

















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61184739
Câu 1: Quá trình hình thành và phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam
Trước khi tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam thì ta
cần tìm hiểu về khái niệm của “văn học thiếu nhi”
Từ điển thuật ngữ văn học Của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi ( chủ biên, NXB đại
học quốc gia hà nội 1998 tr342) định nghĩa: “Văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học
hoặc phổ cập khoa học riêng cho thiếu nhi… Khái niệm văn học thiếu nhi Cũng thường bao
gồm một phạm vi rộng rãi. Những tác phẩm văn học thông thường( cho người lớn) đã đi vào
phạm vi đọc của thiếu nhi.
Vân Thanh, Nguyên An trong Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam (Nxb Từ điển bách
khoa, Hà Nội 2002, tr6) quan niệm :”Văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học được sáng
tạo ra với mục đích giáo dục, Bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm
của nó là thiếu nhi có thể là người lớn hoặc là một cơn gió, một loài vật, một đồ vật hay một
cái cây… Tác giả của văn học thiếu nhi không chỉ là chính các em mà cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi”
Có thể thấy không có định nghĩa văn học thiếu nhi duy nhất hoặc được sử dụng rộng rãi. Khái
niệm hay định nghĩa về văn học thiếu nhi là do các nhận định chủ quan của các nhà nghiên
cứu đưa ra. Nếu như thuật ngữ văn học thiếu nhi trong từ điển thuật ngữ văn học vẫn chưa
đưa ra một khái niệm hay nhận định cụ thể về văn học thiếu nhi mà chỉ giới hạn những loại
tác phẩm được coi là văn học thiếu nhi bao gồm cả những tác phẩm không thuộc về văn học
mà được coi là khoa học phổ cập Thì bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam lại quan niệm
về văn học thiếu nhi tương đối rộng. Khái niệm văn học thiếu nhi được nhìn nhận ở nhiều góc
độ: chủ thể sáng tạo nhân vật trung tâm,mục đích sáng tác, chủ thể sáng tạo, đối tượng tiếp
nhận. Trong nhiều cách diễn giải về văn học thiếu nhi tôi đã rút ra được cách hiểu chung nhất như sau:
Thứ nhất về đối tượng tiếp nhận văn học thiếu nhi là những sáng tác thơ hoặc văn xuôi dành
riêng cho thiếu nhi, nhi đồng. Thứ hai về lực lượng sáng tác tác giả văn học thiếu nhi có thể là
người lớn hoặc là chính các em. Thứ ba về nội dung sáng tác văn học thiếu nhi có nội dung cụ
thể sinh động chân thực phù hợp với tâm lý thị hiếu của thiếu nhi. Thứ tư về hình thức nghệ
thuật văn học thiếu nhi có bố cục mạch lạc, rõ ràng ngôn ngữ giản dị, trong sáng ,dễ hiểu, giàu chất tưởng tượng.
1. Thời kì trước Cách mạng tháng Tám 1945
Văn học thiếu nhi Việt Nam thực sự được hình thành và phát triển với 4 cách là một bộ phận
của văn học Việt Nam từ khi cách mạng tháng tám 1 9 4 5 thành công nhưng sự chuẩn bị thì đã có từ trước đó
Nhìn chung, trong chế độ phong kiến, ở nước ta chưa có sáng tác văn học cho trẻ em. lOMoAR cPSD| 61184739
Mãi đến đầu thế kỉ XX, dưới chế độ thực dân phong kiến, qua những cuộc cách tân văn học
theo xu hướng hiện đại hoá, văn học cho trẻ em mới bắt đầu được chú ý. Một số tác phẩm
văn học nước ngoài như thơ ngụ ngôn của La Phôngten (Jean de La Fontaine), truyện ngắn
Peron đã được dịch sang tiếng Việt. Ngoài ra, người ta còn cho xuất bản loại sách "Livre
dupetit" (sách cho trẻ em bằng tiếng Pháp) để rèn tiếng Pháp cho các em. Tản đà có lên 6, lên
