-
Thông tin
-
Quiz
Ngoại giao bảo vệ chính quyền cách mạng giai đoạn 1945 -1954 | Tiểu luận Lịch sử ngoại giao và chính sách đối ngoại Việt Nam
Công tác đối ngoại là một vấn đề quan trọng trong quan hệ chính trị quốc tế, nó song hành cùng với dân tộc trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của mỗi quốc gia. Ngoài ra, vai trò của chính sách đối ngoại chính là chủ động tạo ra mối quan hệ quốc tế để đưa đất nước cùng hội nhập với thế giới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lịch sử ngoại giao Việt Nam 9 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Ngoại giao bảo vệ chính quyền cách mạng giai đoạn 1945 -1954 | Tiểu luận Lịch sử ngoại giao và chính sách đối ngoại Việt Nam
Công tác đối ngoại là một vấn đề quan trọng trong quan hệ chính trị quốc tế, nó song hành cùng với dân tộc trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của mỗi quốc gia. Ngoài ra, vai trò của chính sách đối ngoại chính là chủ động tạo ra mối quan hệ quốc tế để đưa đất nước cùng hội nhập với thế giới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử ngoại giao Việt Nam 9 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ -------------------------
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
LỊCH SỬ NGOẠI GIAO VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM Đề tài:
Ngoại giao bảo vệ chính quyền cách mạng giai đoạn 1945 - 1954 Họ tên : Hoàng Thảo Quyên Mã sinh viên : 2156100049 Lớp tín chỉ : QT02615_K41.2 Lớp
hành : Thông tin đối ngoại chính K41 1
Hà Nội, tháng 12 năm 2022 MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................1
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................2
2.1. Mục đích nghiên cứu........................................................................2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................2
4. Kết cấu tiểu luận......................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................3
CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH CHUNG CỦA THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1954................................................................3 1.1.
Tình hình thế giới............................................................................3 1.1.
Tình hình Việt Nam.........................................................................5
CHƯƠNG 2: NGOẠI GIAO BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1954................................................................9 2.1.
Hòa hoãn, buộc quân Tưởng rút khỏi Việt Nam..........................9 2.2.
Ký kết Hiệp định sơ bộ với Pháp..................................................10 2.3.
Ký Tạm ước....................................................................................13 2.4.
Nỗ lực cứu vãn hòa bình...............................................................15
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VÀ BÀI HỌC THỰC TIỄN.............................16
3.1. Đánh giá..............................................................................................16 3.2.
Bài học thực tiễn............................................................................19
KẾT LUẬN....................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................22 1 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác đối ngoại là một vấn đề quan trọng trong quan hệ chính trị
quốc tế, nó song hành cùng với dân tộc trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa của mỗi quốc gia. Ngoài ra, vai trò của chính sách đối
ngoại chính là chủ động tạo ra mối quan hệ quốc tế để đưa đất nước cùng hội
nhập với thế giới, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước,
nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. Trong Đại hội XIII, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhấn mạnh, công tác đối ngoại có vai trò rất
quan trọng trong việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ cũng như góp phần nâng cao vị thế đất nước. Hơn nữa tầm
quan trọng, vai trò và nhiệm vụ của công tác đối ngoại đã được Đảng ta chính
thức đưa vào các văn kiện Đại hội Đảng từ rất sớm. Như trong Đại hội II đã
đặt nền móng đối ngoại ở cả ba mặt: Đảng, Nhà nước và nhân dân, nhấn
mạnh đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Giai đoạn 1945 -1954 là giai đoạn mà Việt Nam đang vừa thực hiện
cuộc kháng chiến chống Pháp vừa xây dựng chính quyền cách mạng. Giai
đoạn này đã đánh dấu nhiều mặt khó khăn của cách mạng nước ta. Tuy nhiên,
bằng tinh thần kiên định, nhẫn nại, chúng ta đã từng bước xây dựng và củng
cố các quyền chính của cách mạng với các thành phần thống nhất. Hơn nữa để
có thể vừa kháng chiến chống giặc ngoại xâm, vừa củng cố quyền lực, chính
quyền cách mạng Việt Nam đã phải có chính sách đối ngoại tài tình mới có
thể duy trì mối quan hệ tốt đẹp với những nước khác.
