



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 45474828
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI ----- -----
BỘ MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN:
SUY NGHĨ CỦA EM VỀ NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM TIÊN
TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Thị Thúy
Nhóm thực hiện: Nhóm 3 lOMoAR cPSD| 45474828
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BIÊN BẢN SINH HOẠT NHÓM
Thời gian làm việc: 15 giờ 30 phút – 17 giờ ngày 15/09/2022 Địa
điểm làm việc: Phòng tự học V603 trường Đại học Thương Mại Thành viên Tham gia: 1. Nguyễn Ngọc Hiếu 2. Vũ Minh Hiếu 3. Nguyễn Anh Hoa 4. Trương Thị Thanh Hoài 5. Vi Huy Hoàng
6. Bùi Thúy Hồng – Trưởng nhóm 7. Đồng Thị Hồng
8. Giáp Thị Huế - Thư ký 9. Phạm Thị Huệ 10. Hoàng Quỳnh Hương Thành viên vắng: 0
Nội dung cuộc họp: Nhóm trưởng phổ biến nhiệm vụ và thời gian hoàn thành nội dung cho
từng thành viên, các thành viên đóng góp ý kiến xây dựng bài thảo luận.
Hà nội, ngày 15 tháng 09 năm 2022 Trưởng Nhóm Thư ký
Bùi Thúy Hồng Giáp Thị Huế
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc lOMoAR cPSD| 45474828 BIÊN BẢN SINH HOẠT NHÓM
Thời gian làm việc: 9 giờ – 11 giờ ngày 17/09/2022
Địa điểm làm việc: Phòng tự học V603 trường Đại học Thương Mại Thành viên Tham gia: 1. Nguyễn Ngọc Hiếu 2. Vũ Minh Hiếu 3. Nguyễn Anh Hoa 4. Trương Thị Thanh Hoài 5. Vi Huy Hoàng
6. Bùi Thúy Hồng – Trưởng nhóm 7. Đồng Thị Hồng
8. Giáp Thị Huế - Thư ký 9. Phạm Thị Huệ 10. Hoàng Quỳnh Hương Thành viên vắng: 0
Nội dung cuộc họp: Nhóm trưởng phổ biến nhiệm vụ và thời gian hoàn thành nội dung cho
từng thành viên, các thành viên đóng góp ý kiến xây dựng bài thảo luận.
Hà nội, ngày 17 tháng 09 năm 2022 Trưởng Nhóm Thư ký
Bùi Thúy Hồng Giáp Thị Huế lOMoAR cPSD| 45474828
Bảng đánh giá các thành viên: Tên thành viên Nhiệm vụ Nhóm trưởng Giảng viên đánh giá đánh giá 1. Nguyễn Ngọc Hiếu 2. Vũ Minh Hiếu 3. Nguyễn Anh Hoa 4. Trương Thị Thanh Hoài 5. Vi Huy Hoàng 6. Bùi Thúy Hồng 7. Đồng Thị Hồng 8. Giáp Thị Huế 9. Phạm Thị Huệ 10 . Hoàng Quỳnh Hương
MỤC LỤC Phần mở đầu I, Cơ sở lý thuyết. 1. Văn hóa là gì? 2. Văn hóa tiên tiến
3. Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
II. Quan điểm của Đảng về nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1896-2021)
1. Nội dung nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc mà Đảng xây dựng.
2. Tác động của Văn hóa tới các lĩnh vực khác.
a. Văn hóa tác động tới kinh tế. lOMoAR cPSD| 45474828
b. Văn hóa tác động tới Chính trị
c. Văn hóa tác động tới Xã hội
III. Gìn giữ và phát huy nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
1. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam hiện nay.
