lOMoARcPSD| 58970315
Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng, ĐHXDHN, 2022, 16 (4V): 8397
TCHC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG
N TỘC THÁI ĐEN TẠI BẢN HIÊU, PÙ LUÔNG, THANH HÓA PHỤC VỤ
DU LỊCH CỘNG ĐỒNG
Lương Thị Hiền
a,
1
a
Khoa Kiến trúc và Quy hoạch, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội,
55 đường Giải Phóng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 24/8/2022, Sửa xong 05/9/2022, Chấp nhận đăng 10/10/2022
Tóm tắt
Du lịch cộng đồng (DLCĐ) hiện nay được nhiều người lựa chọn để phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi giải trí, DLCĐ
giúp người tham gia trải nghiệm được cuộc sống thường nhật cũng như văn hóa của người dân địa phương.
Tại bản Hiêu trong vùng lõi Pù luông, tỉnh Thanh Hóa nơi mà du khách trong và ngoài nước đến thăm quan và
lưu trú rất nhiều trong những năm gần đây đang phát triển mạnh mẽ hoạt động DLCĐ. Nhằm bảo tồn những
nếp nhà truyền thống và phát huy được giá trị về kiến trúc để từ đó giữ gìn được bản sắc văn hóa đặc sắc của
dân tộc Thái đen cũng như cải thiện điều kiện sinh kế của hộ gia đình, mục êu của bài báo là đxut mt s
giải pháp trong việc chỉnh trang tổ chức không gian bản làng, khuôn viên và tổ chức không gian kiến trúc nhà
ở truyền thống để đáp ứng điều kiện phục vụ phát triển DLCĐ tại bản Hiêu, Pù Luông, Thanh Hóa.
T khoá: du lịch cộng đồng; nhà ở truyền thống; bản sắc văn hóa; dân tộc Thái; Pù Luông.
ORGANIZATION OF TRADITIONAL RESIDENTAL ARCHITECTURAL SPACE OF THE BLACK THAI
ETHNICITY IN HIEU VILLAGE, PU LUONG, THANH HOA FOR DEVELOPMENT COMMUNITY BASED TOURISM
Abstract
Community-based tourism (CBT) is now chosen by many people to serve the needs of leisure and
entertainment, CBT helps parcipants experience the daily life as well as the culture of local people. In Hieu
village in the core area of Pu Luong, Thanh Hoa province, where domesc and foreign tourists visit and stay a
lot in recent years, CBT acvies have been strongly developed. To preserve the tradional houses and
promote the value of architecture, thereby preserving the unique cultural identy of the Black Thai ethnic
group as well as improving the living condions of households, the goal of the arcle is to propose some
soluons in embellishing the organizaon of village space, campus and tradional housing architectural space
to meet the condions for CBT development in Hieu village, Pu Luong, Thanh Hoa province.
Keywords: community-based – tourist; tradional house; cultural identy; Thai ethnic; Puluong.
hps://doi.org/10.31814/stce.huce(nuce)2022-16(4V)-06 © 2022 Trường Đại học Xây dựng Hà Nội (ĐHXDHN)
1
Tác giả đại diện. Địa chỉ e-mail: hienlt@huce.edu.vn (Hiền, L. T.)
1. Đặt vấn đề
Được ví như một Sapa đang ngủ yên ở Tây Bắc tỉnh Thanh Hóa với khung cảnh thiên nhiên vẫn
còn hoang sơ, những nếp nhà sàn dản dị trên những triền đồi thoai thoải và những thửa ruộng bậc
thang đẹp như tranh vẽ, Pù Luông đã và đang thu hút một số ợng lớn du khách trong nước cũng
như nước ngoài đến lưu trú, tham quan cũng như trải nghiệm với cuộc sống của người dân đa
phương. DLCĐ homestay có thể hiểu là khách du lịch có “3 chung”: ở chung, ăn chung và sinh hoạt
chung với người địa phương. Ở đây, du khách có thể m hiểu những hoạt động văn hóa, nếp sống
hằng ngày của chính gia chủ người dân địa phương. hình này đang phát triển rất mạnh đc
biệt các tỉnh vùng núi phía Bắc với những cảnh quan thiên nhiên rừng núi hùng vĩ nơi rất
nhiều dân tộc thiểu số sinh sống với những bản sắc và đặc thù rất riêng. Bản Hiêu là nơi mà đa phần
người dân tộc Thái đen đang sinh sống, họ đang rất nỗ lực làm DLCĐ. Con đường dẫn lên bản khá
nhỏ, đường đất xình lầy vào những lúc mưa, ban đêm thì không có đèn đường chiếu sáng cả bản chỉ
còn le lói những ánh điện từ các ngôi nhà dân đơn lẻ. Nhà cộng đồng của bản thì bị xuống cấp do
lâu không sử dụng, mọi sinh hoạt cộng đồng diễn ra tại nhà của trưởng bản, sinh hoạt văn hóa văn
nghngoài trời đã không còn. Người dân bản Hiêu đi chợ ph Đoàn cách điểm xa nhất của bản
8km. Ban đầu hình thức của các homestay chỉ đơn giản là những ngôi nhà sàn nguyên gốc với những
không gian và ện nghi đơn giản vốn có nhưng do nhu cầu khách du lịch đến lưu trú tại bản Hiêu rất
lớn nên người dân đã tự ý thay đổi không gian trong chính ngôi nhà truyền thống để thuận ện cho
việc phục vụ du khách vì vậy dẫn đến những không gian được coi là phần hồn, phần lõi giá trị của lối
sống truyền thống đã bị thay đổi điều này đã làm phá vkiến trúc tổng thể của chính bản thân ngôi
nhà nói riêng cũng như bản làng nói chung. Như vậy bằng cách nào người dân bản Hiêu có thể phát
triển được DLCĐ, cải thiện đời sống của người dân vẫn bảo tồn được ngôi nhà truyền thống,
phát huy được giá trvề kiến trúc để góp phần gìn giữ được văn hóa truyền thống của người dân
tộc Thái đen? Để tr lời câu hỏi trên bài báo đã đề xuất một số giải giải pháp trong việc chỉnh trang
tổ chức không gian bản làng, khuôn viên và hình thức kiến trúc của ngôi nhà truyền thống để đáp
ứng điều kiện phục vphát triển DLtại bản Hiêu, Luông, Thanh Hóa nói riêng cũng như các
bản làng người Thái nói chung.
Nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp sau: phương pháp khảo sát, điền dã, vẽ ghi, chụp ảnh;
phương pháp sưu tầm, tập hợp tài liệu; phương pháp điều tra xã hội học bằng cách phỏng vấn trực
ếp người dân về nhu cầu phát triển kiến trúc nhà để phục vụ du lịch cộng đồng; phương pháp
tổng hợp, phân ch, đánh giá và so sánh.
Hiện nay trong nước và trên thế giới có nhiều tác giả đã nghiên cứu về nhà dân tộc Thái
du lịch cộng đồng homestay. Như tác giả Nguyễn Khắc Tụng đã nghiên cứu về Nhà cổ truyền các
dân tộc Việt nam trong đó miêu tả về nhà sàn Thái chủ yếu Sơn La, Lai Châu và Nghệ An [1], tác
giCẩm Trng đã nghiên cứu Người Thái Tây bắc Việt Nam chủ yếu về văn hóa sinh hoạt thường
ngày của người Thái [2]. Nhóm tác giả Ngô Ngọc Thắng và Lê Sỹ Giáo nghiên cứu Văn hóa bản làng
truyền thống các dân tộc Thái, Mông vùng Tây Bắc Việt Nam đã tập trung đề cập về văn hóa phi vt
thcủa hai dân tộc [3]. Trong Kiến trúc dân gian truyền thống, tác giả Chu Quang Trứ miêu tả
chung chung về ngôi nhà sàn người Thái [4]. Tác giả Đặng Quc Việt trong luận văn thạc sỹ đã nghiên
cứu chính về giá trị không gian truyền thống làng bản dân tộc Thái đen Điện Biên hiện nay [5].
VKiến trúc nhà tái định cho dân tộc Thái khi xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La tác giả Nguyễn
Thi Thu Nga đã nghiên cứu về các mô hình nhà ở mới của người Thái để phù hợp với khu tái định
[6]. Và tác giả Vương Trung với nghiên cứu Nhà sàn cổ người Thái Việt Nam đã giới thiệu những nét
đặc trưngnhững tầng văn hóa dân gian ẩn sâu trong kiến trúc nhà sàn cổ truyền thống của người
Thái [7]. Bên cạnh các tác giả trong nước còn có tác giả ớc ngoài như Rawiwan Oranratmanee đã
nghiên cứu về hình tái sử dụng không gian để phục vụ du lịch cộng đồng Thái lan [8]. Tác giả
Minki Lama nghiên cứu về các chương trình homestay như một hình thức phát triển du lịch bền
vững ở Nepal [9]. Trong bài báo Lakhvinder Singh đã đề cập đến những cơ hội và thách thức đối với
du lịch cộng đng ở Ấn Độ [10].
Các công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu nghiên cứu về văn hóa và xã hội, còn về kiến trúc nhà
ở cũng chỉ dừng ở mức miêu tả, ghi chép, phân loại hơn nữa phạm vi nghiên cứu chủ yếu là dân tc
Thái ở Sơn La, Lai Châu. Như vậy các nghiên cứu chưa đề cập đến việc chỉnh trang tổ chức bản làng
cũng như khuôn viên, không gian kiến trúc nhà để phục vụ du lịch cộng đồng của dân tộc Thái
đen. Chính vậy nghiên cứu của tác giả được trình bày trong bài o để giải quyết những vấn đề
mà các tác giả khác chưa nghiên cứu đặc biệt đối với dân tộc Thái đen tại tỉnh Thanh Hóa.
Bên cạnh đó, với chủ trương của Đảng và chính sách của nhà nước về phát triển du lịch tại quyết
định 201/QĐ-TTg ngày 22/01/2013 [11] đã xác định: Ưu ên phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa
gắn với di sản, lễ hội, tham quan và m hiểu lối sống địa phương. Phát triển mạnh du lịch ẩm thực,
phát huy các giá trị văn hóa vùng miền làm nền tảng cho các sản phẩm du lịch đặc trưng. Theo Thông
12/2014/TT-BVHTTDL ngày 25/11/2014 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch [12], vùng dân tộc
thiểu số sẽ được hưởng nhiều chính sách ưu ên để phát triển du lịch hỗ trquảng bá, xúc ến du
lịch, hỗ trợ phát triển du lịch theo mô hình bền vững, đảm bảo cộng đồng vùng dân tộc thiểu số có
quyền tham gia hưởng lợi t hoạt động du lịch. Theo quyết định số 492/QĐ UBND ngày
09/02/2015 của Tỉnh Thanh Hóa [13] về phát triển du lịch như sau: Phát triển du lịch bền vững, gắn
cht vi việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường,
bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt chú trọng đầu tư phát triển, khai thác
các giá trị văn hóa dân tộc khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa, góp phần xóa đói giảm nghèo
giảm dần khoảng cách giữa khu vực miền núiđồng bằng. Trong chiến lược quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa, huyện Thước trong đó vùng lõi Luông được coi địa
bàn ềm năng nhiều lợi thế đầu tư cho du lịch cng đồng.
Trong bi cảnh như đã trình bày trên thì việc nghiên cứu Tchức không gian nhà truyền
thống của dân tộc Thái đen phục vụ phát triển du lịch cộng đồng tại bản Hiêu, Luông, Thanh Hóa”
là một việc thực sự thiết thực và cần thiết.
