lOMoARcPSD| 61178690
"Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn học là lời nói của nhân vật trong
các tác phẩm văn học thuộc loại hình tự sự và kịch... Ngôn ngữ nhân vật
một trong các phương ện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể
hiện cuộc sống cá nh nhân vật" (Tđiển thuật ngữ văn học) . Lời nói
của nhân vật trong tác phẩm văn học hình thức giao ếp thường xuyên,
phbiến nhất của ngôn ngữ, đồng thời cũng hình thức căn bản của mọi
hoạt động ngôn ngữ khác. Lời nói của nhân vật trong tác phẩm tự sự
một công cụ hữu hiệu giúp nhà văn khắc họa nh cách nhân vật, tạo nên
"lời ăn ếng nói riêng" của mỗi nhân vật, truyền tải ý đồ nghệ thuật
nhà văn gửi gắm vào trong cốt truyện.
Khi y dựng nhân vật, nhà văn thường chú ý làm nổi bật lời nói (ngôn
ngữ) của nhân vật, thống nhất với lời nói hành động cùng các nh
huống tâm lý cụ thể đặt nhân vật vào để thhiện đặc điểm ngôn ngữ của
nhân vt y.
Sử thi, ểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn chứa lượng lớn lời đối thoại
và độc thoại của nhân vật. Còn trong kịch chúng chiếm ưu thế tuyệt đối.
Tuy nhiên nh chất và dung lượng của những lời thoại y khác nhau,
phthuộc vào thể loại, thời đại ra đời của tác phẩm cũng như nh sáng
tạo của nhà văn.
Trong tp tự sự dân gian, lời nói nhân vật có ý nghĩa thực tế, rõ ràng, báo
hiệu hành động kế ếp. VD: trong Tấm Cám, khi Cám lừa chị để chiếm
đoạt giỏ tép đã thẳng thừng “ChTấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp
cho sâu kẻo về mẹ mắng. Lời nói nói của thhiện sự ranh mãnh, lừa
lọc, dối trá để ớp công chị, đánh vào tâm lý của Tấm biết Tấm sợ bị
ghẻ mắng. Hay mụ dì ghẻ khi thấy Tấm đi thử giày cũng chỉ nói “Chuông
khánh còn chẳng ăn ai nữa mảnh chĩnh vứt ngoài btre. cùng với
biểu cảm bĩu môi nhưng cũng đủ để diễn tả sự khinh thường người con
riêng của chồng khi so sánh Tấm với “mảnh chĩnh” - một vật giá trị. Các
lời thoại đa số đều rất ngắn gọn nhưng vẫn có sức gi.
Trong sử thi hay bi kịch cổ đại, lời nói nhân vật lại trở nên hoa mỹ, trịnh
trọng, dài dòng, dường như không chỉ nói cho mình còn nói cho cả nỗi
niềm của người sáng tạo, khơi gợi sâu sâu sắc hơn về mặt tâm lý nhân vt
và cả sự đồng cảm của người đọc. Điều này có thể được nhận thấy các
tp thuộc Sử thi Hy Lạp, VD nđoạn trích Uylitxo trvề. Xuyên suốt đoạn
trích là những lời thoại chiếm dung lượng lớn với ngôn từ đầy hoa mỹ
kính cẩn, bộc lộ rõ cảm xúc của các nhân vật như: sự thận trọng
phần nghi ngờ của nàng Penelop trước người chồng trở về sau hai
mươi năm xa cách, sự bất bình của cậu con trai Telemac trước sự tuyt
nh của mẹ mình cả những nỗi niềm chan chứa của Uylitxo khi kể
lOMoARcPSD| 61178690
lại câu chuyện về bí mật của chiếc giường năm xưa, từ đó đoàn tụ tr
lại với vợ con. Những câu từ đầy trang trọng có phần cường điệu y
không chỉ vẽ ra một bức tranh rõ ràng, hoàn chỉnh của cả câu chuyện
còn khiến thiên truyện thêm hồn, đậm chất sử thi, thhin
đưc sphận, tâm tư của từng nhân vật.