2. Giải pháp phát triển nền Văn hóa Việt Nam. a. Đối với Đảng
b. Đối với thanh niên Việt Nam. LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam. Người không chỉ cống hiến cả cuộc
đời mình cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước xã hội chủ
nghĩa mà còn để lại những di sản vô cùng quý giá cho nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh
không chỉ là hệ tư tưởng của đảng, của dân tộc ta mà còn là kim chỉ nam cho mọi đường
lối, chính sách của Đảng để tiếp tục sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí quan
trọng. Văn hóa có vai trò to lớn trong đời sống của mỗi quốc gia dân tộc. Theo Người,
tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có cả vật chất lẫn tinh thần, song con người là nhân tố
quyết định. Để đưa đất nước đi lên, không thể không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng
chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là con người và thước đo trình độ con người lại
chính là văn hóa. Người nhấn mạnh: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề
chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Vì thế,
văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế,
chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn
hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy
nhất thì chẳng những môi trường văn hóa – xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng
không đạt được. Hơn nữa, văn hóa là linh hồn, bản sắc dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng,
văn hóa không thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa trước hết là văn hóa của một
dân tộc, nó mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó chính là bản sắc dân tộc của văn hóa. Để
xây dựng một nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng và nhà nước ta phải có
những chính sách, biện pháp đúng đắn trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn lOMoAR cPSD| 45474828
hóa. Từ đó, nhóm em xin chọn đề tài “Suy nghĩ của em về nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” để tìm hiểu và làm rõ hơn nền văn hóa nước ta. I, Cơ sở lý thuyết. 1. Văn hóa là gì?
- Theo UNESCO: Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong
quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên
một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc
tính riêng của mỗi dân tộc.
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. 2. Văn hóa tiên tiến
- Nền văn hóa tiên tiến thể hiện tinh thần yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lí
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển
phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân
và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
3. Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
- Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã –
Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng
tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giải dị trong lối sống... Bản sắc văn
hóa dân tộc còn đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
II. Quan điểm của Đảng về nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1896-2021) lOMoAR cPSD| 45474828
1. Nội dung nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc mà Đảng xây dựng.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với tư duy đổi mới toàn diện, Đảng đã chủ
trương đổi mới tư duy trên lĩnh vực văn hóa. Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị (Khóa VI)
đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW về lãnh đạo văn hóa - văn nghệ trong cơ chế thị
trường. Nghị quyết đã xác định những định hướng lớn chỉ đạo việc đổi mới và nâng cao
chất lượng phê bình văn học - nghệ thuật; công tác quản lý văn học - nghệ thuật và một
số nhiệm vụ văn hóa - văn nghệ.
Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991 của Đảng xác định một trong sáu đặc trưng của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng là: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí, vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Đồng
thời, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính
và phẩm giá con người; chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Quán triệt nguyên tắc tính dân tộc, tính đại chúng, tính khoa học, Cương lĩnh đã
chỉ rõ những định hướng về xây dựng nền văn hóa mới gồm: Tạo ra đời sống tinh thần
cao đẹp, phong phú, đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ. Phát huy vai trò
văn học, nghệ thuật trong nuôi dưỡng, nâng cao tâm hồn Việt Nam; khẳng định và biểu
dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, thiện, mỹ theo quan điểm tiến bộ;
đấu tranh phê phán những cái phản văn hóa, lỗi thời, thấp kém; bảo đảm quyền được
thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân; phát triển các phương tiện thông tin đại
chúng, thông tin đa dạng, nhiều chiều, kịp thời, chân thực và bổ ích.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương (khóa VIII) tháng 7 năm
1998, đã ra Nghị quyết chuyên đề về: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc", xác định những quan điểm cơ bản: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ, trong đó, cốt
lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí lOMoAR cPSD| 45474828
Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do,
toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã
hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là, lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lòng
nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế
trong ứng xử, tính giản dị trong cuộc sống; dũng cảm, kiên cường, bất khuất trong đấu
tranh chống giặc ngoại xâm …”
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) đã tiến thêm một bước
về khẳng định vai trò của văn hóa: "Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế
là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa
nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là
điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước". Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, phải giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; quan tâm chăm lo xây dựng, hoàn thiện những phẩm giá nhân cách tốt đẹp
của con người Việt Nam. Trong quá trình hội nhập và phát triển, để chủ động đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư
tưởng, văn hóa và ngăn chặn "luồng văn hóa độc hại" xâm nhập vào nước ta từ nhiều con
đường khác nhau, Bộ Chính trị (khóa X) đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 23NQ/TW
“Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, định hướng
cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm giữ gìn, bảo vệ "bản sắc văn hoá dân
tộc” trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Bộ Chính trị yêu cầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận,
đoàn thể các cấp và đội ngũ đảng viên, cán bộ tăng cường đấu tranh trên lĩnh vực tư
tưởng, văn hóa và chung tay góp sức, kiên quyết ngăn ngừa, phòng, chống sự xâm nhập
của các sản phẩm văn hóa độc hại, ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống và đạo đức xã hội. lOMoAR cPSD| 45474828
Kế thừa ba nguyên tắc cuộc vận động văn hóa mới của “Đề cương Văn hóa Việt
Nam” và phát triển tư tưởng văn hóa của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ tiến bộ; làm cho văn
hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những
tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích
chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thì chỉ rõ: “Văn hóa phát triển chưa tương xứng
với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản còn thiếu chặt chẽ.
Môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục,
các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy
đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại". Đây là những nguy cơ tiềm
ẩn làm xói mòn các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gây mất trật
tự an ninh xã hội, cản trở sự phát triển bền vững của đất nước.
Tới đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết đã nêu lên vấn
đề: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc.”
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà
nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, việc xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã không ngừng được củng cố, phát triển. Gắn
nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Lĩnh vực văn hóa, xã hội chưa
có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao; đời sống của một phận nhân dân còn khó khăn”.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ ra: “Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn lOMoAR cPSD| 45474828
nhiều lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về văn
hóa. Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Chưa có giải
pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hóa,
đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội”.
Do những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế,
lĩnh vực văn hóa cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, tác động không nhỏ đến văn
hóa truyền thống của dân tộc.
2. Tác động của Văn hóa tới các lĩnh vực khác.
Về mối quan hệ giữa phát triển lĩnh vực văn hóa với các lĩnh vực khác trong đường
lối phát triển đất nước nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa được người đứng
đầu Đảng ta xác định rất rõ: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã
hội”. “Đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp
cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”; “văn hóa còn thì dân tộc còn”, “văn hóa thực sự là nền tảng tinh
thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”; phát huy giá trị văn hóa và
sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh
vượng nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách
thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển, thu nhập
cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI”.
a. Văn hóa tác động tới kinh tế. Tích cực:
Từ khi Đảng lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới, tư duy về văn hóa, về mối quan
hệ giữa văn hóa và kinh tế đã có sự thay đổi. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển nói
chung, đối với phát triển kinh tế nói riêng đã được nhìn nhận một cách toàn diện và thấu
đáo hơn. Văn hóa được xem là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự
phát triển kinh tế. Bản chất của văn hóa là sự sáng tạo hướng tới các giá trị nhân văn, vì
con người. Vì con người, vì ấm no, hạnh phúc của con người và sự thịnh vượng của quốc
gia - đây cũng chính là mục tiêu của phát triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. lOMoAR cPSD| 45474828
Công nghiệp văn hóa là một tập hợp các ngành phát triển dựa trên sự khai thác tổng
hợp các yếu tố: sáng tạo, khoa học - công nghệ, thị trường và vốn văn hóa. Thay vì khai
thác nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn như nhiều ngành nghề khác, ngành công nghiệp
văn hóa khai thác nguồn tài nguyên vô hạn là sức sáng tạo của con người. Công nghiệp văn
hóa chính là một biểu hiện tập trung của sự gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa và kinh tế trong phát triển.
Văn hóa không chỉ là động lực gián tiếp mà văn hóa còn là động lực trực tiếp cho
sự phát triển kinh tế. Sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa đã và đang mang lại
kỳ vọng vào một hướng phát triển nhanh, bền vững của nhiều quốc gia, trong đó có Việt
Nam. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nhân chính là
những thực tế sinh động của sự thẩm thấu những giá trị văn hóa vào hoạt động kinh tế. Với
tư cách là động lực của phát triển, văn hóa góp phần tạo dựng môi trường lành mạnh để
phát triển kinh tế. Ở đó, con người có điều kiện và cơ hội để phát huy năng lực sáng tạo,
chủ động tham gia tích cực vào đời sống kinh tế. Đồng thời, một môi trường văn hóa lành
mạnh sẽ là mảnh đất màu mỡ để phát triển nền kinh tế thị trường văn minh, đẩy lùi các tiêu
cực và tệ nạn xã hội.
