-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Nghiên cứu hoàn chỉnh - Pháp luật đại cương | Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh
Trong thực tế, vấn đề giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là một hoạt động diễn ra thường xuyên bởi người dân. Tuy nhiên, cũng có những người lợi dụng loại hình hợp đồng này nhầm tạo dựng lợi ích cho bản thân mình. Vì vậy, bài nghiên cứu TRANH CHẤP YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU tập trung nghiên cứu vấn đề tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong bản án số 97/2021/DS-PT ngày 16/11/2021 để có thể tìm hiểu rõ vấn đề tuyên bố hợp đồng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Môn: Pháp luật đại cương (BK.HCM)
Trường: Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|47206521 lOMoARcPSD|47206521
Phần 2: BÀI NGHIÊN CỨU HOÀN CHỈNH
Trong thực tế, vấn đề giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là một
hoạt động diễn ra thường xuyên bởi người dân. Tuy nhiên, cũng có những người
lợi dụng loại hình hợp đồng này nhầm tạo dựng lợi ích cho bản thân mình. Vì vậy,
bài nghiên cứu TRANH CHẤP YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
tập trung nghiên cứu vấn đề tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong bản án số
97/2021/DS-PT ngày 16/11/2021 để có thể tìm hiểu rõ vấn đề tuyên bố hợp đồng
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Nội dung cơ bản của vụ án là
như sau: Ông H và bà Đ kiện ông D và bà Th về việc tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là vô hiệu do cho rằng mình bị lừa dối. Nguyên đơn cho
rằng họ thống nhất chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà D với mục đích là
nếu bà Đ có bị tù tội thì bà Th sẽ cất giữ phần đất này lại giúp cho ông H, bà Đ.
Hai bên thỏa thuận giá 500 triệu đồng nhưng khai giá chỉ 50 triệu để giảm bớt tiền
thuế. Tuy nhiên, Bà Th và ông D lại cho rằng đất đã được chuyển nhượng cho họ
vì ông H và bà Đ đang nợ ông D và bà Th một khoản nợ. Về số tiền nợ hai bên có
lời khai khác nhau. Vấn đề được nghiên cứu chủ yếu trong bản án trên là tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng đất vô hiệu. Trong quá trình xử lý vụ án, Tòa án Nhân
dân tỉnh An Giang chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thiện H và bà Lê
Thị Đ. Có thể thấy hợp đồng chuyển nhượng đất của ông H, bà Đ với ông D, bà Th
là một giao dịch giả tạo vì căn cứ vào khoản 2 điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015
quy định giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo như sau:
“1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao
dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che
giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của
Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu”.
Đây là giao dịch dân sự giả tạo được xác lập nhằm che dấu giao dịch có thật khác.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/02/2017 giữa ông H, bà Đ và
ông D, bà Th được chuyển hóa từ hợp đồng vay tài sản là hợp đồng giả cách nhằm
mục đích giữ lại tài sản cho ông H và bà Đ,vì bà Đ vi phạm pháp luật bị khởi tố
hình sự và thiếu nợ nhiều người. Đồng thời, hợp đồng này còn được giao kết hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá trị thấp hơn so với giá trị thực tế
khi mua bán, để giảm tiền thuế hai bên còn kê khai giá đất là 50 triệu thay vì 500
triệu như đã thỏa thuận. Điều này cũng vi phạm điều 124 Bộ luật Dân sự 2015
thậm chí xử hình sự về tội trốn thuế theo quy định tại Điều 200 Bộ luật Hình sự
năm 2015. Do đó, hoàn toàn có căn cứ để công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự về việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/02/2017 lOMoARcPSD|47206521
giữa ông Nguyễn Thiện H, bà Nguyễn Thị Đ với ông Huỳnh Hữu D và bà Phan
Thị Kim Th là vô hiệu. Căn cứ theo điều Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân
thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”
Theo quy định trên, sau khi hợp đồng chuyển nhượng đất bị vô hiệu. Tòa án tuyên
hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất vô hiệu thì Văn phòng Đăng ký đất đai, cơ
quan Tài nguyên và Môi trường căn cứvào bản án, quyết định của Tòa án để giải
quyết điều chỉnh biến động và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
H, bà Đ phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án. Đồng thời buộc ông H và Đ
phải trả lại những khoản tiền đã mượn ông D, bà Th, cũng như các mức lãi suất
theo quy định tại điều 468 Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, ông H, bà Đ phải liên
đới trả cho ông D, bà Th số tiền 812.700.000đ và Buộc ông H, bà Đ liên đới trả
cho ông D, bà Th 02 lượng vàng 24kara tương đương số tiền 110.120.000đ. Tổng cộng là 922.820.000đ.