2. Thực trạng tổ chức không gian kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Thái đen tại bản Hiêu,Pù
luông, Thanh Hóa
2.1. Cấu trúc bản làng
Bản làng của dân tộc Thái đen tại bản Hiêu gần như vẫn giữ theo cấu trúc truyền thống gồm có
đồng ruộng, nhà ở, bãi cỏ chăn nuôi, rừng, khu mộ địa và nguồn nước. Ngoài ra còn bổ sung thêm
trường mẫu giáo và nhà văn hóa bản. Tổng cộng bản Hiêu có 36 hộ nằm rải rác từ chân bản lên đến
đỉnh bản. Bản nằm trên đồi cao điểm dốc nhất cách mặt đường lên đến 100m. Bản Hiêu nằm t
thác Hiêu nước chảy quanh năm rất trong và mát. Thác Hiêu cũng là nơi thu hút được rất nhiều du
khách đến tắm vào mùa hè. Hầu hết tất cả c nhà sàn đều quay về ớng Nam lưng tựa đồi
ớng ra ruộng bậc thang. Các cụm nhà sàn từ khoảng 3 đến 7 nóc phân bố rải rác khắp bản trên
những khu đất bằng phẳng cao dần lên phía trên đỉnh đồi. Trên vị trí cao nhất của bản có khoảng 10
nóc nhà sàn trong đó có một nhà sàn phục vụ cho sinh hoạt cộng đồng. Đường lên bản vẫn là đường
đất nhỏ uốn lượn và chiều rộng nhất khoảng 3 m.
Có 2 lối ếp cận vào bản, lối có thể đi xe máy lên khu vực cao nhất, một li xe máy và ô tô có thể
lên đến vị trí giữa của bản, việc đi lại gặp rất nhiều khó khăn nếu như trời mưa trơn trượt bùn
lầy. Trên đỉnh của bản cách một con suối có khu mộ địa của cả bản (Hình 1).
(a) Tổng mặt bằng (b) Không gian bản
Hình 1. Tổng mặt bằng và không gian bản Hiêu
2.2. Cấu trúc khuôn viên nhà ở
Diện ch khuôn viên: có thể thy diện ch khuôn viên nhà đa số từ 400 - 1000 m
2
, ít hơn thì
từ 1500 - 2000 m
2
và lớn hơn 3000 m
2
thì rất hiếm.
Hình thái khuôn viên: Khuôn viên có hình dạng khá tự do theo thế đất của từng khu vực. Phần
lớn khuôn viên nhà ở không có rào dậu bởi mỗi nhà nằm trên một sườn đất dốc cao nên bản thân
độ cao đã tạo nên danh giới của chính ngôi nhà với cả khu vực khác. Cũng có một số nhà có rào dậu
rất đơn bằng hàng y thấp hoặc những thanh tre cắm tạm. Nhiều homestay tham gia dịch vụ
DLCĐ có cổng riêng và biển tên.
Cấu trúc khuôn viên:
- Vkhông gian: gồm nhà sàn chính, nhà sàn phụ, nhà bếp, khu vệ sinh khu vực chăn
nuôi gia cầm cùng không gian phơi phóng, ao nhỏ để nuôi cá.
- Vphục vụ khách du lịch có 2 loại homestay (Hình 2 3):
+ Loại 1: Homestay phục vụ lưu trú kết hợp ăn ung
+ Loại 2: Homestay chỉ phục vụ lưu trú
Với loại 1 thì khu phục vụ khách để ngủ là khu nhà sàn chính, nhà sàn phụ và bungalow. Còn khu
phục vụ ăn uống, giải khát thì ở gầm và phía bên hông nhà sàn chính.
Với loại 2 thì khu phục vụ khách để ngủ là khu nhà sàn chính, nhà sàn phụ và bungalow, còn gm
sàn tầng 1 là nơi nghỉ ngơi giao lưu uống trà của du khách.
(a) Khu phục vụ ăn uống tầng 1
(b) Khu phục vụ lưu trú tầng 2
Hình 2. Khuôn viên sử dụng phục vụ lưu trú kết hợp ăn uống (Dũng Xuân Homestay)
(a) Khu nghỉ nghơi, giao lưu, uống trà tầng 1 (b) Khu phục vụ lưu trú tầng 2
Hình 3. Khuôn viên chỉ phục vụ lưu trú của du khách (Quyết Homestay)
2.3. Tchức không gian nhà ở (Hình 5, Hình 6)
Không gian ngủ của khách lưu trú: Tùy theo điều kiện của chủ homestay những không gian
nghỉ khác nhau mà khách lưu trú sẽ ở một trong ba loại không gian sau theo nhu cầu. Đó là nhà sàn
chính, nhà sàn phụ - diện ch nhỏ hơn hoặc Bungalow. Với nhà sàn chính nhà sàn phụ thường
cho khách tập thể đi theo nhóm còn với bungalow cho du khách đơn lẻ hoặc cặp đôi nhu cầu
riêng tư.
Không gian ngủ chủ nhà: Các chủ homestay và gia đình của họ đều không ngủ tại nhà sàn chính
mà ngủ sang nhà sàn phụ hoặc nhà đất được xây dựng riêng ngay bên cnh.
Không gian giao lưu: Không gian được sử dụng là gầm sàn nhà chính hoặc nhà phụ. Có thể là cả
những không gian cạnh hông nhà. Có số ít thì không gian giao lưu được thiết kế là chòi nghỉ đặt tách
riêng với nhà sàn.
Không gian ăn uống: Gầm sàn nhà chính bên hông nhà không gian linh hoạt nhất vừa sử
dụng chủ yếu là nơi giao lưu nghỉ ngơi của khách mà cũng là không gian dành cho ăn uống. Nếu vào
mùa vắng khách thì sàn nhà chính cũng là nơi để ăn uống đặc biệt cho khách là người thân quen bởi
họ quan niệm sàn nhà chính vẫn là nơi trang trọng để mời khách quý dùng cơm.
Không gian thờ cúng: Không gian thờ cúng của gia đình vẫn được để tại nhà sàn chính, ban thờ
hầu hết đều được treo lên cao sát cạnh dưới mái của nhà sàn chính. Bên cạnh ban thờ gia ên có
thờ bác Hồ hoặc Phật. Một nhà duy nhất trong số các nhà được điều tra có ban thờ được đặt trên
tủ thờ ở gian chính giữa nhà sàn chính.
Bếp nấu: Trong 12 hộ kinh doanh loại hình du lịch homestay thì có 9 hộ đã y bếp riêng xuống
tầng một bằng gạch. Còn lại 3 hộ vẫn đang sử dụng bếp trên nhà sàn phụ. Bên cạnh đó nhiều hộ đã
sử dụng thêm bếp ga cùng với bếp củi truyền thống.
(a) Mặt bằng bố trí thang (b) Phối cảnh vị trí thang
Hình 4. Cách bố trí cầu thang
Cầu thang: Cầu thang có số bậc lẻ là 7, 9 hay 11 bậc tảng đá kê dưới cùng. Theo quan sát hiện
nay có 5 kiểu thang bố trí lên nhà sàn chính (Hình 4):
- Dạng 1: Thang 1 vế lên thẳng chiếu tới từ 2 phía
- Dạng 2: Thang 2 phía đối diện nhau
- Dạng 3: 1 thang lên chiếu tới
- Dạng 4: 1 thang lên thẳng cửa nhà chính
- Dạng 5: 1 thang lên chiếu tới rộng như táng chan mái che Thang được bố trí hiện nay
không phân chia khu vực nam nữ như trước.
Hình 5. Sơ đồ tổ chức không gian nhà sàn truyền thống
Hình 6. Sơ đồ tổ chức không gian nhà sàn truyền thống kết hợp phục vụ DLCĐ
Nhà vệ sinh: Nhà vệ sinh đa phần được y tách biệt và gần nhà sàn chính. Vsinh thường đặt
phía sau nhà hoặc bên cạnh hông nhà. Trang thiết bị vệ sinh đầy đủ hiện đại, có vòi tắm và tùy
nhà có thêm bình nóng lạnh.
Khu giặt giũ và phơi đồ: Nhiều gia đình đã cóy giặt nên khu vực giặt gọn gàng hơn. Chỗ phơi
quần áo hay để ờn cuối nhà, nhiều gia đình phơi ở sân giữa hay thậm chí là dưới mái hiên.
Khu nuôi gia súc: Các gia đình tham gia DLCĐ đa phần đều nuôi gà, vịt và cá là chủ yếu cung
cấp nguồn thức phẩm sạch cho khách lưu trú nhưng số ợng không nhiều. Duy nhất Duy Phương
homestay thì nuôi hươu nên không gian chăn nuôi chiếm khá rộng và được quây thành một không
gian riêng có cổng vào.
2.4. Hình thức kiến trúc
Hình thức kiến trúc của ngôi nhà sàn truyền thống đã sthay đổi do mái khum mai rùa đã
không còn. Mái đã trở nên thẳng hơn và thường lợp dưới dạng 4 mái ging người Thái trắng lợp
bằng gianh hay cọ. Chiều cao của mái chiếm 2/3 so với chiều cao toàn nhà. Khau cút được coi là
chi ết để nhận dạng nhà ở của dân tộc Thái hiện nay cũng không thấy trên nóc những nếp nhà sàn.
vậy nhìn nhà sàn của người Thái đen khá giống với nhà sàn người Mường. Một số gia đình dựng
nhà sàn mới vẫn sử dụng vật liệu gỗ là chính nhưng đã kết hợp với kết cấu thép, với mái tôn đã làm
thay đổi hình thái của ngôi nhà Thái truyền thống. Bên cạnh đó xu hướng mở rộng không gian cho
khách nên việcy thêm không gian ở riêng cho gia đình chủ nhà dạng nhà đất đang càng ngày phổ
biến. Mặc dù mô hình y dựng này không được khuyến khích nhưng do chi phí rẻ hơn, nhanh hơn,
thuận ện hơn nên đó vẫn phương án lâu dài các homestay vẫn sử dụng. Cửa sổ: vẫn
dạng mở dài từ trên xuống tận sàn. Hiện nay xuất hiện thêm dạng cửa trượt hoặc xoay góc bên cạnh
dạng mở hai cánh truyển thống. Hình thức của cửa và song cửa sổ thấp sát sàn gỗ cũng khá đa dạng
(Hình 7).
Hình 7. Một số hình thức kiến trúc nhà ở dân tộc Thái đen
2.5. Vì kèo
Qua khảo sát các ngôi nhà tại bản Hiêu hệ kết cấu của ngôi nhà sàn truyền thống vẫn được giữ
nguyên đó hệ khung cột kiểu “khứ kháng“khay điêng. Vì kiểu “khứ thánggồm hai cột
một quá giang. Đầu cột có tua để lắp vào đầu quá giang. Để tạo thành bộ khung nhà người ta liên
kết các vì với nhau nhờ hai cây đòn tay lắpo đầu các cột và hai thanh dầm ngay thân cột. Vì kiểu
“khay điêng” là kiểu vì khứ kháng mở rộng thêm hai cột con ở hai bên. Kết cấu vì này đã có sự thay
đổi: hai đầu cột cái còn giữ nguyên kiểu lắp ráp cổ truyền, còn ở hai đầu cột con lại theo nguyên
tắc ocột – xà của người Tày. Trước đây hệ cột gỗ được đục đẽo bằng tay hiện nay một số nhà
điều kiện đã cho bào lại bằng máy để trơn nhẵn đẹp hơn.
