








Preview text:
  lOMoAR cPSD| 47270246  1. 
Quan niệm về dân chủ: 
Dân chủ, ra đời từ thế kỷ VII-VI TCN, xuất phát từ cụm từ "demokratos" của Hy Lạp cổ đại, trong đó 
"demos" nghĩa là nhân dân và "kratos" nghĩa là cai trị. Theo đó, dân chủ được hiểu là nhân dân nắm 
quyền cai trị, và sau này khái quát thành quyền lực thuộc về nhân dân. Cốt lõi của khái niệm này vẫn 
giữ nguyên đến ngày nay, tuy nhiên, sự khác biệt chính giữa thời cổ đại và hiện đại nằm ở cách thức 
nắm giữ quyền lực và cách hiểu về khái niệm "nhân dân". 
Theo tư tưởng Mác - Lênin, dân chủ là kết quả của đấu tranh giai cấp vì sự tiến bộ của nhân loại. Nó là 
hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền và là nguyên tắc trong tổ chức chính trị - xã hội. Từ 
quan điểm này, dân chủ bao gồm ba nội dung cơ bản: 
1. Về quyền lực, dân chủ là khi quyền lực thuộc về nhân dân, và nhà nước tồn tại để phục vụ nhân dân. 
2. Dân chủ là một hình thức hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ. 
3. Về tổ chức và quản lý xã hội, dân chủ là một nguyên tắc - nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc này kết 
hợp với nguyên tắc tập trung để hình thành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quản lý xã  hội. 
Dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là phương tiện để đạt tới tự do, giải phóng con người và xã hội. 
Mặc dù dân chủ là phạm trù lịch sử, tồn tại và phát triển cùng với nhà nước, nó cũng là một giá trị xã 
hội vĩnh cửu, gắn liền với sự phát triển của con người và xã hội loài người. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển tư tưởng dân chủ, coi dân chủ là giá trị nhân loại chung. Người 
khẳng định dân chủ là "Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ", với nhà nước là công cụ phục vụ nhân 
dân. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ không chỉ bao quát mọi lĩnh vực của đời sống mà còn thể hiện qua 
quyền con người và quyền công dân, đặc biệt trong hai lĩnh vực trọng yếu: kinh tế và chính trị. Dựa 
trên tư tưởng này, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, 
đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng đã nhấn mạnh việc 
phát huy dân chủ làm động lực cho sự phát triển, với mục tiêu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa, nơi quyền lực thực sự nằm trong tay nhân dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ luật và được thể chế  hóa qua pháp luật. 
Tóm lại, dân chủ là giá trị xã hội phản ánh các quyền cơ bản của con người, là phạm trù chính trị gắn 
với tổ chức nhà nước và là một phạm trù lịch sử, gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người. 
2. Sự ra đời, phát triển của dân chủ: 
Nhu cầu về dân chủ xuất hiện từ rất sớm trong các xã hội tự quản của cộng đồng thị tộc và bộ lạc. 
Trong chế độ cộng sản nguyên thủy, hình thức sơ khai của dân chủ đã bắt đầu xuất hiện, mà Ph. 
Ăngghen gọi là "dân chủ nguyên thủy" hay "dân chủ quân sự". Đặc trưng cơ bản của hình thức này là 
việc nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua các “Đại hội nhân dân”, nơi mọi người đều có quyền 
phát biểu và tham gia quyết định bằng các hình thức như giơ tay hoặc hoan hô. Quyền lực ở đây thuộc 
về nhân dân, tạo nên một hình thức dân chủ ban đầu dù trình độ sản xuất còn thấp kém. 
Khi lực lượng sản xuất phát triển, chế độ tư hữu và giai cấp xuất hiện, hình thức "dân chủ nguyên thủy" 
dần tan rã, thay vào đó là nền dân chủ chủ nô. Trong nền dân chủ này, nhà nước được hình thành và 
dân chúng tham gia bầu cử. Tuy nhiên, khái niệm "dân" ở đây rất hạn chế, chỉ bao gồm giai cấp chủ nô 
và một số ít công dân tự do như tăng lữ, thương gia và trí thức. Phần lớn dân số, đặc biệt là nô lệ, bị 
loại khỏi quá trình quản lý nhà nước, khiến nền dân chủ chủ nô chỉ thực hiện quyền lực cho một thiểu 
số, bảo vệ lợi ích của họ mà thôi.      lOMoAR cPSD| 47270246 
Sau khi chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã, loài người bước vào thời kỳ phong kiến với sự thống trị của nhà 
nước chuyên chế. Trong giai đoạn này, quyền lực của giai cấp thống trị được khoác lên chiếc áo thần 
quyền, và ý thức dân chủ bị kìm hãm, không có bước phát triển đáng kể nào. 