Để tìm hiểu thêm về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn
này, công tác triển khai chính sách cụ thể là ngoại giao bảo vệ chính quyền
nên em đã lựa chọn đề tài “Ngoại giao bảo vệ chính quyền cách mạng trong
giai đoạn 1945 – 1954” làm đề tài kết thúc học phần môn Lịch sử ngoại giao
và chính sách đối ngoại Việt Nam. 2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là nghiên cứu quá trình triển khai chính
sách đối ngoại giai đoạn 1945 – 1954, cụ thể là vấn đề ngoại giao bảo vệ
chính quyền cách mạng trong giai đoạn này. Từ đó, rút ra những đánh giá và
bài học thực tiễn cho công tác đối ngoại nước ta.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, tìm hiểu và phân tích tình hình, bối cảnh lịch sử của thế giới
và Việt Nam trong giai đoạn 1945 - 1954.
Thứ hai, phân tích các vấn đề liên quan tới vấn đề ngoại giao bảo vệ
chính quyền cách mạng trong giai đoạn này.
Thứ ba, đánh giá ngoại giao bảo vệ chính quyền cách mạng trong thời
gian 1945 – 1954 và bài học thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận là ngoại giao bảo vệ
chính quyền cách mạng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954.
4. Kết cấu tiểu luận
Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội
dung tiểu luận bao gồm chương
Chương 1: Tình hình chung của thế giới và Việt Nam trong giai đoạn 1945 – 1954
Chương 2: Ngoại giao bảo vệ chính quyền trong giai đoạn 1945 – 1954
Chương 3: Đánh giá và bài học thực tiễn 3 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH CHUNG CỦA THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1954
1.1. Tình hình thế giới
Ngày 28/11/1943, Hội nghị Teheran khai mạc trong Thế chiến II. Hội
nghị đã bàn đến những vấn đề tương lai của nước Đức và đi đến nhất trí về sự
kiểm soát quốc tế đối với Đức sau này. Ngoài ra, hội nghị thảo luận về vấn đề
Ba Lan và về một số tổ chức quốc tế sau chiến tranh dựa trên quan điểm của
Liên Xô, Mỹ, Anh, Trung Quốc để giữ gìn hòa bình. Hội nghị Teheran đã
công bố một số thông cáo chung chính thức và một tuyên bố về Iran. Khi
cuộc chiến ở châu Âu đang tiến tới giai đoạn kết thúc và vấn đề Nhật Bản trở
nên quan trọng thì một cuộc hội nghị thượng đỉnh giữa ba cường quốc là cần thiết.
Tam Cường của khối Đồng Minh tại hội nghị Tehran
Tháng 5 năm 1945, Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, thắng lợi
thuộc về phe Đồng minh, khiến cho tình hình thế giới có nhiều biến động
mạnh mẽ. Hệ thống tư bản chủ nghĩa trên thế giới suy yếu do sự bại trận của 4
các nước phát xít, do có hàng loạt nước tách khỏi hệ thống này. Và hệ thống
xã hội chủ nghĩa ở các nước ở châu Âu và châu Á được hình thành.
Ngoài ra, các nước lớn bắt đầu điều chỉnh chính sách ngoại giao của
mình. Ở phe Đồng Minh, từ mối quan hệ hợp tác trong chiến tranh, các nước
dần chuyển sang đối đầu trong hòa bình. Trật tự thế giới thay đổi, từ trật tự
một cực chuyển thành trật tự hai cực Ianta, đứng đầu là Mỹ và Liên Xô.
Tại Hội nghị Ianta tháng 2 năm 1945 và Hội nghị Pốt – xđam tháng 7
năm 1945, Nguyên thủ ba nước lớn là Liên Xô, Mỹ và Anh đã thành lập Liên
hợp quốc gồm năm cường quốc Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc là
những ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an có quyền phủ quyết. Và sau khi
Đức bại trận đã bị chia cắt thành nhiều khu vực dưới sự quản lý của Liên Xô,
Mỹ, Anh, Pháp. Trong đó, Đông Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô
còn Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mỹ. Từ đó, khuôn khổ của trật tự
thế giới hai cực được hình thành.
Ảnh các Nguyên thủ quốc gia tại hai Hội nghị Ianta và Hội nghị Pốt-xđam
Sau chiến tranh, bằng ưu thế mạnh nhất về kinh tế, quân sự, độc quyền
vũ khí nguyên tử, chủ nợ chính của phần lớn các quốc gia Âu, Á, Mỹ Latinh,
Mỹ có mưu đồ làm bá chủ thế giới. Và để thực hiện mưu đồ của mình, trong
ngoại giao, Mỹ bắt đầu chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới,
chống những diễn biến tích cực của phong trào giải phóng thuộc địa của chủ nghĩa thực dân. 5
Về Liên Xô, tuy bị thiệt hại về người và của, nhưng cũng nhanh chóng
trở thành cường quốc hàng đầu Châu Âu. Mặc dù so với Mỹ, tiềm lực kinh tế
và vũ khí hạt nhân không bằng nhưng Liên Xô vẫn cùng Mỹ đóng một vai trò
quyết định trong việc giải quyết những vấn đề lớn về hòa bình, an ninh trong
khu vực và trên thế giới.