Chân cột dạng cột trên đá, tùy vào kích thước cao thấp của cột gỗ các cột đá cũng
chiều cao thấp khác nhau. 2 gia đình y dựng nhà sàn mới thì hệ khung kết cấu đã có thay đổi
theo kiểu của dân tộc Mường hoặc của người Kinh (Hình 8).
(a) Vì kèo kiểu “khứ kháng
(b) Vì kèo kiểu “khay điêng
Hình 8. Vì kèo dạng khứ kháng, khay điêng (có biến đổi)
2.6. Vật liệu xây dựng
Ngôi nhà của người Thái cũng đã có sự thay đổi nhất định về vật liệu xây dựng. Cùng với sự phát
triển về khoa học công nghệ thì nhiều loại vật liệu mới ra đời. Đồng bào miền núi cũng được ếp
cận với nhiều loại vật liệu mới đó là gạch, tôn, broximang ... Bản Hiêu là một trong những bản có ít
sự thay đổi nhất về sử dụng vật liệu trong ngôi nhà truyền thống. Đa phần những ngôi nhà sàn chính
được làm bằng gỗ từ tổ ên dòng họ để lại, đều những cây gỗ quý gỗ hiếm ở sâu trong rừng
độ bền chắc rất cao. Vẫn có chủ nhà homestay cho y dựng thêm không gian phụ bằng gạch, mái
lợp lá, tôn hay broximang. Có nhà xây dựng thêm mô hình Bungalow sử dụng ct bê tông và sàn là
gạch đá hoa. Như vậy có thể tổng hợp lại việc sử dụng vật liệu của homestay ở bản Hiêu như sau:
- Nhà sàn chính: Bằng gỗ, lợp mái lá, sàn bằng gỗ hoặc tre nứa
- Nhà sàn phụ: Gm 2 loại. Loại 1: bằng gỗ, lợp mái lá, sàn bằng gỗ hoặc tre nứa; loại 2 là nhà
y bằng gạch có trát vữa và lợp mái lá hoặc mái tôn rồi lợp lá lên trên, sàn lát bằng nền xi măng.
- Nhà vệ sinh và nhà tắm: đa số y bằng gạch hoặc phần gạch phía dưới và lớp tre phía trên,
lợp mái tôn hoặc mái lá.
- Nhà dạng Bungalow (gồm 2 loại) loại 1: bằng gỗ và lợp mái lá, sàn bằng tre hay gỗ và loại 2:
nhà xây bằng gạch lợp mái lá, sàn lát đá hoa.
- Nhà bếp (gồm 2 loại) loại 1: nhà sàn gỗ và loại 2: nhà gạch xây, sàn đất.
3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức không gian kiến trúc nhà ở đến bản Hiêu phục vdulch
cộng đồng
3.1. Yếu tố kinh tế, xã hội
Song hành với sự phát triển kinh tế trong cả ớc, các tỉnh miền núi đã được nhà nước quan
tâm rất nhiều đặc biệt các địa phương có cảnh quan thiên nhiên tự nhiên như Pù Luông – được ghi
nhận là khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia. Bản Hiêu thuộc huyện Bá Thước nằm trong vùng lõi ca
khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia nên cũng là khu vực được hết sức quan tâm phát triển. Cơ sở hạ
tầng như điện, đường, trường, trạm đã bước đầu được đầu tư. Hệ thống giao thông tuyến huyện
đã khá tốt nhưng giao thông trong bản thì vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Điện đã được kéo tới toàn
bản nhưng mới dừng các hộ chưa có đèn đường, mạng không dây 3G đã được sử dụng rộng
rãi trong các bản điều đó làm đời sống của người dân tộc được mở mang ếp cận gần gũi hơn với
cuộc sống hiện đại, giúp người dân tự quảng cáo homestay của mình trên nhiều nền tảng khác nhau
như facebook, instagram, youtube ... điều đó giúp nhiều người biết đến bản Hiêu nhiều hơn. Nhờ
phát triển kinh tế mà nhiều vật dụng ện ích được người dân sử dụng như vi, tủ lạnh, xe máy, máy
bơm, quạt điện, bình nóng lạnh, máy cày bừa sát gạo ...
3.2. Yếu tố xây dựng và vật liệu
Do nhu cầu y dựng nhà ngày càng lớn nguồn gỗ thì ngày càng khan hiếm nên nhà sàn người
Thái đã những biến đổi về ch xây dựng cũng như vật liệu sử dụng. Những cột gỗ đã thay đổi
bằng cột tông, mái thành mái ngói hoặc tôn, proximang. Người Thái đang sdụng kỹ thuật
mộng của người kinh để làm nhà.
3.3. Yếu tố văn hóa
Qua thời gian hình thành phát triển, văn hóa của người dân tộc Thái đen đã thấm sâu vào
trong nội tại từ con người đến ngôi nhà rồi đến cả bản làng. Từ cách họ chọn vị trí làm nhà, đến hình
thức kiến trúc, kết cấu rồi phân chia không gian chức năng sao cho phù hợp với lối sống, với điu
kiện khí hậu đã làm nên những ngôi nhà những bản làng mang nh độc đáo riêng biệt. Những
chiếc “khau cúthai đầu hồi dạng như “sừng con hươu” giúp nẹp giữ lớp tranh hai đầu
không bị tốc nhưng còn tượng trưng cho sự sang hèn của chủ nhân ngôi nhà. Sừng hươu càng
nhiều nhánh thì chủ nhân càng giàu và có địa vị. Những hoa văn trang trí trên những bộ trang phục
của người Thái đen cũng đã được cách điệu vào chi ết hoa văn cửa sổ cũng như trang trí lan can
nhà. Tuy nhiên, hiện nay do việc giao thông đi lại, kết nối trở nên dễ dàng nên sự giao lưu văn hóa
giữa các vùng miền thuận lợi hơn rất nhiều. Việc sinh sống gần người Kinh, người Mường, người
Dao ... nên văn hóa ngoại lai đã ảnh hưởng đến đời sống của người dân tộc Thái đen khá rõ rệt. Xu
ớng thích xây nhà trệt bằng gạch, đổ sàntông hay mái ngói, tôn ... đang được nhiều người dân
lựa chọn không nghĩ tới giá trị bản sắc của những ngôi nhà sàn truyền thống. Lan can, cửa sổ,
cửa đi nhà cũng đã không còn hoa văn họa ết trang trí như xưa mà có xu hướng làm giống người
Kinh.
3.4. Nhu cầu phục vụ du lịch cộng đồng
Bản của người Thái trước kia đa phần nằm giữa thiên nhiên núi rừng còn bây giờ nhiều nhà sàn
đã được y dựng sát đường giao thông liên các vùng. Nhiều bản làng cũng đã bị thu hẹp do nhà
ớc lấy đất để xây dựng đường, xây trụ sở ... Dân số thì tăng cao do vậy nhu cầu xây dựng thêm
nhà cửa cũng làm diện ch khuôn viên của từng hộ gia đình cũng giảm xuống rõ rệt. Theo thống kê
của huyện, bản Hiêu 36 hộ với hơn 160 nhân khẩu. Nhiều hộ gia đình con lớn đã lên thành
phhọc đại học nên nhân khẩu của gia đình tạm thời giảm nhưng cũng có nhiều gia đình có 3 thế
hệ vn chung. Hiện nay khi loại hình DLCĐ phát triển, khách du lịch đến trnên số nhân khẩu
tăng lên khá nhiều vào từng thời điểm trong năm. Khi mùa du lịch của khách Tây vào khoảng tháng
10 đến tháng 1 thì dân số của bản có thể tăng gấp 2 hoặc hơn. Còn mùa du lịch khách ta - khách Việt
từ tháng 5 đến tháng 7 cũng tăng một lượng đáng k. Mỗi gia đình trung bình sẽ ếp một sng
khách khoảng 6 đến 10 khách hàng ngày. Tùy theo các hộ kinh doanh mà số ợng khách du lịch lưu
trú thể ít hay nhiều. Đó cũng chính một trong những nguyên nhân tác động đến sự thay đổi
không gian nhà ở truyền thống do phải sắp xếp chia sẻ không gian cho khách lưu trú tại bản Hiêu.
4. Đề xuất giải pháp tchức không gian kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Thái đen phụcvdu
lịch cộng đồng
4.1. Giải pháp chỉnh trang cấu trúc không gian bản Hiêu (Hình 9)
- Đề xut bổ sung các không gian chức năng phục vụ du lịch cộng đng:
+ Bãi đỗ xe ngoài đầu bản;
+ Mở rộng đường đi lại;
+ Không gian sinh hoạt cộng đồng trong nhà cần cải tạo và bổ sung không gian hoạt động ngoài
trời đáp ứng hoạt động văn hóa phi vật thể;
+ Xây dựng chợ và đưa thêm không gian phục vụ du lịch như chợ đêm, không gian ẩm thực giúp
du khách có thể thưởng thức thêm sản vật địa phương;
+ Xây trạm y tế;
+ Khôi phục mở thêm bến nước lắp thêm Cọn nước tạo không gian chụp ảnh cho khách du
lịch.
- Giải pháp chỉnh trang: Bãi đỗ xe được bố trí phía ngoài đầu bản dành cho những xe du lịch
nhiều chỗ đỗ; đường vào bản hiện nay vẫn đường đất đi lại rất khó khăn nhất vào lúc trời
mưa, do vậy giải pháp làm đường đổ tông cũng như mở rộng giúp người dân khách du
lịch dễ dàng ếp cận bản hơn; Nhà sinh hoạt cộng đồng cần cải tạo không gian sdụng do bxung
cấp, phần gầm sàn cần lát gạch hoặc đổ sàn phẳng cho sạch sẽ tránh ẩm mốc. Không gian ngoài
trời hiện nay đã không còn. Khi DLCĐ ngày càng phát triển thì giao lưu với khách là một hoạt động
rất cần thiết để tăng sự hiểu biết văn hóa giữa người địa phương và khách lưu trú. Vì vậy cần khôi
phục lại không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng là một cách để gìn giữ những nét sinh hoạt văn
hóa truyền thống của người dân tộc Thái đã từng có trước đây; Chợ trong bản Hiêu chưa có nên
việc xây dựng một ngôi chợ ở vị trí đầu bản là rất cần thiết giúp người dân không phải đi xa và có
thtrao đổi buôn bán sản vật trong chính bản của mình với nhau cũng như giao lưu từ các bản
khác. Bản Hiêu có đặc sản là vịt cổ lũng, ốc đá, lợn bản ... thì việc tạo ra khu chợ đêm để khách du
lịch hội thưởng thức ẩm thực p phần giúp cải thiện thêm kinh tế của người dân địa
phương; việc mở một trạm y tế nhgiúp cộng đồng địa phương và khách du lịch yên tâm hơn về
sức khỏe do hiện nay bản chưa có, trung tâm y tế cách bản trên 10 km. Trạm y tế được chọn nằm
vị trí giữa bản sẽ giúp việc di chuyển sẽ thuận ện hơn; bổ sung thêm các Cọn nước suối chỗ
khu vực gần đường sẽ giúp không gian bản làng có nhiều điểm đặc sắc hơn cũng như giúp khách
du lịch ếp cận dễ hơn và có nhiều vị trí để chp ảnh sống động hơn; đèn đường từ đầu bản đến
cuối bản cần được bổ sung giúp cả người dân du khách đi lại dễ dàng hơn hội trải
nghiệm bản Hiêu vào ban đêm cũng như đảm bảo hơn về mặt an ninh.
