














Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN --- --- BÀI TẬP LỚN
Bộ môn : TRIẾT HỌC MÁC-LÊ NIN
Đề tài : NGHIÊN CỨU VỀ BA QUY LUẬT CƠ BẢN
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT Họ tên :
Lớp tín chỉ : Nhóm : LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử triết học có những thời gian tư duy siêu hình chiếm ưu thế so với
tư duy biện chứng. Những trong toàn bộ lịch sử triết học, thì phép biện chứng
luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần xã hội. Phép biện chứng lOMoAR cPSD| 44985297
là một khoa học triết học. Phép biện chứng gồm hai nguyên lý, ba quy luật cơ
bản và sáu cặp phạm trù.
Trong suốt chiều dài lịch sử thì chúng ta đã không ít lần từng thắc mắc rằng
chúng ta và mọi vật xung quanh chúng ta đang phát triển và có mối liên hệ như
thế nào với nhau? Điều này được giải thích trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng. Ba quy luật cơ bản gồm: quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định. Mỗi quy luật nói
đến một vấn đề khác nhau như: với quy luật đầu tiên nói về mối quan hệ chặt
chẽ giữa chất và lượng, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
nói về sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập, quy luật phủ định của
phủ định nói về những lần phủ định liên tiếp để tạo nên sự phát triển của sự
vật. Tuy khác nhau về các đối tượng nhưng ba quy luật đều có điểm chung là
nói lên khuynh hướng phát triển của thế giới các sự vật.
Và để giải thích rõ hơn về câu hỏi ở trên thì sau đây nhóm em xin trình bày về
đề tài:” ba quy luật cơ bản của phép biện chứng”. A. CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. KHÁI NIỆM QUY LUẬT
Quy luật là mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, bền vững, tất yếu giữa
các đối tượng và nhất định tác động khi có các điều kiện phù hợp. Phân loại quy luật:
Căn cứ vào lĩnh vực tác động -
Quy luật tự nhiên: chỉ tác động trong lĩnh vực tự nhiên (ví dụ: quy luật đấu tranh sinh tồn). -
Quy luật xã hội: chỉ tác động trong lĩnh vực xã hội (ví dụ: quyluật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất). -
Quy luật tư duy: chỉ tác động trong lĩnh vực ý thức, tư duy (vídụ: quy luật
đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn...). Căn cứ vào mức độ của tính phổ biến -
Quy luật riêng: chỉ tác động ở một lĩnh vực nhất định của cácsự vật, hiện
tượng cùng loại (ví dụ: quy luật biến đổi gen, quy luật cung - cầu). -
Quy luật chung: tác động ở một số lĩnh vực của hiện thực (vídụ:quy luật
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng). -
Quy luật phổ biến: tác động trong toàn bộ thế giới kháchquan từ tự
nhiên, xã hội đến tư duy.
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến, bao gồm ba quy
luật cơ bản là quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy
luật phủ định của phủ định. lOMoAR cPSD| 44985297
II. QUY LUẬT CHUYỂN HÓA LƯỢNG CHẤT 1. Các khái niệm
1.1 Khái niệm về chất
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy luật khách quan vốn có
của sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó,
phân biệt nó với cái khác.
VD: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là
1083 độ C, nhiệt độ sôi là 2880 độ C… những thuộc tính này nói lên những chất
riêng của đồng, để phân biệt nó với các kim loại khác. Đặc điểm: -
Chất của sự vật là các thuộc tính khách quan vốn có của sự vật nhưng
không đồng nhất với khái niệm thuộc tính. - Chất của sự vật, hiện tượng không
chỉ được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà còn bởi cấu trúc và
phương thức liên kết giữa chúng. -
Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất mà còn có nhiều chất, tuỳ
thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác. Chất không chỉ
tồn tại thuần tuý tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.
1.2. Khái niệm lượng
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự
tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật. -
Lượng biểu hiện kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, trình độ
cao hay thấp, số lượng nhiều hay ít… (VD: Số lượng người trong một lớp học,
vận tốc của ánh sáng). -
Lượng cũng mang tính khách quan như chất, là cái vốn có của sự vật. -
Lượng thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể với con
số chính xác nhưng cũng có lượng biểu thị dưới dạng khái quát, phải dùng tới
khả năng trừu tượng hoá để nhận thức. (VD: Trình độ nhận thức, phẩm chất
đạo đức của một con người). -
Một sự vật có thể có nhiều loại lượng khác nhau. Có lượng biểu thị yếu
tố bên ngoài (VD: chiều cao, chiều dài của một vật,…), có lượng biểu thị yếu tố
quy định kết cấu bên trong (VD: số lượng nguyên tử của một nguyên tố hoá học,
…). Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa mang tính tương đối: có cái
trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là
lượng (VD: Số lượng sinh viên học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất
lượng học tập của lớp đó).
2. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất Mỗi sự vật, hiện tượng
là sự thống nhất giữa hai cặp đối lập chất và lượng. Hai mặt đối lập không tách
rời nhau mà tác động qua lại biện chứng làm cho sự vận động, biến đổi theo
cách thức từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất của
sự vật và ngược lại. lOMoAR cPSD| 44985297
2.1. Lượng đổi dẫn đến chất đổi
Khi sự vật đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định. -
Độ là giới hạn mà trong đó lượng biến đổi nhưng chưa gây nên sự thay
đổi căn bản về chất. Sự vật vẫn là nó, mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong
một độ thích hợp khi lượng biến đổi vượt qua giới hạn độ thì sự vật không còn là nó.
Trong phạm vi một độ nhất định, hai mặt chất và lượng tác động qua lại lẫn
nhau làm cho sự vật vận động. Mọi sự thay đổi về lượng đều có ảnh hưởng đến
trạng thái chất của sự vật, nhưng không phải những thay đổi về lượng nào cũng
dẫn đến sự thay đổi về chất. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng đạt
tới mức phá vỡ độ cũ thì chất của sự vật mới thay đổi, sự vật chuyển thanh sự
vật khác. ( VD: Độ tồn tại của nước nguyên chất ở trạng thái lỏng từ 0 độ đến
100 độ C). - Điểm nút là điểm mà tại đó lượng biến đổi đã gây nên sự thay đổi
căn bản, tập hợp những điểm nút gọi là đường nút. Sự thay đổi về lượng của sự
vật có thể làm chất thay đổi ngay lập tức nhưng cũng có thể làm thay đổi dần
dần chất cũ. Lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định có xu hướng tích luỹ
đạt tới điểm nút, nếu có điều kiện sẽ diễn ra bước nhảy làm thay đổi chất của
sự vật.( VD: 100 độ C là điểm nút để nước chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái khí ). -
Bước nhảy: Sự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái mới ra đời phải thông qua bước nhảy.
Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng và mở đầu cho một giai
đoạn phát triển mới. Đó là gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự
vật, đồng thời là một tiền đề cho một quá trình tích luỹ liên tục về lượng tiếp
theo. ( VD: Tốt nghiệp được coi là bước nhảy trong quá trình học tập, làm việc của sinh viên).
2.2. Chất mới ra đời, nó tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi
kết cấu, quy mô, trình độ nhịp điệu của sự vận động phát triển của sự vật.
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất và lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất
thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng
mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
Các hình thức của bước nhảy:
Căn cứ vào nhịp điệu: -
Bước nhảy đột biến là bước nhảy xảy ra trong thời gian ngắnlàm thay đổi
bản chất của sự vật. Bước nhảy này diễn ra bằng một sự bùng nổ mãnh liệt (VD:
Cách mạng tháng Mười Nga là một bước nhảy đột biến). lOMoAR cPSD| 44985297 -
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện bằng việc loại bỏ dần
những yếu tố, những bộ phận chất cũ xảy ra trong một thời gian dài mới loại bỏ
hoan toàn chất cũ thành chất mới (VD: Quá trình tiến hóa của loài người).
Căn cứ vào quy mô:
-Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các
yếu tố cấu thành sự vật (VD: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa theo nghĩa rộng). -
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của nhữngmặt, những
yếu tố riêng lẻ của sự vật (VD: Những kỳ thi học phần).
2.3. Nội dung quy luật
Mọi sự vật hiện tượng đều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về
lượng, lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của sự vật tới
điểm nút thì diễn ra bước nhảy, tạo ra sự thay đổi về chất của sự vật, Kết quả là
sự vật cũ, chất cũ mất đi và sự vật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động
trở lại lượng mới, lượng lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt qua độ
tồn tại của sự vật tới điểm nút thì lại diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi về chất,
cứ như vậy tác động qua lại giữa hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận
động, phát triển không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất
3.1. Ý nghĩa trong nhận thức
- Thứ nhất, nhờ có phương pháp luận lượng chất mà chung ta hiểu rằng bất cứ
sự vật, hiện tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
-Thứ hai, sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt:
Lượng và Chất. Do đó khi nhận thức, chúng ta cần nhận thức về cả hai mặt lượng
và chất để có có cái nhìn phong phú hơn về những sự vật, hiện tượng tồn tại
xung quanh chúng ta. - Thứ ba, cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật,
hiện tượng bằng cách xác định giới hạn độ, điểm nút, bước nhảy.
3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
- Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ
và điểm nút). - Cần tránh hai khuynh hướng sau:
+ Một là, nôn nóng tả khuynh: Đây là việc mà một cá nhân không kiên trì và nỗ
lực để có sự thay đổi về lượng nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất;
+ Hai là, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức điểm nút nhưng
không muốn thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.
Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát lượng trong
giới hạn độ. Bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện
bước nhảy phải được thực hiện một cách cẩn thận. Chỉ thực hiện bước nhảy khi
đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực hiện bước nhảy một cách phù
hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để tránh được những
hậu quả không đáng có như không đạt được sự thay đổi về chất, dẫn đến việc
phải thực hiện sự thay đổi về lượng lại từ đầu. lOMoAR cPSD| 44985297
III. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH 1. Khái niệm
1.1. Mặt đối lập -
Mặt đối lập là sự khái quát những thuộc tính có xu hướng vận động trái
ngược nhau, loại trừ, bài xích, chống đối lẫn nhau. Chúng có khuynh hướng
phát triển ngược chiều nhưng lại song song tồn tại trong cùng một sự vật, hiện
tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó. -
Giữa các mặt đối lập trên luôn luôn có sự liên hệ, quy định, ràng buộc lẫn
nhau gọi là sự thống nhất của các mặt đối lập.
1.2. Mâu thuẫn biện chứng -
Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái mà các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. -
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu
thuẫn trong hiện thực và nguồn gốc phát triển của nhận thức.
1.3. Sự “thống nhất” của các mặt đối lập -
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại
không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn
tại của mặt kia làm tiền đề. (Ví dụ: Trong mỗi con người, hoạt động ăn và hoạt
động bài tiết rõ ràng là các mặt đối lập. Nhưng chúng phải nương tựa nhau,
không tách rời nhau. Nếu có hoạt động ăn mà không có hoạt động bài tiết thì
con người không thể sống được. Như vậy, hoạt động ăn và hoạt động bài tiết
thống nhất với nhau ở khía cạnh này). -
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng
có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng
nhất” của các mặt đối lập. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự
triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa cho nhau. -
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang
nhau của chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn khi diễn
ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
1.4. Sự đấu tranh của các mặt đối lập
- Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và
phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. - Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập
hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ qua lại giữa
các mặt đối lập và điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh.
Ví dụ: Trong một lớp học, hoạt động đoàn kết và hoạt động cạnh tranh là các
mặt đối lập. Có những lúc hoạt động đoàn kết nổi trội hơn, nhưng có những lúc
hoạt động cạnh tranh lại nổi trội hơn. Như thế, hoạt động đoàn kết và hoạt động
cạnh tranh đang “đấu tranh” với nhau. lOMoAR cPSD| 44985297
2. Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối
lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát
triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
2.1. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển. -
Sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác
động khác nhau của các mặt đối lập. -
Đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của
các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. -
Sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập. (VD: Các nhân viên
đều phấn đấu làm giám đốc. Họ cùng cố gắng, cạnh tranh nhau, do đó đều trở
nên giói hơn. Như thế, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển).
2.2. Phân loại mâu thuẫn -
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, ta có thể phân loại các
mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
• Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh
hướng đối lập của cùng một sự vật. VD: Mâu thuẫn giữa hoạt động ăn và
hoạt động bài tiết là mâu thuẫn bên trong mỗi con người.
• Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra
trong mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác.
VD: Mâu thuẫn giữa các nhân viên trong kinh doanh -
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật,
mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
• Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định
sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật.
• Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương
diện nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. -
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật
trong một giai đoạn nhất định, ta có mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
• Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giải đoạn phát
triển nhất định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó.
• Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai
đoạn phát triển nào đó của sự vật, nhưng
nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu
thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biểu hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản,
hay là kết quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn lOMoAR cPSD| 44985297
nhất định. Việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản. -
Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, ta chia mâu thuẫn trong xã
hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
• Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn
người có lợi ích cơ bản đối lập nhau. (Ví dụ: Mâu thuẫn giữa công nhân
với giới chủ, giữa nông dân với địa chủ, giữa thuộc địa với chính quốc).
• Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội
có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không
cơ bản, cục bộ, tạm thời. (Ví dụ: Mâu thuẫn giữa thành thị và nông thông,
giữa lao động trí óc với lao động chân tay). 3. Ý nghĩa
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
+ Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực cuả sự vận động, phát triển và có
tính khách quan phổ biến nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của sự việc bằng
cách phân tích để tìm ra những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau và
mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng, nắm được bản chất, nguồn gốc sự
vận động và phát triển.
+ Vì mâu thuẫn có tính đa dạng phong phú, vì vậy khi tìm hiểu và giải
quyết mâu thuẫn cần phải biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và có
phương pháp giải quyết phù hợp. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần
phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng điều kiện hoàn
cảnh nhất định, những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải
quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.
IV. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
1.Vị trí của quy luật:
Là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, quy luật phủ định của
phủ định chỉ ra khuynh hướng vấn động của mọi sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy.
2. Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng - Phủ định là sự thay thế sự
vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này
bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật trong quá trình vận động và phát triển.
- Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân,
sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình ra đời sự vật, hiện tượng mới
tiến bộ hơn sự vật, hiện tượng cũ. Là sự phủ định tạo điều kiện, tiền đề cho quá
trình phát triển của sự vật, hiện tượng. lOMoAR cPSD| 44985297
3. Tính chất của phủ định biện chứng -
Tính khách quan: Nguyên nhân của phủ định nằm ngay trong bản thân
sự vật, hiện tượng chứ không phải ở bên ngoài sự vật, hiện tượng hay một lực
lượng siêu nhiên nào đó. Nguyên nhân đó chính là những mâu thuẫn tồn tại
bên trong sự vật, hiện tượng. Việc giải quyết những mâu thuẫn này làm cho sự
vật, hiện tượng không ngừng vận động, phát triển. Như vậy, phủ định biện
chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng; không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người hay một lực lượng thần bí. -
Tính kế thừa: Cái mới ra đời trên nền tảng cái cũ, là sự phát truển liên
tục của cái cũ chứ không phải là sự thủ tiêu, phá hủy hoàn toàn cái cũ. Cái mới
ra đời trên cơ sở khẳng định những mặt tốt, những yếu tố tích cực, phù hợp của
cái cũ; đồng thời loại bỏ những cái tiêu cực, lạc hậu, những mặt không còn phù
hợp với hiện thực. Tuy nhiên, những nhân tố của sự vật, hiện tượng cũ được
giữ lại vẫn phải được cải tạo, được biến đổi cho phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh mới. Phủ định biện chứng là sự liên hệ giữa cái cũ và cái mới, là sự thống
nhất giữa khẳng định và phủ định, là mắt khâu tất yếu trong quá trình phát triển
của sự vật, hiện tượng.
4. Phủ định của phủ định
Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện tượng trải qua nhiều lần phủ định biện
chứng, mỗi lần phủ định đó đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát
triển tiếp theo của nó. Quá trình này diễn ra vô tận làm cho sự vật phát triển từ
thấp đến cao, diễn ra có tính chất chu kì theo đường xoáy ốc. Quá trình phát
triển đó được gọi là “phủ định của phủ định”. -
Phủ định của phủ định có tính chu kì. Mỗi chu kì đều trải qua ít nhất hai
lần phủ định biện chứng, trong đó, sự vật, hiện tượng mới ra đời dường như
lặp lại sự vật, hiện tượng ban đầu nhưng ở trình độ phát triển cao hơn về chất
do kế thừa và biến đổi được những nhân tố tích cực, hợp lý và loại bỏ được
những nhân tố tiêu cực, không hợp lý của sự vật, hiện tượng ban đầu qua những
lần phủ định; đồng thời, điểm kết thúc của chu kỳ phát triển này của sự vật,
hiện tượng lại là điểm khởi đầu cho chu kỳ phát triển mới của nó. -
Phủ định của phủ định diễn ra vô tận, các chu kỳ phát triển của nó nối
tiếp nhau tạo ra khuynh hướng phát tiển có tính chất phổ biến: sự phát triển
không diễn ra theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc. Đường xoáy ốc là khái
niệm dùng để chỉ sự vận động của những nội dung mang tính chất kế thừa có
trong sự vật, hiện tượng mới nên không thể đi theo đường thẳng mà diễn ra
theo đường tròn không nằm trên một mặt phẳng tựa đường xoáy ốc. Khuynh
hướng phát triển theo đường xoáy ốc đã khái quát được tính chất biện chứng
của sự phát triển bao gồm tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên vô tận; đồng
thời thể hiện tính quanh co, phức tạp, đa dạng của quá trình phát triển. lOMoAR cPSD| 44985297
Ví dụ: Trong giai đoạn bạn học tiểu học: quá trình học của bạn là quá trình
tích lũy dần về lượng. Khi bạn học lớp 5, sự tích lũy này đã đạt được đủ lượng
cần thiết, chỉ cần bạn thực hiện một bước nhảy (thi tốt nghiệp) thành công là
bạn trở thành học sinh THCS, đây là sự thay đổi về chất. Và khi bạn đã là học
sinh cấp 2, có sự khác biệt lớn đối với học sinh cấp 1, thì chính bạn đã phủ định
lại cấp 1. Mà trước đó, khi bạn bước vào học cấp 1 (tiểu học thì bạn đã phủ định
cấp mẫu giáo...). Vậy xét trong phạm vi từ mẫu giáo đến cấp 2 thì: cấp một phủ
định mẫu giáo, cấp 2 phủ định cấp 1, do đó cấp 2 là sự phủ định của phủ định.
5. Ý nghĩa phương pháp luận -
Quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự vật,
hiện tượng; sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển;
sau khi đã trải qua các mắt xích chuyển hóa, có thể xác định được kết quả cuối
cùng của sự phát triển. -
Khi nhận thức sự vật, hiện tượng phải nắm được xu thế phát triển tất
yếu của nó, đồng thời phải thấy được quá trình phát triển đó không diễn ra theo
đường thẳng mà là một quá trình quanh co, phức tạp gồm nhiều giai đoạn, quá
trình khác nhau. - Theo quy luật này, trong thế giới khách quan, cái mới tất yếu
ra đời thay thế cái cũ. Vì vậy, cần có thái độ lạc quan trước cái mới và tạo điều
kiện cho cái mới ra đời. Mặt khác đối với cái cũ, cần kế thừa có phê phán, có
chọn lọc, kế thừa những nhân tố tích cực, hợp quy luật và loại bỏ những nhân
tố trái quy luật để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển theo chiều hướng tiến bộ.
B. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Quy luật chuyển hóa lượng chất: Là học sinh, sinh viên, ai cũng phải trải
qua quá trình học tập ở các bậc học phổ thông, từ mẫu giáo đến cấp ba, kéo
dài trong suốt 12 năm. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học
sinh đều được trang bị những kiến thức cơ bản của các môn học thuộc hai
lĩnh vực cơ bản, đó là: Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Bên cạnh đó,
mỗi học sinh lại tự trang bị cho mình những kĩ năng, những hiểu biết riêng
về cuộc sống, về tự nhiên, xã hội. Ta thấy rõ rằng là:
+ Quá trình tích lũy về lượng - tri thức của mỗi học sinh là một quá trình dài,
đòi hỏi nỗ lực không chỉ từ phía gia đình, nhà trường mà còn chính từ sự nỗ lực
và khả năng của bản thân người học.
+ Quy luật lượng chất thể hiện ở chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình một
khối lượng kiến thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc
giải bài tập ở nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các kì học, trước
hết là các kì thi học kì và cuối cấp là kì thi tốt nghiệp. Với việc tích lũy đủ lượng
kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua các kì thi và chuyển sang một giai đoạn học mới. lOMoAR cPSD| 44985297
Như vậy: Trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thì quá trình học tập
tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm nút, việc vượt qua các kì
thi chính là bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước sang giai
đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất. Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi
học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút
khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất
và lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì
thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi
đại học lại còn là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng
tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một
thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh: Những mâu
thuẫn trong quá trình chuyển hóa từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang
cơ chế thị trường ở Việt Nam. -
Trước hết, cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết vĩ nền kinhtế do sự tác
động của các quy luật vốn có của nó: Cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của
sự thích ứng lẫn nhau, điều tiết lẫn nhau của các yếu tố: giá cả, cung, cầu, cạnh
tranh…cơ chế thị trường với những quy luật khó nắm bắt, thường biểu hiện như
là một cơ chế tự phát hơn, tự nhiên hơn và nằm xa sự chi phối của con người
hơn. Trong các giai đoạn quá độ, chuyển tiếp, yếu tố tự phát thể hiện vai trò của
mình mạnh hơn yếu tố tự giác. Bởi vậy, nền kinh tế nước ta hiện nay, việc nắm
được các yếu tố tự phát, tự giác của nền kinh tế, hiểu được phương thức hoặc
tìm ra phương pháp kiểm soát thích hợp là điều rất có ý nghĩa. Tuy nhiên, bên
cạnh đó còn có quá nhiều hiện tượng, quá trình mà ta còn buông lỏng sự kiểm
soát hoặc chưa thực sự đủ khả năng kiểm soát. Sản xuất hàng hóa cùng nền
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường không đối lập với chủ
nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường được xem là khách quan tất yếu với công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta -
Tuy nhiên nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta
cũng hiểu rõ thêm bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống
xã hội: Nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội nhưng
tăng trưởng kinh tế chưa hẳn nhất thiết đi liền với sự tiến bộ xã hội. Do vậy, sự
chuyển dịch cơ chế tập trung – bao cấp sang cơ chế thị trường nhất thiết phải
có sự quản lý của nhà nước.
3. Những mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường:
Ta xét đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Mâu thuẫn giữa hai lực lượng này là những biểu hiện của nó xét trên phương
diện triết học Mác – Lênin thì: lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản
xuất là ý thức của sự vật. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Lực
lượng sản xuất là yếu tố vận động luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất lOMoAR cPSD| 44985297
phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất không còn phù hợp
nữa. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Để mở đường cho lực lượng sản xuất cần thay thế quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến
và quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt, cần được
giải quyết. Để giải quyết được mâu thuẫn đó cần tiến hành cách mạng xã hội.
Quy luật phủ định của phủ định: Vận dụng quy luật phủ định của phủ định trong học tập.
-Trước hết, về đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên ngành giáo dục và đào tạo
Cần thiết phải xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên có phẩm chất
chính trị và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo chất lượng “trồng người”. Đội ngũ giáo viên phải có đạo đức nghề
nghiệp, trình độ chuyên môn, khả năng tiếp cận nhanh được các phương pháp
dạy học mới, hiện đại; chuyển dạy học thụ động sang dạy học tích cực; đổi mới
nội dung và phương pháp dạy học; đổi mới cơ chế quản lý. Cán bộ quản lý: có
trình độ, bản lĩnh, nhiệt tâm, thân thiện, có kinh nghiệm điều hành và có ý chí
vươn lên, sáng tạo trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, xây dựng được các kế
hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.
-Tiếp theo là về người học: Đảng và Nhà nước ta xác định: giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”.
Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực của công dân; đào tạo những người lao động có tay nghề, năng động và sáng
tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho
dân giàu nước mạng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Thực hiện công bằng xã hội trong học tập bằng cách coi học tập là quyền
và nghĩa vụ của công dân, cần ban hành chính sách về học bổng và học phí để
khuyến khích và giúp đỡ người học gặp hoàn cảnh khó khăn, đảm bảo cho tất
cả mọi người đều được đi học, trường học không có sự phân biệt dân tộc, giàu
– nghèo, tôn giáo, tín ngưỡng, nam – nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội… Mọi
công dân đều được bình đẳng về cơ hội học tập, để người giỏi được phát huy tài năng.
Sau đó, về cơ sở vật chất – Kỹ thuật trong các cơ sở giáo dục xã hội hóa sự nghiệp
giáo dục là coi phát triển giáo dục là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân.
Kêu gọi và huy động mọi nguồn lực trong xã hội đầu tư vào giáo dục, đa dạng
hóa các loại hình trường học và các hình thức giáo dục, xây dựng xã hội học tập
đáp ứng nhu cầu học thường xuyên, học suốt đời của nhân dân. lOMoAR cPSD| 44985297
Cuối cùng là, vai trò giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Nền giáo dục Việt Nam
phát triển theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, nhà trường gắn liền với xã hội và gia đình.
C. CẢM NHẬN CỦA BẢN THÂN SAU KHI HỌC XONG BỘ MÔN TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
Rời xa tuổi học trò, bước những bước chân đầu tiên tới giảng đường đại
học chắc hẳn các bạn tân sinh viên như em ít nhiều cũng mang cảm xúc mới mẻ,
bên cạnh đó còn có những nỗi lo lắng không biết vào đại học thì sẽ học như thế
nào, gồm những môn nào, khó hay không. Em đã gần đi hết năm đầu tiên của
đại học với nhiều môn học mới tuy lạ lẫm nhưng cũng rất thú vị, mang đến cho
em nhiều điều bổ ích. Trong đó phải kể đến môn Triết học Mác- Lê nin dưới sự
giảng dạy tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Mai Lan.
Khi bàn về sự cần thiết của việc giảng dạy triết học cho sinh viên, một số
ý kiến cho rằng, đào tạo đại học là đào tạo nghề, đào tạo các chuyên gia làm
việc trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân nên chỉ cần giảng
dạy các môn học chuyên ngành là đủ. Luận điểm này thoạt nghe dường như có
lý, nhưng thực ra là sai lầm. Thực tế cho thấy, Nhà nước không đơn giản chỉ cần
đến những chuyên gia, mà hơn hết là cần những công dân có trách nhiệm với
tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Để giáo dục ý thức công dân thì
cần có triết học và các môn khoa học xã hội, nhân văn khác. Lịch sử Tổ quốc
hướng mỗi người ý thức về cội nguồn của mình trong một cộng đồng dân tộc
xác định, vị trí của thế hệ mình trong dãy những thế hệ thay thế lẫn nhau, hiểu
được tính đặc thù và độc đáo của thời đại. Triết học đóng vai trò quan trọng
trong việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan, hệ
thống giá trị văn hóa nhân văn cho sinh viên, nó như “la bàn” giúp chúng em
định hướng tính tích cực xã hội và chính trị của mình vào mục đích xây dựng,
sáng tạo. Triết học đem lại cho sinh viên chúng em tri thức về các mối quan hệ
xã hội, về bản chất, chức năng của nhà nước và của pháp luật, về mục đích tồn
tại của con người, về cái thiện và cái ác, về mối quan hệ giữa cá nhân với nhà
nước và xã hội, về tự do và trách nhiệm. Vì vậy, triết học có vai trò quan trọng
trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách bản thân em nói riêng và sinh viên nói chung.
Đầu tiên, Triết học Mác-Lê nin là cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận khoa học và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong
điều kiện cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát triển mãnh mẽ. Trên cơ sở của
triết học Mác-Lenin, em thấy được sự phát triển của khoa học công nghệ trong
bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời những mâu thuẫn trong xã hội và thế giới hiện
nay. Nền tảng của triết học Mác-Lê nin chính là bước đệm để các phát minh lOMoAR cPSD| 44985297
khoa học ra đời, từ đó bản thân sẽ có những định hướng vững chắc khi tham
gia các nghiên cứu khoa học, có đầy đủ cơ sở và lý luận để tạo ra những phát
hiện mới. Đồng thời, để tồn tại trong những hoàn cảnh mẫu thuẫn lợi ích và giai
cấp, cần có lý luận cách mạch soi đường thì chủ nghĩa Mác-Lê nin chính là gốc
rễ để thực hiện mục đích đó. Đó chính là thế giới quan duy vật biện chứng – nền
tảng để em- một sinh viên có thể nhận thức và tiếp thu những nguyên lý; quy luật khác.
Thứ hai, giáo dục triết học Mác – Lênin còn góp phần xây dựng nhân sinh
quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên; xây dựng trong họ những quan niệm
đúng đắn về cuộc đời; về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là, triết học
Mác – Lênin giúp em hiểu được mục đích cao nhất của con người là xây dựng
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; trong đó, mọi người đều có một cuộc
sống đầy đủ về vật chất và tinh thần. Đó là một xã hội mà “sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Giáo
dục triết học Mác – Lê nin sẽ góp phần từng bước xây dựng và bồi dưỡng nhân
sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên thông qua việc trang bị cho chúng
em những kiến thức cơ bản về lý luận cách mạng xã hội, về bản chất và chức
năng của nhà nước, về con người và các quan hệ xã hội của con người, về giai
cấp, dân tộc, về xu hướng phát triển tất yếu của xã hội... Đồng thời, từng bước
xây dựng cho sinh viên cách nhìn, lối sống cũng như cách vận dụng những định
hướng giá trị xã hội đã được nhận thức vào thực tiễn cuộc sống.
Cuối cùng, giáo dục triết học Mác-Lênin góp phần xây dựng lý tưởng cộng
sản cho các thế hệ sinh viên Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá
trình hình thành nhân cách sinh viên chúng em; vì lý tưởng là mục đích cao nhất,
đẹp nhất; tạo ra nghị lực giúp con người vượt qua mọi thách thức đạt đến mục
tiêu đề ra. Chủ nghĩa Mác-Lê nin sẽ giúp ta hiểu con đường Đảng và nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đang đi, hiểu được vai trò của nhà nước và Đảng
trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa để cùng chung tay với Đảng và
nhà nước thực hiện mục tiêu. Điều này còn giúp chúng em không bị những thế
lực thù địch dụ dỗ, hiểu sai về Đảng và nhà nước, từ đó để bảo vệ được bản thân và gia đình.
Như vậy, vai trò của triết học Mác-Lê nin đã được chứng minh không chỉ
qua yếu tố lịch sử, mà còn cho thấy sự hình thành nhân cách và tư duy của một
con người. Điều này còn cho em thấy được việc bảo vệ, phát triển nền tư tưởng
này để phát huy tác dụng và sức sống đối với thời đại và đất nước là vô cùng
quan trọng. Mong rằng, đối với bản thân nói riêng và những sinh viên là công
dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung sẽ thấy được những
giá trị và tầm quan trọng đó, từ đó tích cực tham gia học tập, rèn luyện, trở
thành công dân có ích cho đất nước. lOMoAR cPSD| 44985297 LỜI KẾT THÚC
Qua bài tập lớn ta nhận thấy rằng, các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật chỉ ra hình thức chung nhất của sự vận động, phát triển của thế giới vật chất
và nhận thức của con người về thế giới đó, đồng thời các quy luật này cũng tạo
cơ sở cho phương pháp chung nhất của tư duy biện chứng. Vì vậy đây là nền
tảng cho sự phát triển của sự vật hiện tượng sau này.
Trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập chỉ ra nguyên nhân và động lực bên trong của sự vận động, quy luật
chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và
ngược lại chỉ ra cách thức và tính chất của sự phát triển thì quy luật phủ định của phủ định chỉ ra
Các quy luật này định hướng cho việc nghiên cứu của những quy luật đặc thù
và đến lượt mình, những quy luật cơ bản về sự phát triển của thế giới, của nhận
thức và những hình thức cụ thể của chúng chỉ có tác dụng trên cơ sở và trong
sự gắn bó với những quy luật đặc thù.