Đến cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, giai cấp tư sản với những tư tưởng tiến bộ về tự do, công bằng và 
dân chủ bắt đầu mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, nền dân 
chủ tư sản là một bước tiến lớn của nhân loại, mang lại các giá trị như quyền tự do, bình đẳng và dân 
chủ. Tuy nhiên, do được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nền dân chủ tư sản vẫn 
chỉ là dân chủ của thiểu số – những người nắm giữ tư liệu sản xuất, trong khi đại đa số nhân dân lao 
động vẫn bị loại trừ. 
Khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi vào năm 1917, thời đại mới bắt đầu, mở ra thời kỳ quá độ 
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở nhiều quốc gia, nhân dân lao động giành được quyền làm 
chủ nhà nước và xã hội, thiết lập Nhà nước công nông (nhà nước xã hội chủ nghĩa), tạo ra nền dân chủ 
vô sản. Đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, xây dựng 
một nhà nước dân chủ thực sự, nơi nhân dân làm chủ và bảo vệ quyền lợi cho đại đa số quần chúng. 
Nhìn lại lịch sử, có ba hình thái dân chủ chính đã xuất hiện: dân chủ chủ nô gắn với chế độ chiếm hữu 
nô lệ, dân chủ tư sản gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa, và dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với chế độ xã 
hội chủ nghĩa. Để đánh giá liệu một nhà nước có thực sự dân chủ hay không, điều quan trọng là phải 
xem xét "dân" trong nhà nước ấy là ai, và bản chất của chế độ xã hội đó như thế nào.   
2 / Dân chủ xã hội chủ nghĩa :  a. 
Quá trình ra đời của nên dân chủ xã hội chủ nghĩa: 
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân chủ trong lịch sử và trực 
tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho cuộc đấu tranh cho dân 
chủ là một quá trình lâu dài, phức tạp và giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiện nhất, do 
đó, tất yếu xuất hiện một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó chính là nền dân chủ vô 
sản hay còn gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. 
Dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp và Công xã Pari. Tuy nhiên, 
chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công và cho ra đời Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên 
trên thế giới thì nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chính thức được xác lập. Sự ra đời của nền dân chủ 
xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ. Quá trình phát triển của nền dân 
chủ xã hội chủ nghĩa theo chiều hướng từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Trong đó, 
có sự kế thừa những giá trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc thêm những giá 
trị của nền dân chủ mới. 
 Lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng : Giai cấp vô sản không thể hoàn thành cuộc cách mạng 
xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh 
cho dân chủ. Chủ nghĩa xã hội không thể duy trì và thắng lợi, nếu không thực hiện đầy đủ dân chủ. 
Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức 
độ giải phóng cho những người lao động, thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà nước, 
quản lý xã hội. Càng hoàn thiện bao nhiêu, nên dân chủ xã hội chủ nghĩa lại càng tự tiêu vong bấy 
nhiêu. Thực chất của sự tiêu vong này theo V.I.Lênin, đó là tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi trên cơ 
sở không ngừng mở rộng dân chủ đối với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo 
điều kiện để họ tham gia ngày càng đông đảo và ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà        lOMoAR cPSD| 47270246 
nước, quản lý xã hội xã hội tự quản). Quá trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập 
quán trong sinh hoạt xã hội, ... để đến lúc nó không còn tồn tại như một thể chế nhà nước, một chế độ, 
thì nghĩa là đã mất đi tính chính trị.   