Hình 9. Tổng mặt bằng chỉnh trang bản Hiêu Hình 10. Loại homestay phục vụ ngăn uống Vị trí những
không gian được đề xut bổ sung Phần bổ sung trong khuôn viên ngôi nhà
4.2. Tchức khuôn viên nhà ở
- Loại 1: Homestay phục vụ lưu trú và ăn uống.
Trong khuôn viên của các homestay loại 1 thì vị trí bếp củi cần được thay đổi tới vị trí khác xa
hơn nhà sàn để khói bếp không ảnh hưởng đến khách lưu trú. Còn với phần bếp dùng bếp ga hay
bếp từ thì có thể làm thêm ống hút mùi. Vị trí của khu phơi nên chuyển xuống khu vực sau của nhà
sàn hay vườn.
Nên chuồng nuôi gia cầm đặt cui vườn tránh vịt phóng uế bừa bãi trong khu vực khách
lưu trú gây mất mĩ quan và ô nhiễm môi trường sống.
Bổ sung bếp lửa trại ngoài trời để du khách thể thưởng thức đồ ớng BBQ hay hay tạo thêm
không gian giao lưu quây quần sinh hoạt cho khách du lịch về đêm.
Chum nước rửa chân cạnh chân cầu thang trước khi lên sàn cần khôi phục lại (Hình 10).
- Loại 2: Homestay chỉ phục vụ lưu trú.
Bố trí thêm bungalow để có thể phục vdu khách yêu cầu sự riêng nhiều hơn và bố trí tr
trí có view nhìn ra không gian rộng đẹp để khách có ththưởng thức cảnh quan; bổ sung thêm nhà
sàn phụ để tăng thêm không gian ngủ cho khách lưu trú; thêm bếp lửa ngoài trời vị trí phù hợp
để tăng cường giao lưu sinh hoạt của du khách cũng như thưởng thức thêm những món ăn nướng
từ sản vật của địa phương; không gian ngủ chnhà thể btrí cạnh khu vực bếp để thuận ện
cho sinh hot của gia đình; nên bố trí rõ cổng vào và biển homestay rõ ràng để tránh khách bị nhm
lẫn (Hình 11).
Hình 11. Loại homestay chphục vụ ngủ và mô hình mẫu (Les Bain des Hieu Ecolodge)
Phần bổ sung trong khuôn viên ngôi nhà
4.3. Tchức không gian kiến trúc nhà ở
Không gian nhà chính: bsung không gian bếp khách bếp dành cho chủ nhà ếp khách trên
ngôi nhà chính. Được coi là linh hồn của ngôi nhà, bếp lửa có một vị trí rất quan trọng trong tâm trí
của từng người dân do vậy cần khôi phục lại bếp lửa trong ngôi nhà sàn chính để lưu giữ được hình
ảnh truyền thống quây quần của người dân tộc bên bếp lửa hơn nữa giúp du khách thể hiểu thêm
văn hóa sng của người dân tộc Thái.
4.4. Hình thức kiến trúc
Khôi phục lại hình ảnh khau cút trên mái nhà đây không chỉ hình ảnh giúp nhận diện được
ngôi nhà của dân tộc Thái đen còn biểu tượng quan trọng trong tâm trí của người dân. Nên
thay thế vật liệu mái nhà bằng tôn, proximang hay ngói bằng vật liệu thân thiện môi trường hơn
cũng gần với mái truyền thống của ngôi nhà như mái lợp lá, có thể dùng mái tôn mát chống nóng
lợp thêm lớp lá bên trên, phía dưới mái dùng thêm lớp phên kẹp lá để nội thất vẫn nhìn thấy lớp
mái tăng cường nh thẩm mỹ của nội thất tạo cảm giác gần gũi thuộc với ngôi nhà truyền thng
vốn có. Nên loại bỏ sự kết hợp giữa kết cấu gỗ kết cấu thép trong nhà truyền thống tạo s
tương phản rõ ràng không có sự dồng bộ vật liệu của ngôi nhà.
4.5. Kỹ thuật xây dựng và vật liệu
Xu hướng y nhà bằng tông thay thế vật liệu gỗ đang diễn ra phổ biến. Việc xây dựng một
ngôi nhà bằng gỗ với chi phí vừa lớn và thời gian để thi công lâu, hơn nữa cũng là phương án về lâu
dài ảnh hưởng đến môi trường sống khi chặt cây phá rừng vì vậy cũng dẫn đến việc người dân chọn
vật liệu rẻ ền thi công nhanh như tông làm cột nhà, sàn nhà, mái dùng proximang hay tôn
đã lựa chọn chủ yếu của người dân. Vậy nên khuyến khích người dân chọn vật liệu phù hợp với
kinh tế mà vẫn giữ được nhiều nhất những yếu tố làm nên bản sắc của ngôi nhà sàn truyền thống.
Như cột khuyến khích dùng cột tròn bằng bê tông có sơn giả gỗ, sàn dùng sàn bê tông lát sàn bằng
các tấm tre dập hoặc chỉ ch dùng cột và dầm bằng bê tông, sàn dùng xà thép sau đó lát sàn tre dập
lên trên, phía dưới gầm sàn tầng 1 thì dùng bản tre nhỏ che toàn bộ hệ thanh xà thép như vậy hoàn
toàn có thể thy phía dưới sàn tầng 1 là trần hoàn toàn bằng tre.
5. Kết luận
Nhà sàn truyền thống dân tộc Thái đen trải qua hàng nghìn năm trong quá trình hình thành
phát triển, ngôi nhà đã phù hợp với điều kiện sống và nhu cầu của người dân, đã thích ứng với
điều kiện tự nhiên phong tục tập quán của từng vùng và đã hình thành một t văn hóa kiến trúc
đậm đà bản sắc.
Không chỉ khách du lịch nước ngoài khách du lịch trong nước hiện nay đang được thu hút
hấp dẫn bởi những hoạt động trải nghiệm trong những di sản kiến trúc, văn hóa lối sống thường
nhật cũng văn hóa ẩm thực từ những sản vật địa phương, như vậy bằng việc sử dụng, khai thác văn
hóa kiến trúc ngôi nhà sàn truyền thống phương pháp thực sự hiệu quả để phục vụ du lịch cộng
đồng tại bản Hiêu.
Để dân tộc Thái đen bản Hiêu đáp ứng được nhu cầu phát triển du lịch cộng đồng thì trước
hết cần phải chỉnh trang cấu trúc không gian bản làng bằng cách bổ sung một số chức năng còn thiếu
như chợ, trạm y tế, bãi đậu xe, hay cải tạo không gian sinh hoạt cộng đồng khôi phục lại không
gian sinh hoạt ngoài trời, tạo thêm cọn nước cũng như lắp đèn đường. Với khuôn viên ngôi nhà thì
loại homestay phục vụ ngủ và ăn uống thì cần chuyển đổi vị trí bếp đun cho phù hợp, tạo thêm bếp
ngoài trời, khu vực chuồng trại phơi phóng cho phía sau cùng của nhà, chum nước rửa chân đặt
ngay sát chân cầu thang cần được khôi phục lại. Với khuôn viên ngôi nhà homestay chỉ phục vụ ng
thì cần bố trí thêm nhiều bungalow cho khách lẻ cần riêng tư cũng như thêm nhà sàn phụ cho nhu
cầu khách du lịch ngày càng tăng bên cạnh đó cũng cần bố trí thêm bếp nướng ngoài trời, cổng vào
biển tên ràng dễ nhận diện. Vtổ chức không gian kiến trúc ngôi nhà thì với cả 2 loại nhà
homestay: phục vụ ngăn uống cũng như chỉ phục ngủ thì đều cần đưa bếp lửa khách trở lại
không gian nhà sàn chính, khôi phục lại hình ảnh khau cút trên mái nhà, thay các mái nhà bằng vật
liệu tôn hay proximang bằng những vật liệu địa phương như mái lá hay mái tôn mát kết hợp mái lá,
cột nhà bằng bê tông thì được dùng sơn giả gỗ và sàn nhà dùng xà thép lát tre đập. Không gian dệt
vải cũng nên được khôi phục để làm sống lại nét văn hóa truyền thống đã bị mai một của người dân.
Bên cạnh đó cần chia skiến thức, kỹ năng, lộ trình phát triển cho người dân để giúp họ phát
triển du lịch có tổ chức một cách bền vững. Chủ động trong việc phát triển dựa vào quảng cáo - PR
– từ chính năng lực của hộ gia đình qua các kênh từ internet, mạng xã hội, app ... Cần minh bạch rõ
ràng trong việc phân chia quyền lợi giữa các bên liên quan tránh y mâu thuẫn xung đột ảnh hưởng
đến sự phát triển du lịch chung của bản, làng. Cùng nhau hỗ trợ khi phát sinh đột biến lượng khách.
Vsinh bản, làng, từng hộ gia đình cũng như an toàn thực phẩm cần được quan sát kiểm tra cẩn
thận kỹ ỡng đây là yếu tố quan trọng khi du khách lựa chọn chỗ ăn và ở.
Với đề xuất nghiên cứu của bài báo thì ngoài sử dụng cho dân tộc Thái đen tại Pù luông, Thanh
Hóa thì đây cũng gợi ý giúp cho các dân tộc Thái các vùng khác hoàn toàn tháp dụng để
phát triển du lịch cộng đồng.
Tài liệu tham khảo
[1] Tụng, N. K. (2015). Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Ni.
[2] Trọng, C. (1978). Người Thái Tây Bắc Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[3] Thắng, N. N. (2002). Văn hóa bản làng truyền thống các dân tộc Thái, Mông vùng Tây Bắc Việt Nam.
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
[4] Trứ, C. Q. (1999). Kiến trúc dân gian truyền thống. Nhà xuất bản Mỹ thuật, Hà Nội.
[5] Việt, Đ. Q. (2011). Nghiên cứu giá trị không gian ở truyền thống làng bản dân tộc Thái đenĐiện Biên
hiện nay. Luận văn Thạc sĩ, Đại học Xây dựng Hà Nội.
[6] Nga, N. T. T. (2006). Kiến trúc nhà tái định cho dân tộc Thái khi xây dựng nhà máy thủy điện Sơn
La. Luận văn thạc sĩ, Đại học Xây dựng Hà Nội.
[7] Trung, V. (1997). Nhà sàn cổ người Thái Việt Nam. Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
[8] Oranratmanee, R. (2011). Re-ulizing Space: Accommodang Tourists in Homestay Houses in Northern
Thailand, volume 8. Chiang Mai University.
[9] Lama, M. (2013). Community Homestay programmes as a form of sustainable tourism development in
Nepal. Thesis, Centria University of Applied Sciences.
[10] Singh, L. (2014). Homestay Tourism in India: Opportunies and Challenges. African Journal of
Hospitality, Tourism and Leisure, 3.
[11] Thớng chính phủ (2013). Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22/1/2013 phê duyệt “Quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030”.
[12] Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch (2014). Thông số12/2014/TT-BVHTTDL ngày 25/11/2014 quy đnh
chi ết thi hành một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 ca Chính
phủ về Công tác dân tộc.
[13] Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2015). Quyết định số 492/QĐ - UBND ngày 09/02/2015 phê duyệt
chiến lược phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030”.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58970315
Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng, ĐHXDHN, 2022, 16 (4V): 83–97
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG
DÂN TỘC THÁI ĐEN TẠI BẢN HIÊU, PÙ LUÔNG, THANH HÓA PHỤC VỤ DU LỊCH CỘNG ĐỒNG Lương Thị Hiềna,1 a
Khoa Kiến trúc và Quy hoạch, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội,
55 đường Giải Phóng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 24/8/2022, Sửa xong 05/9/2022, Chấp nhận đăng 10/10/2022 Tóm tắt
Du lịch cộng đồng (DLCĐ) hiện nay được nhiều người lựa chọn để phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi giải trí, DLCĐ
giúp người tham gia trải nghiệm được cuộc sống thường nhật cũng như văn hóa của người dân địa phương.
Tại bản Hiêu trong vùng lõi Pù luông, tỉnh Thanh Hóa nơi mà du khách trong và ngoài nước đến thăm quan và
lưu trú rất nhiều trong những năm gần đây đang phát triển mạnh mẽ hoạt động DLCĐ. Nhằm bảo tồn những
nếp nhà truyền thống và phát huy được giá trị về kiến trúc để từ đó giữ gìn được bản sắc văn hóa đặc sắc của
dân tộc Thái đen cũng như cải thiện điều kiện sinh kế của hộ gia đình, mục tiêu của bài báo là đề xuất một số
giải pháp trong việc chỉnh trang tổ chức không gian bản làng, khuôn viên và tổ chức không gian kiến trúc nhà
ở truyền thống để đáp ứng điều kiện phục vụ phát triển DLCĐ tại bản Hiêu, Pù Luông, Thanh Hóa.
Từ khoá: du lịch cộng đồng; nhà ở truyền thống; bản sắc văn hóa; dân tộc Thái; Pù Luông.
ORGANIZATION OF TRADITIONAL RESIDENTAL ARCHITECTURAL SPACE OF THE BLACK THAI
ETHNICITY IN HIEU VILLAGE, PU LUONG, THANH HOA FOR DEVELOPMENT COMMUNITY BASED TOURISM Abstract
Community-based tourism (CBT) is now chosen by many people to serve the needs of leisure and
entertainment, CBT helps participants experience the daily life as well as the culture of local people. In Hieu
village in the core area of Pu Luong, Thanh Hoa province, where domestic and foreign tourists visit and stay a
lot in recent years, CBT activities have been strongly developed. To preserve the traditional houses and
promote the value of architecture, thereby preserving the unique cultural identity of the Black Thai ethnic
group as well as improving the living conditions of households, the goal of the article is to propose some
solutions in embellishing the organization of village space, campus and traditional housing architectural space
to meet the conditions for CBT development in Hieu village, Pu Luong, Thanh Hoa province.
Keywords: community-based – tourist; traditional house; cultural identity; Thai ethnic; Puluong.
https://doi.org/10.31814/stce.huce(nuce)2022-16(4V)-06 © 2022 Trường Đại học Xây dựng Hà Nội (ĐHXDHN)
1 Tác giả đại diện. Địa chỉ e-mail: hienlt@huce.edu.vn (Hiền, L. T.) 1. Đặt vấn đề
Được ví như một Sapa đang ngủ yên ở Tây Bắc tỉnh Thanh Hóa với khung cảnh thiên nhiên vẫn
còn hoang sơ, những nếp nhà sàn dản dị trên những triền đồi thoai thoải và những thửa ruộng bậc
thang đẹp như tranh vẽ, Pù Luông đã và đang thu hút một số lượng lớn du khách trong nước cũng
như nước ngoài đến lưu trú, tham quan cũng như trải nghiệm với cuộc sống của người dân địa
phương. DLCĐ homestay có thể hiểu là khách du lịch có “3 chung”: ở chung, ăn chung và sinh hoạt
chung với người địa phương. Ở đây, du khách có thể tìm hiểu những hoạt động văn hóa, nếp sống
hằng ngày của chính gia chủ và người dân địa phương. Mô hình này đang phát triển rất mạnh đặc
biệt các tỉnh vùng núi phía Bắc với những cảnh quan thiên nhiên rừng núi hùng vĩ nơi mà có rất
nhiều dân tộc thiểu số sinh sống với những bản sắc và đặc thù rất riêng. Bản Hiêu là nơi mà đa phần
người dân tộc Thái đen đang sinh sống, họ đang rất nỗ lực làm DLCĐ. Con đường dẫn lên bản khá
nhỏ, đường đất xình lầy vào những lúc mưa, ban đêm thì không có đèn đường chiếu sáng cả bản chỉ
còn le lói những ánh điện từ các ngôi nhà dân đơn lẻ. Nhà cộng đồng của bản thì bị xuống cấp do
lâu không sử dụng, mọi sinh hoạt cộng đồng diễn ra tại nhà của trưởng bản, sinh hoạt văn hóa văn
nghệ ngoài trời đã không còn. Người dân bản Hiêu đi chợ phố Đoàn cách điểm xa nhất của bản là
8km. Ban đầu hình thức của các homestay chỉ đơn giản là những ngôi nhà sàn nguyên gốc với những
không gian và tiện nghi đơn giản vốn có nhưng do nhu cầu khách du lịch đến lưu trú tại bản Hiêu rất
lớn nên người dân đã tự ý thay đổi không gian trong chính ngôi nhà truyền thống để thuận tiện cho
việc phục vụ du khách vì vậy dẫn đến những không gian được coi là phần hồn, phần lõi giá trị của lối
sống truyền thống đã bị thay đổi điều này đã làm phá vỡ kiến trúc tổng thể của chính bản thân ngôi
nhà nói riêng cũng như bản làng nói chung. Như vậy bằng cách nào người dân bản Hiêu có thể phát
triển được DLCĐ, cải thiện đời sống của người dân mà vẫn bảo tồn được ngôi nhà truyền thống,
phát huy được giá trị về kiến trúc để góp phần gìn giữ được văn hóa truyền thống của người dân
tộc Thái đen? Để trả lời câu hỏi trên bài báo đã đề xuất một số giải giải pháp trong việc chỉnh trang
tổ chức không gian bản làng, khuôn viên và hình thức kiến trúc của ngôi nhà truyền thống để đáp
ứng điều kiện phục vụ phát triển DLCĐ tại bản Hiêu, Pù Luông, Thanh Hóa nói riêng cũng như các
bản làng người Thái nói chung.
Nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp sau: phương pháp khảo sát, điền dã, vẽ ghi, chụp ảnh;
phương pháp sưu tầm, tập hợp tài liệu; phương pháp điều tra xã hội học bằng cách phỏng vấn trực
tiếp người dân về nhu cầu phát triển kiến trúc nhà ở để phục vụ du lịch cộng đồng; phương pháp
tổng hợp, phân tích, đánh giá và so sánh.
Hiện nay ở trong nước và trên thế giới có nhiều tác giả đã nghiên cứu về nhà ở dân tộc Thái và
du lịch cộng đồng homestay. Như tác giả Nguyễn Khắc Tụng đã nghiên cứu về Nhà ở cổ truyền các
dân tộc Việt nam trong đó có miêu tả về nhà sàn Thái chủ yếu ở Sơn La, Lai Châu và Nghệ An [1], tác
giả Cẩm Trọng đã nghiên cứu Người Thái ở Tây bắc Việt Nam chủ yếu về văn hóa sinh hoạt thường
ngày của người Thái [2]. Nhóm tác giả Ngô Ngọc Thắng và Lê Sỹ Giáo nghiên cứu Văn hóa bản làng
truyền thống các dân tộc Thái, Mông vùng Tây Bắc Việt Nam đã tập trung đề cập về văn hóa phi vật
thể của hai dân tộc [3]. Trong Kiến trúc dân gian truyền thống, tác giả Chu Quang Trứ có miêu tả
chung chung về ngôi nhà sàn người Thái [4]. Tác giả Đặng Quốc Việt trong luận văn thạc sỹ đã nghiên
cứu chính về giá trị không gian ở truyền thống làng bản dân tộc Thái đen ở Điện Biên hiện nay [5].
Về Kiến trúc nhà ở tái định cư cho dân tộc Thái khi xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La tác giả Nguyễn
Thi Thu Nga đã nghiên cứu về các mô hình nhà ở mới của người Thái để phù hợp với khu tái định cư
[6]. Và tác giả Vương Trung với nghiên cứu Nhà sàn cổ người Thái Việt Nam đã giới thiệu những nét
đặc trưng và những tầng văn hóa dân gian ẩn sâu trong kiến trúc nhà sàn cổ truyền thống của người
Thái [7]. Bên cạnh các tác giả trong nước còn có tác giả nước ngoài như Rawiwan Oranratmanee đã
nghiên cứu về mô hình tái sử dụng không gian để phục vụ du lịch cộng đồng ở Thái lan [8]. Tác giả
Minki Lama nghiên cứu về các chương trình homestay như một hình thức phát triển du lịch bền
vững ở Nepal [9]. Trong bài báo Lakhvinder Singh đã đề cập đến những cơ hội và thách thức đối với
du lịch cộng đồng ở Ấn Độ [10].
Các công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu nghiên cứu về văn hóa và xã hội, còn về kiến trúc nhà
ở cũng chỉ dừng ở mức miêu tả, ghi chép, phân loại hơn nữa phạm vi nghiên cứu chủ yếu là dân tộc
Thái ở Sơn La, Lai Châu. Như vậy các nghiên cứu chưa đề cập đến việc chỉnh trang tổ chức bản làng
cũng như khuôn viên, không gian kiến trúc nhà ở để phục vụ du lịch cộng đồng của dân tộc Thái
đen. Chính vì vậy nghiên cứu của tác giả được trình bày trong bài báo để giải quyết những vấn đề
mà các tác giả khác chưa nghiên cứu đặc biệt đối với dân tộc Thái đen tại tỉnh Thanh Hóa.
Bên cạnh đó, với chủ trương của Đảng và chính sách của nhà nước về phát triển du lịch tại quyết
định 201/QĐ-TTg ngày 22/01/2013 [11] đã xác định: Ưu tiên phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa
gắn với di sản, lễ hội, tham quan và tìm hiểu lối sống địa phương. Phát triển mạnh du lịch ẩm thực,
phát huy các giá trị văn hóa vùng miền làm nền tảng cho các sản phẩm du lịch đặc trưng. Theo Thông
tư 12/2014/TT-BVHTTDL ngày 25/11/2014 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch [12], vùng dân tộc
thiểu số sẽ được hưởng nhiều chính sách ưu tiên để phát triển du lịch hỗ trợ quảng bá, xúc tiến du
lịch, hỗ trợ phát triển du lịch theo mô hình bền vững, đảm bảo cộng đồng vùng dân tộc thiểu số có
quyền tham gia và hưởng lợi từ hoạt động du lịch. Theo quyết định số 492/QĐ – UBND ngày
09/02/2015 của Tỉnh Thanh Hóa [13] về phát triển du lịch như sau: Phát triển du lịch bền vững, gắn
chặt với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường,
bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt chú trọng đầu tư phát triển, khai thác
các giá trị văn hóa dân tộc khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa, góp phần xóa đói giảm nghèo
và giảm dần khoảng cách giữa khu vực miền núi và đồng bằng. Trong chiến lược quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa, huyện Bá Thước trong đó có vùng lõi Pù Luông được coi là địa
bàn tiềm năng nhiều lợi thế đầu tư cho du lịch cộng đồng.
Trong bối cảnh như đã trình bày ở trên thì việc nghiên cứu “Tổ chức không gian nhà ở truyền
thống của dân tộc Thái đen phục vụ phát triển du lịch cộng đồng tại bản Hiêu, Pù Luông, Thanh Hóa”
là một việc thực sự thiết thực và cần thiết.
2. Thực trạng tổ chức không gian kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Thái đen tại bản Hiêu,Pù luông, Thanh Hóa
2.1. Cấu trúc bản làng
Bản làng của dân tộc Thái đen tại bản Hiêu gần như vẫn giữ theo cấu trúc truyền thống gồm có
đồng ruộng, nhà ở, bãi cỏ chăn nuôi, rừng, khu mộ địa và nguồn nước. Ngoài ra còn bổ sung thêm
trường mẫu giáo và nhà văn hóa bản. Tổng cộng bản Hiêu có 36 hộ nằm rải rác từ chân bản lên đến
đỉnh bản. Bản nằm trên đồi cao điểm dốc nhất cách mặt đường lên đến 100m. Bản Hiêu nằm sát
thác Hiêu nước chảy quanh năm rất trong và mát. Thác Hiêu cũng là nơi thu hút được rất nhiều du
khách đến tắm vào mùa hè. Hầu hết tất cả các nhà sàn đều quay về hướng Nam lưng tựa đồi và
hướng ra ruộng bậc thang. Các cụm nhà sàn từ khoảng 3 đến 7 nóc phân bố rải rác khắp bản trên
những khu đất bằng phẳng cao dần lên phía trên đỉnh đồi. Trên vị trí cao nhất của bản có khoảng 10
nóc nhà sàn trong đó có một nhà sàn phục vụ cho sinh hoạt cộng đồng. Đường lên bản vẫn là đường
đất nhỏ uốn lượn và chiều rộng nhất khoảng 3 m.
Có 2 lối tiếp cận vào bản, lối có thể đi xe máy lên khu vực cao nhất, một lối xe máy và ô tô có thể
lên đến vị trí giữa của bản, việc đi lại gặp rất nhiều khó khăn nếu như trời mưa trơn trượt và bùn
lầy. Trên đỉnh của bản cách một con suối có khu mộ địa của cả bản (Hình 1). (a) Tổng mặt bằng (b) Không gian bản
Hình 1. Tổng mặt bằng và không gian bản Hiêu
2.2. Cấu trúc khuôn viên nhà ở
Diện tích khuôn viên: có thể thấy diện tích khuôn viên nhà ở đa số từ 400 - 1000 m2, ít hơn thì
từ 1500 - 2000 m2 và lớn hơn 3000 m2 thì rất hiếm.
Hình thái khuôn viên: Khuôn viên có hình dạng khá tự do theo thế đất của từng khu vực. Phần
lớn khuôn viên nhà ở không có rào dậu bởi mỗi nhà nằm trên một sườn đất dốc cao nên bản thân
độ cao đã tạo nên danh giới của chính ngôi nhà với cả khu vực khác. Cũng có một số nhà có rào dậu
rất đơn sơ bằng hàng cây thấp hoặc những thanh tre cắm tạm. Nhiều homestay tham gia dịch vụ
DLCĐ có cổng riêng và biển tên. Cấu trúc khuôn viên:
- Về không gian: gồm có nhà sàn chính, nhà sàn phụ, nhà bếp, khu vệ sinh và khu vực chăn
nuôi gia cầm cùng không gian phơi phóng, ao nhỏ để nuôi cá.
- Về phục vụ khách du lịch có 2 loại homestay (Hình 2 và 3):
+ Loại 1: Homestay phục vụ lưu trú kết hợp ăn uống
+ Loại 2: Homestay chỉ phục vụ lưu trú
Với loại 1 thì khu phục vụ khách để ngủ là khu nhà sàn chính, nhà sàn phụ và bungalow. Còn khu
phục vụ ăn uống, giải khát thì ở gầm và phía bên hông nhà sàn chính.
Với loại 2 thì khu phục vụ khách để ngủ là khu nhà sàn chính, nhà sàn phụ và bungalow, còn gầm
sàn tầng 1 là nơi nghỉ ngơi giao lưu uống trà của du khách.
(a) Khu phục vụ ăn uống tầng 1
(b) Khu phục vụ lưu trú tầng 2
Hình 2. Khuôn viên sử dụng phục vụ lưu trú kết hợp ăn uống (Dũng Xuân Homestay)
(a) Khu nghỉ nghơi, giao lưu, uống trà tầng 1
(b) Khu phục vụ lưu trú tầng 2
Hình 3. Khuôn viên chỉ phục vụ lưu trú của du khách (Quyết Homestay)
2.3. Tổ chức không gian nhà ở (Hình 5, Hình 6)
Không gian ngủ của khách lưu trú: Tùy theo điều kiện của chủ homestay có những không gian
nghỉ khác nhau mà khách lưu trú sẽ ở một trong ba loại không gian sau theo nhu cầu. Đó là nhà sàn
chính, nhà sàn phụ - diện tích nhỏ hơn hoặc Bungalow. Với nhà sàn chính và nhà sàn phụ thường
cho khách tập thể đi theo nhóm còn với bungalow cho du khách đơn lẻ hoặc cặp đôi có nhu cầu riêng tư.
Không gian ngủ chủ nhà: Các chủ homestay và gia đình của họ đều không ngủ tại nhà sàn chính
mà ngủ sang nhà sàn phụ hoặc nhà đất được xây dựng riêng ngay bên cạnh.
Không gian giao lưu: Không gian được sử dụng là gầm sàn nhà chính hoặc nhà phụ. Có thể là cả
những không gian cạnh hông nhà. Có số ít thì không gian giao lưu được thiết kế là chòi nghỉ đặt tách riêng với nhà sàn.
Không gian ăn uống: Gầm sàn nhà chính và bên hông nhà là không gian linh hoạt nhất vừa sử
dụng chủ yếu là nơi giao lưu nghỉ ngơi của khách mà cũng là không gian dành cho ăn uống. Nếu vào
mùa vắng khách thì sàn nhà chính cũng là nơi để ăn uống đặc biệt cho khách là người thân quen bởi
họ quan niệm sàn nhà chính vẫn là nơi trang trọng để mời khách quý dùng cơm.
Không gian thờ cúng: Không gian thờ cúng của gia đình vẫn được để tại nhà sàn chính, ban thờ
hầu hết đều được treo lên cao sát cạnh dưới mái của nhà sàn chính. Bên cạnh ban thờ gia tiên có
thờ bác Hồ hoặc Phật. Một nhà duy nhất trong số các nhà được điều tra có ban thờ được đặt trên
tủ thờ ở gian chính giữa nhà sàn chính.
Bếp nấu: Trong 12 hộ kinh doanh loại hình du lịch homestay thì có 9 hộ đã xây bếp riêng xuống
tầng một bằng gạch. Còn lại 3 hộ vẫn đang sử dụng bếp trên nhà sàn phụ. Bên cạnh đó nhiều hộ đã
sử dụng thêm bếp ga cùng với bếp củi truyền thống.
(a) Mặt bằng bố trí thang
(b) Phối cảnh vị trí thang
Hình 4. Cách bố trí cầu thang
Cầu thang: Cầu thang có số bậc lẻ là 7, 9 hay 11 bậc có tảng đá kê dưới cùng. Theo quan sát hiện
nay có 5 kiểu thang bố trí lên nhà sàn chính (Hình 4): -
Dạng 1: Thang 1 vế lên thẳng chiếu tới từ 2 phía -
Dạng 2: Thang 2 phía đối diện nhau -
Dạng 3: 1 thang lên chiếu tới -
Dạng 4: 1 thang lên thẳng cửa nhà chính -
Dạng 5: 1 thang lên chiếu tới rộng như táng chan có mái che Thang được bố trí hiện nay
không phân chia khu vực nam nữ như trước.
Hình 5. Sơ đồ tổ chức không gian nhà sàn truyền thống
Hình 6. Sơ đồ tổ chức không gian nhà sàn truyền thống kết hợp phục vụ DLCĐ
Nhà vệ sinh: Nhà vệ sinh đa phần được xây tách biệt và gần nhà sàn chính. Vệ sinh thường đặt
phía sau nhà hoặc bên cạnh hông nhà. Trang thiết bị vệ sinh đầy đủ hiện đại, có vòi tắm và tùy
nhà có thêm bình nóng lạnh.
Khu giặt giũ và phơi đồ: Nhiều gia đình đã có máy giặt nên khu vực giặt gọn gàng hơn. Chỗ phơi
quần áo hay để vườn cuối nhà, nhiều gia đình phơi ở sân giữa hay thậm chí là dưới mái hiên.
Khu nuôi gia súc: Các gia đình tham gia DLCĐ đa phần đều có nuôi gà, vịt và cá là chủ yếu cung
cấp nguồn thức phẩm sạch cho khách lưu trú nhưng số lượng không nhiều. Duy nhất Duy Phương
homestay thì nuôi hươu nên không gian chăn nuôi chiếm khá rộng và được quây thành một không gian riêng có cổng vào.
2.4. Hình thức kiến trúc
Hình thức kiến trúc của ngôi nhà sàn truyền thống đã có sự thay đổi do mái khum mai rùa đã
không còn. Mái đã trở nên thẳng hơn và thường lợp dưới dạng 4 mái giống người Thái trắng lợp
bằng gianh hay lá cọ. Chiều cao của mái chiếm 2/3 so với chiều cao toàn nhà. Khau cút được coi là
chi tiết để nhận dạng nhà ở của dân tộc Thái hiện nay cũng không thấy trên nóc những nếp nhà sàn.
Vì vậy nhìn nhà sàn của người Thái đen khá giống với nhà sàn người Mường. Một số gia đình dựng
nhà sàn mới vẫn sử dụng vật liệu gỗ là chính nhưng đã kết hợp với kết cấu thép, với mái tôn đã làm
thay đổi hình thái của ngôi nhà Thái truyền thống. Bên cạnh đó xu hướng mở rộng không gian cho
khách nên việc xây thêm không gian ở riêng cho gia đình chủ nhà dạng nhà đất đang càng ngày phổ
biến. Mặc dù mô hình xây dựng này không được khuyến khích nhưng do chi phí rẻ hơn, nhanh hơn,
thuận tiện hơn nên đó vẫn là phương án mà lâu dài các homestay vẫn sử dụng. Cửa sổ: vẫn là có
dạng mở dài từ trên xuống tận sàn. Hiện nay xuất hiện thêm dạng cửa trượt hoặc xoay góc bên cạnh
dạng mở hai cánh truyển thống. Hình thức của cửa và song cửa sổ thấp sát sàn gỗ cũng khá đa dạng (Hình 7).
Hình 7. Một số hình thức kiến trúc nhà ở dân tộc Thái đen 2.5. Vì kèo
Qua khảo sát các ngôi nhà tại bản Hiêu hệ kết cấu của ngôi nhà sàn truyền thống vẫn được giữ
nguyên đó là hệ khung cột kiểu “khứ kháng” và “khay điêng”. Vì kiểu “khứ tháng” gồm hai cột và
một quá giang. Đầu cột có tua để lắp vào đầu quá giang. Để tạo thành bộ khung nhà người ta liên
kết các vì với nhau nhờ hai cây đòn tay lắp vào đầu các cột và hai thanh dầm ở ngay thân cột. Vì kiểu
“khay điêng” là kiểu vì khứ kháng mở rộng thêm hai cột con ở hai bên. Kết cấu vì này đã có sự thay
đổi: ở hai đầu cột cái còn giữ nguyên kiểu lắp ráp cổ truyền, còn ở hai đầu cột con lại theo nguyên
tắc kèo – cột – xà của người Tày. Trước đây hệ cột gỗ được đục đẽo bằng tay hiện nay một số nhà có
điều kiện đã cho bào lại bằng máy để trơn nhẵn đẹp hơn.
Chân cột là dạng cột kê trên đá, tùy vào kích thước cao thấp của cột gỗ mà các cột đá cũng có
chiều cao thấp khác nhau. Có 2 gia đình xây dựng nhà sàn mới thì hệ khung kết cấu đã có thay đổi
theo kiểu của dân tộc Mường hoặc của người Kinh (Hình 8).
(a) Vì kèo kiểu “khứ kháng”
(b) Vì kèo kiểu “khay điêng”
Hình 8. Vì kèo dạng khứ kháng, khay điêng (có biến đổi)
2.6. Vật liệu xây dựng
Ngôi nhà của người Thái cũng đã có sự thay đổi nhất định về vật liệu xây dựng. Cùng với sự phát
triển về khoa học công nghệ thì nhiều loại vật liệu mới ra đời. Đồng bào miền núi cũng được tiếp
cận với nhiều loại vật liệu mới đó là gạch, tôn, fibroximang ... Bản Hiêu là một trong những bản có ít
sự thay đổi nhất về sử dụng vật liệu trong ngôi nhà truyền thống. Đa phần những ngôi nhà sàn chính
được làm bằng gỗ từ tổ tiên dòng họ để lại, đều là những cây gỗ quý gỗ hiếm ở sâu trong rừng có
độ bền chắc rất cao. Vẫn có chủ nhà homestay cho xây dựng thêm không gian phụ bằng gạch, mái
lợp lá, tôn hay fibroximang. Có nhà xây dựng thêm mô hình Bungalow sử dụng cột bê tông và sàn là
gạch đá hoa. Như vậy có thể tổng hợp lại việc sử dụng vật liệu của homestay ở bản Hiêu như sau: -
Nhà sàn chính: Bằng gỗ, lợp mái lá, sàn bằng gỗ hoặc tre nứa -
Nhà sàn phụ: Gồm 2 loại. Loại 1: bằng gỗ, lợp mái lá, sàn bằng gỗ hoặc tre nứa; loại 2 là nhà
xây bằng gạch có trát vữa và lợp mái lá hoặc mái tôn rồi lợp lá lên trên, sàn lát bằng nền xi măng. -
Nhà vệ sinh và nhà tắm: đa số xây bằng gạch hoặc phần gạch phía dưới và lớp tre phía trên,
lợp mái tôn hoặc mái lá. -
Nhà dạng Bungalow (gồm 2 loại) loại 1: bằng gỗ và lợp mái lá, sàn bằng tre hay gỗ và loại 2:
nhà xây bằng gạch lợp mái lá, sàn lát đá hoa. -
Nhà bếp (gồm 2 loại) loại 1: nhà sàn gỗ và loại 2: nhà gạch xây, sàn đất.
3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức không gian kiến trúc nhà ở đến bản Hiêu phục vụ dulịch cộng đồng
3.1. Yếu tố kinh tế, xã hội
Song hành với sự phát triển kinh tế trong cả nước, các tỉnh miền núi đã được nhà nước quan
tâm rất nhiều đặc biệt các địa phương có cảnh quan thiên nhiên tự nhiên như Pù Luông – được ghi
nhận là khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia. Bản Hiêu thuộc huyện Bá Thước nằm trong vùng lõi của
khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia nên cũng là khu vực được hết sức quan tâm phát triển. Cơ sở hạ
tầng như điện, đường, trường, trạm đã bước đầu được đầu tư. Hệ thống giao thông tuyến huyện
đã khá tốt nhưng giao thông trong bản thì vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Điện đã được kéo tới toàn
bản nhưng mới dừng ở các hộ mà chưa có đèn đường, mạng không dây 3G đã được sử dụng rộng
rãi trong các bản điều đó làm đời sống của người dân tộc được mở mang tiếp cận gần gũi hơn với
cuộc sống hiện đại, giúp người dân tự quảng cáo homestay của mình trên nhiều nền tảng khác nhau
như facebook, instagram, youtube ... điều đó giúp nhiều người biết đến bản Hiêu nhiều hơn. Nhờ
phát triển kinh tế mà nhiều vật dụng tiện ích được người dân sử dụng như tivi, tủ lạnh, xe máy, máy
bơm, quạt điện, bình nóng lạnh, máy cày bừa sát gạo ...
3.2. Yếu tố xây dựng và vật liệu
Do nhu cầu xây dựng nhà ngày càng lớn mà nguồn gỗ thì ngày càng khan hiếm nên nhà sàn người
Thái đã có những biến đổi về cách xây dựng cũng như vật liệu sử dụng. Những cột gỗ đã thay đổi
bằng cột bê tông, mái lá thành mái ngói hoặc tôn, proximang. Người Thái đang sử dụng kỹ thuật
mộng của người kinh để làm nhà.
3.3. Yếu tố văn hóa
Qua thời gian hình thành và phát triển, văn hóa của người dân tộc Thái đen đã thấm sâu vào
trong nội tại từ con người đến ngôi nhà rồi đến cả bản làng. Từ cách họ chọn vị trí làm nhà, đến hình
thức kiến trúc, kết cấu rồi phân chia không gian chức năng sao cho phù hợp với lối sống, với điều
kiện khí hậu đã làm nên những ngôi nhà và những bản làng mang tính độc đáo riêng biệt. Những
chiếc “khau cút” ở hai đầu hồi có dạng như “sừng con hươu” nó giúp nẹp giữ lớp tranh ở hai đầu
không bị tốc nhưng nó còn tượng trưng cho sự sang hèn của chủ nhân ngôi nhà. Sừng hươu càng
nhiều nhánh thì chủ nhân càng giàu và có địa vị. Những hoa văn trang trí trên những bộ trang phục
của người Thái đen cũng đã được cách điệu vào chi tiết hoa văn cửa sổ cũng như trang trí lan can
nhà. Tuy nhiên, hiện nay do việc giao thông đi lại, kết nối trở nên dễ dàng nên sự giao lưu văn hóa
giữa các vùng miền thuận lợi hơn rất nhiều. Việc sinh sống gần người Kinh, người Mường, người
Dao ... nên văn hóa ngoại lai đã ảnh hưởng đến đời sống của người dân tộc Thái đen khá rõ rệt. Xu
hướng thích xây nhà trệt bằng gạch, đổ sàn bê tông hay mái ngói, tôn ... đang được nhiều người dân
lựa chọn mà không nghĩ tới giá trị bản sắc của những ngôi nhà sàn truyền thống. Lan can, cửa sổ,
cửa đi nhà cũng đã không còn hoa văn họa tiết trang trí như xưa mà có xu hướng làm giống người Kinh.
3.4. Nhu cầu phục vụ du lịch cộng đồng
Bản của người Thái trước kia đa phần nằm giữa thiên nhiên núi rừng còn bây giờ nhiều nhà sàn
đã được xây dựng sát đường giao thông liên các vùng. Nhiều bản làng cũng đã bị thu hẹp do nhà
nước lấy đất để xây dựng đường, xây trụ sở ... Dân số thì tăng cao do vậy mà nhu cầu xây dựng thêm
nhà cửa cũng làm diện tích khuôn viên của từng hộ gia đình cũng giảm xuống rõ rệt. Theo thống kê
của huyện, bản Hiêu có 36 hộ với hơn 160 nhân khẩu. Nhiều hộ gia đình có con lớn đã lên thành
phố học đại học nên nhân khẩu của gia đình tạm thời giảm nhưng cũng có nhiều gia đình có 3 thế
hệ vẫn ở chung. Hiện nay khi loại hình DLCĐ phát triển, khách du lịch đến ở trọ nên số nhân khẩu
tăng lên khá nhiều vào từng thời điểm trong năm. Khi mùa du lịch của khách Tây vào khoảng tháng
10 đến tháng 1 thì dân số của bản có thể tăng gấp 2 hoặc hơn. Còn mùa du lịch khách ta - khách Việt
từ tháng 5 đến tháng 7 cũng tăng một lượng đáng kể. Mỗi gia đình trung bình sẽ tiếp một số lượng
khách khoảng 6 đến 10 khách hàng ngày. Tùy theo các hộ kinh doanh mà số lượng khách du lịch lưu
trú có thể ít hay nhiều. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân tác động đến sự thay đổi
không gian nhà ở truyền thống do phải sắp xếp chia sẻ không gian cho khách lưu trú tại bản Hiêu.
4. Đề xuất giải pháp tổ chức không gian kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Thái đen phụcvụ du lịch cộng đồng
4.1. Giải pháp chỉnh trang cấu trúc không gian bản Hiêu (Hình 9)
- Đề xuất bổ sung các không gian chức năng phục vụ du lịch cộng đồng:
+ Bãi đỗ xe ngoài đầu bản;
+ Mở rộng đường đi lại;
+ Không gian sinh hoạt cộng đồng trong nhà cần cải tạo và bổ sung không gian hoạt động ngoài
trời đáp ứng hoạt động văn hóa phi vật thể;
+ Xây dựng chợ và đưa thêm không gian phục vụ du lịch như chợ đêm, không gian ẩm thực giúp
du khách có thể thưởng thức thêm sản vật địa phương; + Xây trạm y tế;
+ Khôi phục và mở thêm bến nước lắp thêm Cọn nước tạo không gian chụp ảnh cho khách du lịch.
- Giải pháp chỉnh trang: Bãi đỗ xe được bố trí phía ngoài đầu bản dành cho những xe du lịch
nhiều chỗ đỗ; đường vào bản hiện nay vẫn là đường đất đi lại rất khó khăn nhất là vào lúc trời
mưa, do vậy giải pháp là làm đường đổ bê tông cũng như mở rộng giúp người dân và khách du
lịch dễ dàng tiếp cận bản hơn; Nhà sinh hoạt cộng đồng cần cải tạo không gian sử dụng do bị xuống
cấp, phần gầm sàn cần lát gạch hoặc đổ sàn phẳng cho sạch sẽ tránh ẩm mốc. Không gian ngoài
trời hiện nay đã không còn. Khi DLCĐ ngày càng phát triển thì giao lưu với khách là một hoạt động
rất cần thiết để tăng sự hiểu biết văn hóa giữa người địa phương và khách lưu trú. Vì vậy cần khôi
phục lại không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng là một cách để gìn giữ những nét sinh hoạt văn
hóa truyền thống của người dân tộc Thái đã từng có trước đây; Chợ trong bản Hiêu chưa có nên
việc xây dựng một ngôi chợ ở vị trí đầu bản là rất cần thiết giúp người dân không phải đi xa và có
thể trao đổi buôn bán sản vật trong chính bản của mình với nhau cũng như giao lưu từ các bản
khác. Bản Hiêu có đặc sản là vịt cổ lũng, ốc đá, lợn bản ... thì việc tạo ra khu chợ đêm để khách du
lịch có cơ hội thưởng thức ẩm thực góp phần giúp cải thiện thêm kinh tế của người dân địa
phương; việc mở một trạm y tế nhỏ giúp cộng đồng địa phương và khách du lịch yên tâm hơn về
sức khỏe do hiện nay bản chưa có, trung tâm y tế cách bản trên 10 km. Trạm y tế được chọn nằm
vị trí giữa bản sẽ giúp việc di chuyển sẽ thuận tiện hơn; bổ sung thêm các Cọn nước ở suối chỗ
khu vực gần đường sẽ giúp không gian bản làng có nhiều điểm đặc sắc hơn cũng như giúp khách
du lịch tiếp cận dễ hơn và có nhiều vị trí để chụp ảnh sống động hơn; đèn đường từ đầu bản đến
cuối bản cần được bổ sung giúp cả người dân và du khách đi lại dễ dàng hơn và có cơ hội trải
nghiệm bản Hiêu vào ban đêm cũng như đảm bảo hơn về mặt an ninh.
Hình 9. Tổng mặt bằng chỉnh trang bản Hiêu Hình 10. Loại homestay phục vụ ngủ và ăn uống ■ Vị trí những
không gian được đề xuất bổ sung ■ Phần bổ sung trong khuôn viên ngôi nhà
4.2. Tổ chức khuôn viên nhà ở
- Loại 1: Homestay phục vụ lưu trú và ăn uống.
Trong khuôn viên của các homestay loại 1 thì vị trí bếp củi cần được thay đổi tới vị trí khác xa
hơn nhà sàn để khói bếp không ảnh hưởng đến khách lưu trú. Còn với phần bếp dùng bếp ga hay
bếp từ thì có thể làm thêm ống hút mùi. Vị trí của khu phơi nên chuyển xuống khu vực sau của nhà sàn hay vườn.
Nên có chuồng nuôi gia cầm đặt cuối vườn tránh gà vịt phóng uế bừa bãi trong khu vực có khách
lưu trú gây mất mĩ quan và ô nhiễm môi trường sống.
Bổ sung bếp lửa trại ngoài trời để du khách có thể thưởng thức đồ nướng BBQ hay hay tạo thêm
không gian giao lưu quây quần sinh hoạt cho khách du lịch về đêm.
Chum nước rửa chân cạnh chân cầu thang trước khi lên sàn cần khôi phục lại (Hình 10).
- Loại 2: Homestay chỉ phục vụ lưu trú.
Bố trí thêm bungalow để có thể phục vụ du khách yêu cầu sự riêng tư nhiều hơn và bố trí ở trị
trí có view nhìn ra không gian rộng đẹp để khách có thể thưởng thức cảnh quan; bổ sung thêm nhà
sàn phụ để tăng thêm không gian ngủ cho khách lưu trú; thêm bếp lửa ngoài trời ở vị trí phù hợp
để tăng cường giao lưu sinh hoạt của du khách cũng như thưởng thức thêm những món ăn nướng
từ sản vật của địa phương; không gian ngủ chủ nhà có thể bố trí cạnh khu vực bếp để thuận tiện
cho sinh hoạt của gia đình; nên bố trí rõ cổng vào và biển homestay rõ ràng để tránh khách bị nhầm lẫn (Hình 11).
Hình 11. Loại homestay chỉ phục vụ ngủ và mô hình mẫu (Les Bain des Hieu Ecolodge) ■
Phần bổ sung trong khuôn viên ngôi nhà
4.3. Tổ chức không gian kiến trúc nhà ở
Không gian nhà chính: bổ sung không gian bếp khách – bếp dành cho chủ nhà tiếp khách trên
ngôi nhà chính. Được coi là linh hồn của ngôi nhà, bếp lửa có một vị trí rất quan trọng trong tâm trí
của từng người dân do vậy cần khôi phục lại bếp lửa trong ngôi nhà sàn chính để lưu giữ được hình
ảnh truyền thống quây quần của người dân tộc bên bếp lửa hơn nữa giúp du khách có thể hiểu thêm
văn hóa sống của người dân tộc Thái.
4.4. Hình thức kiến trúc
Khôi phục lại hình ảnh khau cút trên mái nhà đây không chỉ là hình ảnh giúp nhận diện được
ngôi nhà của dân tộc Thái đen mà còn là biểu tượng quan trọng trong tâm trí của người dân. Nên
thay thế vật liệu mái nhà bằng tôn, fiproximang hay ngói bằng vật liệu thân thiện môi trường hơn
và cũng gần với mái truyền thống của ngôi nhà như mái lợp lá, có thể dùng mái tôn mát chống nóng
và lợp thêm lớp lá bên trên, phía dưới mái dùng thêm lớp phên kẹp lá để nội thất vẫn nhìn thấy lớp
mái lá tăng cường tính thẩm mỹ của nội thất tạo cảm giác gần gũi và thuộc với ngôi nhà truyền thống
vốn có. Nên loại bỏ sự kết hợp giữa kết cấu gỗ và kết cấu thép trong nhà truyền thống nó tạo sự
tương phản rõ ràng không có sự dồng bộ vật liệu của ngôi nhà.
4.5. Kỹ thuật xây dựng và vật liệu
Xu hướng xây nhà bằng bê tông thay thế vật liệu gỗ đang diễn ra phổ biến. Việc xây dựng một
ngôi nhà bằng gỗ với chi phí vừa lớn và thời gian để thi công lâu, hơn nữa cũng là phương án về lâu
dài ảnh hưởng đến môi trường sống khi chặt cây phá rừng vì vậy cũng dẫn đến việc người dân chọn
vật liệu rẻ tiền mà thi công nhanh như bê tông làm cột nhà, sàn nhà, mái dùng proximang hay tôn
đã là lựa chọn chủ yếu của người dân. Vậy nên khuyến khích người dân chọn vật liệu phù hợp với
kinh tế mà vẫn giữ được nhiều nhất những yếu tố làm nên bản sắc của ngôi nhà sàn truyền thống.
Như cột khuyến khích dùng cột tròn bằng bê tông có sơn giả gỗ, sàn dùng sàn bê tông lát sàn bằng
các tấm tre dập hoặc chỉ chỉ dùng cột và dầm bằng bê tông, sàn dùng xà thép sau đó lát sàn tre dập
lên trên, phía dưới gầm sàn tầng 1 thì dùng bản tre nhỏ che toàn bộ hệ thanh xà thép như vậy hoàn
toàn có thể thấy phía dưới sàn tầng 1 là trần hoàn toàn bằng tre. 5. Kết luận
Nhà sàn truyền thống dân tộc Thái đen trải qua hàng nghìn năm trong quá trình hình thành và
phát triển, ngôi nhà đã phù hợp với điều kiện sống và nhu cầu ở của người dân, đã thích ứng với
điều kiện tự nhiên phong tục tập quán của từng vùng và đã hình thành một nét văn hóa kiến trúc đậm đà bản sắc.
Không chỉ khách du lịch nước ngoài mà khách du lịch trong nước hiện nay đang được thu hút
hấp dẫn bởi những hoạt động trải nghiệm trong những di sản kiến trúc, văn hóa lối sống thường
nhật cũng văn hóa ẩm thực từ những sản vật địa phương, như vậy bằng việc sử dụng, khai thác văn
hóa kiến trúc ngôi nhà sàn truyền thống là phương pháp thực sự hiệu quả để phục vụ du lịch cộng đồng tại bản Hiêu.
Để dân tộc Thái đen ở bản Hiêu đáp ứng được nhu cầu phát triển du lịch cộng đồng thì trước
hết cần phải chỉnh trang cấu trúc không gian bản làng bằng cách bổ sung một số chức năng còn thiếu
như chợ, trạm y tế, bãi đậu xe, hay cải tạo không gian sinh hoạt cộng đồng và khôi phục lại không
gian sinh hoạt ngoài trời, tạo thêm cọn nước cũng như lắp đèn đường. Với khuôn viên ngôi nhà thì
loại homestay phục vụ ngủ và ăn uống thì cần chuyển đổi vị trí bếp đun cho phù hợp, tạo thêm bếp
ngoài trời, khu vực chuồng trại phơi phóng cho phía sau cùng của nhà, chum nước rửa chân đặt
ngay sát chân cầu thang cần được khôi phục lại. Với khuôn viên ngôi nhà homestay chỉ phục vụ ngủ
thì cần bố trí thêm nhiều bungalow cho khách lẻ cần riêng tư cũng như thêm nhà sàn phụ cho nhu
cầu khách du lịch ngày càng tăng bên cạnh đó cũng cần bố trí thêm bếp nướng ngoài trời, cổng vào
và biển tên rõ ràng dễ nhận diện. Về tổ chức không gian kiến trúc ngôi nhà thì với cả 2 loại nhà
homestay: phục vụ ngủ và ăn uống cũng như chỉ phục ngủ thì đều cần đưa bếp lửa khách trở lại
không gian nhà sàn chính, khôi phục lại hình ảnh khau cút trên mái nhà, thay các mái nhà bằng vật
liệu tôn hay proximang bằng những vật liệu địa phương như mái lá hay mái tôn mát kết hợp mái lá,
cột nhà bằng bê tông thì được dùng sơn giả gỗ và sàn nhà dùng xà thép lát tre đập. Không gian dệt
vải cũng nên được khôi phục để làm sống lại nét văn hóa truyền thống đã bị mai một của người dân.
Bên cạnh đó cần chia sẻ kiến thức, kỹ năng, lộ trình phát triển cho người dân để giúp họ phát
triển du lịch có tổ chức một cách bền vững. Chủ động trong việc phát triển dựa vào quảng cáo - PR
– từ chính năng lực của hộ gia đình qua các kênh từ internet, mạng xã hội, app ... Cần minh bạch rõ
ràng trong việc phân chia quyền lợi giữa các bên liên quan tránh gây mâu thuẫn xung đột ảnh hưởng
đến sự phát triển du lịch chung của bản, làng. Cùng nhau hỗ trợ khi phát sinh đột biến lượng khách.
Vệ sinh bản, làng, từng hộ gia đình cũng như an toàn thực phẩm cần được quan sát kiểm tra cẩn
thận kỹ lưỡng đây là yếu tố quan trọng khi du khách lựa chọn chỗ ăn và ở.
Với đề xuất nghiên cứu của bài báo thì ngoài sử dụng cho dân tộc Thái đen tại Pù luông, Thanh
Hóa thì đây cũng là gợi ý giúp cho các dân tộc Thái ở các vùng khác hoàn toàn có thể áp dụng để
phát triển du lịch cộng đồng.
Tài liệu tham khảo
[1] Tụng, N. K. (2015). Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[2] Trọng, C. (1978). Người Thái Tây Bắc Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[3] Thắng, N. N. (2002). Văn hóa bản làng truyền thống các dân tộc Thái, Mông vùng Tây Bắc Việt Nam.
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
[4] Trứ, C. Q. (1999). Kiến trúc dân gian truyền thống. Nhà xuất bản Mỹ thuật, Hà Nội.
[5] Việt, Đ. Q. (2011). Nghiên cứu giá trị không gian ở truyền thống làng bản dân tộc Thái đen ở Điện Biên
hiện nay. Luận văn Thạc sĩ, Đại học Xây dựng Hà Nội.
[6] Nga, N. T. T. (2006). Kiến trúc nhà ở tái định cư cho dân tộc Thái khi xây dựng nhà máy thủy điện Sơn
La. Luận văn thạc sĩ, Đại học Xây dựng Hà Nội.
[7] Trung, V. (1997). Nhà sàn cổ người Thái Việt Nam. Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
[8] Oranratmanee, R. (2011). Re-utilizing Space: Accommodating Tourists in Homestay Houses in Northern
Thailand, volume 8. Chiang Mai University.
[9] Lama, M. (2013). Community Homestay programmes as a form of sustainable tourism development in
Nepal. Thesis, Centria University of Applied Sciences.
[10] Singh, L. (2014). Homestay Tourism in India: Opportunities and Challenges. African Journal of
Hospitality, Tourism and Leisure, 3.
[11] Thủ tướng chính phủ (2013). Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22/1/2013 phê duyệt “Quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030”.
[12] Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2014). Thông tư số12/2014/TT-BVHTTDL ngày 25/11/2014 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính
phủ về Công tác dân tộc
.
[13] Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2015). Quyết định số 492/QĐ - UBND ngày 09/02/2015 phê duyệt
“chiến lược phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030”.