Nghi thức nhà nước về văn hoá công sở trong cơ quan nhà nước | Đại học Nội Vụ Hà Nội
A. PHẦN MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tàiVăn hóa là cái cân bằng khi xã hội có nhiều nguy cơ biến động, hoặc có thể hiểu rằng,mọi vật chất có thể mất đi nhưng cái còn đọng lại đó chính là văn hóa. Bất kể quốc gianào, tổ chức nào, giáo phái nào muốn trường tồn thì phải có văn hóa riêng, văn hóa côngsở của cơ quan, doanh nghiệp cũng không nằm ngoài quy luật đó.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45734214 A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa là cái cân bằng khi xã hội có nhiều nguy cơ biến động, hoặc có thể hiểu rằng,
mọi vật chất có thể mất đi nhưng cái còn đọng lại đó chính là văn hóa. Bất kể quốc gia nào,
tổ chức nào, giáo phái nào muốn trường tồn thì phải có văn hóa riêng, văn hóa công sở của
cơ quan, doanh nghiệp cũng không nằm ngoài quy luật đó. Theo đó thực trạng văn hóa
công sở có mức độ ảnh hưởng tới sự phát triển của cơ quan, doanh nghiệp bởi đôi khi thực
trạng văn hóa công sở sẽ trở thành một tập tục, một thói quen của cơ quan. Tuy nhiên văn
hóa công sở không phải là một công sở có đầy đủ những thiết bị, vật dụng hiện đại, lại càng
không phải là một trụ sở được xây dựng hoành tráng, mà văn hóa công sở chính là hành vi
ứng xử hàng ngày của những cán bộ, công chức, viên chức trong các mối tương tác để công
việc được trôi chảy, thành công. Đánh giá thực trạng văn hóa công sở ở Việt Nam hiện nay,
ta thấy còn mang tính tình cảm nhiều, mặc dù đã có công văn của chính phủ ban hành quy
chế văn hóa công sở ở tại cơ quan hành chính nhà nước nhưng vẫn chưa được hiện thực
hóa bằng thể chế và điều luật sao cho phù hợp và linh hoạt.
Thực hiện đề tài , em hy vọng sẽ góp phần vào
Mặt khác, văn hóa công sở được quan niệm là hệ thống những giá trị, niềm tin, sự mong
đợi của các thành viên trong tổ chức, tác động qua lại với cơ cấu chính thức và tạo nên
những chuẩn mực hành động như những giả thiết không bị chất vấn về truyền thống và
cách thức làm việc trong tổ chức mà mọi người trong đó đều tuân thủ khi làm việc. Chính
văn hóa công sở cho phép người ta phân biệt được các tổ chức với nhau thông qua những
phương thức điều hành khác nhau. Gọi là “văn hóa” vì nó hướng tổ chức tới những giá trị
về tinh thần và ảnh hưởng đến nếp suy nghĩ làm việc của các thành viên khi gia nhập vào
tổ chức, chấp nhận nó như một truyền thống. Văn hóa công sở ảnh hưởng đến hiệu quả
hoạt động của tổ chức, đến phương thức tồn tại và sự phát triển của tổ chức. Xuất phát từ
bản chất của Nhà nước ta và từ mục đích chung của cả chương trình tổng thể cải cách hành
chính, vấn đề xây dựng văn hóa công sở đã được đặt ra trong giai đoạn cải cách hành chính
từ năm 2006-2010. Thực chất của việc xây dựng văn hóa công sở là công khai, minh bạch
về thủ tục trong giải quyết các công việc cho các tổ chức, công dân, cũng như về các quy
định quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ; xây
dựng lề lối, mối quan hệ làm việc một cách khoa học, hiệu quả, thiết thực nhằm đảm bảo
kỷ cương, kỷ luật trong các cơ quan Nhà nước; thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở nhằm
phát huy tính chủ động, tích cực, sự tương trợ, đồng thuận và trách nhiệm của mọi cán bộ, công chức.
Do vậy, việc ban hành Quy chế Văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính Nhà
nước(kèm theo Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ) một lần nữa cho thấy tầm quan trọng, tính cấp thiết của vấn đề xây dựng văn
hóa công sở nhằm tạo hiệu quả làm việc, uy tín, “thương hiệu” của cơ quan công quyền,
hướng tới một nền hành chính phục vụ và đáp ứng được các yêu cầu mới của thời kỳ hội nhập. lOMoAR cPSD| 45734214
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu: văn hóa công sở và hệ thống các văn bản Việt Nam về văn hóa công sở.
Phạm vi nghiên cứu: tìm hiểu, nghiên cứu các hệ thống văn bản Việt Nam về văn hóa
công sở và việc áp dụng hệ thống văn bản đó.
3. Ý nghĩa nghiên cứu đề tài
Việc tìm hiểu vấn đề về văn hóa công sở không chỉ cần thiết cho các cán bộ công chức,
viên chức nhà nước mà đối với công dân Việt Nam và đặc biệt là sinh viên đang theo học
tại ác trường đại học, cao đẳng để tạo nên một môi trường công sở khoa học và văn minh .
Là một sinh viên đang theo học nghành Quản trị nhân lực của trường Đại học Nội vụ Hà
Nội, tương lai có thể sẽ làm việc ở các tổ chức Nhà nước. Vì vậy, nghiên cứu về vấn đề
văn hóa công sở và các văn bản quy định về văn hóa công sở ở nước ta sẽ giúp em và các
bạn tìm hiểu được sâu sắc hơn nhiều vốn kiến thức trên lý thuyết cũng như trong thực tế
để có thể giúp ích cho chúng em trong quá trình học tập hiện nay cũng như trang bị cho
mình một hành trang vững chắc, một tư thế sẵn sàng trước khi bước vào môi trường làm
việc trong tổ chức sau này. Hơn nữa, em hy vọng sẽ góp phần vào việc thực hiện tốt hơn
Quy chế văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu cải cách
hành chính nhà nước hiện nay. B. PHẦN NỘI DUNG
1. Văn hoá công sở là gì?
Văn hoá là một hoạt động nhằm phát huy những nhu cầu và năng lực bản chất của con
người, vươn tới cái chân, thiện, mỹ; là hoạt động nhằm tạo ra những giá trị, chuẩn mực xã
hội; là cái nôi nuôi dưỡng nhân cách của con người. Với ý nghĩa đó, văn hoá có mặt ở mọi
hoạt động sản xuất vật chất cũng như sản xuất tinh thần của con người, trong mọi quan hệ
ứng xử xã hội hay thái độ đối với thiên nhiên.
Công sở là một tổ chức đặt dưới sự quản lý trực tiếp của nhà nước, có tư cách pháp nhân,
được pháp luật điều chỉnh để quản lý các công việc có tính chuyên ngành và phục vụ lợi
ích công. Công sở là một thiết chế xã hội - văn hoá chỉ có ở xã hội loài người. Công sở tồn
tại như một hiện tượng văn hoá đồng thời là một chủ thể văn hoá gắn liền với các yếu tố tổ
chức quyền lực và tâm lý, tình cảm của con người. Quan niệm về văn hoá công sở ở mỗi
thời đại lịch sử, mỗi chế độ chính trị, mỗi quốc gia khác nhau thì đều khác nhau.
Văn hoá công sở là sự pha trộn của văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Xuất phát từ
đặc điểm của công sở là trụ sở công mà ở đó có tổ chức (cơ cấu, đội ngũ cán bộ, công
chức); có cơ sở vật chất (nhà cửa, phòng làm việc v.v..) cho thấy văn hoá công sở rộng hơn,
bao trùm lên cả văn hoá tổ chức. Nói cách khác, Văn hóa công sở được hiểu là những quy
tắc, chuẩn mực ứng xử giữa cán bộ công chức - người đại diện cho cơ quan hành chính nhà
nước với công dân và giữa cán bộ công chức với nhau, nhằm phát huy tối đa năng lực để lOMoAR cPSD| 45734214
đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động công vụ. Khi văn hóa công sở của cán bộ công chức
được nâng cao thì nấc thang văn hóa ứng xử của công dân đến công sở làm việc chắc chắn
cũng sẽ được nâng cao. Văn hóa công sở còn là biểu hiện nổi bật của một xã hội văn minh,
mọi hoạt động công vụ đều có nền nếp, kỷ cương; mỗi người công chức đều thấy rõ trách
nhiệm của mình và luôn tự nguyện làm tròn nhiệm vụ, hoàn thành tốt phần việc được giao.
2. Biểu hiện của văn hóa công sở
Có thể thấy trong các quy chế, quy định, nội quy, điều lệ hoạt động có tính chất bắt buộc
mọi thành viên của cơ quan thực hiện, việc chuyển từ chỗ bắt buộc sang chỗ tự giác thực
hiện, nó còn được thể hiện thông qua mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong công
sở, chặt chẽ hay lỏng lẻo, đoàn kết hay cục bộ. Xây dựng văn hoá công sở trên nền tảng
văn hoá của dân tộc. Biểu hiện hành vi điều hành và hoạt động của công sở đó là:
Thứ nhất, tinh thần tự quản, tính tự giác của cán bộ công chức làm việc trong công sở
cao hay thấp. Đây là vấn đề cần được quan tâm vì nó đánh vào ý thức của mỗi người các
bộ công chức,người cán bộ phải xem công việc của cơ quan như công việc của gia đình
mình và có trách nhiệm cao trong công việc. Có như vậy hiệu quả làm việc mới cao được.
Hiện nay ở một số cơ quan, tinh thần tự quản tự giác của cán bộ công chức còn thấp, có
tính ỷ lại và đùn đẩy trách nhiệm…
Thứ hai, mức độ áp dụng các quy chế điều hành kiển tra công việc đã thật tốt hay chưa,
việc áp dụng đó như thế nào và tới đâu? Mức độ của bầu không khí cởi mở trong công sở.
Ở đây đánh giá vào tâm lí của từng cá nhân trong công sở, trên thực tế cho thấy, khi làm
việc , nếu tinh thần thoải mái thì làm việc rất hiệu quả, và ngược lại. Do vậy tạo bầu không
khí cởi mở là vấn đề cần được chú ý tới. Các chuẩn mực được đề ra thích đáng và mức độ
hoàn thành công việc theo chuẩn mực cao hay thấp. Có những trường hợp đề ra chuẩn mực
quá cao trong khi tổ chức đó không có đủ điều kiện để thực hiện thì mức độ hoàn thành
công việc cụng không cao.Cho nên khi đề ra các chuẩn mực cần chú ý tới điều kiện hoàn
cảnh ở trong tổ chức đó.
Thứ ba, các xung đột nội bộ được giải quyết tốt hay không? Bất kì một cơ quan nào thì
việc xung đột giữa các thành viên trong cơ quan chắc chắn sẽ có nhưng ở mức độ lớn hay
nhỏ. Tuy nhiên nếu biết nắm bắt tình hình và tâm lý của mỗi người thì sẽ dễ dàng giải quyết
các xung đột đó. Các biểu hiện hành vi của văn hoá công sở rất đa dạng và phong phú cần
phải xem xét một cách tỉ mỷ mới có thể đánh giá hết được mức độ ảnh hưởng của chúng
tới năng suất lao động quản lý, tới hiệu quả của hoạt động tổ chức công sở nói chung.
Thứ tư, kĩ thuật điều hành tạo nên văn hoá tổ chức công sở. Đây là vấn đề có liên quan
tới nề nếp làm việc, kỷ cương trong bộ máy quản lý Nhà nước. Nếu những kỷ cương này
được xây dựng một cách chặt chẽ thì nền văn hóa công sở sẽ được đề cao và tổ chức có
điều kiện để phát triển. Thực tế cho thấy rằng, công sở là nơi phải thường xuyên tiếp xúc
với nhân dân, các cơ quan hữu quan, bạn đồng nghiệp và các cơ quan cấp trên. Yếu tố cơ lOMoAR cPSD| 45734214
sở vật chất chỉ một phần, nhưng quan trọng hơn cả là yếu tố con người sẽ quyết định văn
hóa công sở. Ví dụ cụ thể như sau: Quy định là làm 8 giờ/ ngày, nhưng công chức đã làm
gì trong 8 giờ ấy? Khi câu hỏi này đặt ra thì bất cứ ai cũng có thể trả lời một cách thẳng
thắn là ngồi chơi chờ tới tháng lãnh lương. Từ đó hành vi của công chức ngày càng lún sâu hơn.
3. Vai trò của văn hóa công sở đối với tiến trình phát triển của công sở
Một là, văn hóa thể hiện giá trị truyền thống kết nối với giá trị hiệ đại và hệ giá trị đặc
trưng riêng của hoạt động công sở
Ở các quốc gia phát triển trên thế giới, các thành viên công sở đều ý thức rất rõ: họ đang
làm việc vì ai, vì cái gì và tại sao họ lại đạt hiệu quả làm việc cao như vậy. Phần lớn họ có
ý thức văn hoá dân tộc rất cao, có nhận thức cao trong sự phát triển đất nước, ý thức về
danh dự của nhà nước, về truyền thống của cơ quan công sở, nơi đang làm việc và cống
hiến; hơn nữa lương tâm và danh dự, ý thức về sự tồn tại khiến họ ý thức được văn hoá là
động lực phát triển của mọi hoạt động trong các công sở hiện nay.
Yếu tố dân tộc, hiện đại và hệ giá trị này thấm nhuần trong mỗi thành viên công sở, được
chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát huy theo quá trình đi lên của công sở, được vật chất
hoá trong các cấu trúc thiết chế hành chính và công nghệ hành chính. Đổi mới hoạt động
công sở là một thành tựu văn hoá. Thành tựu này giúp cho việc hiện đại hoá nền hành chính
nhà nước Việt Nam, giúp cho các cơ quan, công sở nhà nước Việt Nam vươn tới tầm cao
mới của sự phát triển hiện đại. Không ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của công nghệ hành
chính trong hoạt động công sở. Công nghệ hành chính là sự kết tinh cao độ của trí tuệ, kinh
nghiệm và sức sáng tạo của con người. Đó cũng là sản phẩm văn hoá, sự phát triển của trí
tuệ và nghiệp vụ trong hoạt động công sở đi đôi với sự hoàn thiện lương tâm, nâng cao tinh
thần trách nhiệm và ý thức phục vụ cộng đồng của cán bộ, công chức.
Hai là, vai trò của văn hóa càng được phát huy nếu gắn với trình độ học vấn và trình độ
văn minh trong hoạt động các công sở
Một nền văn minh mới xuất hiện đã thể hiện ở sự hình thành các tiêu chí, chuẩn mực
trong hoạt động công sở, quan hệ ứng xử và môi trường chính trị mang đậm màu sắc văn
hoá nhân văn, nhân ái và nhân bản, với các giá trị chân, thiện, mỹ. Việc các công sở khuyến
khích, thậm chí bao cấp việc học tập cho các thành viên là nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt
động của các công sở hiện nay. Một số các quốc gia trên thế giới qui định cán bộ, công
chức khi đến công sở phải, mặc đồng phục được coi là trách nhiệm cao, dù không cần một
lời tuyên thệ nào. Điều này làm cho mỗi cán bộ, công chức tự khép mình vào kỷ luật và
khuôn phép, coi kỷ luật công sở là hòn đá tảng của tinh thần văn hoá dân tộc.
Tài sản vô hình ở các công sở hiện nay bao gồm các yếu tố như: thông tin khoa học công
nghệ, tổ chức bộ máy và nghệ thuật quản lý, sự tín nhiệm của nhân dân đối với cán bộ,
công chức nhà nước. Những điều này có thể coi là sự chuyển hoá các năng lượng tinh thần
của con người vào hoạt động công sở, đó chính là văn hoá công sở. lOMoAR cPSD| 45734214
Ba là, vai trò của văn hóa thể hiện nền tảng mang tính nhân bản (giá trị cái chân) của công sở
"Cái chân" là biểu hiện giá trị của "cái thật" trong hoạt động công sở, đó là: giá trị của
cái đúng, của chân lý; giá trị của tri thức khoa học, sự hiểu biết, trí tuệ; giá trị của qui phạm
pháp lý, qui phạm đạo đức, hướng về cội nguồn của mỗi cán bộ, công chức. Để phát huy
giá trị "cái chân" trong hoạt động công sở, cần tạo ra một môi trường thuận lợi, mà trong
đó mọi thành viên đều có thể phát huy hết khả năng sáng tạo của mình để gánh vác nhiệm
vụ do nhà nước và nhân dân giao phó, đồng thời phục vụ xã hội, công dân tốt hơn, trong
đó có các nhân tố: quan hệ con người; sử dụng nguồn tài nguyên (vật chất, con người); vận
dụng khoa học - công nghệ tiên tiến. Xác định đúng vị trí, vai trò của từng nhân tố có tác
động tốt tới hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các công sở trong tiến trình phát triển chung của đất nước.
Thực tế phát triển của các cơ quan, công sở ở nước ta vừa qua chứng minh rằng không
thể coi nhẹ nhân tố con người. Nói đến con người chính là nói đến văn hoá, vì toàn bộ
những giá trị văn hoá làm nên những phẩm chất, năng lực tinh thần của con người. Những
phẩm chất và năng lực thật đó của cán bộ, công chức được vật chất hóa tạo thành nguồn
lực nuôi dưỡng sự tồn tại và phát triển của công sở. Mỗi công chức cần phát huy hết sở
trường, sở đoản của mình trong công việc. Do vậy, việc bố trí mỗi vị trí công việc cần đúng
chuyên môn, năng lực, ngang tầm, tâm thì mới tạo ra giá trị "cái chân" trong hoạt động công sở.
Một công sở chỉ làm tròn nhiệm vụ và chức năng khi: tạo ra mối quan hệ tốt giữa cán bộ,
công chức trong công việc; các chuẩn mực xử sự; các nghi thức tiếp xúc hành chính; các
phương pháp giải quyết các bất đồng trong cơ quan; cách lãnh đạo, quản lý và ý thức chấp
hành kỷ luật trong và ngoài công sở của cán bộ, công chức.
Văn hoá còn có vai trò to lớn trong việc xây dựng một nề nếp làm việc khoa học, kỷ
cương và dân chủ. Nó đòi hỏi các thành viên trong công sở phải quan tâm đến hiệu quả
công việc chung của công sở, giúp cho mỗi cán bộ, công chức tự nhìn lại, đánh giá mình,
chống lại những biểu hiện thiếu văn hoá như: tham ô, móc ngoặc, quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, cơ hội... Bên cạnh đó, yếu tố văn hoá còn giúp cho mỗi thành viên trong công sở
phải tôn trọng kỷ luật, danh dự của công sở, quan hệ thân ái, đoàn kết, hợp tác vì sự nghiệp chung của công sở.
Bốn là, vai trò của văn hóa thể hiện là nền tảng mang tính nhân ái (giá trị cái thiện) của công sở
Văn hóa là chiếc nôi nuôi dưỡng giá trị "cái thiện" trong hoạt động công sở với hệ thống
giá trị của cái tốt, của lương tâm, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của mỗi cán bộ, công chức
trong thực thi công vụ. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh thì không có sự phát
triển công sở bền vững. Vận dụng các yếu tố văn hoá trong việc thúc đẩy mọi hoạt động
của công sở như có hệ thống khuyến khích thi đua khen thưởng, tạo ra bầu không khí làm
việc thoải mái, sẽ kích thích mọi người hăng say làm việc. lOMoAR cPSD| 45734214
Khả năng phát triển của trí tuệ, của khoa học - công nghệ là điều kiện giải phóng và phát
triển con người. Tuy nhiên đôi khi sự phát triển này cũng tạo ra khả năng ngược lại, do sự
thiếu lương tâm nghề nghiệp, vi phạm đạo đức làm người, sự độc đoán, chuyên quyền, áp
đặt. Thủ đoạn cao của người có trí tuệ đôi lúc làm bại hoại tâm hồn con người. Federico
Mayor (UNESCO) nhận xét: "Chưa bao giờ như ngày nay, sự căng thẳng giữa khoa học và
lương tâm, giữa kỹ thuật và đạo đức lên tới cực điểm đã trở thành mối đe doạ toàn thế
giới". Ở đây có thể thấy văn hoá không đồng nhất với trình độ học vấn, càng không đồng
nhất với chức quyền, địa vị cao.
Sự vô cảm trong hoạt động công vụ đã đánh mất đi giá trị "cái thiện" trong mỗi con người.
Sự vô cảm giữa con người với con người là thiếu đi lòng trắc ẩn, ít chịu lắng nghe, ít chịu
thấu hiểu và thiếu sự chia sẻ trong công việc. Các căn bệnh tham nhũng, quan liêu, cửa
quyền, hách dịch, đố kỵ, hẹp hòi, vị kỷ, níu chân, kéo áo nhau ngày càng trở nên trầm trọng
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức. Đặc biệt là các loại "võ" xuất hiện trong
công sở như "ném đá giấu tay", "chọc gậy bánh xe"... đều là biểu hiện của phi văn hóa, phản giá trị.
Vai trò của văn hoá còn thể hiện sự định hướng giải quyết đúng đắn trong từng thời kỳ
mối quan hệ giữa hiện đại hoá công sở với việc thực hiện sự công bằng cho các thành viên
trong công sở. Khi văn hoá phát huy tác dụng trong việc phát triển nguồn nhân lực công
sở, tức là văn hoá đã tham gia vào quá trình hình thành quan hệ đồng thuận giữa hiện đại
hoá công sở với đảm bảo sự công bằng cho các thành viên. Chỉ có như vậy mới phát huy
được các biện pháp hành chính trong chống tham nhũng, hối lộ, quan liêu, đặc quyền, đặc lợi trong công sở.
Xét vấn đề công bằng theo ý nghĩa văn hoá, thì không giống chủ nghĩa bình quân, bao
cấp trong cơ chế xin - cho. Muốn có công bằng trong phân phối lợi ích cho các thành viên
phải đi đôi với công bằng về đánh giá nhân sự; đòi hỏi việc đánh giá cán bộ, công chức
phải dựa vào hiệu quả công việc, chứ không thiên lệch về chức vụ, bằng cấp, thiên vị, tình
cảm riêng. Vai trò của yếu tố văn hoá ở đây là việc sử dụng đúng tài năng, sở trường, đúng
thời điểm vì lợi ích chung của tổ chức và lợi ích của bản thân cán bộ, công chức.
Vai trò của văn hoá trong hoạt động công sở còn thể hiện trong quan niệm về sự bình
đẳng và thực hiện bình đẳng. Theo ý nghĩa văn hoá, bình đẳng là mọi thành viên trong công
sở đều có cơ hội như nhau (trong học tập, đào tạo, việc làm...) để phát triển. Phát triển công
sở không có nghĩa là đào thêm hố sâu sự bất bình đẳng và thiếu công bằng trong việc thực
hiện các lợi ích giữa các thành viên trong công sở, càng không thể làm giàu bằng mọi giá,
nhất là trong cơ quan y tế và trường học.
Năm là, vai trò của văn hóa là nền tảng mang tính nhân văn (cái mỹ) của công sở Văn
hóa đem lại sức sống mãnh liệt cho công sở, nhu cầu hướng tới "cái đẹp", sự cảm nhận và
thưởng thức cái đẹp giúp cho việc giải phóng con người, giải phóng sức lao động, thủ tiêu
mọi sự kìm hãm. M.Gorki gọi mỹ học là đạo đức học của tương lai. Bielinxki (Nga, thế kỷ
XIX) nói: "Cảm xúc về cái đẹp là một điều kiện làm nên phẩm giá con người. Phải có nó
con người mới có được trí tuệ, phải có nó con người mới cất mình lên tới những tư tưởng lOMoAR cPSD| 45734214
tầm cỡ thế giới, mới hiểu được bản chất các hiện tượng trong tính thống nhất của chúng...,
phải có nó người ta mới có thể không quỵ ngã dưới sức đè nặng trĩu của cuộc đời và làm
nên những chiến công..., thiếu nó, thiếu đi cái cảm xúc ấy thì không có thiên tài, không có
tài năng, không có trí thông minh mà chỉ còn lại cái thứ đầu óc tỉnh táo một cách ti tiện cần
thiết cho sinh hoạt thường ngày trong nhà, cho những tính toán nhỏ nhen ích kỷ".
Như vậy có thể khẳng định rằng "cái mỹ" là kết quả cuối cùng của "cái chân" và "cái
thiện". Không thể có "cái mỹ" nếu như thiếu "cái chân", "cái thiện". Cái đẹp biểu hiện trong
văn hóa công sở là vẻ đẹp hành vi, ngôn ngữ ứng xử, diện mạo, trang phục... của công chức
trong thi hành công vụ. Đồng thời cũng thể hiện ở việc bố trí trụ sở làm việc khoa học, văn
minh, khang trang, sạch đẹp, thuận tiện, đủ ánh sáng, trang trí, cây cảnh v.v.. bố trí phòng
làm việc minh bạch, lịch sự, trang trọng của nơi công quyền.
Văn hóa bao giờ cũng gắn liền với sự phát triển, là chìa khóa của sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Đối với công sở, phải xây dựng được văn hóa công sở tiến bộ, văn minh, hiện đại từ đó
góp phần tạo nên nề nếp làm việc khoa học, có kỷ cương, dân chủ. Tạo được tình đoàn kết
và chống lại bệnh quan liêu, cửa quyền. Môi trường văn hóa công sở tốt đẹp sẽ tạo được
niềm tin của cán bộ công chức với cơ quan, với nhân dân góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của công sở.
Tính tự giác của cán bộ công chức trong công việc sẽ đưa công sở này phát triển vượt
hơn lên so với công sở khác.
Văn hóa công sở cũng có sự kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những tính văn hóa từ bên
trong và bên ngoài công sở, từ quá khứ đến tương lai cho nên trong một chừng mực nào
đó sẽ giúp công sở tạo nên những chuẩn mực, phá tính cục bộ, sự đối lập có tính bản thể
của các thành viên. Hướng các cán bộ công chức đến một giá trị chung, tôn trọng những
nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực văn hóa của công sở. Đó chính là làm cho cán bộ công chức hoàn thiện mình.
Mỗi kiểu văn hóa có vai trò khác nhau đối với tiến trình phát triển của công sở. Kiểu văn
hóa quyền lực giúp công sở có khả năng vận động nhanh, tạo nên tính bền vững trong khi
theo đuổi mục tiêu của mình. Kiểu văn hóa vai trò giúp công sở phát huy hết năng lực của
cán bộ công chức, khuyến khích họ hăng say với công việc từ đó nhanh chóng đạt được
mục tiêu của công sở. Xây dựng, đổi mới, chấn chỉnh... không ngừng hoàn thiện công sở
giúp công sở phát triển bền vững, nhanh chóng đạt hiệu quả cao. Thắng lợi của mỗi công
sở không chỉ là mục tiêu kinh tế, chính trị hay xã hội mà trước hết và hơn hết đó là văn hóa
công sở. Con người tác động đến việc hình thành văn hóa công sở thì đồng thời văn hóa
công sở với những giá trị bền vững của nó sẽ tác động trở lại đối với việc hoàn thiện nhân
cách, phẩm chất, năng lực của mỗi cá nhân tồn tại trong nó.
Tóm lại, văn hóa công sở với vai trò cơ bản vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển
của công sở, vì vậy, việc bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá trong công sở không những là
nhiệm vụ của nhà nước mà còn là nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức trong công việc của
mình, ở các vị trí, cương vị khác nhau trong thực thi công vụ. lOMoAR cPSD| 45734214
4. Xây dựng văn hóa công sở là gì?
Xây dựng văn hóa công sở là xây dựng lề lối, nề nếp làm việc khoa học, có trật tự kỷ
cương, tuân theo những nội quy, quy định chung nhưng không mất đi tính dân chủ. Văn
hóa công sở được hình thành trong quá trình hoạt động của công sở góp phần tạo dựng
niềm tin, sự đoàn kết nhất trí của cả tập thể trong việc nâng cao hiệu quả và chất lượng
hoạt động của cơ quan đơn vị. Cách hành xử văn hóa chốn công sở thực tế mang lại rất
nhiều lợi ích. Văn hóa ứng xử nói chung và văn hóa ứng xử nơi công sở nói riêng chính là
thước đo sự văn minh của mỗi cán bộ công chức hay nói khác đi nó phản ánh sự nhận thức
cũng như ý thức của mỗi cá nhân trong môi trường làm việc nơi công sở. Con người tác
động đến việc hình thành văn hóa công sở đồng thời văn hóa với những giá trị bền vững
được kế thừa và tiếp thu có chọn lọc từ quá khứ đến hiện tại, tương lai; từ môi trường bên
trong đến bên ngoài công sở sẽ có tác động trở lại góp phần hoàn thiện nhân cách, phẩm
chất, đạo đức cho cán bộ công chức. Xây dựng văn hóa công sở chính là xây dựng một môi
trường làm việc hiện đại, chuyên nghiệp, thân thiện và hiệu quả. Từ đó tạo bầu không khí
cởi mở giúp cán bộ công chức hứng khởi làm việc đưa chất lượng và hiệu quả công việc lên cao.
4.1 Xây dựng văn hóa công sở là xây dựng văn hóa ứng xử
Văn hóa ứng xử chính là các mối quan hệ ứng xử giữa cấp trên với cấp dưới, giữa các
đồng nghiệp với nhau, giữa con người với công việc, được xây dựng trên những giá trị
chung của tổ chức. Mỗi tổ chức có một cách văn hóa ứng xử riêng, mang đặc điểm riêng,
phù hợp với văn hóa ứng xử của cộng đồng. Sự phát triển của tổ chức phải gắn liền với
việc xây dựng, củng cố các mối quan hệ trong nội bộ tổ chức, chỉ khi đó tổ chức mới phát
triển bền vững. Trong cách ứng xử, xưng hô nơi công sở cũng phải có văn hóa.
Về văn hóa xưng hô: lẽ thường, trong cùng cơ quan thì theo tôn ti trật tự, dựa vào tuổi
lớn, tuổi nhỏ mà gọi cô, chú, bác, anh, chị, xưng em, xưng cháu cho phải lễ (kể cả người
vắng mặt). Thế nhưng, không ít người ở một số cơ quan hình như “thiếu vốn từ xưng hô”,
nên quen gọi thằng này, con kia... thậm chí gán ghép tên người khác với một từ “đặc trưng”
nghe chối cả lỗ tai như A “đen”, B “lùn”, C “sún”... Khi ai đó nhắc nhở hay phê bình thì
tặc lưỡi cười trừ bảo đó là cách gọi “thân mật”. Điều tréo ngoe là khi tổ chức bình xét bầu
chọn danh hiệu cơ quan văn hóa hàng năm thì không thấy ai mổ xẻ gì đến chuyện xưng hô
“thân mật” như nói trên.
Văn hóa đối xử: những năm gần đây, đời sống vật chất của xã hội ta khấm khá hơn nhiều,
do đó khi trong cơ quan có người chuyển đi công tác nơi khác, hoặc nghỉ hưu, thôi tham
gia cấp ủy... đều được cơ quan chủ quản tùy theo khả năng kinh phí mà chu đáo tặng quà,
vừa ghi nhận công lao đóng góp của anh chị em, vừa thể hiện tình cảm của người ở - người
đi. Động thái trên đã làm cho tư tưởng, tình cảm của người được nhận quà thêm phấn khởi,
ấm áp nghĩa tình, đây chính là nét văn hóa tốt đẹp cần phát huy nhân rộng. Đừng nên và
đừng bao giờ để cho người thôi việc có một chút suy nghĩ thiếu thiện cảm về cách đối xử
của những người đương nhiệm, như là kiểu “vắt chanh bỏ vỏ” chẳng hạn. lOMoAR cPSD| 45734214
Chính sự đối xử đầy chất văn hóa trong quan hệ nơi công sở đã làm cho người cán bộ,
công nhân viên chức từ người lãnh đạo cho đến nhân viên bình thường thấy rõ hơn trách
nhiệm của mình đối với phần việc được cơ quan, đơn vị phân công, chắc chắn ai cũng phải
tự giác gắn bó hơn nơi mình đang làm việc, tất nhiên đó là chất xúc tác làm cho mọi người
cố gắng hoàn thành công việc với chất lượng và hiệu quả cao nhất. Rõ ràng văn hóa ứng
xử nơi công sở cũng cần bàn và thực hiện cho tốt, để góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện.
4.2 Xây dựng văn hóa công sở là xây dựng cách ăn mặc đẹp, gọn gàng, lịch sự
Người ta thường mượn câu tục ngữ “Cái răng cái tóc là góc con người” để nói đến vẻ đẹp
thanh lịch, vẻ đẹp bên ngoài có thể dễ dàng nhận thấy được. Ngày nay, tại các công sở, lối
ăn mặc của các cán bộ, công chức cũng được ví như bộ cánh, đem lại những ấn tượng đầu
tiên đối với người giao tiếp. Thế nhưng, cái sự mặc đẹp nó cũng có năm, bảy đường. Công
chức mặc đẹp nơi công sở không chỉ là đề cập đến vấn đề hợp thời trang, bắt kịp mốt mới
mà còn là vẻ đẹp của sự thanh lịch, kín đáo, phù hợp với vị trí, chuyên môn của mỗi người.
Việc chọn trang phục đến công sở còn phụ thuộc vào phong cách, sở thích và môi trường
làm việc của từng đối tượng.
Ngày nay, không ít thành phần cán bộ, công chức trẻ luôn quan tâm, ưa chuộng những
mốt thời trang mới, họ không ngừng săn đuổi thông tin để có được những bộ trang phục,
mặc dù phải bỏ ra một số tiền không nhỏ. Không ít những cán bộ, công chức trẻ năng động
đã tranh thủ thời gian ngoài giờ hành chính, làm thêm những công việc phụ, tăng thu nhập
để đầu tư cho những bộ cánh mới nhất. Nhưng điều đáng buồn là đôi khi, mốt thời trang
mà họ cho là sành điệu, hiện đại, đầy tính năng động đó lại không phù hợp với môi trường
nơi họ đang công tác. Không quá khi nói rằng, xu hướng thời trang của giới trẻ hôm nay,
trong đó có những cán bộ, công chức trẻ đang dần xa rời với những giá trị của vẻ đẹp đậm
bản chất văn hóa truyền thống bao đời của dân tộc.
Xuất phát từ những bất cập nói trên, nhiều cơ quan đã ra quy định khi đến công sở làm
việc ăn mặc phải gọn gàng, phù hợp, đi đứng nhẹ nhàng, đặc biệt tránh đi giầy dép tạo ra
tiếng ồn quá lớn làm ảnh hưởng đến môi trường làm việc chung. Hơn nữa, nhiều cơ quan
đơn vị cũng đã chủ động trang bị đồng phục cho cán bộ, công chức. Đồng phục công sở
được xem như là lớp văn hóa “tầng bề mặt” của cơ quan, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc,
thể hiện tinh thần hòa đồng, đoàn kết, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn... Và quan
trọng nhất, đồng phục công sở. chính là biểu tượng của tính chuyên nghiệp và vẻ đẹp hiện
đại của thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Quy định đến công sở làm việc ăn
mặc phải gọn gàng, phù hợp, đi đứng nhẹ nhàng, đặc biệt tránh đi giầy dép tạo ra tiếng ồn
quá lớn làm ảnh hưởng đến môi trường làm việc chung.
4.3 Xây dựng văn hóa công sở là tiết kiệm nơi công sở
Vấn đề thực hành tiết kiệm đang được các cơ quan, đơn vị quan tâm, đưa vào làm một
trong những nội dung cơ bản của công tác thi đua. Tiết kiệm cũng là một nét đẹp của văn lOMoAR cPSD| 45734214
hóa công sở. Để thực hành tiết kiệm theo tấm gương của Bác Hồ và chủ trương của Đảng, Nhà nước,cần phải:
Tự rà soát lại trong cơ quan những việc gì còn chưa tiết kiệm, lãng phí, để thay đổi, cải
tiến sao cho tiết kiệm, hiệu quả.
Tiết kiệm sức lao động: Tổ chức sắp xếp công việc cho khéo để có những việc trước kia
phải dùng nhiều người nay chỉ ít người hơn nhưng vẫn đảm bảo thời gian, chất lượng, hiệu
quả; phân công lao động phù hợp cho các thành viên trong cơ quan.
Tiết kiệm thời gian: Xây dựng tác phong làm việc đúng giờ cho bản thân và các thành
viên trong cơ quan; không lãng phí thời gian vào những việc không có ích; trong sinh hoạt
Hội, sinh hoạt cơ quan không để người này chờ người kia gây lãng phí thời gian của nhau…
Tiết kiệm tiền, của: Có kế hoạch, tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đầu tư, trước khi tiêu dùng.
Tiết kiệm năng lượng như điện, nước, xăng, dầu, củi...: Tạo thói quen “ra tắt, vào bật” các
thiết bị điện, hạn chế sử dụng các thiết bị điện có công suất lớn vào giờ cao điểm (từ 18
giờ đến 22 giờ hàng ngày). Ngoài ra, công chức còn có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn, tiết
kiệm thiết bị, cơ sở vật chất nơi công sở như hình thành thói quen tắt điện khi ra khỏi
phòng, có ý thức tái sử dụng giấy in, phôtô 2 mặt để tiết kiệm văn phòng phẩm... Thế
nhưng, không phải bất cứ cán bộ công chức nào cũng nhận thức đầy đủ và thực hiện tốt
những điều nói trên. Việc thực hành tiết kiệm sẽ không thể thực hiện nếu mỗi cá nhân
không tự ý thức, tự giác tiết kiệm. Và càng không thể tiết kiệm một cách hình thức, máy
móc, rập khuôn, tưởng là tiết kiệm nhưng thực ra là lãng phí.
4.4 Xây dựng văn hóa công sở là xây dựng tác phong, lề lối làm việc
Đại bộ phận công chức trẻ bỏ qua một nét đẹp văn hoá của người cán bộ, công chức, viên
chức hiện đại đó chính là tác phong chuyên nghiệp, tạo ra phong cách làm việc chuyên
nghiệp. Sự thể hiện đầu tiên của phong cách chuyên nghiệp là đúng giờ. Đó là một cử chỉ
đẹp. Bạn muốn thành công trong công việc, trong quản lý thì bạn phải làm việc, tham dự
các cuộc họp nơi công sở, có kỷ luật và đúng giờ. Thứ đến là ngăn nắp, gọn gàng nơi làm
việc. Ba là biết nhận trách nhiệm của mình trong công việc và cuộc sống, biết lắng nghe,
biết xin lỗi và biết nói lời cảm ơn chân thành.
Tạo cho mình một “tác phong chuyên ngiệp” chính là bạn đang thể hiện bạn là một người
chuyên nghiệp. Phong cách chuyên nghiệp tạo nét đẹp văn hóa của người cán bộ, công
chức, viên chức hiện đại. Cần phải biết quý trọng thời gian, mỗi ngày chúng ta có 8 giờ
làm việc, 8h tuy dài nhưng rất ngắn ngủi cho những người biết việc.
4.5 Xây dựng văn hóa công sở là bảo vệ “thương hiệu” của đơn vị
Tổng quan lại ta thấy rõ một điều rằng: khi một cơ quan, tổ chức có văn hóa ứng xử, tác
phong, lề lối làm việc, trang phục công sở phù hợp thì điều tất yếu là không chỉ nâng cao
được chất lượng và hiệu quả công việc mà còn nâng cao uy tín của cơ quan, tổ chức đó lên tầm cao hơn. lOMoAR cPSD| 45734214
5. Hệ thống các văn bản Việt Nam về văn hóa công sở và hiện trạng văn hóa công sở ở Việt Nam
Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và phát triển của xã hội, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/09/2001 về phê duyệt về
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và Quyết định
số 94/2006/QĐ-TTg năm 2006 về phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2006-2010, trong đó đánh giá về thực đội trạng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức
trong các cơ quan hành chính hiện như: gây phiền hà, sách nhiễu, hách dịch, vô trách nhiệm,
có lời nói, cử chỉ thô bạo với nhân dân; sử dụng lãng phí thời gian làm việc, sản công, đồng
thời đưa ra các lộ trình và giải pháp để giải quyết thực trạng trên. Đây cũng là lần đầu tiên
chính phủ đưa ra vấn đề văn hóa công sở và giao cho Văn phòng Chính phủ chủ trì soạn
thảo Quy chế, đồng thời coi đây là một trong những nội dung quan trọng của công tác cải
cách hành chính nhằm hướng tới một nền hành chính hiện đại. Theo đó, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày 02/08/2007 về Ban hành Quy chế
Văn hóa công sở tại các cơ quan nhà nước. Với mục đích đảm bảo tính nghiêm trang và
hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; xây dựng phong cách ứng xử
chuẩn mực của cán bộ công chức viên chức trong hoạt động công vụ, hướng tới mục tiêu
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được giao. Xác định được tầm quan trọng và ý nghĩa của Quy chế, các cơ
quan hành chính nhà nước đã chủ động xây dựng Quy chế riêng cho cơ quan, đơn vị mình
bước đầu đã thu được những kết quả khả quan, Trang phục làm việc của cán bộ, công chức,
viên chức trong cơ quan Nhà nước từng bước được chuẩn hóa về hình thức, thẩm mỹ và
phù hợp điều kiện kinh tế-văn hóa, xã hội của nước ta, tình trạng cán bộ công chức viên
chức đi muộn, về sớm, làm việc riêng trong giờ làm việc đã hạn chế và đi dần vào nề nếp.
Phương cách giao tiếp và ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành nhiệm vụ
đã có những tiến bộ rõ rệt. Nhìn chung, đã thể hiện được những nét tinh hoa trong văn hóa
giao tiếp của dân tộc và bước đầu tiệm cận với xu thế chung của thế giới. Việc bài trí công
sở tại các cơ quan hành chính nhà nước từng bước quy củ cả bên ngoài và bên trong trụ sở
làm việc. Những tiến bộ đó đã góp phần hình thành một nền hành chính công vụ Việt Nam
từng bước hiện đại và hiệu quả. Song kết quả đó mới chỉ là bước đầu, thiếu ổn định, thậm
chí có những cơ quan, đơn vị chỉ xây dựng Quy chế cho có nhưng không triển khai thực
hiện, hoặc thực hiện nửa vời, dẫn đến chất lượng công tác thấp, ở không ít công sở diễn ra
cảnh tượng nơi làm việc lộn xộn, đường đi, lối lại, biển chỉ dẫn, xe cộ để lung tung; trong
phòng làm việc vẫn còn tồn tại như giấy tờ bề bộn, gạt tàn thuốc lá đày có ngọn, đun nấu,
ăn uống, đang mở mấy lạnh, đông người, kể cả có phụ nữ nam giới vẫn hút thuốc lá.
Nghiêm trọng còn có hành vi: say rượu bia trong giờ làm việc, sử dụng tùy tiện các tài sản
công, trang phục của cán bộ công chức viên chức tùy vào sở thích, mốt, lễ tiết tác phong,
thái độ khi tiếp dân không đúng mực. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là
do ý thức, thái độ thực hiện chưa nghiêm túc của những công chức nhà nước giao nhiệm
vụ, bên cạnh đó là sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo của một số cơ quan chưa sát sao, cụ lOMoAR cPSD| 45734214
thể; tính nể nang, thông cảm trong quan hệ hành chính vẫn tồn tại; xây dựng Quy chế còn
chung chung thiếu tính định hướng.
Đến nay, đất nước ta đã có hơn 6 năm thực thi Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày
02/08/2007 của Thủ tướng Chính phủ về “ Ban hành Quy chế văn hóa công sở tại các cơ
quan hành chính nhà nước”. Không thể phủ nhận những chuyển biến tích cực sau một thời
gian thực hiện Quyết định này. Tuy nhiên, cần nhìn nhận lại một cách thẳng thắn những
tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện văn hóa công sở, từ đó có giải pháp tiếp tục xây dựng
văn minh công sở trong thời gian đến.
Thực tế đáng buồn, trong nhiều năm qua sự độc đoán chuyên quyền trong bộ máy công
quyền đã làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng đến trật
tự xã hội, làm xuống cấp nét văn hóa công sở. Chính vì vậy, việc lập lại trật tự kỷ cương;
xây dựng phong cách ứng xử chuẩn mực của cán bộ công chức trong hoạt động công vụ là
một đòi hỏi vừa khách quan vừa cấp bách. Ngày 02/8/2007 Thủ tướng chính phủ ban hành
Quy chế văn hóa công sở kèm theo Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg. Quy chế gồm: 03
chương, 16 điều quy định chi tiết các nội dung, phạm vi, đối tượng điều chỉnh và các
nguyên tắc thực hiện; quy định việc thực hiện văn hoá công sở phải tuân thủ theo các
nguyên tắc: Phù hợp với truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc và điều kiện kinh tế – xã
hội; phù hợp với định hướng xây dựng đội ngũ cán bộ công chức chuyên nghiệp, hiện đại;
phù hợp với các quy định của pháp luật và mục đích, yêu cầu cải cách hành chính, chủ
trương hiện đại hoá nền hành chính nhà nước. Theo Quy chế này, các nhân viên cơ quan
nhà nước từ trung ương đến địa phương trong khi làm việc, tiếp xúc với dân, giao tiếp, ứng
xử phải hết sức nghiêm túc, lịch sự, biết tôn trọng người dân; quy định cụ thể về trang
phục; việc đeo thẻ khi thực hiện nhiệm vụ; việc bố trí phòng làm việc, treo biển hiệu cơ
quan... Ngoài ra, Quy chế còn quy định các hành vi cấm đối với cán bộ công chức như:
cấm hút thuốc lá, không được nói tục, không sử dụng đồ uống có cồn tại công sở (trừ
trường hợp được sự đồng ý của thủ trưởng cơ quan)....
Sau 02 năm triển khai thực hiện Quy chế, các công sở từ trung ương đến địa phương đã
được quan tâm đầu tư điều kiện và phương tiện làm việc tốt hơn cho cán bộ công chức,
đầu tư nâng cấp phòng tiếp dân, nơi giải quyết thủ tục hành chính tạo thuận lợi hơn cho
người dân đến giao dịch công việc; phong cách và thái độ làm việc của cán bộ công chức
ở nhiều cơ quan đã có những chuyển biến tích cực, hầu hết cán bộ công chức đeo thẻ khi
làm việc, các công sở đều bố trí người và nơi trông giữ xe cho người dân khi đến giao dịch
và liên hệ giải quyết công việc… Vì thế, có thể thấy Quy chế văn hóa công sở là một quy
chế hợp với lòng dân, thể hiện bản chất ưu việt của nhà nước thật sự của dân, do dân, vì
dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ở nhiều cơ quan vẫn còn nhiều hạn chế
trong thực hiện Quy chế văn hóa công sở:
Thứ nhất: Môi trường làm việc và bài trí trong công sở hiện nay vẫn chưa thể hiện được
một nền hành chính dân chủ, hiện đại và gần dân. Ở không ít công sở còn diễn ra cảnh
tượng nơi làm việc nhếch nhác, lộn xộn, thiếu biển chỉ dẫn lối đi, sơ đồ hướng dẫn các bộ lOMoAR cPSD| 45734214
phận giải quyết công việc của cơ quan, không bố trí người giữ xe; ngay từ cổng vào của
các công sở vẫn là tấm biển khô cứng, thiếu thiện cảm đập vào mắt công dân: “Xuống xe,
xuất trình giấy tờ”. Đã đến lúc, cần phải thay vào đó bằng sự mềm mại với nét văn hóa thể
hiện sự văn minh, lịch thiệp của một cơ quan hành chính của dân, gần dân, sẵn sàng phục
vụ không điều kiện những nguyện vọng chính đáng của công dân, ví dụ như: “Chào mừng
quý khách. Xin liên hệ phòng bảo vệ để được hướng dẫn”…
Thứ hai: Những “Bài học vỡ lòng” về văn hoá, hình như nhiều cán bộ công chức chưa
thuộc. Ở đâu đó, còn không ít cán bộ công chức với thái độ làm việc thiếu nghiêm túc,
trang phục phản cảm; tác phong công tác tuỳ tiện, tính kỷ luật yếu kém, hiện tượng “Sáng
cắp cặp đi, tối cắp cặp về” vẫn diễn ra; đến cơ quan suốt ngày uống trà, tám chuyện vặt;
chơi game hoặc lướt web; gọi điện thoại “chùa”, dùng điện, nước vô tội vạ; tình trạng công
chức bớt xén thời gian làm việc, đùn đẩy trách nhiệm, giải quyết công việc sai quy định
hoặc thiếu thờ ơ, vô cảm trong việc tiếp công dân vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi. Điều đau
lòng hơn là: trong thực hiện công vụ, nếu người đến liên hệ công tác có lợi lộc cho mình
thì lập tức được săn đón, còn ngược lại thì cau có, cố tình gây phiền hà. Cho dù đấy chỉ là
“ Những con sâu”, nhưng không kịp thời ngăn chặn thì sớm muộn sẽ “Làm rầu nồi canh”.
Ông cha ta dạy: “Lời nói gói vàng” - đã đến lúc cán bộ công chức phải biết cười, biết nói
lời cảm ơn, câu xin lỗi, bởi đó là văn hoá thể hiện bản chất của nhà nước ta.
Một lần, đến liên hệ công tác tại cơ quan X, đang loay hoay tìm chỗ để xe máy, tôi giật
mình vì tiếng quát: “Này! Đi đâu đấy? Hỏi ai?”. Quay ra trình bày lý do với nhân viên bảo
vệ, tôi tiếp tục nhận được những câu hỏi kiểu trống không như: “Mắt để đâu? Xe của khách
dựng ở đây cơ mà!”. Lần khác đi với cô bạn tôi đến bộ phận “tiếp nhận và trả hồ sơ hành
chính” của phường N xin chứng nhận hồ sơ đi thi đại học, gặp một chị nhân viên nữ, trông
cũng khá xinh xắn. Khi hỏi về việc nộp hồ sơ chứng thực sao y, cô gái lạnh lùng nói: “Hết
giờ rồi, không nhận thêm hồ sơ nữa!” “Mới 10h30 sáng mà chị!?”, “Nhưng còn một đống
hồ sơ đây này, ai làm cho tôi, mai đem đến mà làm!?”, rồi thẳng thừng trả lại hồ sơ, bỏ
ngoài tai những lời thanh minh giải thích của cô bạn tôi. “Đúng là đi làm thủ tục hành chính
mới biết, mình cần nhưng cán bộ không vội” - một bác trong những người dân ngồi chờ
than như vậy. Thái độ tùy tiện thiếu trách nhiệm này làm ảnh hưởng không nhỏ đến hình
ảnh các “công bộc” của dân.
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) nhận định: Giao tiếp, ứng xử văn hóa nơi công sở
thể hiện đến chất lượng, hiệu quả khi xử lý và giải quyết công việc, xây dựng lề lối làm
việc khoa học của đội ngũ cán bộ công chức góp phần vào quá trình cải cách nền hành
chính nước nhà. Và một bài học văn hóa công sở nữa mà chúng ta cần phải học tập ở nền
hành chính của nước Nhật. Khi người dân đến các cơ quan nhà nước, nhân viên phải đứng
lên chào niềm nở, tươi cười, sau đó mời người dân ngồi. Chỉ sau khi người dân ngồi thì
nhân viên nhà nước mới được ngồi. Ngoài ra, luôn có các nhân viên chỉ dẫn, để hướng dẫn
người dân đến bàn làm việc nào, phòng nào, thủ tục hành chính ra sao, chứ không để người
dân tự tìm đến nơi cần giải quyết như ở chúng ta hiện nay. lOMoAR cPSD| 45734214
Theo Tiến sĩ tâm lý Huỳnh Văn Sơn - Trưởng bộ môn Tâm lý Trường Đại học sư phạm
Hồ Chí Minh: Lỗi ở đây không phải là môi trường làm việc - công sở, cái chính là những
người nơi đây - họ chưa nhận thức được công việc của họ là phục vụ người dân, những
người đang nộp thuế để trả lương cho họ. Mặt khác, công chức nước ta vẫn thiếu các kỹ
năng thiết lập giao tiếp phi ngôn ngữ; họ chưa biết nói chuyện bằng ánh mắt, khuôn mặt,
cử chỉ thay vì làm cho ánh mắt của mình dễ chịu, thân thiện, họ lại thường mang khuôn
mặt lạnh lùng. Còn người dân khi đến các công sở thường e dè, ngượng nghịu, chưa chủ
động tìm hiểu quy trình, luật lệ, chính tâm lý thụ động này cũng tác động đến thái độ của công chức.
Thực trạng trên cho thấy, nhận thức về văn hóa công sở của các ngành, các cấp, các địa
phương chưa đầy đủ, không thấy được mối liên hệ qua lại giữa trình độ văn hóa công sở
với hiệu quả, năng suất của công việc tại công sở. Chúng ta còn thiếu các chuẩn mực về
văn hóa công sở và các chế tài xử lý vi phạm, thiếu đào tạo, bồi dưỡng về văn hóa công sở.
6. Biện pháp giải quyết và xây dựng văn hóa công sở
Để giải quyết điều đó, theo tôi cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:
Một là, Tuyên truyền nâng cao nhận thức về văn hóa công sở cho cán bộ lãnh đạo, đội
ngũ cán bộ công chức và nhân dân.
Văn hoá công sở là một trong những vấn đề nhạy cảm; yếu tố nhận thức là vấn đề then
chốt để mỗi cán bộ lãnh đạo, đội ngũ cán bộ công chức và toàn thể nhân dân hiểu được vai
trò, trách nhiệm của chính mình và từ đó nâng cao các hành vi văn hoá công sở và là một
trong những điều kiện cần và đủ để đội ngũ cán bộ công chức thay đổi quan niệm, cung
cách làm việc tiến dần đến chuẩn “Chuyên nghiệp và hiện đại”.
Đối với người cán bộ lãnh đạo cần phải tạo được cơ chế tốt để các nhân viên có điều kiện
phát triển, một môi trường hòa đồng, thân thiện có tính đoàn kết cao thì hiệu quả công tác
sẽ cao; quan trọng hơn chính là việc cần thay đổi nhận thức, suy nghĩ của một số cán bộ
công chức về thái độ, hành vi ứng xử với nhân dân từ những việc làm rất nhỏ như bố trí
người giữ xe; cảnh trí nơi làm việc, ghế, bàn, nước uống... nhằm góp phần xây dựng hình
ảnh người cán bộ công chức “Trung thành – Tận tụy – Sáng tạo – Gương mẫu”, của một
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Hai là, Các cơ quan công sở cần ban hành quy chế văn hóa với nội dung cụ thể, rõ ràng
mang tính khả thi cao; có bản cam kết thực hiện của mỗi phòng ban, đơn vị trực thuộc; có
kiểm tra, tổng kết, đánh giá định kỳ.
Để quy chế văn hóa công sở đạt hiệu quả cao trước hết cần phải xây dựng quy chế một
cách cụ thể, chi tiết, rõ ràng và phải phù hợp với điều kiện của từng cơ quan, tổ chức để
mọi người phấn đấu; cần có quy định về thưởng, phạt đúng mức đối với những cán bộ công
chức làm tốt và chưa tốt. lOMoAR cPSD| 45734214
Xây dựng công sở văn minh là một hướng đi đúng, có tính tất yếu song cần đi vào thực
chất chứ không nên dừng lại ở hình thức, chạy theo thành tích. Quy chế văn hóa công sở
sẽ không thể đạt kết quả cao nếu chỉ biết hô khẩu hiệu hoặc quy định rồi bỏ đó. Vì vậy,
ngoài việc thường xuyên giáo dục nâng cao văn hóa cho các đối tượng giao tiếp ở công sở
còn cần phải tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát của cán bộ lãnh đạo, đồng thời phải biết
quan tâm đến ý kiến của những người dân có tham gia vào lĩnh vực phụ trách để có những điều chỉnh kịp thời
Ba là, phải có sự thống nhất về nhận thức chung, xem thực hiện văn hóa công sở chính
là một phần của nhiệm vụ cải cách hành chính và mỗi cán bộ công chức cũng cần nhận
thức được công việc của mình là phục vụ nhân dân, những người đang nộp thuế trả lương
cho mình. Các ngành, các cấp phải nghiêm túc kiểm điểm những hạn chế, thiếu sót nơi
công sở của cơ quan, đơn vị, kể cả cách bài trí công sở, trong giao tiếp, ứng xử của cán bộ,
công chức, cần phải thấy được những hạn chế, thiếu sót đó sẽ cản trở tiến trình đổi mới hội
nhập kinh tế đất nước trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong khi xã hội ngày càng tiến bộ, con người ngày càng văn minh thì văn hóa công sở đòi
hỏi ngày càng phải được tôn trọng thực thi làm cho năng suất, hiệu quả công tác được cải
thiện, ứng sử lỗi thời, lạc hậu thì hiệu quả của cải cách hành chính chắc chắn sẽ được nâng cao.
Bốn là, xây dựng bầu không khí làm việc
Xây dựng và gìn giữ bầu không khí làm việc nơi công sở là một trong những điều quan
trọng hiện nay. Không thể có một công sở văn hóa nếu trong nội bộ luôn tồn tại những căng
thẳng, soi xét lẫn nhau; cấp dưới nghi ngờ cấp trên, cấp trên đề phòng cấp dưới… Không
thể là văn hóa, nếu cán bộ, công chức khi làm việc chỉ để đến tháng nhận lương, ngoài ra
không quan tâm đến những vấn đề khác. Con người không phải là con rô-bốt biết nói, mà
con người là một thực thể xã hội với các mối quan hệ và cảm xúc rất đa dạng, phức tạp. Vì
vậy, công sở không phải là “công xưởng” mà là môi trường xã hội thu nhỏ, ở đó mỗi cán
bộ, công chức với sự tích cực của mình, họ sẽ tạo nên bầu không khí làm việc của công sở.
Nếu không khí làm việc cởi mở, tin tưởng lẫn nhau sẽ khơi nguồn được sự sáng tạo của
các thành viên và ngược lại, nếu bầu không khí nặng nề, căng thẳng sẽ là rào cản đối với
hoạt động của công sở. Năm là, xây dựng tác phong chuyên nghiệp
Chuyên nghiệp, hiểu theo nghĩa chung nhất là mỗi người chuyên tâm vào công việc của
mình, toàn tâm, toàn ý để hoàn thành công việc của mình một cách tốt nhất; chuyên nghiệp
là có sự hiểu biết rộng và giỏi một lĩnh vực cụ thể. Trong hành chính công vụ, chuyên
nghiệp còn là biết cách phối hợp,điều tiết công việc phù hợp với tiến độ và môi trường
xung quanh để tạo nên hiệu quả tốt nhất; tác phong làm việc năng động, khoa học kết hợp
với việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào công việc. Tác phong chuyên
nghiệp đòi hỏi nhà quản lý và các nhân viên phải thực hiện tốt những nội dung cơ bản:
Một trong những hạn chế khá phổ biến của cán bộ, công chức là làm việc chưa khoa học,
thiếu tâm huyết. Biểu hiện ở việc không tuân thủ thời gian, làm việc chậm chạp, lề mề;
làm việc không có kế hoạch dẫn đến làm việc thường bị động, hiệu quả thấp, nhiều khi lOMoAR cPSD| 45734214
mang tính đối phó cho xong việc. Do đó, phải từng bước thiết lập tác phong làm việc khoa
học, làm việc theo kế hoạch, tiết kiệm thời gian.
Dẫu biết rằng, trong công sở mọi người phải thống nhất vào mục đích chung, nhưng mỗi
người có một nhiệm vụ riêng. Khả năng độc lập tác chiến cho phép cán bộ, công chức phát
huy được tính sáng tạo của mình để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, nó thể hiện
rõ năng lực của từng người. Tính độc lập còn giúp cán bộ, công chức tránh được những
khó khăn nếu có sự thay đổi, điều động, luân chuyển vị trí công tác. Đồng thời, tính độc
lập trong công việc không loại trừ khả năng phối hợp trong hoạt động của cán bộ, công
chức, vì một khi đã làm chủ được công việc mình thì họ luôn biết mình phải hợp tác với ai
để công việc hiệu quả cao nhất.
Nếu như cán bộ, công chức không trang bị cho mình những kiến thức mới, phù hợp thì
sẽ khôngthể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cái khó nhất là mỗi cán bộ, công chức có ý
thức hết được việc tự học để nâng cao trình độ hay không. Nếu muốn học để chuẩn hóa
bằng cấp, công chức có thể đăng kí các khóa đào tạo; nếu học để nâng cao hiểu biết (đây
là mục đích cao nhất, đáng quý nhất) thì cán bộ, công chức có thể học mọi lúc, mọi nơi.
Vô trách nhiệm là biểu hiện yếu kém của một bộ phận cán bộ, công chức hiện nay. Sự
thiếu trách nhiệm sẽ dẫn đến cách làm việc qua loa, cẩu thả, thậm chí nó là ngọn nguồn
của thói thờ ơ, vô cảm. Do đó, ngay từ khi mới vào làm việc hoặc triển khai việc mới mỗi
công chức hãy xây dựng cho mình ý thức làm việc có trách nhiệm, hãy xem việc của công
sở như là việc của chính mình và dốc toàn tâm, toàn lực để hoàn thành công việc được giao.
Chuyên nghiệp trong công việc, đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức phải chuyên nghiệp trong
giao tiếp, ứng xử. Giao tiếp trong công sở là một khoa học và là một nghệ thuật. Hiệu quả
giao tiếp của công chức góp phần xây dựng một nhà nước thân thiện với nhân dân, phục
vụ nhân dân, ngoài ra giao tiếp hiệu quả giúp công sở hạn chế được những rủi ro như hiểu
lầm, khiếu kiện… Đối với cá nhân, giao tiếp tốt còn mở rộng các mối quan hệ xã hội và
nắm bắt nhanh chóng các cơ hội đến với bản thân.
Chuyên nghiệp trong công việc còn biểu hiện ở tính kỷ luật, tích cực tham gia hoạt động
do đoàn thể trong công sở. Chuyên nghiệp cũng đồng nghĩa với sự cạnh tranh lành mạnh
trong cơ hội thăng tiến. Một cán bộ, công chức chuyên nghiệp còn phải biết làm việc hết
sức và chơi hết mình; thư giãn đúng lúc, đúng cách là biện pháp tốt nhất để phục hồi lại năng lượng đã mất.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng, cùng với nhận thức của người dân
không ngừng được nâng lên, những biểu hiện thiếu văn hóa trong các cơ quan nhà nước sẽ
là những rào cản cho sự phát triển chung của xã hội. Do đó nhận thức đúng đắn và tích cực
xây dựng văn hóa công sở sẽ góp phần quan trọng trong việc xây dựng nền hành chính
công vụ hiện đại, hiệu quả và thân thiện với nhân dân.
C. PHẦN KẾT LUẬN 1. Nhận xét
Thật ra, nội dung thực hiện văn hóa công sở quy định về trang phục, giao tiếp, ứng xử
của cán bộ, công chức, viên chức thực thi nhiệm vụ tại các cơ quan hành chính nhà nước lOMoAR cPSD| 45734214
không phải hoàn toàn mới lạ gì. Tựu trung vẫn là quan hệ giữa người với người trong sinh
hoạt thường ngày. Có chăng quy chế này "bắt buộc" nặng nề hơn đối với đối tượng là “công
bộc của dân". Thực tế, lâu nay không ít cán bộ, công chức chưa thực hiện đúng nghĩa của
hai từ "phục vụ" mà còn mang nặng phong cách "ban phát" khi tiếp xúc với dân; vẫn hiếm
những nụ cười làm hài lòng người dân khi xong việc bước ra khỏi công sở; còn đấy những
chuyện gây bực mình, khó chịu cho người dân. Tuy đời sống cán bộ, công chức không còn
quá khó khăn như những năm bao cấp, nhưng có thể khiêm tốn nói rằng hiện nay môi
trường làm việc tốt hơn, mỗi người có điều kiện chăm sóc tốt hơn về hình thức - mặt mày
ai cũng thấy rõ, quần áo tươm tất hơn nhiều, thậm chí ăn mặc mốt hơn, đẹp hơn nhiều. Thế
nhưng phần trang phục chưa kéo theo sự đột phá về nội dung giao tiếp và ứng xử. Hay nói
đúng hơn trong giao tiếp của cán bộ công chức còn điều chỉnh, đặc biệt là thói quen trong
nếp sống, nếp nghĩ. Mặt khác, đội ngũ cán bộ công chức hiện nay vẫn thiếu các kỹ năng giao tiếp.
Việc thực hiện Quy chế Văn hóa công sở sẽ không thể đạt kết quả cao nếu các đơn vị chỉ
thực hiện theo kiểu hô khẩu hiệu hoặc chỉ lược trích các quy định treo ở công sở. Vấn đề
là ở chỗ từng cơ quan cần xây dựng những tiêu chí cụ thể phù hợp để mọi người phấn đấu;
có cơ chế khen thưởng, nhắc nhở, phê bình, xử phạt kịp thời với những người làm tốt và
chưa tốt... Các cơ quan cũng nên đưa các nội dung của Quy chế văn hóa công sở ra thảo
luận thường xuyên để mọi người dần có ý thức, tạo thành nền nếp, thói quen. Các cơ quan,
đơn vị cần chú ý bố trí cán bộ công chức làm việc ở bộ phận tiếp dân không chỉ giỏi về
chuyên môn, nghiệp vụ mà còn có thái độ giao tiếp, phẩm chất, đạo đức tốt. Ngành Nội vụ
cần thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng giao tiếp cho cán bộ công chức.
Bên cạnh đó, lãnh đạo của từng cơ quan, đơn vị ngoài việc lãnh công cán bộ công chức
thực hiện tốt Quy chế văn hóa công sở cũng cần phải chú ý nêu gương để cán bộ công chức
cùng học tập và làm theo. 2. Kiến nghị
“ Trong tình hình thiếu ý thức tôn trọng dân đang còn phổ biến trong nhiều cơ quan Nhà
nước từ trung ương đến địa phương hiện nay, thì Quy chế Văn hóa công sở của Thủ tướng
ban hành theo quyết định số 129/2007/QĐ-TTg quả là hết sức cần thiết. Nhưng, có lẽ có 2
điều còn thiếu trong Quy chế này:
Thứ nhất, Quy chế này không nói đến thái độ phải niềm nở, nét mặt tươi cười của nhân
viên Nhà nước khi giao tiếp với dân. Một khuôn mặt của nhân viên Nhà nước có biểu cảm
tươi cười, niềm nở khi làm việc có sức mạnh hơn mọi hành động, mọi lời nói. Luôn nở nở
nụ cười và lời chào thân thiện với đồng nghiệp và người dân đến liên hệ công việc, đối xử
với nguời khác như cách bạn muốn họ đối xử với mình. Bạn càng đối xử trân trọng và quan
tâm đến mọi người bao nhiêu, thì bạn càng nhận đươc nhiều sự trân trọng, chia sẻ của người khác.
Thứ hai, Quy chế này thấy ghi “không áp dụng đối với các cơ quan đại diện ngoại giao
của Việt Nam ở nước ngoài”. Hiện nay, nhiều Đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài có
các nhân viên không được lịch sự với dân lắm. Họ thường lịch sự với người nước ngoài, lOMoAR cPSD| 45734214
nhưng với Việt kiều, với người Việt Nam làm việc, học tập ở nước ngoài, khi có việc cần
đến Đại sứ quán, thì không phải lúc nào cũng nhận được thái độ niềm nở, lịch sự của nhân viên sứ quán.
Thiết tưởng, Quy chế Văn hóa công sở nên bổ sung thêm 2 điểm này, để người Việt Nam
ta dù ở đâu, từ mũi Cà Mau đến địa đầu Lũng Cú, từ miền ngược đến miền xuôi, từ nông
thôn đến thành thị, dù là con cháu ông to, quen biết, hay chỉ là người dân thường, từ trong
nước đến ngoài nước, cũng luôn luôn cảm nhận được sự ấm áp tình người của một Nhà
nước “công bộc của dân”.
Ngoài ra, lãnh đạo các sở ban nghành, các cấp phải quan tâm, chỉ đạo cán bộ, công chức
phải tự điều chỉnh mình. Các cấp, các nghành nên tổ chức các lớp “nâng cao kỹ năng giao
tiếp của cán bộ công chức” cho cán bộ công chức. Ngoài ra, các công sở cần có hòm thư
góp để tiếp nhận ý kiến nhận xét, đánh giá của nhân dân và cán bộ công chức nào bị nhiều
lần góp ý phê bình của người dân thì cần công khai nghiêm khắc xử lý, và trên hết nâng
cao cho cán bộ công chức hiểu việc họ đang làm là phục vụ nhân dân.
Với kiến thức của một sinh viên em chỉ phần nào đề cập được một số khía cạnh của vấn
đề văn hóa công sở. Em mong có sự góp ý của thầy cô để giúp em hiểu rõ hơn về vấn đề
này. Em cũng rất mong nhận được ý kiến đánh giá và nhận xét để có thể thực hiện tốt hơn
trong các bài tiểu luận sắp tới. Em xin chân thành cảm ơn!
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định 129/2007/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8 năm 2007: ban hành Quy chế văn hóa
công sở tại các cơ quan hành chính Nhà nước.
2. Quyết định số 94/2006/QĐ-TTg năm 2006 về phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2006-2010.
3. Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 về phê duyệt về chương trình tổng
thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010.
4. Tài liệu học tập môn nghi thức Nhà nước.
5. Nguồn Internet (Vietbao.vn,….)
6. Võ Nguyên Giáp ( Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa Việt Nam), NXB Quốc gia Hà Nội năm 1998. lOMoAR cPSD| 45734214 MỤC LỤC A. Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
3. Ý nghĩa nghiên cứu đề tài B. Phần nội dung
1. Văn hóa công sở là gì?
2. Biểu hiện của văn hóa công sở
3. Vai trò của văn hóa công sở đối với tiến trình phát triển của công sở
4. Xây dựng văn hóa công sở là gì?
3.1Xây dựng văn hóa công sở là xây dựng văn hóa ứng xử
3.2 Xây dựng văn hóa công sở là xây dựng cách ăn mặc đẹp, gọn gàng, lịch sự
3.3 Xây dựng văn hóa công sở là tiết kiệm nơi công sở
4.4 Xây dựng văn hóa công sở là xây dựng tác phong, lề lối làm việc
4.5 Xây dựng văn hóa công sở là bảo vệ “thương hiệu” của đơn vị
5. Hệ thống các văn bản Việt Nam về văn hóa công sở và hiện trạng văn hóa công sởở Việt Nam
6. Biện pháp giải quyết và xây dựng văn hóa công sở
C. Tài liệu tham khảo D. Phần kết luận 1. Nhận xét 2. Kiến nghị