Tóm lại, có thể hiểu rằng : dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ 
tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ 
và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội 
chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Để làm được điều đó, ngoài yếu tố chủ chốt đó 
chính là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì đòi hỏi cần nhiều yếu tố như trình độ dân trí, xã hội của 
công dân, việc tạo dựng cơ chế pháp luật đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền làm chủ nhà nước và 
quyền tham gia vào các quyết sách của nhà nước, điều kiện vật chất để thực thì dân chủ.    Tóm tắt: 
Quá trình ra đời và bản chất của nền dân chủ XHCN 
- Sự ra đời và phát triển của dân chủ xã hội chủ nghĩa 
+ Giai đoạn 1: giai cấp công nhân giành lấy dân chủ 
+ Giai đoạn 2: giai cấp công nhân dùng dân chủ tổ chức nhà nước của giai cấp công 
nhân và nhân dân lao dộng 
+ Dân chủ XHCN ra đời từ sau thắng lợi của Cách Mạng Tháng 10 Nga (1917)  b. 
Bản chất của nên dân chủ xã hội chủ nghĩa: Bản chất của nền dân chủ 
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: 
Cũng như bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Việt Nam, bản 
chất dân chủ xã hội chủ nghĩa là dựa vào nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự ủng hộ, 
giúp đỡ của nhân dân. Đây là nền dân chủ mà con người là thành viên trong xã hội 
với tư cách công dân, tư cách của người làm chủ. Quyền làm chủ của nhân dân là 
tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, dân là gốc, là chủ, dân làm chủ. Điều này 
đã được Hồ Chú Minh khẳng định: 
“Nước ta là nước dân chủ. 
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. 
Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân. 
Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. 
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. 
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra. 
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. 
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở dân.” 
Kế thừa tư tưởng trong lịch sử và trực tiếp là tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, 
từ khi ra đời cho đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng luôn xác định xây 
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã 
hội, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ gắn liền với kỷ cương và      lOMoAR cPSD| 47270246 
phải thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm,.. Nội dung này được  hiểu là: 
Dân chủ là mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa (dân giàu, nước mạnh, dân 
chủ, công bằng, văn minh). 
Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa (do nhân dân làm chủ, 
quyền lực thuộc về nhân dân). 
Dân chủ là động lực để xây dựng xã hội chủ nghĩa (phát huy sức mạnh của 
nhân dân, của toàn dân tộc). 
Dân chủ gắn với pháp luật (phải đi đối với kỷ luật, kỷ cương). 
Dân chủ phải được thực hiện trong đời sống thực tiễn ở tất cả các cấp, mọi 
lĩnh vực của đời sống xã hội về lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. 
Bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thực hiện thông qua cac 
hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp, 
Hình thức dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, được thực hiện do nhân 
dân “ủy quyền”, giao quyền lực của mình cho tổ chức mà nhân dân trực tiếp bầu 
ra. Những con người và tổ chức ấy đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền làm 
chủ cho nhân dân. Nhân dân bầu ra quốc hội. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà 
nước cao nhất hoạt động theo nhiệm kỳ 5 năm. Quyền lực nhà nước ta là thống 
nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc 
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức thông 
quua đó, nhân dân bằng hành động trực tiếp của mình thực hiện quyền làm chủ nhà nước và xã hội. 
Hình thức đó thể hiện ở các quyền được thông tin về hoạt động của nhà nước, được bàn bạc về 
công việc của nhà nước và cộng đồng dân cư; được bàn đến những quyết định về dân chủ cơ sở, 
nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ qaun nhà nước từ trung ương cho đến cơ sở. Dân chủ 
ngày càng được thể hiện trong tất cả các mối quan hệ xã hội, trở thành quy chế cách thức làm việc 
của mọi tổ chức trong xã hội. Trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một yêu 
cầu tất yếu là không ngừng củng cố, hoàn thiện những điều kiện đảm bảo quyền làm chủ của nhân 
dân và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Thực tiễn xây dựng đất nước cho thấy 
dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở việc bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, 
trách nhiệm của công dân trong xã hội ngày càng được đề cao trong pháp luật và cuộc sống. Mọi 
công dân đều có quyền tham gia quản lý xã hội bằng nhiều cách khách khau, tùy theo trách nhiệm 
và nghĩa vụ của mình. Dân chủ công dân gắn liền với kỷ cương của đất nước, được thể chế hóa 
bằng luật của nhà nước pháp quyền. Trong các nguyên tắc hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Các 
quy chế dân chủ từ cơ sở cho đến trung ương và trong các tổ chức chính trị xã hội đều thực hiện 
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đảng ta khẳng định: “Mọi đường lối, 
chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân có sự tham gia ý kiến 
của nhân dân”. Bên cạnh đó, việc xây dựng dân chủ xã hội chủ nghãi ở Việt Nam diễn ra trong điều 
kiện xuất phát từ một nền kinh tế kém phát triển, lại chịu hậu quả chiến tranh tàn phá nặng nề. 
Cùng với đó là những tiêu cực trong đời sống xã hội chưa được khắc phục triệt để... Làm ảnh 
hưởng đến bản chất tốt đẹp của chế độ dân chủ nước ta, làm suy giảm động lực phát triển đất nước. 
Mặt khác, âm mưu “diễn biến        lOMoAR cPSD| 47270246 
hòa bình”, gây bạo loạn, lật đổ, sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” của các 
thế lực thù địch, vấn đề tự diễn biến, tự chuyển biến nảy sinh và diễn biến hết sức 
phức tạp đang là trở ngại đối với quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta trong hiện  nay. 
Thực tiễn cho thấy, bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa ở Việt Nam ngày càng thể hiện giá trị lấy dân làm gốc. Kể từ khi khai sinh 
ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến nay, nhân dân thực sự trở thành 
người làm chủ, tự xây dựng, tổ chức quản lý xã hội. Đây là chế độ bảo đảm quyền 
làm chủ trong đời sống của nhân dân từ chính trị, kinh tế cho đến văn hóa, xã hội; 
đồng thời phát huy tích cực, sáng tạo của nhân daann trong sự nghiệp xây dựng 
và bảo vệ Tổ quốc dân chủ xã hội chủ nghĩa.   Tóm tắt: 
+ Là dân chủ đối với giai cấp lao động và bị bóc lột, dân chủ vô sản là chế độ dân 
chủ vì lợi ích của đa số. 
+ Là thủ tiêu tình trạng áp bức bóc lột, giải phóng con người một cách triệt để, toàn  diện. 
+ Là đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.  + Bản chất kinh tế : 
• Sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về nhân dân thông qua nhà nước. 
• Chủ thể phát triển lực lượng sản xuất và thụ hưởng lợi ích là nhân dân.  + Bản chất chính trị : 
• Mang bản chất giai cấp công nhân. 
• Do Đảng Cộng sản lãnh đạo (bản chất nhất nguyên). 
• Thừa nhận chủ thể quyền lực của nhà nước là nhân dân (nhân dân xây dựng nhà nước). 
+ Bản chất tư tưởng, văn hoá, xã hội : 
• Hệ tư tưởng chủ đạo: chủ nghĩa Marx - Lenin (của giai cấp công nhân). 
• Kế thừa và phát huy tinh hoa văn hoá nhân loại. 
• Coi sự giải phóng và phát triển con người là vấn đề trung tâm. 
3. Thực trạng phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian qua: 
a. Những thành tựu đạt được: 
Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước 
trong thời kì quá độ Chủ nghĩa xã hội năm 1991, việc phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt 
Nam đã đạt được những kết quả tích cực thể hiện bản chất tốt đẹp, nhân văn của chế độ xã hội chủ 
nghĩa, được thể hiệt qua các mặt sau: 
i. Phát huy nên DC XHCN trong lĩnh vực kinh tế: 
Việt Nam tôn trọng quyền tự do phát tiển kinh tế của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước theo quy 
định chung của pháp luật đảm bảo nền kinh tế đa thành phần phát triển, công bằng, bình đẳng trước 
pháp luật, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh tạo đà phát triển mạnh mẽ, kích 
thích các thành phần kinh tế phát huy thế mạnh và đạt được nhiều thành tựu, góp phần tăng trưởng 
GDP , trung bình những năm gần đây GDP tăng khoảng 0.6%/năm (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn      lOMoAR cPSD| 47270246 
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.l, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.61). 
Chính sách phát triển kinh tế phù hợp đã góp phần làm giải phóng tiềm năng kinh tế của đất nước, dẫn 
đến sức sản xuất xã hội được phát triển thể hiện qua vietj mức thu nhập bình quân đầu người của Việt 
Nam tăng khoảng 2.779 USD, tỷ lệ hộ nghèo giảm giảm từ 9.88% ( năm 2015) xuống còn 3% ( năm 
2020) (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.l, Nxb Chính trị 
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.43). 
Việc mở rộng thị trường, quyền tự do dân chủ, đảm bảo tính công bằng, bình đẳng dẫn đến nước ta thu 
hút nhiều doanh nghiệp, nhiều nguồn đầu tư từ nước ngoài có năng lực, trình độ chuyên môn cao tham 
gia sản xuất đã góp phần cho sự bền vững và phát triển lâu dài của nền linh tế.( PHÁT HUY DÂN 
CHỦ Ở VIỆT NAM: QUAN ĐIỂM VÀ THỰC TIỄN - Tạp chí Khoa học chính trị 
(khoahocchinhtri.vn)) ii. Phát huy nền DC XHCN 
tong lĩnh vực chính trị: 
Việt Nam đã và đang nhất quán thực hành dân chủ trên mọi lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực chính trị, như 
chủ tịch Hồ Chí Minh xác định, dân chủ là “dân là chủ, dân làm chủ”. Theo Người: “… Ngày nay, chế 
độ ta là chế độ dân chủ, tức là tất cả đồng bào các dân tộc đều là người chủ nước nhà. Cán bộ từ trung 
ương đến khu, đến tỉnh, huyện và xã đều phải một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của Nhân dân, 
chứ không phải là “quan cách mạng”(Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia, 
2011, tr. 94.). Các chủ trương, đường lối , chính sách có ảnh hưởng đến lợi ích của dân đều được đưa ra 
bàn luận công khai, minh bạch, thông qua các cơ quan có thẩm quyền như Quốc hội, Hội đầu nhân dân 
để các đại biểu đại diện cho nhân dân đóng góp ý kiến thẳng thắn, hạn chế thấp nhất đến việc ảnh 
hưởng đến quyền lợi của nhân dân(PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM: QUAN ĐIỂM VÀ THỰC 
TIỄN - Tạp chí Khoa học chính trị (khoahocchinhtri.vn)). Nhiều văn bản tạo cơ sở pháp lý phát huy 
quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân được Quốc hội thông qua, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt 
Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Trưng cầu ý dân... (Thực hiện phát huy dân chủ ở nước 
ta hiện nay: Thực trạng và giải pháp | Ban Dân vận Trung ương (danvan.vn)). 
Hiện nay, Nhà nước đang thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, 
việc xây dựng bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh, cụ thể là chiến dịch chống tham nhũng ( 
chiến dịch “đốt lò”) đạt được nhiều thành công dưới thời lãnh đạo của cố Tổng bí thư Nguyễn Phú 
Trọng và chiến dịch này đã là đang được tiếp tục thực hiện dưới quyền của Tổng bí thư Tô Lâm. 
Những năm gần đây, nước ta đã thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, quyền và lợi ích của nhân dân 
được đảm bảo và mang lại nhiều hiệu quả thiết thực vào hoạt động của hệ thống chính trị. iii. 
Phát huy nền DC XHCN trong lĩnh vực văn hóa – xã hội. 
Các cá, nhân tổ chức tự do sáng tạo, tự do hưởng thụ, tự do tiếp thu những giá trị văn hóa truyền thống 
của thời đại và những văn hóa tiên tiến của nhân loại. Đặt là trong thời đợi khoa học – công nghệ phát 
triển mạnh mẻ, việc tự do hội nhập, tiếp thu có chọn lọc các văn hóa nước ngoài và cũng phát huy văn 
hóa của nước ta đã mang lại nhiều ý nghĩ cho đời sống của nhân dân. 
Việc phát huy DC đã giúp Việt Nam vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; 
các sản phẩm văn hóa , nghệ thực ngày càng phong phú đa dạng; công nghệ thông tin đặt biệt là thông 
tin đại chúng đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. nhiều phong trào hoạt động ý nghĩa có thành tựu rõ 
rệt. Một số phong trào tiêu biểu như: Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây 
dựng nông thôn mới, cùng với các hoạt động xóa đói giảm nghèo,… đã phát huy những giá trị nhân 
văn sâu sắc của dân tộc.        lOMoAR cPSD| 47270246 
Với những nổ lực trên, vị thế và uy tín của Việt Nam này càng được nâng lên trên trường quốc tế. Theo 
báo cáo Chỉ số phát triển con người Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020, chỉ số HDI năm 2020 là 0.706, 
tăng 0.024 điểm so với năm 2016, tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 0.9%. Trong Bảng xếp hạng HDI 
thế giới, thứ hạng của Việt Nam cải thiện không nhiều và trong khu vực ĐNA vẫn xếp thứ 7/11 quốc 
gia (Tổng cục thống kê, Báo cáo Chỉ số phát triển con người của Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020,  https://www.gso.gov.vn) 
THỰC TRẠNG PHÁT HUY NỀN DÂN CHỦ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN  QUA 
3.Những hạn chế và nguyên nhân   3.1 . Kinh tế 
- Tham nhũng và thiếu minh bạch trong quản lý kinh tế: Tình trạng tham ô, lãng phí, tiêu cực và tham 
nhũng tại Việt Nam diễn ra trong nhiều thập niên qua, xảy trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội và ở tất cả các 
ngành, các cấp. Tham nhũng, lãng phí đã gây ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội và làm giảm 
niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Đây là vấn đề nghiêm trọng và phổ biến trong hệ thống kinh tế 
Việt Nam. Sự thiếu minh bạch trong quản lý tài chính và đầu tư công có thể dẫn đến lãng phí nguồn lực, làm 
giảm hiệu quả của các dự án phát triển. 
Ví dụ: Nhiều vụ án tham nhũng lớn đã được công khai, như vụ Tổng Công ty Xây lắp dầu khí (PVC) (năm 
2018) với sự liên quan của nhiều quan chức cấp cao trong lĩnh vực kinh tế và chính trị. Điều này làm giảm 
niềm tin của nhà đầu tư và công chúng vào hệ thống quản lý kinh tế. 
( https://www.xaydungdang.org.vn/ly-luan-thuc-tien/tham-nhung-va-nhung-giai-phap-phong-chong- thamnhung-bai-2-17222 ) 
- Chênh lệch phát triển vùng miền: Sự chênh lệch phát triển giữa các vùng cao và khu vực thành thị ở Việt 
Nam là một vấn đề đáng quan tâm, với nhiều yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế và xã hội. Khu vực 
vùng cao, nơi tập trung của nhiều dân tộc thiểu số sinh sống có vị trí địa lý chủ yếu là đôi, núi tạo ra những rào 
cản trong việc tiếp cận cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công như y tế và giáo dục. Khả năng tiếp cận cơ sở vật chất cơ bản vẫn 
còn hạn chế phân lớn người dân dân tộc thiểu số không có nhà vệ sinh đạt chuẩn , không được tiếp cận với nguồn nước hợp vệ 
sinh, nhiều nơi chưa có điện sinh hoạt. Vị trí địa lí chủ yếu là đôi, núi nên nhiều học sinh người DTTS phải đi một quãng 
đường xa để tới trường phổ thông, thường rơi vào khoảng từ 9 km thậm chí lên tới 70 km, phần lớn nam giới được đi học do 
tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn còn khiến cho tỉ lệ người không biết chữ ở vùng cao vẫn còn cao. Các dân tộc thiểu số có 
thu nhập chủ yếu là từ rừng, sản xuất lâm nghiệp, sản xuất nông nghiệp 
Ví dụ: Các vùng như Tây Nguyên, Tây Bắc thường gặp khó khăn trong việc thu hút đầu tư và phát triển kinh tế, do đó mức 
sống và cơ hội việc làm tại các khu vực này thấp hơn đáng kể so với các thành phố lớn. 
( https://vietnam.opendevelopmentmekong.net/vi/topics/ethnic-minorities-and-indigenous-people/ ) 
- Thiếu tự do kinh tế và quyền sở hữu tài sản không rõ ràng: quyền sở hữu đất đai 
- Hạn chế trong việc phát triển khu vực tư nhân  3.2. Chính trị  
- Nhận thức về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn hạn chế, chưa đầy đủ và hệ thống, chưa 
lý giải và làm sáng tỏ kịp thời nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ 
và kỷ luật, kỷ cương; chưa coi trọng đúng mức phát triển các hình thức dân chủ trực tiếp.      lOMoAR cPSD| 47270246 
- Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức về dân chủ còn phiến diện, nhất là thực hành dân chủ 
trong Đảng . Có người cho rằng dân chủ trong Đảng thì đảng viên được tự do phát ngôn và tuyên truyền trên 
các phương tiện thông tin đại chúng quan điểm riêng của mình. Cá biệt, có người còn muốn tổ chức đảng chỉ 
như “câu lạc bộ”, được tranh luận, bàn cãi bất kỳ vấn đề gì, không tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. 
- Một bộ phận đảng viên lại hiểu dân chủ trong Đảng một cách cứng nhắc, coi dân chủ như là phương tiện để 
đạt đến sự tập trung, không muốn đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới độc lập suy nghĩ, tìm tòi khoa học, đồng 
nhất khoa học với chính trị, đồng nhất ý kiến nghiên cứu, trao đổi với quan điểm, đường lối của Đảng 
- Một số cán bộ, đảng viên không nhận thức đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ đã dẫn đến lạm quyền, bao 
biện, làm thay, độc đoán, gia trưởng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. 
( https://isos.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/ly-luan-thuc-tien/thuc-hien-phat-huy-dan-chu-o-nuoc-ta-hien-naythuc-
trang-va-giai-phap-42805.html ) 
3.3 . Văn hoá – xã hội 
“Chúng ta hội nhập chứ không có hoà tan” 
- Thương mại hóa văn hóa: Văn hóa được xem là không thể bị “thương mại” vì thương mại sẽ làm vẩn đục 
các sản phẩm văn hóa, mất đi giá trị đẹp đẽ cần có. Tuy nhiên hiện nay, quan điểm này ở Việt Nam đã thay 
đổi. Chúng ta ít nhiều đã thừa nhận thương mại hóa văn hóa là không xấu, thậm chí cần thiết trong nền kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng nếu thương mại hoá mãi chạy theo lợi nhuận thu nhập thì các 
nội dung văn hóa sẽ bị chi phối bởi nhu cầu tiêu thụ, dẫn đến tình trạng thiếu chiều sâu và tính đa dạng ( 
https://vov.vn/van-hoa-giai-tri/thuong-mai-hoa-van-hoa-khong-phai-la-xau-1061098.vov ) 
Vd: Các trang phục cung đình triều Nguyễn được các nhà thiết kế trẻ phục dựng lại 
- Đầu tư hạn chế cho văn hóa: Đảng ta đã xác định “Văn hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã 
hội”.Mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển văn hoá, nhưng nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực này vẫn còn hạn chế, 
ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng hoạt động văn hoá, nghệ thuật. 
( https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=83412 ) 
Vd: văn hoá của các dân tộc thiểu số,... 
-Thiếu đa dạng trong văn hoá:Các giá trị của văn hoá truyền thống và các văn hoá của dân tộc thiểu sô chưa được bảo 
tồn và phát triển đúng mức. Các chính sách tập trung phát triển các văn hoá phổ biến, dẫn đến sự mai một của nhiều văn 
hoá địa phương. ( https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/19676/da-dang-van-hoa-va-su-phattrien- xa-hoi.aspx ) 
- Tham gia cộng đồng hạn chế 
‘’’’- Thiếu sự đa nguyên chính trị: Một số người đối lập dân chủ với tập trung, tách rời việc phát huy sáng 
kiến, sáng tạo của đảng viên với việc thực hiện kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. 
- Hạn chế trong sự tham gia của người dân vào quá trình quyết định chính sách:        lOMoAR cPSD| 47270246 
- Công bằng xã hội chưa được đảm bảo: Mặc dù nước ta đã thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng 
trong thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội nhưng thực tế cho thấy khoảng cách giàu nghèo và tình trạng bất 
bình đẳng xã hội vẫn diễn ra 
( https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/827488/thuc-
hientien-bo%2C-cong-bang-xa-hoi-gop-phan-hien-thuc-hoa-ban-chat-tot-dep-cua-che-do-xa-hoi- chunghia-o-viet-nam.aspx ) 
4. Thực trạng phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới: 
a) Trên lĩnh vực kinh tế:   Phòng chống tham nhũng