Sự hiện diện và thẩm thấu của văn hóa trong các hoạt động kinh tế ngày càng sâu
rộng hơn. Với tư cách là động lực cho sự phát triển kinh tế, văn hóa đã tham gia điều tiết
và thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở nhiều phương diện, tiêu biểu là các phương diện sau:
Thứ nhất, hệ giá trị văn hóa điều tiết các hoạt động kinh tế theo hướng nhân văn.
- Hệ giá trị văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc được hình thành trong suốt chiều dài
lịch sử, dưới tác động của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội... Hệ giá
trị ấy quy định sự lựa chọn, thế ứng xử của cả cộng đồng và của từng cá nhân thuộc
về cộng đồng ấy. Khi các giá trị văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trong
đó có hoạt động kinh tế, nó sẽ có tác dụng định hướng, điều chỉnh các hoạt động
của các chủ thể kinh tế theo hướng nhân văn, vì cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Lúc này,
các chủ thể kinh tế không chỉ quan tâm đến lợi nhuận, mà còn quan tâm đến lợi ích
của người lao động, trách nhiệm với cộng đồng, với môi trường, với quốc gia. lOMoAR cPSD| 45474828
- Khi văn hóa tham gia điều tiết các hoạt động kinh tế, trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp gia tăng, khi đó, không chỉ doanh nghiệp được lợi mà cộng đồng, xã hội và
người dân cùng được chia sẻ lợi ích. Như vậy, văn hóa là đường dẫn để kết nối giữa
tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đây chính là một
trong các tiền đề để phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Thứ hai, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tinh thần yêu nước, ý chí tự cường
dân tộc trong phát triển kinh tế.
- "Khát vọng và ý chí phát triển là động lực hết sức quan trọng để đưa mọi dân tộc đi
tới thịnh vượng và thành công". Khát vọng về một đất nước độc lập, hòa bình, phồn
vinh, hạnh phúc đã hun đúc nên ý chí, dẫn dắt các thế hệ người Việt Nam vượt thoát
khỏi bao cuộc thử thách hiểm nghèo của lịch sử, giành lại độc lập và chung tay xây
dựng đất nước. Lịch sử đã chứng minh rằng những giá trị văn hóa được khơi dậy
đúng mức sẽ biến thành sức mạnh to lớn.
- Có thể nói, cơ đồ dân tộc khát vọng phát triển đất nước đã tạo nên sự chuyển động
của nền kinh tế quốc dân trong cả mục tiêu và phương thức phát triển. Xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ
kinh tế quốc tế không chỉ là phương châm phát triển kinh tế quốc gia mà còn thể
hiện rõ trong định hướng phát triển của các doanh nghiệp. Trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng đổi mới, sáng tạo, bằng
ý chí, nỗ lực, khẳng định được uy tín, vị thế trên thương trường. Từ các slogan đến
các kế hoạch sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này đã thể hiện được khát
vọng phát triển, ý chí tự cường, lòng tự hào dân tộc. Không giới hạn mình trong
phạm vi biên giới lãnh thổ, rất nhiều doanh nghiệp đã vươn ra thị trường quốc tế và
khẳng định thương hiệu.