Một tác phẩm đậm chất liệu dân gian khác của nhà văn Nguyễn Dữ là
Chuyện người con gái Nam Xương cũng khắc họa nên nhân vật Vũ Thị
Thiết chủ yếu qua lời thoại của nàng: Chàng đi chuyến này, thiếp
chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở
về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình
yên, thế đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn
ờng. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều con gian lao, rồi
thế chẻ tre chưa có mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện
thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ,
lại sửa soạn áo rét, gửi người i xa, trông liễu rủ bãi hoang,
lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín
nghìn hàng cũng sợ không có cánh hồng bay bổng” . Đó là
lời nói của người vợ thùy mị, dịu dàng, đằm thắm, thiết tha
rất mực yêu chồng. Lời dặn ấy xuất phát từ trái tim giàu tình yêu
thương, biết chấp nhận những thử thách, biết đợi chờ để yên
lòng người đi xa. đồng thời còn giúp ta cảm nhận được khát
vọng bình dị của người phụ nữ. Hay như lời độc thoại tc lúc
Nương gieo nh xuống sông: “Kbạc mệnh này duyên
phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng
chịu nhuốc nhơ, thần sông linh, xin ngài chứng giám.
Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước
xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ.
Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin
làm mồi cho tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ xin
chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời độc thoại này một lời
than, một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất
tiết hạnh trong sạch của nàng. Lời thoại đã khẳng định nỗi thất
vọng đến tột cùng, nỗi đau cùng cực ca người phụ nữ với phẩm
giá chung thủy vẹn toàn, không thẹn với lòng nhưng bị ngưi
chồng đầu ấp tay gối nghi oan nên phải tđẩy bản thân đến
đường cùng cái chết. Xây dựng lời thoại của Nương, tác
gicũng lồng vào nhiều điển tích điển cố, ngôn từ uyển chuyển,
cổ kính và cả chất thơ, vừa khắc họa phẩm chất của nhân
vật vừa để lại ấn tượng cho người đọc.
lOMoARcPSD| 61178690
Trong sáng tác của những nhà văn theo chủ nghĩa hiện thực thì lời nói
nhân vật mang nh thể hóa, đi cùng nhu cầu nhận thức tái hiện các
loại ý thức hội khác nhau được thể hiện sống động qua ngôn ngữ nv.
Lời nói nhân vật đến đây không chỉ phản ánh nhân cách mà còn ết lộ về
xuất thân, nét độc đáo của tầng lớp nhân vật cũng như cái nhìn về tầng
lớp y. Như trong tác phẩm CPhèo, không chỉ hành động lời nói của
hắn cũng đều bộc lcon người hắn - một gã quỷ dữ t rượu, hay ăn vạ,
gây sự khiến cả làng Đại chán ghét, ngán ngẩm. Nhưng chính những
lời nói ai oán, đầy xót xa Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm
thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao
không thngười lương thiện nữa…” của hắn trước khi tự kết liễu
đời mình cũng trở thành nét đặc trưng của nhân vật và thể hin mặt tồi
tàn của hội thời by giờ: tha hóa, đy người nông dân hiền lành vào
cảnh bị áp bức, bóc lột đến độ mài mòn hết đạo đức lương tâm, không
còn cách nào quay đầu lại được nữa. Hay như nhân vật Thị trong V
nhặt, ăn nói đành hanh, cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, vì bốn bát bánh
đúc chấp nhận về nhà chồng. Khi Tràng gặp lại Thị, ngay từ câu chào
đầu ên, thị đã tỏ vẻ trách móc như một sự gợi ý về cái ăn "Hôm ấy leo
lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt" và "ăn gì thì ăn chả ăn giầu".
Với thị, kiếm cái gì bỏ vào cái bụng đang kêu réo kia lúc này là quan trọng
hơn cái xã giao "miếng trầu là đầu câu chuyện". Khi anh Tràng hào phóng
"muốn ăn gì thì ăn", "hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên".
Thái đxỉa xói, chao chát của thị biến mất nhường chỗ cho sự đon đ"Ăn
thật nhá! Ừ thì ăn sợ ". Hình thức lời thoại đa dạng: khi là câu hỏi, khi
mặc cả, lúc là lời mắng, lúc lại là lời cảm thán, để người đọc thấy cái thái
độ thay đổi chóng vánh, cái thân phận đói khát bt, thể lập
tức trở mặt miếng ăn. Vậy sau đêm về làm dâu, một câu: “Ừ, sao
nhà biết” đáp lại chồng của Thị tuy vẫn là một câu hỏi, một câu tr
lời nhưng đã không còn tủn mủn, cộc lốc nữa. Tuyệt vời nhất là xuất
hiện txưng "nhà", một txưng đơn giản vậy thôi nhưng
biểu thị cho nghĩa vợ chồng của hai nhân vật. Cuối cùng, Thị lại người
thắp sáng một hi vọng cho cảnh ngộ tăm tối ấy bằng câu chuyện phá
kho thóc Nhật trong bữa cơm chiều ảm đạm.Nhà văn Kim Lân vô cùng
nh tế khi đưa ngôn ngữ sinh hoạt đời thường vào tác phẩm của mình
một cách xuất sắc. Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật trong Vnhặt
đã trở thành những n hiệu thẩm mĩ quan trọng, thông qua đó, người
đọc khám phá được chiều sâu tâm lý của con người, nh người trong
nạn đói khủng khiếp năm 1945.
lOMoARcPSD| 61178690
=> Từ đó ta thể thy, ngôn ngữ nhân vật cũng góp phần lớn vào nội
dung tác phẩm, thể hiện tư tưởng của nhà văn và thời đại.
- Ngôn ngữ nhân vật đối thoại hay độc thoại nh huống được tạo
nên từ lời thoại của nhân vật những yếu tố quan trọng để hình thành
sự lý giải về hình tượng nhân vật, bày tỏ ý đồ nghệ thuật khi xây dựng
nhân vật của tác giả và đóng góp vào giá trị ngôn từ của tác phẩm. Có
thkhông xuất hiện đầu ên như tên nhân vật hay ấn tượng như hành
động của nhân vật nhưng đây cũng chìa khóa nghthuật đkhám
phá các mối quan hệ của nhân vật trong văn bản văn học, từ đó liên hệ
với chính ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng trong mọi hoàn cảnh.
Giới thuyết: Cổ ch (tự sự, viết gì, mục đích, yếu tố nổi bật) .
1. Phân loại: loài vật, thế sự, thần k, (khái niệm, nhân vật trung tâm,
câu chuyện, ý nghĩa) 2. ND tư tưởng
3. Thi pháp:
- Không gian thời gian
- Thế gii nv có đặc điểm gì (chưa có thế gii nh thần => ko còn là cổ
ch nữa)

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61178690 •
"Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn học là lời nói của nhân vật trong
các tác phẩm văn học thuộc loại hình tự sự và kịch... Ngôn ngữ nhân vật
là một trong các phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể
hiện cuộc sống và cá tính nhân vật" (Từ điển thuật ngữ văn học) .
Lời nói
của nhân vật trong tác phẩm văn học là hình thức giao tiếp thường xuyên,
phổ biến nhất của ngôn ngữ, đồng thời cũng là hình thức căn bản của mọi
hoạt động ngôn ngữ khác. Lời nói của nhân vật trong tác phẩm tự sự là
một công cụ hữu hiệu giúp nhà văn khắc họa tính cách nhân vật, tạo nên
"lời ăn tiếng nói riêng" của mỗi nhân vật, truyền tải ý đồ nghệ thuật mà
nhà văn gửi gắm vào trong cốt truyện. •
Khi xây dựng nhân vật, nhà văn thường chú ý làm nổi bật lời nói (ngôn
ngữ) của nhân vật, và thống nhất với lời nói là hành động cùng các tình
huống tâm lý cụ thể đặt nhân vật vào để thể hiện đặc điểm ngôn ngữ của nhân vật ấy. •
Sử thi, tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn chứa lượng lớn lời đối thoại
và độc thoại của nhân vật. Còn trong kịch chúng chiếm ưu thế tuyệt đối.
Tuy nhiên tính chất và dung lượng của những lời thoại này là khác nhau,
phụ thuộc vào thể loại, thời đại ra đời của tác phẩm cũng như cá tính sáng tạo của nhà văn. •
Trong tp tự sự dân gian, lời nói nhân vật có ý nghĩa thực tế, rõ ràng, báo
hiệu hành động kế tiếp. VD: trong Tấm Cám, khi Cám lừa chị để chiếm
đoạt giỏ tép đã thẳng thừng “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp
cho sâu kẻo về mẹ mắng.”