8 viết cho lứa tuổi nhi đồng và được dùng làm sách giáo khoa
Vào những năm 1930, văn học dành cho trẻ em đã trở nên đa dạng hơn.Trên sân khấu văn học
xuất hiện hai xu hướng chính: Nhóm Tư lực văn đoàn phát hành những tác phẩm như Hoa
hồng, Hoa mai, Hoa xuân, Tuổi xanh, và Truyền áo ,… Mặc dù vậy, nỗ lực của Tư lực văn đoàn
vẫn chỉ ở mức nhất định, các tác phẩm này chủ yếu phản ánh cuộc sống của trẻ em thành phố,
và tách biệt với thực trạng khó khăn của người lao động. Sự giới hạn của những cuốn sách
này, đặc biệt là Sách hồng trong giai đoạn đầu, đã đối mặt với nhiều ý kiến phê bình mạnh mẽ,
thậm chí cực đoan. Một ví dụ điển hình là vào tháng 12 năm 1939, trên tờ Ngày nay đã đăng
bài nhận xét về “Văn chương Sách hồng An Nam” như sau: “Vì không có loại sách riêng cho
các em, nên tuy các em còn nhỏ tuổi đã phải say mê đọc những quyển Thuyền tình bể ái, Làm
đĩ, Người Đàn bà trần truồng…”
Mặc dù biết ở đây người ta đã bắt đầu soạn sách cho trẻ nhưng công việc đó chỉ phục vụ mục
đích thương mại và những người cầm đầu tỏ ra không một chút lương tâm và những tập sách
kia rất khô khan nghèo nàn đến nỗi không đáng mất công nói tới. Khi đó các nhà văn thuộc xu
hướng hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Nam Cao, Tú Mỡ…đã có ý thức viết cho các
em một cách hiện thực hơn.
Nam Cao đã sáng tác nhiều câu chuyện dành cho trẻ em. Xu hướng hiện thực trong các tác
phẩm của ông thể hiện rất rõ ràng. Ông tập trung vào những nỗi đau khổ và bất hạnh của
những đứa trẻ xuất thân từ gia đình nghèo, như trong các tác phẩm: Bảy bông lúa lép (1937),
Người thợ rèn (1940) , Con mèo mắt ngọc(1942), Ba người bạn (1942), Bài học quét nhà
(1942), Những kẻ khốn nạn(1942), Thần lửa (1943) . Nhân vật chính trong những câu chuyện
này thường là những trẻ em nghèo khó, bị xã hội bỏ rơi, đi làm mướn nhưng vẫn không đủ sống.
Tô hoài dùng hình thức đồng thoại để tiếp cận đến những vấn đề lớn trong xã hội (vượt qua
được sự kiểm duyệt gắt gao của nhà cầm quyền lúc đó) góp phần giáo dục nếp sống lành mạnh
cho thiếu nhi, ví dụ: Lá thư rơi, Võ sĩ bọ ngựa…trong đó dế mèn phiêu lưu ký là tác phẩm xuất
sắc được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tô Hoài có tác phẩm “Đám cưới chuột” là một
truyện ngắn kể về cuộc sống và mưu kế của loài chuột. Câu chuyện xoay quanh việc nhà chuột
tổ chức đám cưới cho con trai, nhưng để đám cưới diễn ra an toàn, họ phải dâng lễ cho mèo
- kẻ thống trị trong thế giới của chúng. Gia đình chuột phải nỗ lực chuẩn bị hai lễ vật: cá rán
và chim bồ câu để hối lộ mèo. Qua đó, Tô Hoài mượn hình ảnh nhân hóa của loài chuột để
phê phán xã hội bất công, nơi kẻ yếu luôn bị kẻ mạnh áp bức và bóc lột.. Tuy cốt truyện còn
khá đơn giản nhưng đã dạy trẻ bài học về sự đoàn kết và mưu trí để vượt qua khó khăn, đồng
thời giúp các em nhận thức về sự bất công trong cuộc sống qua lăng kính hài hước, sinh động. lOMoAR cPSD| 61184739
Bác Hồ cũng viết 1 số bài thơ cho các em: Trẻ chăn trâu (1941), Kêu gọi thiếu nhi (1941), trong
đó bác nêu lên nỗi thống khổ của trẻ em Việt Nam. Bác chỉ rõ kẻ thù của dân tộc và vạch rõ
nhiệm vụ cho mọi người nói chung trẻ em nói riêng
Nhìn chung trước Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam mới xuất hiện những tác phẩm viết
cho thiếu nhi lẻ tẻ chứ chưa thực sự có phong trào sáng tác cho các em.