Cùng thời điểm, các nước lớn trong phe Đồng Minh cũng nhanh chóng
củng cố lại hệ thống thuộc địa. Tuy Anh và Pháp là hai cường quốc thắng
trận, nhưng lại trong thế suy yếu, tình hình chính trị không ổn định. Để duy trì
vai trò cường quốc sau chiến tranh, hai nước ra sức khôi phục lại nền kinh tế, ổn định chính trị.
Trong khi đó, ở Châu Á và Châu Phi, phong trào đấu tranh chống chiến
tranh xâm lược và sự thống trị, đô hộ của thực dân phương Tây trở nên vô
cùng mạnh mẽ. Hình thức đấu tranh ở các nước diễn ra khác nhau nhưng đều
hướng tới lật đổ ách thống trị, giải phóng đất nước. Các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước này dần lan sang Châu Âu và lan rộng toàn thế giới.
1.1. Tình hình Việt Nam
Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước dân chủ nhân đầu tiên ở Đông Nam Á
được thành lập. Sự kiện này đã làm thay đổi căn bản cục diện cách mạng Việt Nam1.
Ngày 28/08/1945, danh sách Chính phủ lâm thời được công bố gồm 15
thành viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 02/09/1945, vào lúc 14 giờ
tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên
ngôn độc lập khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước
công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Chính phủ lâm thời chính thức ra mắt
quốc dân đồng bào. Cùng với việc thành lập Chính phủ Trung ương tại Hà
Nội, hệ thống chính quyền cách mạng ở các cấp nhanh chóng được thiết lập
1 Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.Chính trị Quốc gia sự thật, 2021, tr140 6
và củng cố trên phạm vi cả nước, trừ một số địa phương như: Vĩnh Phúc, Lai Châu.v.v.…
Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể tổ chức chính trị xã hội như hội
Thanh niên, hội Công thương, Đoàn Sinh viên cứu quốc, hội Phật giáo… Đây
là lực lượng chính trị đông đảo và mạnh mẽ làm hậu thuẫn cho việc gìn giữ,
bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ. Trong muôn vàn khó
khăn ban đầu, việc thiết lập được một hệ thống chính trị và chính quyền các
cấp từ trung ương đến cơ sở là một sự nỗ lực lớn lao của những người cộng
sản và nhân dân Việt Nam.
1.1.1. Những thuận lợi
Thứ nhất, tình hình thế giới trong lúc bấy giờ cũng đang có những thay
đổi lớn. Sau khi giải phóng khỏi chủ nghĩa phát xít, một số nước ở Đông Âu
được ủng hộ và giúp đỡ từ Liên Xô đã lựa chọn con người phát triển theo chủ
nghĩa xã hội. Phe xã hội chủ nghĩa dần hình thành và do Liên Xô làm trụ cột,
trở thành hệ thống đối trọng với phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Và ở
khu vực châu Á – Thái Bình Dương phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
đã phát triển mạnh mẽ và Việt Nam chính là một nước đi tiên phong
Thứ hai, thuận lợi cơ bản và lâu dài là Việt Nam đã trở thành quốc gia
độc lập tự do. Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng
cả nước. Nền ngoại giao hiện đại của Việt Nam dần được hình thành một cách
hoàn chỉnh với ba bộ phận cấu thành là công tác đối ngoại của Đảng, ngoại
giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Thứ ba, nhân dân Việt Nam từ thân phận bị áp bức bóc lột trở thành
chủ nhân của chế độ dân chủ mới. Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu
nước và truyền thống cách mạng. Và khi họ được hưởng những thành quả của
cách mạng, họ có quyết tâm bảo vệ chế độ mới.
Thứ tư, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh dạn dày kinh nghiệm lãnh đạo, đã trở thành biểu
tượng niềm tin, sức mạnh của nhân dân cả nước. 7
1.1.2. Những khó khăn
Thứ nhất, sau khi giành được chính quyền năm 1945, các nước Đồng
minh chống phát xít, nhất là Mỹ không ủng hộ lập trường độc lập của Việt
Nam. Việt Nam đã không được công nhận địa vị pháp lý và bị bao vây cô lập
với thế giới bên ngoài bởi quan hệ của Đảng Cộng sản Đông Dương với các
đảng cộng sản trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc cũng gặp nhiều khó khăn trở ngại.
Thứ hai, gần 20 vạn quân Quốc dân đảng Trung Hoa vào miền Bắc Việt
Nam để giải giáp quân đội Nhật Bản và quân Tưởng kéo theo các lực lượng
phản động Việt Quốc, Việt Cách mưu đồ lợi dụng “Hoa quân nhập Việt” hòng
“diệt Cộng, cầm Hồ”, lật đổ chính quyền cách mạng.
Thứ ba, ở miền Nam, quân thực dân Anh cũng vào làm nhiệm vụ giải
giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, sau đó Anh và Pháp thảo thuận để quân
Pháp thay chân quân Anh. Ngày 23/09/1945, thực dân Pháp, được Anh hỗ trợ,
đã nổ súng tái chiếm Nam bộ và Nam Trung Bộ, đánh chiếm miền Bắc, mở
rộng chiến tranh trên quy mô lớn, xâm lược trở lại Việt Nam, uy hiếp trực tiếp
thành quả cách mạng của nhân dân Việt Nam. Sự có mặt của hơn 30 vạn binh
lính của các cường quốc thế giới trên đất nước Việt Nam thực sự là một mối
đe dọa “ngàn cân treo sợi tóc” đối với vận mệnh của dân tộc, của nền độc lập non trẻ.
Thứ tư, cách mạng Việt Nam còn phải đối phó với sự xuất hiện của các
đảng phái chính trị phản động, thế lực tay sai ăn theo quân xâm lược của
ngoại bang, các thế lực chống đối trong giai cấp bóc lột cũ, các đối tượng phản cách mạng,…
Thứ năm, chính quyền cách mạng Việt Nam còn non trẻ, chưa được
củng cố. Đảng và nhân dân ta chưa có kinh nghiệp nắm giữ chính quyền. Vũ
khí hầu như còn chưa có và chính quyền chưa được quốc tế công nhận.
Thứ sáu, về kinh tế, Ngân sách Nhà nước hầu như trống rỗng, Chính
quyền cách mạng chưa quản lí được ngân hàng Đông Dương. Trong khi đó 8
quân Trung Hoa Dân quốc tung ra thị trường các loại tiền của Trung Quốc đã
mất giá, càng làm cho nền tài chính thêm rối loạn. Ngoài ra, nạn đói cuối năm
1944 – đầu năm 1945 vẫn chưa khắc phục được với số người chết lên đến 2
triệu người. Cùng với đó là nạn lụt lớn làm vỡ đê ở chín tỉnh Bắc Bộ và hạn
hán kéo dài làm cho hơn một nửa diện tích ruộng đất không thể cày cấy được.
Trại Giáp Bát, Hà Nội, nơi tập trung những nạn nhân đói năm 1945
Thứ bảy, về văn hóa – xã hội, tàn dư văn hóa lạc hậu do chế độ thực
dân phong kiến để lại là hết sức nặng nề, 95% dân số mù chữ sau hơn 80 năm
đô hộ của thực dân Pháp, 5 năm dưới xiềng xích của phát xít Nhật và trải qua
hàng ngàn năm với các triều đại phong kiến. Song hành với nó là các tệ nạn
xã hội như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút hoành hành không ngừng.
Qua đó, ta thấy tình hình chính trị - xã hội, kinh tế - thương mại Việt
Nam lúc bấy giờ rất phức tạp. Mặc dù trong giai đoạn này, Việt Nam có một
số thuận lợi hết sức cơ bản nhưng những khó khăn trước mắt của sự nghiệp
cách mạng lại quá lớn, con thuyền cách mạng của dân tộc Việt Nam đang nằm 9
trong trận phong ba bão táp. Hơn nữa Chính phủ Việt Nam đang phải đối mặt
với những thách thức to lớn với những biến động phức tạp, khôn lường.
Dù vậy vấn đề củng cố và bảo vệ chính quyền Việt Nam lúc bấy giờ là
rất quan trọng. Bởi nó là công cụ để Đảng và nhân dân để xây dựng và bảo vệ
đất nước. Vì vậy, Việt Nam đã triển khai chính sách đối ngoại giai đoạn 1945
– 1954 về ngoại giao bảo vệ chính quyền cách mạng.
CHƯƠNG 2: NGOẠI GIAO BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1954
2.1. Hòa hoãn, buộc quân Tưởng rút khỏi Việt Nam
2.1.1. Bối cảnh
Sau Thế chiến thứ 2, mang danh nghĩa đồng minh đến tước vũ khí của
phát xít Nhật, quân đội các nước đế quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam
và khuyến khích bọn Việt gian chống phá chính quyền cách mạng với mục
đích xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nước ta, bao gồm: 20 vạn quân Tưởng,
quân đội Anh. Tại thời điểm đó, ở miền Nam, quân ta đang phải đối phó với
dã tâm xâm lược lần nữa của thực dân Pháp.
Đảng, chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ phải tránh trường
hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng kẻ thù cùng một lúc, từ đó chủ
trương tạm thời hòa hoãn tránh xung đột với quân Tưởng. Vì Pháp mới là kẻ
thù chủ yếu của cách mạng Việt Nam và lực lượng cách mạng còn non trẻ lúc
bấy giờ. Hơn nữa khi quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa quân đồng
minh và chưa tuyên bố xâm lược như Pháp nên nếu đánh tưởng trước thì sẽ
rất khó khăn cho quân và dân ta.
2.1.2. Diễn biến
Lênin từng nói rằng: “Thấy cuộc chiến đấu rõ ràng có lợi cho kẻ thù
chứ không có lợi cho ta mà cứ nghênh chiến, đó là một tội ác; và những nhà
chính trị nào của giai cấp cách mạng, không biết “lựa chiêu, liên minh và
thỏa hiệp” để tránh một cuộc chiến đấu bất lợi rõ rệt thì đó là những người 10
vô dụng”2. Nhằm ngăn chặn và làm thất bại âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ” của
quân Tưởng và tay sai, Đảng, Chính phủ và Chủ tích Hồ Chí Minh đã chủ
trương thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù, hòa hoãn,
nhân nhượng có nguyên tắc” với quân Tưởng; Đảng đã đề ra nhiều đối sách
khôn khéo đối phó có hiệu quả với các hoạt động khiêu khích, gây xung đột
vũ trang của quân Tưởng, đặc biệt là khẩu hiệu " Hoa - Việt thân thiện".
Trước hành động khiêu khích của quân đội Tưởng và tay sai, để tránh xảy ra
xung đột về quân sự, chúng ta quyết định nhân nhượng. Chính quyền đã dành
cho quân Tưởng một số quyền lợi về cung cấp lương thực, tạo điều kiện cho
Hoa kiều buôn bán, sử dụng tiền quan kim, đồng thời kiên quyết chống lại các
hành động cướp bóc ngang ngược của quân Tưởng, song hết sức kiềm chế,
không để xảy ra xung đột. Ngoài ra, Đảng và chính phủ đã thực hiện, ứng xử
mềm dẻo, linh hoạt với các yêu sách của quân Tưởng và các tổ chức đảng
phái chính trị tay sai thân Tưởng, nhất là số cầm đầu Việt Quốc, Việt Cách
Trước những yêu sách của quân Tưởng đòi cho bọn tay sai tham gia
chính quyền, Hồ Chí Minh đã hai lần quyết định mở rộng chính phủ (tháng
12/1945 và tháng 2/1946) và đồng ý bổ sung thêm cho Đảng Việt Quốc và
Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử, cải tổ, mở rộng thành
phần Chính phủ liên hiệp với sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức, người
không đảng phái và cả một số phần tử cầm đầu tổ chức phản động tay sai của
quân Tưởng, trong đó có nhiều ghế Bộ trưởng quan trọng như 4 Bộ trong số
10 Bộ của Chính phủ và để Nguyễn Hải Thần, thủ lĩnh Việt Cách giữ chức Phó Chủ tịch nước.
Nhờ các biện pháp và sách lược ngoại giao khôn khéo, Việt Nam đã giữ
vững an ninh trật tự trong nước, dành thời gian củng cố chính quyền, buộc
quân Tưởng rút khỏi nước Việt Nam kéo theo tất cả các lực lượng thân
Tưởng, loại bỏ tình thế phải đối phó cùng một lúc với nhiều kẻ thù.
2 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tr.77. 11
2.2. Ký kết Hiệp định Sơ bộ với Pháp
2.2.1. Bối cảnh
Tháng 2 năm 1946, Pháp ký với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc Hiệp
ước Hoa – Pháp để chuẩn bị cho cuộc tấn công miền Bắc nhưng lại muốn
tránh đụng độ với ta. Trong đó có nội dung thỏa thuận để Pháp đưa quân đội
ra Bắc vĩ tuyến 16 làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thay thế 20 vạn quân
Tưởng rút về nước, hạn cuối cùng là ngày 31/3/1946. Và đổi lại, Pháp sẽ 9
nhân nhượng cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng ở Trung Quốc và Việt
Nam. Theo Hiệp ước, Tưởng được Pháp nhường cho một số quyền lợi về kinh
tế, chính trị, như hủy bỏ cai trị của Pháp trên đất Trung Quốc, nhượng cho
Tưởng một “khu đặc biệt” để tự do buôn bán và có quyền kiểm soát thuế quan
ở cảng Hải Phòng, bán cho Tưởng một đoạn đường sắt từ Hồ Kiều đến Côn
Minh (thuộc tuyến đường sắt Hà Nội - Vân Nam), những kiều dân Trung
Quốc ở Đông Dương được hưởng nhiều quyền lợi đặc biệt. Đây là một bản
Hiệp ước bán rẻ lợi ích của dân tộc, chà đạp lên nền độc lập tự do của Việt Nam.
Nhưng sáng ngày 6/3/1946, quân Tưởng đã chủ động nổ súng vào tàu
chiến Pháp tiến vào cảng Hải Phòng ở miền Bắc. Quân Pháp phản pháo ngay
lập tức. Giao tranh kéo dài đến trưa hôm đó, với thương vong và thiệt hại cho
cả hai bên. Và khi đó chính phủ Việt Nam đã chủ động hòa hoãn với Pháp để
đẩy nhanh quân Tưởng về nước nhằm tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng.
Hiệp ước được ký vào ngày 6/3/1946 dưới sự chứng kiến của nhiều quốc gia
khác như Mĩ, Anh, Trung Hoa,… 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại diện nước Pháp ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946.
2.2.1. Nội dung
Hiệp ước gồm những nội dung cơ bản: Pháp công nhận Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội, tài
chính riêng trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp. Việt Nam đồng
ý để quân đội Pháp (15.000 quân) vào miền Bắc Việt Nam thay thế 20 vạn
quân Tưởng; thời hạn quân Pháp đóng ở Đông Dương không quá 5 năm, hai
bên đình chỉ chiến sự, chuẩn bị mở đàm phán chính thức. Hai bên ngừng xung
đột ở miền Nam, tạo thuận lợi đi đến đàm phán chính thức.
Đảng và chính phủ ta đã nhân nhượng vào đúng thời điểm Pháp chịu
sức ép từ quân Tưởng nổ súng. Chính quyền ta không thể nhân nhượng sớm
hơn, khi Pháp còn chưa sứt đầu mẻ trán với quân Tưởng, cũng không thể
muộn hơn vì có nguy cơ lớn Pháp và quân Tưởng sau vụ nổ súng đánh nhau
sẽ bình tĩnh lại và cấu kết với nhau cùng chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa -
khi đó tình hình sẽ vô cùng khó khăn cho ta. 13
Lập trường của Đảng ta trong cuộc đàm phán này được Ban Thường vụ
Trung ương xác định trong chỉ thị hò “Hòa để tiến”: độc lập nhưng liên minh
với Pháp. Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của ta: chính phủ, quân
đội, nghị viện, tài chính, ngoại giao và cả sự thống nhất quốc gia của ta. Đảng
ta đã nhấn mạnh, trong cuộc đàm phán ta phải: “Không những không ngừng
một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu,
mà còn phải hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc
đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta.”3
2.2.3. Ý nghĩa
Việc ký kết Hiệp định Sơ bộ có ý nghĩa vô cùng quan trọng với tình
hình đất nước lúc bấy giờ. Nước ta đã tránh được một cuộc chiến bất lợi vì
phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc. Cùng với đó là đẩy được 20 vạn
quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta. Đồng thời chính
phủ ta có thêm thời gian để củng cố chính quyền mới, chuẩn bị lực lượng mọi
mặt cho cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài. 2.3. Ký Tạm ước
2.3.1. Bối cảnh
Để giữ vững nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Đảng, Chính
phủ tiếp tục cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì, kiên quyết, đầy khó khăn,
phức tạp trong suốt năm 1946 ở cả mặt trận trong nước và ngoài nước. Bởi
Hiệp định Sơ bộ chỉ là thoả thuận tạm thời, quan hệ giữa hai nước phải do
một hiệp định chính thức quy định. Vì thế, Hiệp định Sơ bộ có lưu ý hai nước
Việt Nam và Pháp cần tiếp tục đàm phán để ký hiệp định chính thức. Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tìm mọi cách hòa hoãn, đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh. Tuy nhiên sau khi Hội nghị trù bị Việt – Pháp tại Đà Lạt tan vỡ,
thì phía phía Việt Nam đã chủ động tổ chức một phái đoàn Quốc hội mới của
Việt Nam sang thăm thiện chí, hữu nghị Quốc hội và nhân dân Pháp từ cuối
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr.47. 14
tháng 4 đến cuối tháng 5. Sau đó, vào ngày 31/5, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi
thăm nước Pháp cùng đi còn có Phái đoàn đàm phán Chính phủ do đồng chí
Phạm Văn Đồng dẫn đầu.
Tuy nhiên sau hơn hai tháng đàm phán và Hội nghị Fontainebleau
không đi đến kết quả do phía Pháp không thực tâm đàm phán. Cùng với đó
tình hình Việt Nam ngày càng căng thẳng, nguy cơ xảy ra chiến tranh lần nữa
cũng càng rõ rệt hơn vì vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định nán lại nước
Pháp thêm ít ngày, trực tiếp gặp và đàm phán với Marius Moutet - Bộ trưởng
Bộ nước Pháp ở Hải ngoại.
Ngày 14/9/1946, Hồ Chí Minh kí với Chính phủ Pháp bản Tạm ước,
tiếp tục nhượng hộ cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hoá ở Việt Nam
để có thời gian xây dựng và củng cố lực lượng, chuẩn bị cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp mà ta biết chắc chắn nhất định sẽ nổ ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Marius Moutet ký Tạm ước về quan hệ
Việt Nam - Pháp tại Paris ngày 14/9/1946 15
2.3.2. Nội dung
Bản Tạm ước gồm 11 điều khoản, thể hiện sự thỏa thuận tạm thời giữa
Việt Nam và Pháp về một số vấn đề bức thiết có tính chất bộ phận, có lợi cho
cả hai bên. Hai bên cam kết đình chỉ mọi xung đột để làm giảm tình hình căng
thẳng, tạo thuận lợi để mở lại cuộc đàm phán vào đầu năm 1947. Việt Nam
tiếp tục nhân nhượng, đảm bảo cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa
ở Việt Nam. Phía Pháp nhận thi hành một số nội dung như: thả chính trị phạm
và tù binh; nhân dân Nam Bộ được quyền tự do hội họp, tự do báo chí, tự do đi lại. 2.3.3. Ý nghĩa
Giữ vững sách lược “Hòa để tiến”, Đảng và Nhà nước ta đã ký Tạm
ước, đây là một chủ trương rất sáng suốt và tài tình trong tình cảnh đất nước
còn đang gặp nhiều khó khăn, thù trong giặc ngoài phức tạp và chính quyền
cách mạng còn non trẻ. Đồng thời ta tiếp tục tranh thủ được thời gian hòa
hoãn để khẩn trương xây dựng lực lượng ở mọi mặt, chuẩn bị điều kiện cho
cuộc kháng chiến sau này. Cùng với đó, việc ký kết đó còn thể hiện ý chí hòa
bình của dân tộc ta và nâng cao uy tín của Nhà nước trên trường quốc tế.
2.4. Nỗ lực cứu vãn hòa bình
Việt Nam đã nhiều lần nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng, thực
dân Pháp càng lấn tới. Quân đội Pháp vẫn liên tục mở các cuộc tấn công lấn
chiếm ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đánh chiếm miền Bắc, mở rộng chiến
tranh trên quy mô lớn nhằm xâm lược trở lại Việt Nam.
Từ cuối tháng 10/1946, tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng căng
thẳng do nguy cơ một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp tăng dần.
Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân Việt Nam tiếp tục kiềm chế, kiên trì
thực hiện chủ trương hòa hoãn và bày tỏ thiện chí hòa bình, nhân nhượng
nhằm tìm kiếm con đường hòa bình, giữ gìn toàn vẹn độc lập, tự do của Việt
Nam, đồng thời cố gắng cứu vãn mối quan hệ Việt - Pháp đang ngày càng xấu
đi và ngăn chặn một cuộc chiến tranh nổ ra quá sớm và không cân sức với 16
Pháp. Nhiều lần, chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ Việt Nam, đã gửi
điện văn, thư từ cho Chính phủ Pháp, cho Thủ Tướng Pháp song đều không
được hồi đáp; con đường ngoại giao với đại diện Pháp tại Hà Nội cũng đều
không đưa đến kết quả tích cực vì phía Pháp chỉ muốn “dùng biện pháp quân
sự để giải quyết mối quan hệ Việt-Pháp”. Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Việt
Nam đã bộc lộ rõ thái độ bội ước.