• Thứ ba, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Vai trò của văn hóa trong phát
triển kinh tế không chỉ dừng lại ở vị thế của những nguồn lực tinh thần, tham gia
điều tiết, định hướng, thúc đẩy phát triển kinh tế, mà văn hóa còn là động lực trực
tiếp cho sự phát triển kinh tế. Thực tế đã chứng minh rằng rất nhiều các lĩnh vực lOMoAR cPSD| 45474828
văn hóa nếu được khai thác hợp lý sẽ có khả năng đóng góp trực tiếp cho nền kinh
tế quốc dân. Phát triển công nghiệp văn hóa chính là sự lựa chọn hiệu quả cho hướng phát triển này. • Tiêu cực:
Nhiều nền văn hóa coi trọng truyền thống nên chưa thực sự coi trọng sự sáng tạo,
đổi mới. Trong thời kỳ hội nhập, sự đổi mới, thay đổi nhanh chóng của các nước trên thế
giới tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Không thực sự coi trọng
sự đổi mới, sáng tạo như một rào cản hội nhập kinh tế, kéo dài khoảng cách sự phát triển
kinh tế giữa các quốc gia hơn, đem nền kinh tế của quốc gia đó trở thành nền kinh tế lạc hậu.
Những kiêng kỵ trong văn hóa cũng hạn chế nhiều sự phát triển của kinh tế. Nhiều
doanh nghiệp phải thay đổi sản phẩm, chiến lược của mình để thích nghi được với nền văn
hóa sở tại. Những doanh nghiệp không thể thích nghi sẽ dễ bị bài trừ. Mặt khác, một số hủ
tục còn tồn tại trong các nền văn hóa như tảo hôn, kết hôn cận huyết, cúng ốm đau, ... cũng
làm chậm rất nhiều sự phát triển của kinh tế.
=> Văn hóa có vai trò quan trọng với tư cách là nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình
phát triển kinh tế. Tiềm năng phát triển của mỗi quốc gia gồm nhiều yếu tố, mà yếu tố quyết
định là văn hóa, được thể hiện qua năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con
người ở quốc gia đó. Văn hóa khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, quyết định
sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Vậy nên, trong xã hội hiện đại, các yếu tố nền tảng
của văn hóa, nếu được khai thác, phát huy sẽ trở thành một động lực to lớn đối với sự phát triển kinh tế.
b. Văn hóa tác động tới Chính trị Tác động tích cực:
- Thứ nhất, Văn hóa đi cùng, tham gia tích cực vào chính trị và phổ nét văn hóa vào
tư tưởng, tổ chức, cấu trúc và hành xử chính trị, thậm chí điều chỉnh tư tưởng và lOMoAR cPSD| 45474828
hành xử chính trị, góp phần tối ưu hóa các quyết sách chính trị, tạo nên "văn hóa chính trị".
Với chính trị, chính trị được bảo đảm bởi văn hóa, văn hóa chứ không đơn thuần là học
vấn, sẽ là một nền chính trị nhân văn, vì con người. Từ thể chế, thiết chế bộ máy, cơ
chế vận hành, đường lối chính sách, môi trường dân chủ xã hội cho sự tham chính của
đông đảo các công dân một cách thực chất, vừa ủy quyền vừa giám sát, kiểm soát quyền
có hiệu quả... cho đến tổ chức, lực lượng lãnh đạo, cầm quyền, quản lý, điều hành chính
sự với những con người và hành vi chấp chính sao cho đúng đắn, hợp lý, hợp hiến, hợp
pháp, chính danh, chính đáng và xứng đáng trong sự thừa nhận của xã hội và trong con
mắt đánh giá của người dân...
- Thứ hai, Văn hóa làm cho chính trị không còn mang bóng dáng của sự áp đặt quyền
lực, mà nhuần nhị, uyển chuyển như dòng chảy tự nhiên thuận lòng người, hợp đạo
trời, đầy giá trị nhân bản.
Văn hóa có hàm nghĩa rất rộng, cần xác định rõ những nhân tố văn hóa nào tác động
trực tiếp vào chính trị có thể phát huy tác dụng tốt nhất đối với sự hình thành văn hóa chính
trị, nhất là văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền.
- Thứ ba, Truyền thống văn hóa, lịch sử, tâm lý, phong tục, tập quán, dư luận xã hội
là những tác nhân gây ảnh hưởng không nhỏ tới chính trị.
