hôn bắt buộc và ly
hôn thòa thuận), thì luật rảy vợ trên cơ sở "bảv lý do" có lẽ chì được thực thi ờ một vài
tầng lớp (học già chính thòng, quan lại), nhung họ gập rắc rối với gia đình nhà vợ. Còn
ngưừi bình dản khỏnịĩ chấp nhận rộng rãi diều này vì "lấy vợ là một việc tớn kém dối
với phẩn nhiều người Việt Nam do những đồ sính lễ và các khoản tiôu pha như thù lao
cho đám cưới, thiết dãi khách khứa" (tr. 123). Thêm một cách dịch nữa tỏi không tán
thành: "marriage fee" chỉ nên dịch là "chi phí đám cưới" chứ không the dịch là "ihù lao
cho đám cưới". Tuy nhiên ở trang 111, tác gia khẳng tíịnh điều ngược lại: "Người nghèo
có thể giao ước kết hỏn chi đơn gián bảng đưa trầu cau". Vậy thì điểu nào đúng? Đây
hoàn toàn là một nghi vấn chừng nào tác giả chưa giài quyết dược màu thuẫn trong lập luận cúa ổng.
Còn loại ly hỏn thứ ba (ly hỏn bằng thỏa thuận chung), tác già phàn tích khá kỹ
và dảc biôt muốn dùng nó để chứng minh địa vị hình dẳng của phụ nữ. Song ông hoàn
toàn không xác định được nó phổ biên đến mức độ ỉiào. Ông viết một câu đầy mâu
thuẫn: "Ly hôn bằng thòa thuận chung ktong phải là điều hiếm thấy trong xã hội Việt
Nam truyển thống tuy rằng chúng ta không biết được tàn sô' của sự ly hôn đó" (tr.126).
"Khổng biết được tàn số" mà ông lại nói rẳng nó "không phải là điều hiếm thấy" (!).
Một luận cứ nữa tác giả rút ra từ việc phân tích so sánh văn bản iuật ;ủa nhà Lê
với luật Trung Quốc. Theo luật nhà Lê, nếu ngưừi chổng không đăm sóc vợ trong năm
tháng và nếu người vợ kiện đến các nhà chức trách, thì sẽ có ly hỏn cưởng bức. Tác giả
viết: "Quy định này không có trong bất k) bộ luật nào cùa Trung Quốc; nó chứng minh
địa vị tương dòi binh dảng giữi vợ
và chồng trong gia đình Việt Nam” (tr.128). Nhưng cách lập luận này àm 178
nảy sinh nhiều nghi vấn. Một là. đây mới chỉ là một nhận xét rút ra lừ việc phân t ch so sánh
các vãn bản luật, chứ chưa có cơ sờ thực tế để khắng đinh
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
dieu liậl này được thực thi đến độ nào. Tác già đã nghi ngờ mức độ thực thi nhiều Jicu
khoàn quy định uy quvền cùa người chồng, vậy thì có lý do gì đẽ kbòng hoài nghi hiệu
lực thực tế cùa điều khoản vổ địa vị người vợ? Chừng nào tác già chưa chứng minh
được mức độ thực (hi điều khoản nàv. thì quyền bình đắng của người vợ chỉ là trên
giấy! Hai là, khi người chổng không chăm sóc vợ trong thời hạn nãm tháng, có the đặt
già thuyết rằng chính inh ta đã muò’n ruồng bỏ vợ nhưng chưa tìm được lý do. Vậy thì
địa vị bình ding của người vợ trong trường hợp này có thực sự ý nghĩa hay không?
Tic giả kết luận: "(...) phụ nữ Việt Nam không tự mình cảm thấy bị đe dọa bứi
việc ly hòn. và do đó. họ có thế xin ly hôn dễ dàng và chóng vánh" (tr.l 27). Tỏi không
tin rằng câu tiếng Anh mà tác già dùng "...they were able to ask for divorce easily and
frequently" ÇÔ thể dịch như trên; thay vào đó, nCn dịch là "họ có thể xin ly hôn dễ
dàng và thường xuycn". Nếu diều tác gịà nhận định là đúng, tỷ lệ ly hôn trong thời kỳ
này phải cao, nhưng đáng tiếc tá: giả không hể nêu được bằng chứng cụ thể, càng không
có dữ liệu dc chứng minh.
Nhu vậy, những nỗ lực của tác giả để chứng minh địa vị bình đắng cua nj'irOri vợ với
chồng chưa có sức thuyết phục.
II. Về quan hộ cha mẹ - con cái, Yu Insun cho rằng "gia đình Việt Nam có \u hướng
tập trung vào quan hệ vợ - chồng, khác với gia đình Trung Quòc xu hướng tập trung vào
quan hệ cha - con" (tr. 149). Nếu đối chiếu vứi câJ chữ tiếng Anh mà tác giả dùng, thiết nghĩ
nên dịch như sau cho sát ý: gia dinh Viét Nam có xu hưứne lấy vợ chổng làm trung tâm,
khác với gia đình Trung Quốc vốn lấy cha - con trai làm Irung tàm. Tác già chứng minh rằng
cuan hộ cha mẹ - con cái không phải là trung tâm, và lòng lèo bàng các luận cứ như sau: cha
mẹ ít tham dự trực tiếp vào chuyện kết hỏn của con cái;
con céi nghiêng vổ phía độc lập với cha mẹ, v.v.
Yể hôn nhân của con cái, tác giả chỉ nhận xét mà không đưa bằng chứng cụ thể ràng họ được tự do.
Theo ông, các vấn để kinh tế và xã hội là những nhân tỏ chủ chốt liên qtiaỉn liến
việc con cái tách khỏi cha mẹ. Ông phân biệt tình hình ở hai tầng lớp xã hội: "Con cái
của các gia đình giàu có ít khi rời bỏ nhà, bời vì cha mẹ cliúmg có mức độ uy quyền lớn
và hành động không vâng lời cha mẹ là nguy hiểm. Tách khỏi cha mẹ cũng có nghĩa
con cái sẽ mất địa vị xã hội và sự giàu sang về kinh tế mà chúng vẫn được hường. Con cái của những gia dinh 179
nghèo và thuộc các tầng lớp xã hội thấp thì có xu hướng muôn độc lập hơn, bới vì chúng
chẳng có gì đê’ mất khi ra ở riêng. Hơn nữa, chúng có quyỗn có ruộng đất cổng làng xã
(công điền), và việc được hường cõng điền làm cho
chúng dỗ lập những hộ gia đình riêng cùa mình" (tr. 147-148). Việc con cái tách ra ở
riêng và "được tự do" có đơn giàn và đạt đến mức độ như tác già trình bày không? Ông
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
thậm chí mô tả hành vi đó của con cái là "cá nhân chủ nghĩa" (tr. 149). Nhưng khi tách
khỏi cha mẹ thì con cái đi đâu? di chỗ khác trong cùng làng hay làng khác? Tác giả không
đặt ra câu hỏi này nên không trả lời; ông dùng khái niệm "ở riêng" khá mơ hồ.
Nếu ông hiểu nó theo nghĩa "đi làng khác", thì ờ một chỗ khác ông viết, và đoạn
này đật ỏng vào một vấn đề hết sức nan giải, nếu khòng nói là ông tự mâu thuẫn: "Trong
tình thế ấy, một trong những lối thoát khỏi đói nghèo là di cư đến những nơi khác để
mưu tìm vận hội (...) Song những biên cương như thế không phải là vô hạn (...) Thêm
nữa, phần lớn những người Việt Nam đã sống yên ổn trong làng và trong gia đình của họ
cũng vẫn giữ thói bảo thủ đặc thù cho một xã hội nông dân và họ không sẵn lòng dời đến
niột nơi không quen biết. Và chính phần đất mong được thừa kế từ tài sàn của cha mẹ -
dù nó nhỏ đến đâu - đã củng cố thêm xu hướng đó. Thế là phần lớn nhân dân có khuynh
hướng sống ở trên mảnh đất mà họ đã sinh ra, chỉ trừ khi họ bị cưỡng ép phải dời đi" (tr.
187-188). Đoạn này cho thấy dù phần ihừa kế tài sản từ cha mẹ có nhỏ đến đàu, con cái
vẫn trông monị^clưạc thừa hưởng, nghĩa là tác giả tự mâu thuẫn với chính mình khi trước
dó ông cho rằng con cái "chẳng có gì dê mất khi ra ờ riêng". Thêm nữa, đoạn trích cũng
cho thấy có những giới hạn cho việc con cái đi khỏi làng quê của nùnh. Ngoài ra cần tính
tới một thực tế khác mà tác giả không lưu ý: sự phân biệt đối xử giữa dân chính cư và
ngụ cư ở nhiều nơi khiến người ta rất khó di cư.
Còn nếu khái niộm "ở riêng" được tác giả hiểu là "ờ chỗ khác trong cùng làng" thì
dù sao đi nữa, có một thực tế rõ ràng mà tác giả diễn giải không chính xác: con cái tách
ra khỏi cha mẹ không "tự do", "cá nhân chủ nghĩa" như tác giả đã hiểu. (Trang 148, ông
viết: "Vào giai đoạn cuối cùa xã hội nhà Lê, việc con cái tách rời khỏi gia đình và thái
độ cá nhân chủ ngliĩa của chúng đã chứng tỏ chúng không có ý thức mạnh mẽ về ơn
nghĩa và bổn phận đối với cha mẹ"). Như vậy ở đây tác giả hiểu những hộ riêng mà con
cái lập nên khi tách ra khỏi cha mẹ là cái mà một số xã hội học gọi là "gia đình hạt nhân
biệt lập" (isolated nuclear family) theo nghĩa gia đinh 'ỉó không còn quan hệ nào đáng
kể với mạng lưới thân tộc bên ngoài. Thực ra
con cái ờ riêng nhưng cùng làng đã không tạo thành gia đinh hạt nhãn biệt 180
lập như thế. Trái lại, họ vản giữ quan hệ qua lại đều đặn với cha mẹ: "Quan hộ giữa cha
mẹ và con cái không phải châm dứt sau khi con cái lập hộ gia đình độc lập. Con cái ván
còn bổn phận chịu ơn nghĩa đối với cha mẹ như triíớc, và người ta vẫn đòi hòi chúng phải
biết vâng lời, kính trọng cha mẹ trong lúc họ còn sống, phải tuân thủ thời kỳ chịu tang
khi cha mẹ qua dời. Con cái được quyền thừa kế gia tài của cha mẹ và tham gia vào việc
phân chia tài sản. về phía cha mẹ, họ vẫn thấy mình còn có bổn phân đối với con cái, phải
dạy bảo chúng và giúp chúng sửa chữa những thói xấu" (tr. 155). Viết như vậy, tác giả
đã tự phù nhận luận điểm của mình về quan hệ cha mẹ - con cái lòng lèo. Có thó’ doán
ràng con cái dù ờ riêng trong cùng làng vẫn cần sự hổ trợ cùa cha mẹ, ví dụ như khi làm
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
nhà mới, trỏng nom giúp trẻ nhó của họ cùng muôn vàn quan hệ qua lại khác trong đời
thường hàng ngày, và họ vẩn giữ ctn nghĩa và bổn phận nhất định vói cha mẹ. Họ không
"cá nhân chù nghía" như tác giả đã hiểu.
Tóm lại, với so sánh tổng quát về tầm quan trọng của hai mối quan hệ rường cột
irong gia đình Việt Nam, rất tiếc tác già chỉ cố gắng chứng minh một vô (rằng quan hệ
cha mẹ - con cái lỏng lèo, không phải là trung tâm), nhưng không đù sức thuyết phục.
Còn vế thứ hai (quan hệ vợ - chồng được đặt vào trung tâm hơn so với quan hệ cha mẹ -
con cái), thì ông bỏ ngỏ. không chứng minh. Song từ những dẫn giải rải rác đó đây trong
cuốn sách, ta có the thấy chúng nói lên điều ngược lại với nhận định của ỏng. Chảng hạn
ông viết: "Điều ngụ ý rõ ràng là một người phụ nữ không đương nhiên hoàn toàn là thành
vicn trong gia đình nhà chổng do cuộc hốn nhan; sự hội nhập cùa người vợ vào gia đình
ấy là không có hiệu lực nếu như chị ta khòng có con với chổng" (tr. 126-127). Đó là một
bằng chứng cho thấy quan hệ cha mo * con cái (không phải quan hệ vợ - chồng) mới là
trung tâm, bời vì nếu quan hệ vợ - chồng là trung tâm, tự bản thân việc người vợ kết hỏn
với chổng đã đù dổ người vợ hội nhạp được vào gia đình chổng, chứ không đòi hỏi chị
phải có con làm diéu kiên. Tiếp nữa, tác giả viết: "Điều 377 [D 376] cùa bộ Luật nhà Lô
ghi rõ hình phạt dối với một người vợ đcm bán tài sàn của con cái vốn được thừa kế cùa
chổng mình" (tr. 171), "người mẹ không có quyền định đoạt vé tài sản cùa con và khi bán
tài sản đó, người mẹ buộc phải được sự đổng ý của con" (tk 171-172). Nếu quả thực quan
hộ vợ chổng là trung tâm như tác giả nhận định, thì sao lại có tình trạng hạn chế quyển
của người vợ như thế, và con cái có quyền đến vậy? Rõ ràng bàng chứng mà tác già đưa
ra dã nói lên điều ngược lại với nhận định của ông. *** 181
Như đã nêu rõ ớ trên, tòi không có khả năng và ý định khào sát, đúnh giá toàn bộ
công trình của Yu Insun. Tôi chỉ giới hạn ờ việc xem xét và itưa ra những hoài nghi đôi
với cách tác giả nêu lên và chứng minh nhận định cùa mình vế diện mạo thật (không
phải trên văn bản luật) của gia đình Việt Nam
các thế kỷ XVII-XVIII. Tôi cũng không kết luận bằng việc trả lời câu hòi: vậy ihực tế
gia dinh trong giai đoạn lịch sử đó là như thế nào? Thiết nghĩ câu hỏi đó dành cho các
nhà sử học. Có thể nói: dựa trên một số bằng chứng có thể là có thật, tác giả đã đi đến
khái quát hoá mà không lưu tâm đầy đù (ỉến việc bằng chứng có đại diện cho số đông
hay không. Ví thừ ông xem xét bằng chứng theo cách tiếp cận sử học - một khoa học
nghiên cứu hành vi c on người dưới nhãn quan đặc thù hóa (particularizing perspective),
nghĩa là mỏ tả cả các sự kiện duy nhất - thì vấn đề tính đại diện của bằng chứng khỏng
đặt ra. Nhưng rõ ràng tác giả tỏ ra quan tâm đến tính đại diện; ông viết rang ông tập
trung vào phong tục các tầng lớp dưới ở miền Bắc vì "nó mang tính đại diện hơn cho
truyền thống bàn địa Việt Nam" (tr. 18). Như vậy ống muốn từ bằng chứng có thật để
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
khái quát hóa, và đã vượt ra khỏi cách tiếp cận dùng nhãn quan khái quát hóa
(generalizing perspective) của xã hội học, nghĩa là quan tâm khóng phải đến các sự kiện
duy nhất, mà những mẫu hình lặp đi lặp lại mang tính phổ biến, thường kỳ của các sự
kiện, của hành vi. Dù quan tâm như vậy song trong thực tế ông đã dừng lại ở tính đại
diện của khu vực địa lý (miền Bắc) và nhóm xã hội (tầng lớp dưới) mà không tiếp tục
quán triệt ycu cầu về tính dại diện của các bang chứng. Thế ncn những bằng chứng có
thể có thật mà óng đưa ra không chắc đại diện cho số đồng. Và ống cường điệu mức độ
của một số hiện tượng có thể có thật đó. Hơn thế nữa. ông tự mâu thuẫn quá nliiổu.
Chẳng hạn tác giả kết luận: "gia đình Việt Nam có đặc trưng là ng'íời vợ đã thật
sự bình đẳng với người chồng và tính cá thể hóa của các thành viên trong gia đình" (tr.
13). Nếu làm cõng việc dịch cuốn sách này, thì căn cứ vào nguyên vãn tiếng Anh mà
tác giả đã dùng, tỏi sẽ trình bày câu trích trên như sau cho sát ý : "Đặc điểm của gia
đình Việt Nam là người vợ đã gần như bình đẳng với chồng và có chủ nghĩa cá nhân
của các thành viên". Ý đó được tác giả nhắc lại: "Kiểu gia đình nhỏ có đặc trưng là địa
vị người vợ gần như bình đẳng với chồng, và con cái có khuynh hướng cá nhân”
(tr.237). Cứ theo những nhận định của ỏng, nhất là đoạn viết về quyền bình đảng và sy tự
chủ của phụ nữ trong ly hôn (tr.127), người đọc dề có thể ngộ nhận rằng -)ất kể pháp
luật quy định ra sao, xã hội Việt Nam giai đoạn này chắc khcng phải giải quvết vấn đề
nam nữ bình quyền. Thiển nghĩ, những nhận xét tủa ông, ngay nếu được chứng minh
một cách đầy thuyết phục - chứ không piải 182
như ỏng đã chứng minh ờ dây - thì có lẽ cũng chỉ mang ý nghĩa tương đỏi và trong bôi
cành hẹp, chảng hạn so với Trung Quốc mà thói, và gia dinh Việt Nam chưa đốn mức
"gần như hình dẳng" vợ chổng.
Theo nghĩa đó, sự hoài nghi khoa học đối với những luận điểm cùa Yu Insun về
gia đình Việt Nam thời kỳ này hàm ý rằng bạn đọc nên thận trọng, nên coi chúng như là
những giả thuyết có thể đúng, có thè không, trừ phi chúng được chứng minh một cách
thuyết phục. Và nhân thể nói thêm, một vài những ví dụ về sự không chính xác trong
bàn dịch tiếng Việt (dù đã qua hiệu đính) mà bài viết này đã dẩn ra là một cành báo nữa
ràng bạn đọc cũng cần thận trọng với cả chất lượng bàn dịch công trinh của ỏng sang tiếng Việt.
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)