Trước tình hình đó, một mặt, Đảng và Nhà nước Việt Nam kiên trì tìm
cách duy trì hòa bình, tránh chiến tranh, đồng thời tỏ rõ quyết tâm bảo vệ nền
tự do của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố rõ lập trường của Việt
Nam khi trả lời báo Pari-Sài Gòn: “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa
bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh... Nước Việt Nam cần kiến thiết,
nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng.
Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng
tôi sẽ làm”. Người liên tiếp gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng
Pháp và cử phái viên đến gặp những người đứng đầu Pháp ở Đông Dương,
tìm cách cứu vãn hòa bình; gửi lời kêu gọi các nước Anh, Trung Quốc, Mỹ,
Liên Xô và các thành viên Liên hợp quốc nêu rõ thiện chí hoà bình và quyết
tâm bảo vệ tự do của đất nước và mong mỏi Liên hợp quốc chấp nhận những
yêu cầu chân chính của Việt Nam để vãn hồi hoà bình và để "khôi phục lại
những quyền cơ bản của Việt Nam là được thừa nhận độc lập dân tộc và thống nhất lãnh thổ".
Mặt khác, song song với những nỗ lực ngoại giao nhằm cứu vãn hoà
bình, Đảng ta đã tỏ rõ quyết tâm sẵn sàng đấu tranh quân sự khi cần thiết.
Đảng đã quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống
thực dân Pháp xâm lược; mở nhiều chiến dịch quân sự tiến công địch; giành
thắng lợi từng bước và đi tới trận quyết chiến lịch sử Điện Biên Phủ. 17
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VÀ BÀI HỌC THỰC TIỄN 3.1. Đánh giá
3.1.1. Sự khéo léo, linh hoạt khi ngoại giao bảo vệ chính quyền cách mạng
Hoà với Tưởng để đánh Pháp Giữa lúc đất nước ta rơi vào tình thế
"ngàn cân treo sợi tóc", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện và lợi dụng được
những mâu thuẫn trong nội bộ địch để lấy làm lợi cho Đảng và chính quyền
còn non trẻ ở nước ta. Cụ thể, với quân Tưởng, ta đã có ứng xử khôn khéo
trong quan hệ, vừa đấu tranh chính trị, ngoại giao, vừa khai thác mặt hám lợi
vật chất của các tướng lĩnh Tưởng để hạn chế sự chống phá của chúng. Đây là
nghệ thuật phân hoá kẻ thủ, tránh tình thế đương đầu với nhiều kẻ thù cùng
lúc. Đồng thời, sách lược ngoại giao khôn khéo này cũng tạo thêm nhiều cơ
hội cho nước ta trong thời kỳ đó: có thêm thời gian cho ta xây dựng và củng
cố chính quyền; đẩy lùi và làm thất bại những kế hoạch chống phá chính
quyền và cách mạng; tranh thủ thời gian giải quyết những khó khăn trong xã
hội như tăng gia sản xuất tiết kiệm, khắc phục nạn đói do chế độ cũ để lại, mở
mang văn hóa giáo dục... Sự khéo léo, linh hoạt trong việc đề ra sách lược
ngoại giao với quân Tưởng để đánh Pháp là do việc đánh giá đúng tình hình
địch - ta và xác định đúng kẻ thù của nhân dân ta, đồng thời mềm dẻo về thực
hiện sách lược nhân nhượng đúng lúc, nhân nhượng có giới hạn, nhân nhượng
có nguyên tắc. Tuy nhân nhượng nhưng ta vẫn có những hoạch định, chủ
trương rõ ràng, luôn khẳng định đường lối độc lập tự chủ.
Ngoài ra, theo đánh giá của nhiều nhà quan sát, bản Hiệp định sơ bộ
6/3/1946 giữa Việt Nam và Pháp thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng vững vàng,
tầm nhìn chiến lược, nghệ thuật đàm phán có nguyên tắc và sách lược linh
hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng ta, linh hoạt
trong ứng biến, mềm dẻo trong từng cách xử thế, trong những tháng ngày đầu
tiên đầy khó khăn, gian khổ của chính quyền cách mạng, vừa phải chống cả
thù trong lẫn giặc ngoài để giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất và toàn