Nói tới chính trị là nói tới quyền lực và cầm quyền, nổi bật là quyền lực chính trị của Đảng,
quyền quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân, nhất là quyền tham chính -
tham gia giám sát, kiểm soát quyền lực của nhân dân. Quyền luôn bị ràng buộc bởi trách
nhiệm và nghĩa vụ. Quan hệ chính trị vì thế cũng là quan hệ pháp lý, cần được quy định rõ
ràng bởi hiến pháp, luật pháp, điều lệ, quy tắc, nguyên tắc... Tóm lại, phải có thể chế ràng
buộc, chi phối. Chính trị hướng trực tiếp vào vấn đề chính quyền với thiết chế (tổ chức, bộ máy) nhà nước. Tác động tiêu cực:
- Một nền Văn hóa bị lệch hướng cũng đồng nghĩa với việc nền chính trị trở nên bất ổn.
Thực tế đã cho thấy, những tác động xấu mà nó mang lại như: lOMoAR cPSD| 45474828
Văn hóa - Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ 18 - đầu thế kỉ 19 vẫn còn là chế độ Phong
kiến, còn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu, vậy nên Thực dân Pháp đã lợi dụng sự yếu ớt của
Việt Nam thời bấy giờ để “khai hóa văn minh” - một luận điệu xuyên tạc nhằm xâm lược
Việt Nam. Đáng nói hơn là, nhằm nô dịch, đầu độc, bóc lột dân ta, chính quyền thuộc địa
đã áp dụng chính sách độc quyền, khuyến khích tiêu thụ rượu, thuốc phiện. “Lúc ấy, cứ
một nghìn làng thì có đến một nghìn năm trăm đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng
cũng trong số một nghìn làng đó lại chỉ có vẻn vẹn mười trường học”.
c. Văn hóa tác động tới Xã hội Tác động tích cực:
- Thứ nhất, Đối với mỗi quốc gia, dân tộc, văn hóa ứng xử thường mang dấu ấn trong
cách tư duy, cách giáo dục, cách hành xử của mỗi con người, tính nhân văn của cộng
đồng và thể hiện trong chính sách phát triển xã hội, có tác động nhất định đến sự
phát triển kinh tế - xã hội.
- Thứ hai, Một trong những tác động của văn hóa nói chung, văn hóa ứng xử nói
riêng, đến xã hội thể hiện qua hiệu ứng chức năng. Đó là sự phản ánh cách thức văn
hóa hoạt động để có thể duy trì và phát triển xã hội. Những tác động này có thể kể
đến việc thúc đẩy sự tham gia của người dân, góp phần phát triển cộng đồng, hình
thành và giữ gìn bản sắc, xây dựng sự gắn kết xã hội… Suy nghĩ và hành vi của mỗi
người chịu ảnh hưởng bởi hai yếu tố cá nhân và môi trường xã hội và hai hình thức
định hướng là điều chỉnh và chế tài.
Những hành động được điều chỉnh theo quy định của pháp luật, theo những quy phạm pháp
luật, chịu những chế định cụ thể. Đây là cách định hướng bề nổi vì chúng có thể được nhận
diện rõ ràng. Mọi người dân sống trong xã hội đều phải tuân thủ những điều được quy định
trong Hiến pháp và pháp luật. Nếu vi phạm những điều đó, con người sẽ phải chịu xử phạt
theo các chế tài. Đây là những quy định theo hình thức mang tính chất bắt buộc và góp
phần định hướng hoạt động của con người trong hoạt động thực tiễn với mục đích bảo vệ
và bảo đảm sự công bằng giữa mọi người. lOMoAR cPSD| 45474828
Những ảnh hưởng ngầm không được công nhận theo hướng chính thức ở bề nổi và khó
nhìn thấy được. Đó là các thông lệ, thói quen và các “luật bất thành văn” góp phần hình
thành nên văn hóa ứng xử, bởi quan niệm “trăm cái lý không bằng một tý cái tình” trong
văn hóa Việt Nam. Trong cách tư duy của người Việt, cái tình luôn có tác động mạnh và
trực tiếp đến hành vi của con người. Trong một xã hội như vậy, những hành động thể hiện
nhân tính, tình người được đánh giá cao, được tôn vinh. Bởi vậy, để có được sự ủng hộ của
cộng đồng trong quá trình phát trình phát triển xã hội, việc tác động đến tình cảm của con
người là rất quan trọng.
=> Trên cơ sở các định hướng đó, văn hóa ứng xử được hình thành, phát triển và chi phối
đến suy nghĩ, hành vi của con người trong xã hội. Tuy nhiên, văn hóa ứng xử vừa thể hiện
những tác động, vừa được hoàn thiện theo sự phát triển xã hội. Do vậy, cần có cách nhìn
khách quan để nhận diện những tác động của văn hóa ứng xử đến sự phát triển xã hội. Một
số cách thức thể hiện sự tác động có thể kể đến là: Cách con người giao tiếp với nhau; cách
con người thể hiện thái độ, hành vi; cách thích ứng của con người trong xã hội. Tác động tiêu cực
+ Thực tế đời sống xã hội đang tác động nhiều chiều dẫn đến nhiều cách hiểu sai về chuẩn
mực các quan hệ xã hội. Đây là hệ quả tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa, không chỉ riêng đối với Việt Nam.
+ Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, sự phát triển xã hội Việt Nam
cũng bị ảnh hưởng nếu như con người thiếu nhận thức đúng đắn về sự giao lưu và kết nối
văn hóa. Điều đó phản ánh nền tảng văn hóa trong mỗi con người, sự vững chắc của giá trị
văn hóa trong xã hội, do vậy, văn hóa ứng xử là một trong những cơ sở thể hiện khả năng
phát triển xã hội, vì nó thể hiện sự nhận thức và hành động của các cá nhân, của cộng đồng
và được thể hiện trong chính sách phát triển xã hội của hệ thống chính trị.
+ Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, sự giao lưu văn hóa đã và đang tạo ra không
ít thách thức với chính con người với vai trò là đối tượng tạo ra và phát triển văn hóa, trong
việc nhận thức về giá trị của văn hóa, phát huy giá trị của giao lưu văn hóa trong đời sống lOMoAR cPSD| 45474828
xã hội. Từ góc độ văn hóa ứng xử, rõ ràng có một bộ phận, nhất là giới trẻ chưa tìm được
cách thể hiện mình trong điều kiện đa văn hóa hiện nay.
III. Gìn giữ và phát huy nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
1. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam hiện nay.
- Việt Nam là đất nước có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, có bề dày truyền thống hàng
nghìn năm. “Hiện nay, cả nước có tới 166 bảo tàng, trong đó có 4 bảo tàng quốc gia
với hơn 3 triệu hiện vật; 3.486 tổng di tích được xếp hạng quốc gia, trong đó có
1.626 di tích lịch sử; 105 di tích quốc gia đặc biệt; 288 di sản văn hóa phi vật thể
quốc gia (riêng Hà Nội có 21 lễ hội); 27 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được
UNESCO công nhận là “Di sản văn hóa thế giới” . Đó là một tài sản vô cùng quý
báu do Tổ tiên, cha ông ta mấy nghìn năm để lại, không phải nơi nào cũng có được;
chúng ta có trách nhiệm phải giữ gìn, trân trọng và phát huy; nếu không sẽ có tội với lịch sử.
- Nền văn hóa Việt Nam có hệ giá trị và bản sắc riêng, không bị đồng hóa bởi bất kỳ
kẻ thù xâm lược nào. Hệ giá trị và bản sắc đó đã tạo nên “sức mạnh mềm” của văn hóa Việt Nam.
Đánh giá về những kết quả đạt được, Đại hội Đảng lần thứ XIII đã chỉ ra:
- Nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Các lĩnh
vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu
nhiều mặt của đời sống xã hội.
- Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy.
- Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát
huy hiệu quả, thiết thực.
- Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc.
- Phát triển toàn diện con người Việt Nam từng bước trở thành trung tâm của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội. lOMoAR cPSD| 45474828
- Việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm,
hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống con người được chú trọng.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực đạt được, lĩnh vực văn hóa, lối sống cũng còn tồn tại, hạn chế như:
- Thụ động, trì trệ, tác phong thiếu kỷ luật, lối suy nghĩ và hành động nặng về “tình”
mà ít về “lý”, “dĩ hòa vi quý”, không phù hợp với xã hội hiện đại.
- Những biểu hiện phai nhạt về lý tưởng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, quay lưng lại với những giá trị truyền thống của dân tộc, chạy theo lối sống
thực dụng của một bộ phận cư dân...
- Nguyên nhân của tình trạng này, Đại hội Đảng lần thứ XIII cũng chỉ ra, đó là: Văn
hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành
nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước.
- Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có
chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần.
- Môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực.
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn nhiều lúng túng, chậm trễ trong
việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa...
2. Giải pháp phát triển nền Văn hóa Việt Nam. a. Đối với Đảng
Trong suốt chặng đường hơn 83 năm lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi hai cuộc
kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN hiện nay, Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của văn hóa và thường
xuyên quan tâm lãnh đạo, phát huy sức mạnh văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Đảng ta xác định: "Văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hóa", vì
vậy, "phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được công cuộc cải tạo xã hội"
và "Đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa tiên phong"; đồng thời, đề ra ba nguyên tắc lOMoAR cPSD| 45474828
cuộc vận động văn hóa mới: Dân tộc, đại chúng, khoa học. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ba
nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa mới đã trở thành ngọn cờ cổ vũ, động viên, tập hợp
đông đảo đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ vào Hội Văn hoá cứu quốc và soi đường cho các
hoạt động của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, tạo thành sức mạnh tinh thần to lớn, động viên,
cổ vũ nhân dân ta tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng
lợi, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - lừng
lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, để chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và ngăn
chặn "luồng văn hóa độc hại" xâm nhập vào nước ta từ nhiều con đường khác nhau, Bộ
Chính trị (khóa X) đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW “Về tiếp tục xây dựng
và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân quyết tâm giữ gìn, bảo vệ "bản sắc văn hoá dân tộc” trong thời kỳ hội nhập
quốc tế. Bộ Chính trị yêu cầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể các cấp và đội ngũ
đảng viên, cán bộ tăng cường đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và chung tay góp
sức, kiên quyết ngăn ngừa, phòng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại,
ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống và đạo đức xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 25 năm đổi mới, phong trào "Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa" và Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh", các phong trào thi đua yêu nước ngày càng được mở rộng và từng bước
đi vào thực chất trong đời sống xã hội. Công cuộc bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá
của dân tộc đã đạt được nhiều tiến bộ. Nhiều di sản văn hoá vật thể, phi vật thể được bảo
vệ và phát huy giá trị. Công tác xã hội hoá đã thu hút được đông đảo các tổ chức và cá nhân
tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá, góp phần tích cực gìn giữ bản sắc văn
hóa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc, dần
loại bỏ những sự lỗi thời, lạc hậu.
Để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn
hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện lOMoAR cPSD| 45474828
đại hóa đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định các chủ trương, biện pháp sau:
- Một là, củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa
dạng. Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều
sâu, thiết thực hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân cư,
cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt
đời sống. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa;
xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội. Sớm có chiến lược quốc
gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị
truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Xã
hội hóa các hoạt động văn hóa, chú trọng nâng cao đời sống văn hóa ở nông thôn,
vùng khó khăn, thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các nhóm
xã hội, giữa đô thị và nông thôn...
- Hai là, phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản
văn hóa truyền thống, cách mạng. Tiếp tục phát triển nền văn học nghệ thuật Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện
đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất
nước. Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và phong cách
nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh, đa dạng và bồi dưỡng lý
tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bảo vệ sự trong sáng
của tiếng Việt, khắc phục yếu kém, nâng cao tính khoa học, sức thuyết phục của
hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật
sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật...
- Ba là, phát triển hệ thống thông tin đại chúng. Chú trọng nâng cao tính tư tưởng,
phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, tổ chức và phản biện xã hội của các phương
tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục xu hướng
thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản. Tập
trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng