BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
BÀI THI MÔN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình thức thi: Bài tập lớn
Mã đề thi: 3
Họ và tên sinh viên: Đoàn Đình Khiêm
Mã sinh viên: 257340201000902
Khóa: CQ63 . TC-NH3 Lớp:
STT: 73 Hội trường thi: ID 987 789 0001
Ngày thi: 19/11/2025 Ca thi: 20h30
Điểm
kết luận
Giáo viên chấm thi 1
Giáo viên chấm thi 2
Điểm bài thi:
Họ tên, chữ ký GV:
Điểm bài thi:
Họ tên, chữ ký GV:
Điểm quy đổi
(thang điểm 10)
VIDEO “STUDY WITH ME” VÀ HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI SỰ TẬP
TRUNG CỦA SINH VIÊN: MỘT NGHIÊN CỨU KẾT HỢP TỰ
TRẦN THUẬT VÀ QUAN SÁT TRỰC TUYẾN
THE EFFECTIVENESS OF STUDY WITH ME VIDEOS ON STUDENT
CONCENTRATION: A MIXED-METHODS STUDY COMBINING AUTO-
ETHNOGRAPHY AND NETNOGRAPHY
Đoàn Đình Khiêm
Khoa Ngân hàng Bảo hiểm, Học viện Tài chính, Hòa Lạc, Hà Nội,
doandinhkhiem00@gmail.com
Tóm tắt (Abstract): Nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của video “Study With
Me” (SWM) đối với hiệu quả học tập của sinh viên thông qua thiết kế hỗn hợp kết
hợp Auto ethnography (Dân tộc học tự sự) Netnography (Dân tộc học trực -
tuyến). Thực nghiệm A/B cho thấy SWM hoạt động như một cơ chế “ổn định năng
suất”, đặc biệt ở các khung giờ năng lượng thấp, giúp duy trì sự tập trung và điều
tiết cảm xúc. Ngược lại, môi trường im lặng phù hợp hơn với các nhiệm vụ đòi
hỏi tư duy sâu vào buổi sáng. Nghiên cứu cũng ghi nhận vai tđáng kể của tiếng
ồn trắng (white noise) trong việc ổn định sự chú ý và đề xuất sinh viên tối ưu hóa
môi trường học dựa trên nhịp sinh học cá nhân. Cuối cùng, đó là vai trò của của
tương tác giả xã hội (parasocial interaction) hoạt động như một giá đỡ cảm xúc
(emotional scaffolding), giúp người học giảm thiểu sự cô lập duy trì động lực
bền bỉ trong quá trình tự học.
Từ khóa (Keywords): Study With Me, Auto-ethnography, Netnography, Hiệu suất
học tập.
1. Mở đầu (Introduction)
Sinh viên hiện nay thường đối mặt với hai thách thức khi học tập độc lập:
giảm tập trung thiếu động lực. Trong bối cảnh này, video “Study With Me”
(SWM) nổi lên như một nh thức hỗ trợ học tập đặc thù, mô phỏng không gian
học chung trên nền tảng số. Wang & Zhang (2021) cho rằng sự hiện diện hội
ảo trong SWM giúp giảm trì hoãn tạo động lực bắt đầu công việc, song hiệu
quả thực tế của phương pháp này vẫn chưa được kiểm chứng đầy đủ, đặc biệt liên
quan đến tải nhận thức và chất lượng đầu ra.
Tại Việt Nam, các bài báo gần đây ghi nhận SWM thu hút mạnh mẽ sinh
viên, đặc biệt nhờ cảm giác “đồng hành khi học một mình” và khả năng tạo động
lực duy trì thời gian ngồi vào bàn học (Thanh Niên Việt, 2024). Một số nền tảng
truyền thông trong nước cũng ghi nhận sự phổ biến rộng rãi của video SWM, xem
đây là giải pháp giúp giảm cảm giác cô đơn và tạo môi trường học tập kỷ luật hơn
cho sinh viên (Vietnam.vn, 2024).
Một số nghiên cứu nhận định rằng thành phần hình ảnh và âm thanh trong
SWM thể hỗ trợ điều tiết giác quan, nhưng cũng nguy gây nhiễu nếu
không phù hợp với bối cảnh học tập. Do vậy, cần có các đánh giá thực nghiệm để
xác định SWM thực sự mang lại lợi ích hay chỉ tạo cảm giác hiệu quả.
Nghiên cứu này đặt ra ba mục tiêu chính:
- So sánh hiệu suất, mức độ tập trung nh nặng nhận thức giữa môi
trường im lặng môi trường SWM, xét đến biến số nhịp sinh học (sáng,
chiều).
- Khám phá vai tcủa yếu tthính giác hiệu ứng body doubling trong
điều tiết sự chú ý.
- Xác định chế đối phó cảm xúc khi người học gặp khó khăn hoặc gián
đoạn bởi yếu tố kỹ thuật như quảng cáo.
2. Literature review) Tổng quan nghiên cứu (
Ge Wang & Zhang (2021) mô tả SWM như một dạng video tái tạo i
trường học tập người đồng hành, nơi streamer làm việc không tương tác
trực tiếp. Người xem tìm đến SWM chủ yếu để giảm cảm giác lập duy trì
kỷ luật bản thân thông qua một cộng đồng học tập gián tiếp.
Hiệu ứng của SWM có thể được giải thích qua Thuyết Tạo thuận lợi xã hội
(Social Facilitation) (Zajonc, 1965), theo đó sự hiện diện của người khác làm tăng
mức kích hoạt thần kinh, hỗ trợ duy trì sự tập trung. Trong môi trường trực tuyến,
người xem SWM thường cảm nhận sự đồng hành và hỗ trợ tinh thần, tương tự
chế tương tác giả hội (Moore, 2024). Hiệu ứng body doubling cảm giác (
người đồng hành thúc đẩy người học duy thành vi phù hợp tương thích với cơ )
chế hỗ trợ đồng đẳng mà & các cộng sự đã chỉ raHou (2025) .
Trạng thái “dòng chảy” (Flow) theo Csikszentmihalyi (1990) tả mức độ
tập trung sâu khi người học cảm thấy nhiệm vụ hấp dẫn, mục tiêu được hỗ
trợ bởi bối cảnh phù hợp. Một số yếu tcủa SWM (nhịp độ ổn định, tín hiệu thị
giác/tương tác nhẹ) có thể giúp hình thành điều kiện dẫn đến Flow, đặc biệt trong
các nhiệm vụ dài hoặc dễ mất tập trung. Điều này bổ sung góc nhìn rằng SWM
không chỉ mang tính xã hội mà còn ảnh hưởng đến cấu trúc chú ý nội tại.
Âm thanh trong SWM cũng đóng vai tđáng kể. Tiếng mưa, tiếng bàn
phím hay tiếng lật sách hoạt động như dạng white noise giúp ổn định ngưỡng chú
ý. Theo Egeland & các cộng sự (2023), tiếng ồn nền đều đặn thể tạo ra hiện
tượng “Cộng hưởng ngẫu nhiên” (Stochastic Resonance), nơi mức nhiễu vừa phải
tối ưu hóa hoạt động nhận thức hơn so với sim lặng tuyệt đối. Hiệu ứng này đặc
biệt rõ những nhân có xu ớng mất chú ý (Helps et al., 2014), cho thấy tiếng
ồn nền có thể hỗ trợ nhận thức trong một số bối cảnh nhất định.
Tập trung cũng chịu ảnh hưởng của nhịp sinh học. Valdez (2019) chỉ ra sự
sụt giảm chú ý vào đầu giờ chiều, gọi là “Afternoon Slump”, do thay đổi hormone
mức ch hoạt thần kinh. Đồng thời, thuyết “Cạn kiệt bản ngã” (Baumeister,
1998) cho rằng ý chí là nguồn lực hữu hạn, dễ suy giảm sau các nhiệm vụ tiêu tốn
năng lượng tinh thần. Điều này gợi ý rằng SWM có thể đóng vai trò nguồn hỗ trợ
ngoại sinh bù đắp sự suy giảm ý chí vào cuối ngày.
Tổng quan này cho thấy SWM thể ảnh hưởng đến năng suất qua nhiều
cơ chế: kích hoạthội, điều tiết giác quan, hỗ trợ cảm xúc. Tuy nhiên, thiếu các
nghiên cứu thực nghiệm trực tiếp dựa trên dữ liệu người dùng thật trong bối cảnh
học tập tự nhiên. Khoảng trống này là động lực cho nghiên cứu hiện tại.
3. & P Materials & Methods) Tài liệu hương pháp (
3.1. Thiết kế nghiên cứu (Research Design)
Nghiên cứu sử dụng phương pháp hỗn hợp (mixed methods), gồm dữ liệu -
định lượng từ thực nghiệm A/B dữ liệu định tính tnhật phản ánh (Auto-
ethnography) Netnography. Việc kết hợp hai nguồn dữ liệu giúp tăng độ tin
cậy . hơn so với chỉ dùng một trong hai
3.2. Quy trình T A/B và (Auto-ethnography) hực nghiệm Dân tộc học tự sự
Tác giđồng thời đối tượng nghiên cứu (N = 1). Thực nghiệm sử dụng
thiết kế đối tượng nội tại (within subject design), gồm bốn phiên học 60 phút trong -
một ngày để kiểm soát biến nhịp sinh học:
- Sáng (High Energy): phiên A: im lặng (control); phiên B: SWM có quảng
cáo
- Chiều (Low Energy): phiên C: SWM không quảng o (âm thanh mưa);
phiên D: im lặng
Nghiên cứu sử dụng các biến s ông cụ đo lườngc :
- Hiệu suất (Output): số trang viết hoặc số nhiệm vụ hoàn thành trong 60
phút.
- Mức độ tập trung (Focus): thang Likert 1–10, dựa trên tiêu chí của trạng
thái Flow.
- : thang Likert 1 . Gánh nặng nhận thức –10, dựa trên tiêu chí Độ khó Để
làm rõ liệu việc xem video song song với học tập gây quá tải cho não bộ hay
không, nghiên cứu vận dụng khái niệm “Gánh nặng nhận thức” (Mental Demand)
từ bộ công cụ chuẩn NASA TLX (Hart & Staveland, 1988) làm sở đánh giá nỗ -
lực trí tuệ chủ quan..
- Dữ liệu hành vi: nhật phản ánh, ghi lại hành vi vô thức (fidgeting), cảm
xúc, và cơ chế đối phó.
3.4. Dân tộc học trực tuyến (Netnography)
Quan sát không tham gia c bình luận từ ba video SWM phổ biến trên
YouTube nhằm xác định mức độ tương đồng giữa trải nghiệm nhân trải
nghiệm cộng đồng. Các chủ đề được mã hóa gồm: động lực, đơn, âm thanh
nền, và gián đoạn từ quảng cáo.
4. Results) Kết quả ( (Xem trong Phụ lục 1)
Theo kết quả định tính ( , hành vi của chủ thể giữa phiên im lặng qualitative)
phiên SWM sự khác biệt đáng chú ý:
- Im lặng: Người học xuất hiện nhiều hành vi bồn chồn như cậy móng tay,
thay đổi tư thế liên tục, dễ dao động bởi tác nhân nhỏ. Khi gặp bài khó, thường
rơi vào trạng thái ngưng trệ.
- SWM: Kích hoạt cơ chế đối phó chủ động: hít thở sâu, quay lại công việc
nhanh hơn. Phiên C, tương tác thị giác giảm nhưng tương tác thính giác tăng,
cho thấy âm thanh nền giữ vai trò ổn định sự tập trung hiệu quả.
Theo k netnography), cết quả dân tộc học trực tuyến ( ác bình luận trên
YouTube cho thấy sự nhất quán với kết quả thực nghiệm:
- Vai trò của m thanh: Người học có xu hướng coi âm thanh nền là yếu tố â
quan trọng để duy trì sự tập trung. (Trích dẫn người dùng @anleuc3246: Chị làm
video no music, library noise được không).
- chế phần thưởng: SWM tạo ra động lực hoàn thành nhiệm vụ thông
qua tín hiệu thính giác. (Trích dẫn người dùng @powk2389: Nghiện việc hoàn
thành 2 gi học chỉ để nghe giai điệu kết thúc).
- Hỗ trợ cảm xúc: Video đóng vai trò giá đỡ cảm xúc trong những giai đoạn
khó khăn. (Trích dẫn người dùng @kateflynn8803: Phiên thứ hai thực sự khó
khăn với tôi... tuy nhiên video đã giúp tôi vượt qua).
5. Thảo luận (Discussion)
5.1. SWM như công cụ ổn định năng suất
Kết quả chứng minh SWM đặc biệt hiệu quả vào buổi chiều khi năng lượng
tự thân suy giảm (Valdez, 2019). Nhờ chế kích hoạt xã hội và hỗ trợ bên ngoài,
SWM giúp đắp sự cạn kiệt ý chí (Baumeister, 1998). Điều này giải việc
Phiên C duy trì năng suất tương đương buổi sáng.
5.2. Thính giác quan trọng hơn Thị giác
Một phát hiện đáng chú ý là âm thanh đóng vai trò then chốt trong việc duy
trì sự bền bỉ tinh thần. Mặc dù ít nhìn vào màn hình, hiệu suất vẫn cao nhờ “tấm
màn âm thanh” ( urtain) từ tiếng a phù hợp với cơ chế Cộng hưởng sound c ,
ngẫu nhiên các cộng sự, 2014). Điều này nhấn mạnh rằng SWM hiệu (Helps &
quả nhất khi tối ưu âm thanh nền, không phải hình ảnh.
5.3. SWM như “Giá đỡ Cảm xúc”
Sự xuất hiện của streamer giúp chuyển trạng thái từ phản ứng bất lực sang
đối phó chủ động. Điều này củng cố vai tcủa tương tác giả hội như một
nguồn hỗ trợ tinh thần giúp người học vượt qua đoạn khó, tránh sa vào thời gian
chết.
6. Kết luận (Conclusion)
Nghiên cứu kết luận rằng SWM công cụ hiệu quả để duy trì sự bền bỉ
trong học tập, đặc biệt vào buổi chiều khi năng lượng suy giảm. Âm thanh nền
đóng vai trò trung tâm trong việc ổn định stập trung, trong khi hiệu ứng body
doubling hỗ trợ giảm trì hoãn và tăng động lực.
Sinh viên nên áp dụng chiến lược ybrid: sử dụng im lặng cho các tác vụ h
deep work vào buổi sáng và SWM (không quảng cáo, ưu tiên âm thanh mưa) vào
buổi chiều nhằm tối ưu hóa sự bền bỉ nhận thức.
Nghiên cứu thừa nhận những hạn chế sau:
- Chỉ dựa trên trải nghiệm nhân (auto-ethnography) nên mang nh chủ
quan, vậy cần mở rộng mẫu khảo sát để kết luận tổng quát hơn.
- D liu v ch th t s ch c thu thđượ ập trong vòng 1 ngày, do đó chưa
phản ánh đầy đủ ức độ m tp trung khi xem video.
- SWM không phải giải pháp thay thế hoàn toàn cho môi trường thọc
truyền thống, mà là một công cụ bổ trợ mang tính chiến thuật.
Tài liệu tham khảo (Bibliography)
Baumeister, R. F., Bratslavsky, E., Muraven, M., & Tice, D. M. (1998). Ego depletion: Is the active self a limited resource?
Journal of Personality and Social Psychology, 74(5), 12521265. https://doi.org/10.1037/0022-3514.74.5.1252
Csikszentmihalyi, M. (1990). Flow: The psychology of optimal experience.
https://www.researchgate.net/publication/224927532_Flow_The_Psychology_of_Optimal_Experience
Egeland, J., Lund, O., Kowalik-Gran I., Aarlien, A. K., & Söderlund, G. B. W. (2023). Effects of auditory white noise
stimulation on sustained attention and response time variability. . , 1301771. Frontiers in Psychology 14
https://doi.org/10.3389/fpsyg.2023.1301771
Hart, S. G., & Staveland, L. E. (1988). Development of NASA-TLX: Results of empirical and theoretical research. Advances
in Psychology, 52(1988), 139183. https://doi.org/10.1016/S0166-4115(08)62386-9
Helps, S. K., Bamford, S., & Sonuga-Barke, E. J. S. (2014). Different Effects of Adding White Noise on Cognitive Performance
of Sub-, Normal and Super-Attentive School Children, , (11). PLOS ONE 9
https://doi.org/10.1371/journal.pone.0112768
Hou, R., Jin, L., He, J., & Wang, J-L. (2025). Peer support and learning outcomes in “Study With Me” among Generation Z
college students: Mediating roles of motivation, test anxiety, and self-efficacy. Frontiers in Psychology, 16, 1582857.
https://doi.org/10.3389/fpsyg.2025.1582857
Moore, L. (2024). Exploring the potential of Study With Me as an English-language learning tool: A multiple-case study of
secondary school pupils in Austria. , (2), 242 257. Studies in Self-Access Learning Journal 15
https://doi.org/10.37237/150208
Thanh Niên Việt. (2024). Giải sức hút của trào u tự học “Study With Me”. https://thanhnienviet.vn/giai-ma-suc-hut-cua-
trao-luu-tu-hoc-study-with-me-209240718174082718.htm
Valdez, P. (2019). Circadian rhythms in attention. Yale Journal of Biology and Medicine, 92(2), 81 92.
https://pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC6430172
Vietnam.vn. (2024). Sức hút của Study With Me. https://www.vietnam.vn/suc-hut-cua-study-with-me
Wang, G., & Zhang, Y. (2021). From “study with me” to study with you: How activities of Study With Me livestream on
Bilibili facilitate SRL community. . arXiv https://arxiv.org/abs/2108.00637
Phụ lục (Appendices)
Phụ lục 1: Nhật ký thực nghiệm chi tiết (Auto-ethnography log)
Kết quả định lượng (quantitative):
Phiên A (6h30
7h35)
Phiên B (8h15 9h15)
Phiên C (15h35
16h35)
Xem Study With Me
Không
Tâm trạng trước khi
học
Rất tỉnh táo, sẵn
sàng (8/10)
8/10
9/10
Độ tập trung
(Focus)
Ít bị xao nhãng
(8/10)
Có bị xao nhãng (7/10)
Gần như không xao
nhãng (9/10)
Độ khó
(Mental Demand)
Số lượng câu khó
vừa phải (7/10)
7/10
7/10
Yếu tố xao nhãng &
Các trạng thái suốt
phiên học
Khi gặp câu khó
thường suy nghĩ lâu
7h14: Đi vệ sinh đến
7h19
7h30: Thở dài, mệt
mỏi
7h35: Cần nghỉ
ngơi
Khi gặp câu khó, không
suy nghĩ quá nhiều, mà
chủ động tìm lời giải
8h19: Suy nghĩ hơi mất
tập trung
8h21: Cắn móng tay
8h30: Ngáp
Quảng cáo (8h23,
8h40, 8h52, 9h01,
9h12)
Quảng cáo (15h47,
16h20)
Tiếng ồn, muỗi
Chỉ nhìn vào video
một vài lần
16h40: vẫn tập trung
và muốn tiếp tục học
Kết quả
Hoàn thành 1 bài
học, 3 bài tập (2
trang giấy)
Hoàn thành 1 bài học, 5
bài tập (1,5 trang giấy)
Hoàn thành 1 bài học,
4 bài tập (2 trang
giấy)
Nhật ký phản ánh (auto-ethnography):
Trong quá trình tự ghi lại bốn phiên học trong ngày, tôi nhận ra các trải nghiệm của mình không chỉ phản ánh hiệu quả của việc
học mà còn trực tiếp trả lời những câu hỏi nghiên cứu mà tôi đặt ra. Mỗi phiên học diễn ra trong bối cảnh khác nhau, từ buổi
sáng yên tĩnh đến buổi chiều nhiều tiếng ồn, giúp tôi quan sát sự biến đổi của mức độ tập trung, cảm xúc, và cách tôi phản ứng
với video “Study With Me”.
Thứ nhất sự khác biệt theo khung giờ. hiên A vào buổi sáng, tôi khởi đầu với sự tỉnh táo tâm trạng ổn định. Tôi tập p
trung duy trì được tương đối tốt trong khoảng 20–30 phút đầu, sau đó s chú ý giảm dần theo mệt mỏi thể chất. Trong phiên C
buổi chiều, tôi bước vào trạng thái “flow” mạnh hơn nhiều yếu tố gây nhiễu bên ngoài. hiệu quả của video lại ràng
không đồng nhất theo giờ giấc của tôi. Buổi sáng thể cần lấy lại năng lượng, vậy tôi dấu hiệu sớm hơn , tôi mệt mỏi .
Buổi chiều, cơ thể lại có nhu cầu điều tiết và lấy lại trạng thái cân bằng cảm xúc. Tôi nhận ra rằng mình từng mặc định sáng là
tốt nhất để học lại tập trung , nhưng dữ liệu cho thấy sự của tôi vào buổi chiều bền bỉ hơnsẽ .
Tiếp theo, đó là sự khác nhau về giữa hình ảnhvai trò và âm thanh. Trong phiên B và D, khi tôi học trong không gian riêng tư
(ở nhà), âm thanh nền không làm tôi thậm chí tạo cảm giác dễ chịu. Tôi nhận thấy mình xu hướng xao nhãng, còn bị
cuốn theo tiếng ồn trắng trong video, vì tôi chỉ tập trung nghe mà không quá phân tâm bởi sự ồn ào bên ngoài. Trái với suy
nghĩ trước đây của tôi, hình ảnh giúp tôi tăng sự tập trung. Trong lúc học, tôi chỉ liếc nhìn video một vài lần. Những lại không
khoảnh khắc tôi mất tập trung thường không liên quan đến âm thanh, mà liên quan đến sự gián đoạn về , hoặc cảm giác thị giác
trong đầu í dụ. V , tôi bắt gặp bản thân đang chăm chăm nhìn . Hơn nữa, đôi khi những cứ con muỗi đang bay suy nghĩ lan man
luẩn quẩn trong đầu (nhất là lúc bắt đầu phiên B), khiến tôi luôn phải tự nhắc bản thân đừng phân tâm . Tôi rút ra được là tiếng
ồn trắng sự tập trung của mình hơn là yếu tố hình ảnh.có vai trò kích thích
Thứ ba, đó là yếu tố về cảm xúc rong phiên A tôi thường xuyên bị nản mệt mỏi. Tuy nhiên tới khi video được bật . T chán ,
trong phiên B, đã lấy lại nhịp độ học tập cho tôi. xuất hiện quảng cáo hoặc tiếng ồn, tôi vẫn không rời khỏi trạng thái
học ngay, thậm chí sự tập trung của tôi còn được duy trì xuyên suốt phiên học Tôi nghĩ video dường như hoạt động như một .
cơ chế điều tiết cảm xúc: không tạo động lực mạnh, nhưng khiến tôi cảm thấy bớt tiêu cực bằng cách duy trì một không
gian Ngoài ra, học tập ổn định. video cũng khiến tôi cảm thấy rằng mọi người cũng phải dành hàng tiếng đồng hồ để hoàn
thành công việc giống như mình. thế những áp lực về bản thân (như năng suất của mình khong bằng người khác) đã giảm
bớt đi. Tóm lại, v hỉ xem v đơn thuần không giúp tôi trở nên năng suất hơn nhưng iệc c ideo , đã làm dịu những gánh nặng về
tinh thần, khiến tôi có động lực để hoàn thành bài tập.
Phụ lục 2. Dữ liệu quan sát cộng đồng (Netnography data)
Một số bình luận từ các video Study With Me trên nền tảng YouTube:

Preview text:

BỘ TÀI CHÍNH HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
BÀI THI MÔN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình thức thi: Bài tập lớn Mã đề thi: 3
Họ và tên sinh viên: Đoàn Đình Khiêm
Mã sinh viên: 257340201000902 Khóa: CQ63 . Lớp: TC-NH3 STT: 73
Hội trường thi: ID 987 789 0001 Ngày thi: 19/11/2025 Ca thi: 20h30 Điểm Giáo viên chấm thi 1 Giáo viên chấm thi 2 kết luận Điểm bài thi: Điểm bài thi: Điểm quy đổi (thang điểm 10) Họ tên, chữ ký GV: Họ tên, chữ ký GV:
VIDEO “STUDY WITH ME” VÀ HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI SỰ TẬP
TRUNG CỦA SINH VIÊN: MỘT NGHIÊN CỨU KẾT HỢP TỰ
TRẦN THUẬT VÀ QUAN SÁT TRỰC TUYẾN
THE EFFECTIVENESS OF STUDY WITH ME VIDEOS ON STUDENT
CONCENTRATION: A MIXED-METHODS STUDY COMBINING AUTO-

ETHNOGRAPHY AND NETNOGRAPHY Đoàn Đình Khiêm Khoa Ngân hàng
– Bảo hiểm, Học viện Tài chính, Hòa Lạc, Hà Nội,
doandinhkhiem00@gmail.com
Tóm tắt (Abstract): Nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của video “Study With
Me” (SWM) đối với hiệu quả học tập của sinh viên thông qua thiết kế hỗn hợp kết
hợp Auto-ethnography (Dân tộc học tự sự) và Netnography (Dân tộc học trực
tuyến). Thực nghiệm A/B cho thấy SWM hoạt động như một cơ chế “ổn định năng
suất”, đặc biệt ở các khung giờ năng lượng thấp, giúp duy trì sự tập trung và điều
tiết cảm xúc. Ngược lại, môi trường im lặng phù hợp hơn với các nhiệm vụ đòi
hỏi tư duy sâu vào buổi sáng. Nghiên cứu cũng ghi nhận vai trò đáng kể của tiếng
ồn trắng (white noise) trong việc ổn định sự chú ý và đề xuất sinh viên tối ưu hóa
môi trường học dựa trên nhịp sinh học cá nhân. Cuối cùng, đó l à vai trò của của
tương tác giả xã hội (parasocial interaction) hoạt động như một giá đỡ cảm xúc
(emotional scaffolding), giúp người học giảm thiểu sự cô lập và duy trì động lực
bền bỉ trong quá trình tự học.
Từ khóa (Keywords): Study With Me, Auto-ethnography, Netnography, Hiệu suất học tập. 1. Mở đầu (Introduction)
Sinh viên hiện nay thường đối mặt với hai thách thức khi học tập độc lập:
giảm tập trung và thiếu động lực. Trong bối cảnh này, video “Study With Me”
(SWM) nổi lên như một hình thức hỗ trợ học tập đặc thù, mô phỏng không gian
học chung trên nền tảng số. Wang & Zhang (2021) cho rằng sự hiện diện xã hội
ảo trong SWM giúp giảm trì hoãn và tạo động lực bắt đầu công việc, song hiệu
quả thực tế của phương pháp này vẫn chưa được kiểm chứng đầy đủ, đặc biệt liên
quan đến tải nhận thức và chất lượng đầu ra.
Tại Việt Nam, các bài báo gần đây ghi nhận SWM thu hút mạnh mẽ sinh
viên, đặc biệt nhờ cảm giác “đồng hành khi học một mình” và khả năng tạo động
lực duy trì thời gian ngồi vào bàn học (Thanh Niên Việt, 2024). Một số nền tảng
truyền thông trong nước cũng ghi nhận sự phổ biến rộng rãi của video SWM, xem
đây là giải pháp giúp giảm cảm giác cô đơn và tạo môi trường học tập kỷ luật hơn
cho sinh viên (Vietnam.vn, 2024).
Một số nghiên cứu nhận định rằng thành phần hình ảnh và âm thanh trong
SWM có thể hỗ trợ điều tiết giác quan, nhưng cũng có nguy cơ gây nhiễu nếu
không phù hợp với bối cảnh học tập. Do vậy, cần có các đánh giá thực nghiệm để
xác định SWM thực sự mang lại lợi ích hay chỉ tạo cảm giác hiệu quả. Nghiên cứu này đặt ra ba mục tiêu chính:
- So sánh hiệu suất, mức độ tập trung và gánh nặng nhận thức giữa môi
trường im lặng và môi trường SWM, có xét đến biến số nhịp sinh học (sáng, chiều).
- Khám phá vai trò của yếu tố thính giác và hiệu ứng body doubling trong điều tiết sự chú ý.
- Xác định cơ chế đối phó cảm xúc khi người học gặp khó khăn hoặc gián
đoạn bởi yếu tố kỹ thuật như quảng cáo.
2. Tổng quan nghiên cứu (Literature review)
Ge Wang & Zhang (2021) mô tả SWM như một dạng video tái tạo môi
trường học tập có người đồng hành, nơi streamer làm việc mà không tương tác
trực tiếp. Người xem tìm đến SWM chủ yếu để giảm cảm giác cô lập và duy trì
kỷ luật bản thân thông qua một cộng đồng học tập gián tiếp.
Hiệu ứng của SWM có thể được giải thích qua Thuyết Tạo thuận lợi xã hội
(Social Facilitation) (Zajonc, 1965), theo đó sự hiện diện của người khác làm tăng
mức kích hoạt thần kinh, hỗ trợ duy trì sự tập trung. Trong môi trường trực tuyến,
người xem SWM thường cảm nhận sự đồng hành và hỗ trợ tinh thần, tương tự cơ
chế tương tác giả xã hội (Moore, 2024). Hiệu ứng body doubling (cảm giác có
người đồng hành thúc đẩy người học duy trì hành vi phù hợp) tương t hích với cơ
chế hỗ trợ đồng đẳng mà Hou & các cộng sự đã chỉ ra (2025) .
Trạng thái “dòng chảy” (Flow) theo Csikszentmihalyi (1990) mô tả mức độ
tập trung sâu khi người học cảm thấy nhiệm vụ hấp dẫn, rõ mục tiêu và được hỗ
trợ bởi bối cảnh phù hợp. Một số yếu tố của SWM (nhịp độ ổn định, tín hiệu thị
giác/tương tác nhẹ) có thể giúp hình thành điều kiện dẫn đến Flow, đặc biệt trong
các nhiệm vụ dài hoặc dễ mất tập trung. Điều này bổ sung góc nhìn rằng SWM
không chỉ mang tính xã hội mà còn ảnh hưởng đến cấu trúc chú ý nội tại.
Âm thanh trong SWM cũng đóng vai trò đáng kể. Tiếng mưa, tiếng bàn
phím hay tiếng lật sách hoạt động như dạng white noise giúp ổn định ngưỡng chú
ý. Theo Egeland & các cộng sự (2023), tiếng ồn nền đều đặn có thể tạo ra hiện
tượng “Cộng hưởng ngẫu nhiên” (Stochastic Resonance), nơi mức nhiễu vừa phải
tối ưu hóa hoạt động nhận thức hơn so với sự im lặng tuyệt đối. Hiệu ứng này đặc
biệt rõ ở những cá nhân có xu hướng mất chú ý (Helps et al., 2014), cho thấy tiếng
ồn nền có thể hỗ trợ nhận thức trong một số bối cảnh nhất định.
Tập trung cũng chịu ảnh hưởng của nhịp sinh học. Valdez (2019) chỉ ra sự
sụt giảm chú ý vào đầu giờ chiều, gọi là “Afternoon Slump”, do thay đổi hormone
và mức kích hoạt thần kinh. Đồng thời, thuyết “Cạn kiệt bản ngã” (Baumeister,
1998) cho rằng ý chí là nguồn lực hữu hạn, dễ suy giảm sau các nhiệm vụ tiêu tốn
năng lượng tinh thần. Điều này gợi ý rằng SWM có thể đóng vai trò nguồn hỗ trợ
ngoại sinh bù đắp sự suy giảm ý chí vào cuối ngày.
Tổng quan này cho thấy SWM có thể ảnh hưởng đến năng suất qua nhiều
cơ chế: kích hoạt xã hội, điều tiết giác quan, hỗ trợ cảm xúc. Tuy nhiên, thiếu các
nghiên cứu thực nghiệm trực tiếp dựa trên dữ liệu người dùng thật trong bối cảnh
học tập tự nhiên. Khoảng trống này là động lực cho nghiên cứu hiện tại. 3. Tài li & P ệu
hương pháp (Materials & Methods)
3.1. Thiết kế nghiên cứu (Research Design)
Nghiên cứu sử dụng phương pháp hỗn hợp (mixed-methods), gồm dữ liệu
định lượng từ thực nghiệm A/B và dữ liệu định tính từ nhật ký phản ánh (Auto-
ethnography) và Netnography. Việc kết hợp hai nguồn dữ liệu giúp tăng độ tin
cậy hơn so với chỉ dùng một trong hai.
3.2. Quy trình Thực nghiệm A/B và
(Auto-ethnography) Dân tộc học tự sự
Tác giả đồng thời là đối tượng nghiên cứu (N = 1). Thực nghiệm sử dụng
thiết kế đối tượng nội tại (within-subject design), gồm bốn phiên học 60 phút trong một ngày để kiểm soát biến nhịp sinh học:
- Sáng (High Energy): phiên A: im lặng (control); phiên B: SWM có quảng cáo
- Chiều (Low Energy): phiên C: SWM không quảng cáo (âm thanh mưa); phiên D: im lặng
Nghiên cứu sử dụng các biến số và công cụ đo lường:
- Hiệu suất (Output): số trang viết hoặc số nhiệm vụ hoàn thành trong 60 phút.
- Mức độ tập trung (Focus): thang Likert 1–10, dựa trên tiêu chí của trạng thái Flow.
- Gánh nặng nhận thức: thang Likert 1–10, dựa trên tiêu chí Độ khó. Để
làm rõ liệu việc xem video song song với học tập có gây quá tải cho não bộ hay
không, nghiên cứu vận dụng khái niệm “Gánh nặng nhận thức” (Mental Demand)
từ bộ công cụ chuẩn NASA-TLX (Hart & Staveland, 1988) làm cơ sở đánh giá nỗ lực trí tuệ chủ quan..
- Dữ liệu hành vi: nhật ký phản ánh, ghi lại hành vi vô thức (fidgeting), cảm
xúc, và cơ chế đối phó.
3.4. Dân tộc học trực tuyến (Netnography)
Quan sát không tham gia các bình luận từ ba video SWM phổ biến trên
YouTube nhằm xác định mức độ tương đồng giữa trải nghiệm cá nhân và trải
nghiệm cộng đồng. Các chủ đề được mã hóa gồm: động lực, cô đơn, âm thanh
nền, và gián đoạn từ quảng cáo.
4. Kết quả (Results) (Xem trong Phụ lục 1)
Theo kết quả định tính (qual ,
itative) hành vi của chủ thể giữa phiên im lặng và phiên SWM có sự khác biệt đáng chú ý:
- Im lặng: Người học xuất hiện nhiều hành vi bồn chồn như cậy móng tay,
thay đổi tư thế liên tục, dễ dao động bởi tác nhân nhỏ. Khi gặp bài khó, thường rơi vào trạng thái ngưng trệ.
- SWM: Kích hoạt cơ chế đối phó chủ động: hít thở sâu, quay lại công việc
nhanh hơn. Ở Phiên C, tương tác thị giác giảm nhưng tương tác thính giác tăng,
cho thấy âm thanh nền giữ vai trò ổn định sự tập trung hiệu quả.
Theo kết quả dân tộc học trực tuyến (netnography), các bình luận trên
YouTube cho thấy sự nhất quán với kết quả thực nghiệm:
- Vai trò của âm thanh: Người học có xu hướng coi âm thanh nền là yếu tố
quan trọng để duy trì sự tập trung. (Trích dẫn người dùng @anleuc3246: Chị làm video no music, library noise được không).
- Cơ chế phần thưởng: SWM tạo ra động lực hoàn thành nhiệm vụ thông
qua tín hiệu thính giác. (Trích dẫn người dùng @powk2389: Nghiện việc hoàn thành 2 giờ học chỉ để nghe giai điệu kết thúc).
- Hỗ trợ cảm xúc: Video đóng vai trò giá đỡ cảm xúc trong những giai đoạn
khó khăn. (Trích dẫn người dùng @kateflynn8803: Phiên thứ hai thực sự khó
khăn với tôi... tuy nhiên video đã giúp tôi vượt qua).
5. Thảo luận (Discussion)
5.1. SWM như công cụ ổn định năng suất
Kết quả chứng minh SWM đặc biệt hiệu quả vào buổi chiều khi năng lượng
tự thân suy giảm (Valdez, 2019). Nhờ cơ chế kích hoạt xã hội và hỗ trợ bên ngoài,
SWM giúp bù đắp sự cạn kiệt ý chí (Baumeister, 1998). Điều này lý giải việc
Phiên C duy trì năng suất tương đương buổi sáng.
5.2. Thính giác quan trọng hơn Thị giác
Một phát hiện đáng chú ý là âm thanh đóng vai trò then chốt trong việc duy
trì sự bền bỉ tinh thần. Mặc dù ít nhìn vào màn hình, hiệu suất vẫn cao nhờ “tấm
màn âm thanh” (sound curtain) từ tiếng mưa, phù hợp với cơ chế Cộng hưởng
ngẫu nhiên (Helps & các cộng sự, 2014). Điều này nhấn mạnh rằng SWM hiệu
quả nhất khi tối ưu âm thanh nền, không phải hình ảnh.
5.3. SWM như “Giá đỡ Cảm xúc”
Sự xuất hiện của streamer giúp chuyể
n trạng thái từ phản ứng bất lực sang
đối phó chủ động. Điều này củng cố vai trò của tương tác giả xã hội như một
nguồn hỗ trợ tinh thần giúp người học vượt qua đoạn khó, tránh sa vào thời gian chết.
6. Kết luận (Conclusion)
Nghiên cứu kết luận rằng SWM là công cụ hiệu quả để duy trì sự bền bỉ
trong học tập, đặc biệt vào buổi chiều khi năng lượng suy giảm. Âm thanh nền
đóng vai trò trung tâm trong việc ổn định sự tập trung, trong khi hiệu ứng body
doubling hỗ trợ giảm trì hoãn và tăng động lực.
Sinh viên nên áp dụng chiến lược hybrid: sử dụng im lặng cho các tác vụ
deep work vào buổi sáng và SWM (không quảng cáo, ưu tiên âm thanh mưa) vào
buổi chiều nhằm tối ưu hóa sự bền bỉ nhận thức. Nghiên cứu thừa nhận những hạn chế sau:
- Chỉ dựa trên trải nghiệm cá nhân (auto-ethnography) nên mang tính chủ
quan, vì vậy cần mở rộng mẫu khảo sát để có kết luận tổng quát hơn.
- Dữ liệu về chủ thể tự sự chỉ được thu thập trong vòng 1 ngày, do đó chưa phản ánh đầy đủ mức độ tập trung khi xem video.
- SWM không phải là giải pháp thay thế hoàn toàn cho môi trường tự học
truyền thống, mà là một công cụ bổ trợ mang tính chiến thuật.
Tài liệu tham khảo (Bibliography)
Baumeister, R. F., Bratslavsky, E., Muraven, M., & Tice, D. M. (1998). Ego depletion: Is the active self a limited resource?
Journal of Personality and Social Psychology, 74(5), 1252–1265. https://doi.org/10.1037/0022-3514.74.5.1252 Csikszentmihalyi, M. (1990). Flow: The psychology of optimal experience.
https://www.researchgate.net/publication/224927532_Flow_The_Psychology_of_Optimal_Experience
Egeland, J., Lund, O., Kowalik-Gran I., Aarlien, A. K., & Söderlund, G. B. W. (2023). Effects of auditory white noise
stimulation on sustained attention and response time variability. Frontiers in . Psychology , 14 1301771.
https://doi.org/10.3389/fpsyg.2023.1301771
Hart, S. G., & Staveland, L. E. (1988). Development of NASA-TLX: Results of empirical and theoretical research. Advances
in Psychology, 52(1988), 139–183. https://doi.org/10.1016/S0166-4115(08)62386-9
Helps, S. K., Bamford, S., & Sonuga-Barke, E. J. S. (2014). Different Effects of Adding White Noise on Cognitive Performance of Sub-, Normal and Super-Attentive School Children, PLOS , ONE (11). 9
https://doi.org/10.1371/journal.pone.0112768
Hou, R., Jin, L., He, J., & Wang, J-L. (2025). Peer support and learning outcomes in “Study With Me” among Generation Z
college students: Mediating roles of motivation, test anxiety, and self-efficacy. Frontiers in Psychology, 16, 1582857.
https://doi.org/10.3389/fpsyg.2025.1582857
Moore, L. (2024). Exploring the potential of Study With Me as an English-language learning tool: A multiple-case study of
secondary school pupils in Austria. Studies in Self-Access Learning Journal, (2), 15 242 257. –
https://doi.org/10.37237/150208
Thanh Niên Việt. (2024). Giải mã sức hút của trào lưu tự học “Study With Me”. https://thanhnienviet.vn/giai-ma-suc-hut-cua-
trao-luu-tu-hoc-study-with-me-209240718174082718.htm
Valdez, P. (2019). Circadian rhythms in attention. Yale Journal of Biology and Medicine, 92(2), 81 92. –
https://pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC6430172
Vietnam.vn. (2024). Sức hút của Study With Me. https://www.vietnam.vn/suc-hut-cua-study-with-me
Wang, G., & Zhang, Y. (2021). From “study with me” to study with you: How activities of Study With Me livestream on
Bilibili facilitate SRL community. arXiv. https://arxiv.org/abs/2108.00637
Phụ lục (Appendices)
Phụ lục 1: Nhật ký thực nghiệm chi tiết (Auto-ethnography log)
Kết quả định lượng (quantitative): Phiên A (6h30
Phiên B (8h15 9h15)
Phiên C (15h35 Phiên D (17h30 7h35) 16h35) 18h30) Xem Study With Me Không Không
Tâm trạng trước khi Rất tỉnh táo, sẵn 8/10 9/10 8/10 học sàng (8/10) Độ tập trung Ít bị xao nhãng
Có bị xao nhãng (7/10) Gần như không xao Hay bị xao nhãng (Focus) (8/10) nhãng (9/10) (6/10) Độ khó
Số lượng câu khó 7/10 7/10 7/10 (Mental Demand) vừa phải (7/10)
Yếu tố xao nhãng & Khi gặp câu khó Khi gặp câu khó, không Quảng cáo (15h47, 17h41: Cậy móng tay
Các trạng thái suốt thường suy nghĩ lâu suy nghĩ quá nhiều, mà 16h20) 17h43: Tin nhắn phiên học
7h14: Đi vệ sinh đến chủ động tìm lời giải Tiếng ồn, muỗi (nhưng không quan 7h19
8h19: Suy nghĩ hơi mất Chỉ nhìn vào video tâm)
7h30: Thở dài, mệt tập trung một vài lần
18h11: Gặp một câu mỏi 8h21: Cắn móng tay
16h40: vẫn tập trung hỏi khó thì ngồi xổm
7h35: Cần nghỉ 8h30: Ngáp
và muốn tiếp tục học
trên ghế (căng thẳng) ngơi Quảng cáo (8h23, 18h16: Có xu hướng 8h40, 8h52, 9h01, dừng lại lâu để suy 9h12) nghĩ câu trả lời
Hay nhìn muỗi bay Kết quả
Hoàn thành 1 bài Hoàn thành 1 bài học, 5 Hoàn thành 1 bài học, Hoàn thành 1 bài học,
học, 3 bài tập (2 bài tập (1,5 trang giấy)
4 bài tập (2 trang 2 bài tập (1,5 trang trang giấy) giấy) giấy)
Nhật ký phản ánh (auto-ethnography):
Trong quá trình tự ghi lại bốn phiên học trong ngày, tôi nhận ra các trải nghiệm của mình không chỉ phản ánh hiệu quả của việc
học mà còn trực tiếp trả lời những câu hỏi nghiên cứu mà tôi đặt ra. Mỗi phiên học diễn ra trong bối cảnh khác nhau, từ buổi
sáng yên tĩnh đến buổi chiều nhiều tiếng ồn, giúp tôi quan sát sự biến đổi của mức độ tập trung, cảm xúc, và cách tôi phản ứng
với video “Study With Me”.
Thứ nhất là sự khác biệt theo khung giờ. Ở phiên A vào buổi sáng, tôi khởi đầu với sự tỉnh táo và tâm trạng ổn định. Tôi tập
trung duy trì được tương đối tốt trong khoảng 20–30 phút đầu, sau đó sự chú ý giảm dần theo mệt mỏi thể chất. Trong phiên C
buổi chiều, tôi lại bước vào trạng thái “flow” mạnh hơn dù có nhiều yếu tố gây nhiễu bên ngoài. Rõ ràng hiệu quả của video
không đồng nhất theo giờ giấc của tôi. Buổi sáng, cơ thể tôi cần lấy lại năng lượng, vì vậy tôi có dấu hiệu mệt mỏi sớm hơn.
Buổi chiều, cơ thể lại có nhu cầu điều tiết và lấy lại trạng thái cân bằng cảm xúc. Tôi nhận ra rằng mình từng mặc định sáng là
tốt nhất để học, nhưng dữ liệu lại cho thấy sự tập trung của tôi vào buổi chiều sẽ bền bỉ hơn.
Tiếp theo, đó là sự khác nhau về vai trò giữa hình ảnh và âm thanh. Trong phiên B và D, khi tôi học trong không gian riêng tư
(ở nhà), âm thanh nền không làm tôi xao nhãng, mà thậm chí còn tạo cảm giác dễ chịu. Tôi nhận thấy mình có xu hướng bị
cuốn theo tiếng ồn trắng trong video, vì tôi chỉ tập trung nghe mà không quá phân tâm bởi sự ồn ào ở bên ngoài. Trái với suy
nghĩ trước đây của tôi, hình ảnh lại không giúp tôi tăng sự
tập trung. Trong lúc học, tôi chỉ liếc nhìn video một vài lần. Những
khoảnh khắc tôi mất tập trung thường không liên quan đến âm thanh, mà liên quan đến sự gián đoạn về thị giá , c hoặc cảm giác
trong đầu. Ví dụ, tôi bắt gặp bản thân đang chăm chăm nhìn con muỗi đang bay. Hơn nữa, đôi khi những suy nghĩ lan man cứ
luẩn quẩn trong đầu (nhất là lúc bắt đầu phiên B), khiến tôi luôn phải tự nhắc bản thân đừng phân tâm
. Tôi rút ra được là tiếng
ồn trắng có vai trò kích thích sự tập trung của mình hơn là yếu tố hình ảnh.
Thứ ba, đó là yếu tố về cảm xúc. Trong phiên A tôi thường xuyên bị chán nản và mệt mỏi. Tuy nhiên, tới khi video được bật
trong phiên B, nó đã lấy lại nhịp độ học tập cho tôi. Dù xuất hiện quảng cáo hoặc tiếng ồn, tôi vẫn không rời khỏi trạng thái
học ngay, thậm chí sự tập trung của tôi còn được duy trì xuyên suốt phiên học. Tôi nghĩ video dường như hoạt động như một
cơ chế điều tiết cảm xúc: nó không tạo động lực mạnh, nhưng khiến tôi cảm thấy bớt tiêu cực bằng cách duy trì một không
gian học tập ổn định. Ngoài ra, video cũng khiến tôi cảm thấy rằng mọi người cũng phải dành hàng tiếng đồng hồ để hoàn
thành công việc giống như mình. Vì thế những áp lực về bản thân (như năng suất của mình khong bằng người khác) đã giảm
bớt đi. Tóm lại, việc chỉ xem video đơn thuần không giúp tôi trở nên năng suất hơn nhưng ,
nó đã làm dịu những gánh nặng về
tinh thần, khiến tôi có động lực để hoàn thành bài tập.
Phụ lục 2. Dữ liệu quan sát cộng đồng (Netnography data)
Một số bình luận từ các video Study With Me trên nền tảng YouTube: