


















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60794687
LỊCH SỬ THẨM MỸ CÔNG NGHIỆP
PHONG CÁCH POP ART, DESIGN HẬU HIỆN ĐẠI VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA CHÚNG ĐẾN DESIGN NGÀY NAY
I. POP ART 1. Khái niệm
Pop Art (viết tắt của chữ Popular Art, tức Nghệ thuật Đại chúng) là một phong
trào nghệ thuật thị giác nổi lên vào thời đại công nghiệp những năm 1950. Pop
Art là hình thức nghệ thuật phản ánh hiện thực vật chất trong cuộc sống hàng
ngày của đại chúng (mà ảnh hưởng mạnh mẽ nhất là xã hội Mỹ). Pop Art coi trọng
nền văn hóa pop – nền văn hóa “phổ biến” cùng nguồn cảm hứng được tìm thấy
trên: sản phẩm tiêu dùng hàng ngày, truyền thông quảng cáo, phim ảnh, hoạt họa, biểu tượng vv…
− Nguồn gốc của phong trào pop art
Pop Art phát triển từ văn hóa đại chúng vào cuối những năm 1950 và 1960, nhưng
nguồn gốc thực sự của trào lưu này là các phong trào nghệ thuật đương đại đầu
thế kỷ XX. Dưới đây là tổng quan về nguồn gốc của Pop Art.
Thuật ngữ “Pop Art” được đặt ra bởi nhà phê bình nghệ thuật người Anh
Lawrence Alloway để mô tả ảnh ghép nổi tiếng năm 1956 của Richard Hamilton
“Điều gì làm cho ngôi nhà ngày nay trở nên khác biệt, hấp dẫn đến vậy?”, thường
được trích dẫn là tác phẩm đầu tiên của Pop Art.
2. Đặc trưng của pop art
Dưới đây là một vài đặc trưng của phong trào Pop Art
• Sử dụng các hình ảnh từ các phương tiện thông tin đại chúng: Khía cạnh
dễ nhận biết nhất của Pop Art là sự kết hợp của những hình ảnh dễ nhận
biết từ văn hóa đại chúng Mỹ. Ví dụ, Andy Warhol đã sử dụng hình ảnh
của những người nổi tiếng, như Marilyn Monroe và Elizabeth Taylor, và
lấy hình ảnh từ quảng cáo công khai phim và tạp chí lá cải.
• Nâng tầm sự bình thường: Pop Art đã nâng hình ảnh hàng ngày — như lon
súp — lên vị thế của một tác phẩm nghệ thuật. Các nghệ sĩ sẽ kết hợp các
đồ vật hoặc hình ảnh từ cuộc sống đương thời trong những năm 1950 và
1960 vào tác phẩm của họ, ưu tiên những thứ phổ biến, tầm thường và sến sẩm. lOMoAR cPSD| 60794687
• Sự lặp lại: Các nghệ sĩ Pop Art thường tái tạo cùng một hình ảnh nhiều lần
trong một tác phẩm nghệ thuật. Việc nối tiếp hóa chủ đề duy nhất này vừa
là sự ca ngợi, vừa là sự phê bình về sản xuất và tiếp thị hàng loạt trong văn
hóa đương đại. Các nghệ sĩ như Andy Warhol, đã sử dụng in lụa - một công
nghệ được sử dụng trong sản xuất hàng loạt - để tạo ra các tác phẩm nghệ
thuật của mình, trong khi những người khác như Roy Lichtenstein vẽ tỉ mỉ
các chấm Ben-Day để bắt chước sự xuất hiện của hình ảnh trong truyện tranh in.
3. Những nhà thiết kế tiêu biểu của pop art − Andy Warhol
Andy Warhol có thể nói là biểu tượng của pop art, là nhân vật đầu tiên có sức ảnh
hưởng đến thế giới thời trang. Ông bắt đầu sự nghiệp là một họa sĩ thiết kế, từng
cộng tác với nhiều tạp chí như Glamour, Mademoiselle và Vogue. Ông cũng là
người đầu tiên đưa nghệ thuật vào quần áo.
Vào những năm 1960, khi thời trang cao cấp của những người giàu bị cạnh tranh
với quần áo đại trà, Warhol bắt đầu in các bản vẽ của mình lên những chiếc đầm
bằng giấy và biến chúng thành hiện tượng mới. Walhol đã khơi dậy trào lưu quần
áo chỉ mặc một vài lần. lOMoAR cPSD| 60794687
Chiếc đầm nổi tiếng nhất những năm 1960 là Souper Dress, in hình ảnh những
lon súp Campbell. Ai cũng có thể mua chiếc đầm này với giá chỉ 2 đô-la Mỹ. Đầm
giấy nhanh chóng trở thành trang phục chính thống và dù ngày nay đã biến mất
khỏi thị trường, những chiếc đầm này vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho các nhà thiết kế đương đại.
Chiếc đầm giấy Souper Dress của Andy Warhol. lOMoAR cPSD| 60794687 − Roy Lichtenstein
Roy Lichtenstein là một họa sĩ nổi tiếng người Mỹ. Ông lấy nguồn cảm hứng từ
truyện tranh và phương pháp vẽ “Ben-Day dot” đã trở thành thương hiệu của ông.
Năm 1961, một trong những tác phẩm pop art đầu tiên của Roy Lichtenstein ra
đời là bức Look Mickey với các chấm Ben-day. lOMoAR cPSD| 60794687
Tác phẩm Look Mickey lấy cảm hứng từ truyện tranh Donald Duck Lost and Found. lOMoAR cPSD| 60794687
Phong cách Ben-day dot của Roy Lichtenstein trong bức tranh Nude with Joyous
1994, được bán với giá 46 triệu USD.
Đến năm 1963, ông đã trình làng 2 tác phẩm nổi tiếng nhất trong sự nghiệp của
mình là Drowning Girl và Whaam!, chuyển thể từ truyện tranh DC. Tuy nhiên,
việc Roy Lichtenstein cắt hình ảnh sẵn có trong một quyển truyện và biến hóa nó
thành một tác phẩm hoành tráng đã đặt ra những câu hỏi về bản quyền. Tạp chí
Life đã đăng một bài báo chỉ trích Roy Lichtenstein là nghệ sĩ tồi nhất nước Mỹ.
Dù vi phạm bản quyền, nhưng phương pháp biến những khung truyện tranh đơn
điệu thành tác phẩm hoành tráng đã giúp các tác phẩm của ông đắt như tôm tươi.
Vào năm 2017, bức tranh Masterpiece của ông được mua lại với giá 165 triệu
USD và trở thành tác phẩm giá trị nhất của Roy Lichtenstein. lOMoAR cPSD| 60794687
Masterpiece, tác phẩm đắt đỏ nhất của Roy Lichtenstein.
Năm 1965, Roy Lichtenstein ngừng việc sử dụng truyện tranh cho các tác phẩm
của mình. Những bản vẽ khác của ông đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho
nhiều nhà thiết kế và nhãn hàng như Iceberg và Lisa Perry. Các thương hiệu giày
Nike, Vans và Converse cũng đặc biệt yêu thích phong cách của Roy Lichtenstein.
4. Các tác phẩm tiêu biểu
− “Just What Is It That Makes Today’s Homes So Different, So
Appealing??”– Richard Hamilton (1956) lOMoAR cPSD| 60794687
Được tạo ra vào năm 1956, bức ảnh ghép này được coi là chất xúc tác cho sự phát
triển của Pop Art tại Vương quốc Anh. Nghệ sĩ người Anh Richard Hamilton đã
tổ chức buổi triển lãm đặc biệt mang tên This is Tomorrow tại Phòng trưng bày
nghệ thuật Whitechapel ở London, cùng với sự góp mặt của các nghệ sĩ đương
đại để diễn giải về sự hiện đại và dự đoán của họ cho tương lai.
“Just what is it that makes today’s homes so different, so appealing?“ kết hợp một
số chủ đề liên quan đến giao tiếp được Hamilton sáng tạo đưa vào. Bức tranh bao
gồm: người đàn ông, người phụ nữ, thực phẩm, lịch sử, báo chí, điện ảnh, thiết bị
gia dụng, ô tô, không gian, truyện tranh, TV, điện thoại, thông tin. Sử dụng các
mẩu tin từ các tạp chí Mỹ, ông đã tạo ra một khung cảnh dựa trên các họa tiết này,
nghĩa đen là muốn tạo ra môt tác phẩm từ những mảnh văn hóa đại chúng và luận
bàn về “những ảnh hưởng khác nhau đang bắt đầu định hình nước Anh sau chiến tranh.”
− “32 soup cans” – Andy Warhol (1962) lOMoAR cPSD| 60794687
Năm 1962, nghệ sĩ người Mỹ tên Andy Warhol đã nổi tiếng với mô típ “soup
can” (lon súp). Tác phẩm “32 Soup Cans” bao gồm 32 bức tranh vẽ tay và đóng
khung tay, mỗi bức tranh mô tả một hương vị soup khác nhau của Campbell.
Warhol là nghệ sĩ tiên phong trong Pop Art, ông chọn chủ đề này vì nó là một
trong những đặc trưng của Pop Art và sự lặp đi lặp lại cũng chính là sở thích của
ông. “Tôi đã từng uống chúng. Tôi đã từng có những bữa ăn giống nhau ,trong
20 năm, tôi đoán, điều tương tự sẽ lặp đi lặp lại.”
Ngay sau khi vẽ bộ sưu tập này, Warhol vẫn tiếp tục thử nghiệm với mô típ lon
súp nhưng với hàng trăm lon súp chứ không chỉ dừng lại ở con số 32. Tuy nhiên,
với những tác phẩm sau này, ông đã chuyển quá trình vẽ tranh sang in lụa, một
phương pháp in ấn được sử dụng phù hợp trong sản xuất quảng cáo thương mại.
− “Whaam!” – Roic Lichtenstein (1963) lOMoAR cPSD| 60794687
Được biết đến với những bức tranh đầy màu sắc, lấy cảm hứng từ truyện tranh,
họa sĩ Roy Lichtenstein đã mang đến những tác phẩm hoạt hình tràn đầy năng
lượng Pop Art. “Whaam!” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông,
lấy bối cảnh trong All American Men of War, một bộ truyện nổi tiếng được xuất
bản bởi truyện tranh DC từ năm 1956 đến 1966.
Lấy hình thức như cuốn truyện tranh, Whaam! cũng được trình bày trên 2 trang.
Ở phía bên trái của trang đôi (diptych) này, một chiếc máy bay đang bắn một chiếc
máy bay khác, cùng với câu cảm thán “WHAAM!” – chiếm toàn bộ bố cục bên
phải của tác phẩm. Mặc dù bố cục rất giống với mô tả ban đầu, nhưng
Lichtenstein đã thay đổi một số chi tiết: ông đã thay đổi các thiết kế của máy bay,
bỏ qua một câu hội thoại và thay đổi bảng màu.
Những thay đổi nhỏ này nói lên mục đích lớn hơn của Lichtenstein, nhằm cá nhân
hóa các tác phẩm nghệ thuật được sản xuất hàng loạt này. “Tôi không thể sao chép lOMoAR cPSD| 60794687
một bức tranh. Tôi chỉ sắp xếp lại nó”, họa sĩ giải thích. “Tôi đã thử qua nhiều
cách để hoàn thành bản vẽ gần giống với bản gốc nhất.”
− “Retroactive II” – Robert Rauschenberg (1964)
Nổi tiếng với cách sử dụng vật liệu độc đáo, Robert Rauschenberg đã đóng góp
cho phong trào Pop Art với kỹ thuật kết hợp và cắt dán đỉnh cao của mình. Một
tác phẩm đặc biệt lấy cảm hứng từ văn hóa Pop là Retroactive II, bức tranh lụa
được tạo ra vào năm 1964.
Retroactive II là tác phẩm quan trọng trong thời kỳ này, nó bao gồm một bức chân
dung của John F. Kennedy và một phi hành gia của NASA. Ngoài biểu tượng lấy lOMoAR cPSD| 60794687
cảm hứng từ các sự kiện hiện tại, tác phẩm là một bức ảnh với màu sắc đặc trưng của thẩm mỹ Pop Art.
− “A Bigger Splash” – David Hockney (1967)
Vào nửa cuối thập niên 1960, nghệ sĩ người Anh – David Hockney đã sáng tác
một bức tranh được lấy cảm hứng từ bể bơi. Cảm hứng xuất phát từ một chuyến
đi đến California, ông thích những đường nét sạch sẽ, yếu tố thể hiện hiện đại.
Vào mùa xuân năm 1967, ông đã hoàn thành bức tranh hồ bơi nổi tiếng nhất của
mình: A Bigger Splash. Chỉ có một ngôi nhà hiện đại, một chiếc ghế xếp và hai
cây cọ, tâm điểm của mảnh ghép là hồ bơi. Một tấm ván được đặt lơ lửng phía
trên mặt nước với những tia nước bắn giữa mặt hồ. Cùng với chủ đề này, khi hết lOMoAR cPSD| 60794687
hợp cũng bảng màu và đồ họa về bố cục đã thể hiện được xu hướng thẩm mỹ
được yêu thích của Hockey và các nghệ sĩ Pop thời kỳ bấy giờ. lOMoAR cPSD| 60794687
II. DESIGN HẬU HIỆN ĐẠI 1. Khái niệm
Chủ nghĩa Hậu Hiện đại là một phong trào nghệ thuật quốc tế, trị vì vào cuối
những năm 70 đến những năm 80 và đặc trưng bởi sự từ chối các cấu trúc chính
thức được thiết lập bởi chủ nghĩa hiện đại. Về bản chất, thuật ngữ này phổ biến
hơn đối với các nhà lý thuyết hơn là các nghệ sĩ thực tế, với họ nó giống như một
cách để nhóm một số phong trào nghệ thuật đa dạng, chiết trung vào một nhóm lớn. 2. Đặc trưng
• Chủ nghĩa đa nguyên: Chủ nghĩa hậu hiện đại bác bỏ một đối tượng, sự
thật hoặc cách tiếp cận thực tế
• Chống chủ nghĩa hình thức: Chủ nghĩa hậu hiện đại bác bỏ hướng dẫn và
lý thuyết nghệ thuật chính thức
• Phương tiện truyền thông phi truyền thống và hỗn hợp: Ảnh ghép, video,
nhựa thương mại và khiêu vũ diễn giải đều có một vị trí trong nghệ thuật hậu hiện đại
• Giải cấu trúc: Chủ nghĩa hậu hiện đại phá vỡ các khái niệm truyền thống
về cách nghệ thuật tạo ra ý nghĩa
• Tự quy chiếu: Nghệ thuật hậu hiện đại thường kêu gọi sự chú ý đến kỹ xảo
của nó, thường là một cách đặt câu hỏi về bản chất của "nghệ thuật"
• Mỉa mai: Chủ nghĩa hậu hiện đại chế giễu các quy ước nghệ thuật bằng
cách kết hợp những thứ sến sẩm và khiếu hài hước “tệ hại” lOMoAR cPSD| 60794687
3. Những nhà thiết kế tiêu biểu của pop art − Carolee Schneemann
Trong suốt sự nghiệp của mình, Carolee Schneemann đã sử dụng cơ thể của mình
để thể hiện sự ảnh hưởng của đường nét gợi cảm phái nữ đến chính trị và cá nhân,
giỏi phóng khỏi các quy ước thẩm mỹ và áp bức từ xã hội. Dựa vào khả năng thể
hiện của phim, trình diễn, nhiếp ảnh và nghệ thuật sắp đặt, trong số các phương
tiện truyền thông khác, cô ấy đã khái thác các chủ đề về thế hệ và hình ảnh nữ
thần, tình dục và khiêu dâm hàng ngày, cũng như tiểu sử cá nhân và sự mất mát.
Mặc dù nổi tiếng với công việc biểu diễn và các phương tiện truyền thông khác,
Schneemann bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một họa sĩ, nói rằng: "Tôi lOMoAR cPSD| 60794687
là một họa sĩ. Tôi vẫn là một họa sĩ và tôi sẽ chết với tư cách là một họa sĩ. Mọi
thứ mà tôi đã phát triển đều liên quan đến mở rộng các nguyên tắc trực quan ra
khỏi tranh vẽ." Cô ấy tiếp tục biểu diễn, quay phim và thu âm cho đến ngày nay,
và được nhiều người công nhận là người tiên phong của nghệ thuật Nữ quyền,
cũng như nghệ thuật trình diễn và đa phương tiện.
“Điều khiến màn trình diễn của Schneemann trở thành một phần mang tính biểu
tượng của lịch sử Hậu hiện đại là nó được cho là chống lại những ý tưởng truyền
thống đã chi phối nghệ thuật cổ điển và văn hóa cao cấp, vốn vẫn tồn tại do phong
trào Chủ nghĩa hiện đại. Ngoài ra, màn trình diễn của cô ấy tồn tại như một tác
phẩm nghệ thuật nữ quyền, vì nó giới thiệu cơ thể phụ nữ như một nguồn năng
lượng sáng tạo và thách thức sự đại diện của nó trong xã hội.” lOMoAR cPSD| 60794687 − Barbara Kruger
Một nữ nghệ sĩ nổi bật khác trong thời kỳ Hậu hiện đại là Barbara Kruger, người
có tác phẩm tồn tại như những tác phẩm mang tính biểu tượng của phong trào.
Kruger đã sử dụng quảng cáo để thiết kế các tác phẩm nghệ thuật của mình, với
một số tác phẩm nổi tiếng hơn của cô được sản xuất hàng loạt trên túi mua sắm
và các sản phẩm khác như áo phông. Một quan niệm phổ biến xuất hiện trong một
số tác phẩm của cô ấy là chủ đề về chủ nghĩa tiêu dùng, đây là đặc điểm chính
trong tác phẩm mang tính biểu tượng năm 1987 của cô ấy, Untitled. lOMoAR cPSD| 60794687
Một triển lãm khác của Barbara Kruger, Joyful Losers (2014) tại Modern Art
Oxford; Tháng 6 từ Melbourne, Úc , CC BY-SA 2.0 , qua Wikimedia Commons
− Marina Abramović (1946 – Hiện tại) lOMoAR cPSD| 60794687
Hiện tại với tư cách là nghệ sĩ của một tác phẩm trình diễn quan trọng là nghệ sĩ
Marina Abramović, người có tác phẩm nổi tiếng trong thời kỳ Hậu hiện đại. Tác
phẩm mang tính biểu tượng nhất của cô, được trình diễn vào năm 1974, có tựa đề
là Rhythm 0/Seven Easy Pieces .
Buổi biểu diễn này được coi là đột phá vào thời điểm đó, vì nó hỗ trợ cho sự
chuyển đổi Hậu hiện đại nghiêng về việc bao gồm cả sự tham gia của khán giả
như một phần của tác phẩm nghệ thuật. Abramović đã thể hiện sự từ bỏ hoàn toàn
quyền kiểm soát và quyền tác giả trong tác phẩm nghệ thuật của mình bằng cách
cho phép khán giả quyết định kết quả của nó, điều này thách thức ý tưởng của
Người theo chủ nghĩa hiện đại rằng nghệ thuật phải là duy nhất và được tạo ra bởi
một nhân vật nghệ thuật nổi tiếng.
Cuốn sách nghệ sĩ 3 Buổi biểu diễn của Marina Abramović, phát hành nhân dịp
Liên hoan Biểu diễn Quốc tế, tháng 4 năm 1978; Marina Abramović và Bảo
tàng CODA , CC BY 3.0 , qua Wikimedia Commons lOMoAR cPSD| 60794687
4. Các tác phẩm tiêu biểu − “Marilyn Diptych” - Andy Warhol (1962)
Nghệ Andy Warhol mặc dù là người tiêu biểu cho phong trào pop art nhưng ông
cũng đã tạo ra một số tác phẩm nghệ thuật mang tính biểu tượng được xác định
là một phần của kỷ nguyên nghệ thuật Hậu hiện đại. Trong số các tác phẩm của
mình, Marilyn Diptych in lụa năm 1962 của ông tồn tại như một tác phẩm đáng
chú ý trong phong trào Hậu hiện đại, khi Warhol thử nghiệm một phong cách
thẩm mỹ thường thấy trong ngành quảng cáo vào thời điểm đó.
Bức tranh đôi này, mô tả hai tác phẩm nghệ thuật được kết hợp để tạo ra một tác
phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, mô tả bức tranh của Marilyn Monroe trong bộ phim
Niagara , Warhol lần đầu tiên tái tạo bảng màu bên trái và sau đó là bảng bên phải
màu đen và trắng. Được thực hiện trong những tháng sau cái chết của Monroe,
Warhol đã thể hiện niềm đam mê của mình với cái chết và những người nổi tiếng,
với tác phẩm nghệ thuật kết hợp những sở thích này. Ngoài ra, sự tương phản rõ
rệt về màu sắc giữa hai tấm bảng gợi ý về sự khác biệt giữa sự sống và cái chết.
Warhol đã thách thức hình thức thể hiện chủ đề truyền thống được duy trì trong
phong trào nghệ thuật Hiện đại thông qua việc lặp lại cùng một hình ảnh của
Monroe. Sự lặp lại này cũng được coi là một lời bình luận chế giễu về quá trình
sản xuất hàng loạt ngày càng tăng đã bắt đầu trong nghệ thuật, cũng như tính xác