Lời nói nói của ả thể hiện sự ranh mãnh, lừa
lọc, dối trá để cướp công chị, đánh vào tâm lý của Tấm biết Tấm sợ bị dì
ghẻ mắng. Hay mụ dì ghẻ khi thấy Tấm đi thử giày cũng chỉ nói “Chuông
khánh còn chẳng ăn ai nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre.”
cùng với
biểu cảm bĩu môi nhưng cũng đủ để diễn tả sự khinh thường người con
riêng của chồng khi so sánh Tấm với “mảnh chĩnh” - một vật vô giá trị. Các
lời thoại đa số đều rất ngắn gọn nhưng vẫn có sức gợi. •
Trong sử thi hay bi kịch cổ đại, lời nói nhân vật lại trở nên hoa mỹ, trịnh
trọng, dài dòng, dường như không chỉ nói cho mình mà còn nói cho cả nỗi
niềm của người sáng tạo, khơi gợi sâu sâu sắc hơn về mặt tâm lý nhân vật
và cả sự đồng cảm của người đọc. Điều này có thể được nhận thấy ở các
tp thuộc Sử thi Hy Lạp, VD như đoạn trích Uylitxo trở về. Xuyên suốt đoạn
trích là những lời thoại chiếm dung lượng lớn với ngôn từ đầy hoa mỹ
và kính cẩn, bộc lộ rõ cảm xúc của các nhân vật như: sự thận trọng và
có phần nghi ngờ của nàng Penelop trước người chồng trở về sau hai
mươi năm xa cách, sự bất bình của cậu con trai Telemac trước sự tuyệt
tình của mẹ mình và cả những nỗi niềm chan chứa của Uylitxo khi kể lOMoAR cPSD| 61178690
lại câu chuyện về bí mật của chiếc giường năm xưa, từ đó đoàn tụ trở
lại với vợ con. Những câu từ đầy trang trọng và có phần cường điệu ấy
không chỉ vẽ ra một bức tranh rõ ràng, hoàn chỉnh của cả câu chuyện
mà còn khiến thiên truyện thêm có hồn, đậm chất sử thi, thể hiện
được số phận, tâm tư của từng nhân vật.
Một tác phẩm đậm chất liệu dân gian khác của nhà văn Nguyễn Dữ là
Chuyện người con gái Nam Xương cũng khắc họa nên nhân vật Vũ Thị
Thiết chủ yếu qua lời thoại của nàng: “Chàng đi chuyến này, thiếp
chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở
về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình
yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn
lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều con gian lao, rồi
thế chẻ tre chưa có mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện
thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ,
lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang,
lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín
nghìn hàng cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”
. Đó là
lời nói của người vợ thùy mị, dịu dàng, đằm thắm, thiết tha và
rất mực yêu chồng. Lời dặn ấy xuất phát từ trái tim giàu tình yêu
thương, biết chấp nhận những thử thách, biết đợi chờ để yên
lòng người đi xa. đồng thời còn giúp ta cảm nhận được khát
vọng bình dị của người phụ nữ. Hay như lời độc thoại trước lúc
Vũ Nương gieo mình xuống sông: “Kẻ bạc mệnh này duyên
phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng
chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám.
Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước
xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ.
Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin
làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin
chịu khắp mọi người phỉ nhổ”
. Lời độc thoại này là một lời
than, một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và
tiết hạnh trong sạch của nàng. Lời thoại đã khẳng định nỗi thất
vọng đến tột cùng, nỗi đau cùng cực của người phụ nữ với phẩm
giá chung thủy vẹn toàn, không thẹn với lòng nhưng bị người
chồng đầu ấp tay gối nghi oan nên phải tự đẩy bản thân đến
đường cùng là cái chết. Xây dựng lời thoại của Vũ Nương, tác
giả cũng lồng vào nhiều điển tích điển cố, ngôn từ uyển chuyển,
cổ kính và có cả chất thơ, vừa khắc họa phẩm chất của nhân
vật vừa để lại ấn tượng cho người đọc. lOMoAR cPSD| 61178690 •
Trong sáng tác của những nhà văn theo chủ nghĩa hiện thực thì lời nói
nhân vật mang tính cá thể hóa, đi cùng nhu cầu nhận thức tái hiện các
loại ý thức xã hội khác nhau được thể hiện sống động qua ngôn ngữ nv.
Lời nói nhân vật đến đây không chỉ phản ánh nhân cách mà còn tiết lộ về
xuất thân, nét độc đáo của tầng lớp nhân vật cũng như cái nhìn về tầng
lớp ấy. Như trong tác phẩm Chí Phèo, không chỉ hành động mà lời nói của
hắn cũng đều bộc lộ con người hắn - một gã quỷ dữ nát rượu, hay ăn vạ,
gây sự khiến cả làng Vũ Đại chán ghét, ngán ngẩm. Nhưng chính những
lời nói ai oán, đầy xót xa “Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm
thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao
không thể là người lương thiện nữa…”
của hắn trước khi tự kết liễu
đời mình cũng trở thành nét đặc trưng của nhân vật và thể hiện mặt tồi
tàn của xã hội thời bấy giờ: tha hóa, đẩy người nông dân hiền lành vào
cảnh bị áp bức, bóc lột đến độ mài mòn hết đạo đức và lương tâm, không
còn cách nào quay đầu lại được nữa. Hay như nhân vật Thị trong “Vợ
nhặt”, ăn nói đành hanh, cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, vì bốn bát bánh
đúc mà chấp nhận về nhà chồng. Khi Tràng gặp lại Thị, ngay từ câu chào
đầu tiên, thị đã tỏ vẻ trách móc như một sự gợi ý về cái ăn "Hôm ấy leo
lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt"
"ăn gì thì ăn chả ăn giầu".
Với thị, kiếm cái gì bỏ vào cái bụng đang kêu réo kia lúc này là quan trọng
hơn cái xã giao "miếng trầu là đầu câu chuyện". Khi anh Tràng hào phóng
"muốn ăn gì thì ăn", "hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên"
.
Thái độ xỉa xói, chao chát của thị biến mất nhường chỗ cho sự đon đả "Ăn
thật nhá! Ừ thì ăn sợ gì
"
. Hình thức lời thoại đa dạng: khi là câu hỏi, khi
mặc cả, lúc là lời mắng, lúc lại là lời cảm thán, để người đọc thấy cái thái
độ thay đổi chóng vánh, cái thân phận đói khát cù bơ cù bất, có thể lập
tức trở mặt vì miếng ăn. Vậy mà sau đêm về làm dâu, một câu: “Ừ, sao
nhà biết” đáp lại chồng của Thị tuy vẫn là một câu hỏi, một câu trả
lời nhưng đã không còn tủn mủn, cộc lốc nữa. Tuyệt vời nhất là xuất
hiện từ xưng hô "nhà", một từ xưng hô đơn giản vậy thôi nhưng nó
biểu thị cho nghĩa vợ chồng của hai nhân vật. Cuối cùng, Thị lại là người
thắp sáng một hi vọng cho cảnh ngộ tăm tối ấy bằng câu chuyện phá
kho thóc Nhật trong bữa cơm chiều ảm đạm.Nhà văn Kim Lân vô cùng
tinh tế khi đưa ngôn ngữ sinh hoạt đời thường vào tác phẩm của mình
một cách xuất sắc. Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật trong Vợ nhặt
đã trở thành những tín hiệu thẩm mĩ quan trọng, thông qua đó, người
đọc khám phá được chiều sâu tâm lý của con người, tình người trong
nạn đói khủng khiếp năm 1945. lOMoAR cPSD| 61178690
=> Từ đó ta có thể thấy, ngôn ngữ nhân vật cũng góp phần lớn vào nội
dung tác phẩm, thể hiện tư tưởng của nhà văn và thời đại.
- Ngôn ngữ nhân vật dù đối thoại hay độc thoại và tình huống được tạo
nên từ lời thoại của nhân vật là những yếu tố quan trọng để hình thành
sự lý giải về hình tượng nhân vật, bày tỏ ý đồ nghệ thuật khi xây dựng
nhân vật của tác giả và đóng góp vào giá trị ngôn từ của tác phẩm. Có
thể không xuất hiện đầu tiên như tên nhân vật hay ấn tượng như hành
động của nhân vật nhưng đây cũng là chìa khóa nghệ thuật để khám
phá các mối quan hệ của nhân vật trong văn bản văn học, từ đó liên hệ
với chính ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng trong mọi hoàn cảnh.
Giới thuyết: Cổ tích (tự sự, viết gì, mục đích, yếu tố nổi bật) .
1. Phân loại: loài vật, thế sự, thần kỳ, (khái niệm, nhân vật trung tâm,
câu chuyện, ý nghĩa) 2. ND tư tưởng 3. Thi pháp: - Không gian thời gian
- Thế giới nv có đặc điểm gì (chưa có thế giới tinh thần => ko còn là cổ tích nữa)