2. Thời kì kháng chiến chống Pháp (1945-1954)
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Bác Hồ, đã chú
ý quan tâm để phát triển nền văn học dành riêng cho trẻ em. Đây là giai đoạn đánh dấu sự ra
đời cùng những thành tựu đầu tiên của văn học cho trẻ em dưới chế độ mới. Tờ Thiếu sinh –
tiền thân của báo Thiếu niên Tiền phong đã ra số đầu tiên năm 1946. Ngay trong số này, Bác
Hồ đã có chỉ thị rõ ràng: "Báo trẻ em ra đời. Báo đó là báo của trẻ em. Vậy các trẻ em nên giúp
cho báo, gửi tin tức, tranh vẽ và viết bài cho báo. Nên đọc cho các em chưa biết chữ nghe,
nên làm cho báo phát triển". Tháng 12/1946, báo Thiếu sinh đã ra số đặc biết với chủ đề "Các
em viết, các em vẽ". Mặc dù sáng tác của các em còn đơn giản, sơ lược nhưng đây chính là cái
mốc quan trọng trong lịch sử văn học thiếu nhi nước nhà. Các em đã được tham gia sáng tác,
được trực tiếp nói lên những suy nghĩ, tình cảm của mình trong lĩnh vực văn học nghệ thuật.
bên cạnh rất nhiều việc lớn của đất nước lúc bấy giờ, Đảng và Bác Hồ đã đặc biệt quan tâm
tới vấn đề sáng tác văn nghệ phục vụ thiếu nhi. Bác đã nêu một tấm gương sáng trong việc
viết cho các em. Những bài thơ của Bác như: Khen tặng hai cháu liên lạc trong bộ đội chiến
khu II (1947), Thư Trung thu (1952), Gửi các cháu nhi đồng nhân dịp tết Trung thu (1953),... đã
thể hiện rõ tính mục đích và phương châm của sáng tác văn học thiếu nhi lúc bấy giờ.
Ngoài Nhật báo Tuổi trẻ còn có các sách, báo như Nhật báo Thanh niên,Nhật báo tình nguyện,
Nhật báo Măng Non, Cậu bé vàng, Hoa kháng chiến...Những cuốn sách, tờ báo này thực sự đã
trở thành người bạn thân thiết của các em và góp phần tích cực vào việc nuôi dưỡng tinh thần
tốt đẹp. Phẩm chất thiếu nhi và những tình cảm cao đẹp đã trở thành vốn quý nhất của văn học thiếu nhi.
Năm 1948, Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam được thành lập và tổ chức chuỗi hoạt động học
tập cho trẻ em do nhà văn Tô Hoài và Bí thư Trung ương đoàn Hồ Trúc chủ trì. Nhà xuất bản
Vân nghệ nỗ lực xuất bản cuốn sách dành cho thiếu nhi mang tên "sách
Kim Đồng". Mục đích của sách Kim Đồng là phấn đấu thực hiện lời dặn cuối cùng của Bác Hồ
"để trẻ em biết yêu quê hương, yêu đồng bào, lao động kế hoạch, bảo vệ Tổ quốc". lợi ích
quốc gia." Chấp hành kỷ luật, chú ý giữ gìn vệ sinh, học hỏi văn hóa... Nội dung chính của cuốn
sách là làm gương cho những người con trai, con gái dũng cảm của cuộc kháng chiến chống
Nhật. Tuy nội dung đơn giản, hình hức thô sơ (sách giấy) nhưng những tác phẩm này đã có vai
trò nhất định trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm yêu nước, phản chiến của các bạn.Cuốn
sách của Kim Đồng là gợi ý cho việc thành lập Nhà xuất bản Kim Đồng sau này. lOMoAR cPSD| 61184739
Tóm lại, đây là sự khởi đầu của văn học thiếu nhi Việt Nam. Dù hoàn cảnh khó khăn nhưng kết
quả trên là sự ghi nhận cho sự nỗ lực của chúng tôi.Điều đó chứng tỏ văn học viết cho thiếu
nhi có tính chất rất cơ bản và có điều kiện phát triển trong tương lai
3. Thời kì miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam kháng chiến chống Mĩ (1955- 1964).
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, đế quốc Mỹ đã hợp tác với bọn tay
sai phản động để can thiệp vào miền Nam Việt Nam nhằm duy trì sự chia rẽ lâu dài của đất
nước. Do đó, miền Nam phải thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, miền Bắc vào thời kì
khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ hòa bình ở miền Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của văn học thiếu
nhi. Một tiểu ban Văn học thiếu nhi thuộc Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật đã được thành
lập. Vào ngày 17 tháng 6 năm 1957, Nhà xuất bản kim Đồng chính thức ra đời, đánh dấu một
giai đoạn mới trong sự phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam. Công tác sáng tác văn học
cho lứa tuổi thiếu nhi đã thu hút sự quan tâm từ nhiều ngành nghề khác nhau. Lúc này, việc
tập hợp và ổn định lực lượng các tác giả viết cho trẻ em là rất cần thiết. Nhà xuất bản cũng đã
phát động phong trào sáng tác về cuộc kháng chiến chống Pháp, ví dụ.: “ Đất rừng phương
Nam (1957) của Đoàn Giỏi, Hai làng Tà Pình và Động Hía (1958) của bắc Thôn, Em bé bên bờ
sông Lai Vu (1958) của Vũ Cao, Cái Thăng (1961) của Võ Quảng…”.Các tác phẩm này đã tập
trung vào nhân vật trẻ em, thể hiện cuộc sống hàng ngày và sự đóng góp của các em trong
cuộc đấu tranh giành độc lập.
Đặc biệt “Vừ A Dính” là một truyện ngắn nổi bật của Tô Hoài, kể về nhân vật Vừ A Dính, một
cậu bé dân tộc Mông ở vùng Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Vừ A Dính tuy nhỏ
tuổi nhưng dũng cảm, mưu trí và sẵn sàng tham gia cách mạng. Cậu làm liên lạc viên, dẫn
đường cho bộ đội, góp phần quan trọng trong chiến đấu. Truyện khắc họa tinh thần yêu nước,
lòng trung thành và sự hy sinh cao cả của những con người bình dị trong kháng chiến. Truyện
mang đến ý nghĩa giáo dục sâu sắc cho thiếu nhi, khơi gợi lòng yêu nước, lòng dũng cảm và tinh thần trách nhiệm
Trong lĩnh vực đề tài lịch sử, có thể kể đến các tác phẩm như " Lá cờ thêu sáu chữ vàng " và "
Kể chuyện Quang Trung " của Nguyễn Huy Tưởng, " Sóng gió Bạch. Đằng " cùng " Bố cái đại
vương " của An Cương, " Nhụy Kiều tướng quân "của Yến Hồng, " Hoài Ban " và " Chọn soái
" của Quách Thọ; bên cạnh đó còn có" Tướng quân Nguyễn Chích và Quận He khởi nghĩa " do Hà Ân thực hiện,…
Trong lĩnh vực thơ ca, đã có một đội ngũ tác giả đông đảo với những cái tên nổi bật như:
Vũ Ngọc Bình, Huy Cân, Nguyễn Bá Dâu, Bảo Định Giang, Thanh Hải, Tế Hanh, Phạm Hổ, Thái
Hoàng Linh, Võ Quảng, Xuân Tửu, Nhược Thủy , Phương Hoa,... và họ đã cho ra mắt những
tập thơ đặc sắc như " Thấy cái hoa nở " (Võ Quảng) và " Những người bạn nhỏ " (Phạm Hổ). lOMoAR cPSD| 61184739
Ở thời điểm này, văn học cho trẻ em tại Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể và rất phong
phú. Dựa trên nền tảng đó, năm 1961, Nhà xuất bản Văn học phát hành Tuyển tập thơ văn cho
thiếu nhi giai đoạn 1945 – 1960, giới thiệu 50 tác giả. Đây là tuyển tập đầu tiên ghi nhận
những thành tựu ban đầu của văn học thiếu nhi tại Việt Nam. Trong phần giới thiệu mang tên
" Con đường phát triển của phong trào sáng tác cho thiếu nhi ", nhà văn Tô Hoài đã chia sẻ
rằng:“Tuyển tập này cũng là một cái nền, một cuốn lịch thì đúng hơn…Trên nền thời gian và
lịch sử ấy đã nổi hình cho các em ta hồn nhiên và cần cù, tươi vui mà nhẫn nại chiến đấu, học
tập và lao động. Khung cảnh và con người thiếu nhi Việt Nam thật trong sáng, tràn đầy đức
tính lạc quan đáng yêu của con em chúng ta”
4. Thời kì cả nước kháng chiến chống Mỹ (1965-1975)
Văn học thiếu nhi ở giai đoạn này phát triển mạnh, có nhiều cây bút tài năng, nhiều tác phẩm
có giá trị và thực sự là một lực lượng lớn góp phần biểu dương, khích lệ những tấm gương
sáng trong học tập và chiến đấu. Nhiều tuyển tập đã xuất hiện như Hai bàn tay chiến sĩ (tuyển
tập chọn lọc về đề tài kháng chiến chống Pháp); Dòng nước xiết (Tập truyện ngắn và ký về đề
tài miền Bắc chống Mỹ); Măng tre (Tuyển tập thơ của Võ Quảng 1971) ... các đề tài cũng được
mở rộng phát triển hết sức phong phú.
Có lẽ đề tài về cuộc sống, học tập và lao động của trẻ em ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa là phong
phú nhất. Trước đây, chủ đề này còn khá mờ nhạt, nhưng giờ đã có những tác phẩm nổi bật
như Chú bé sợ toán (1965) của Hải Hồ, Mái trường thân yêu của Lê Khắc Hoan, Năm thứ
nhất (1965) của Minh Giang, Những tia nắng đầu tiên (1971) của Lê
Phương Liên, Hoa cỏ đẳng của Nguyễn thị Như Trang, Tập đoàn san hô của Phan Thị Thanh
Tú, và Trận chung kết (1975) của Khánh Hoà... Những tác phẩm này nói về nhà trường và kỷ
niệm vui buồn của tuổi học trò.
Sự phát triển mạnh mẽ của loại truyện về con người mới (truyện về người thật, việc thật) dưới
nhiều dạng khác nhau là một sự kiện đáng chú ý của văn học cho trẻ em giai đoạn này. Truyện
đồng thoại phát triển mạnh với những tác phẩm Chú gà trống Choai của Hải Hồ; Cô Bê 20 của
Văn Biển ... với nhiều chất thơ vừa bay bổng, vừa hiện thực. Đặc biệt với truyện Cô Bê 20,
thông qua cuộc sống của một cô bê con trên nông trường Ba Vì, Văn Biền đã khắc họa được
những phẩm chất tuyệt vời của người anh hùng lao động Hồ Giáo.
Mảng sách khoa học được hình thành và phát triển nhờ vào sự đóng góp của những người
làm công tác khoa học và các nhà văn tâm huyết với mảng đề tài này như Viết Linh với Ông
than đá và Quả trứng vuông; Vũ Kim Dũng với Cô kiến trinh sát; Thế Dũng với Thảm xanh trên
ruộng; Hoàng Bình Trọng với Bí mật một khu rừng; Phan Ngọc Toàn với Đỉnh núi nàng Ba ...
đây là thời kỳ phát triển rực rõ nhất của mảng đề tài này, sau đó nó dần dần bị thu hẹp, cho
mãi tới những năm 2000 mới bắt đầu được khôi phục lại.
Thơ cho trẻ em tiếp tục phát triển mạnh. Bên cạnh những tên tuổi quen thuộc như Phạm
Hổ, Võ Quảng, Vũ Ngọc Bình, Thi Ngọc, Quang Huy ... còn có thêm Định Hải, Xuân lOMoAR cPSD| 61184739
Quỳnh, Ngô Viết Dinh, Trần Nguyên Đào, Thanh Hào với những tập thơ tiêu biểu như Măng
tre (Võ Quảng); Chú bò tìm bạn (Phạm Hổ); Chồng nụ, chồng hoa (Định Hải); Mầm bé (Ngô
Viết Dinh) ... Đặc biệt, cũng trong thời kỳ này nổi lên hiện tượng các em bé làm thơ với những
tên tuổi nổi bật như Trần Đăng Khoa, Cẩm thơ, Hoàng Hiếu Nhân, Chu Hồng Qúy, Nguyễn
Hồng Kiên ... mở đầu cho phong trào sáng tác của các em.
5. Thời kỳ đất nước thống nhất và đội mới (sau 1975)
Văn học phản ánh xã hội thông qua cá nhân nhà văn, từ sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhất
là từ thời kỳ đổi mới đã có những biến đổi to lớn và sâu sắc toàn diện. Văn học viết cho trẻ
em giai đoạn này đã có sự phát triển mạnh và phong phú, đa dạng cùng với sự phát triển
chung của nền văn học dân tộc, tuy có tính độc lập nhưng cũng có mối quan hệ mật thiết với
sự phát triển của xã hội. Nhìn một cách khái quát, có thể chia quá trình phát triển của văn học
thiếu nhi sau 1975 làm hai giai đoạn: giai đoạn 1975 – 1985 và giai đoạn từ 1986 đến nay. Hai
giai đoạn này được đánh dấu bằng mốc Đại hội Đảng VI. Đại hội Đảng VI đã tạo điều kiện cho
các nhà văn cũng như công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước. Tuy nhiên vấn đề đổi mới
không phải diễn ra đột ngột, ngay lập tức mà sự vận động của nó là cả quá trình. Qua mỗi
chặng đường, văn học thiếu nhi có những nét đặc trưng riêng nhưng quá trình phát triển của
nó luôn luôn có sự kế thừa nhất định những thành tựu của giai đoạn trước. Vì vậy, sự chia
tách ở đây cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối.
6. Giai đoạn 1975-1986: Những kiếm tìm và sự chuẩn bị cho đổi mới
Đề tài kháng chiến chống thực dân Pháp vẫn chiếm ưu thế. Võ Quảng viết Tảng sáng vẫn tiếp
nối mạch cảm xúc của Quê nội). Đó là cảm hứng ca ngợi quê hương đất nước và ngợi ca cách
mạng mà Phong Lê gọi là “mạch trữ tình cách mạng”. Ở đề tài này còn có Cơn giông tuổi thơ
của Thu Bồn, Đội thiếu niên tình báo Bát Sắt của Phạm Thắng ...
Đề tài kháng chiến chống Mỹ có Hồi đó ở Sa Kỳ của Bùi Minh Quốc, Cát cháy của Thanh Quế
... những tác phẩm này đã mạnh dạn viết về những đau thương, tổn thất nặng nề trong chiến
tranh – điều mà trước đây người ta rất ngại nói với các em. Có nhiều tác phẩm được viết trong
cảm hứng day dứt về “một thời đạn bom” với lớp lớp trẻ em “mang mũ rơm đi học đường
dài”, những em bé từ thành phố sơ tán về nông thôn, phải tự lập, lo toan đủ bề như Ngôi nhà
trống của Quang Huy, Hoa cỏ đắng của Nguyễn Thị Như Trang, Những tia nắng đầu tiên của
Lê Phương Liên ... với lối kể chuyện nặng về hồi tưởng, kỷ niệm, lời kể dung dị và thiết tha, các
tác phẩm này đã gợi lại “một thời để nhớ” thật cảm động và đáng trân trọng của tình thầy trò,
tình bạn bè trong những năm chống Mỹ.
Viết về cuộc sống mới khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất, các nhà văn chú ý nhiều tới vấn
đề đạo đức của con người. Những tác phẩm như Tình thương của Phạm Hổ, Bến tàu trong
thành phố của Xuân Quỳnh, Chú bé có tài mở khóa của Nguyễn Quang Thân, Hành trình ngày
thơ ấu của Dương Thu Hương ... có thể coi là những tác phẩm xung kích đã mạnh dạn phanh lOMoAR cPSD| 61184739
phui những tiêu cực của xã hội với những cái xấu, cái lạc hậu và sự nhỏ nhen, đố kị trong
những suy nghĩ của con người.
Đề tài lịch sử rất phát triển ở giai đoạn trước thì đến bây giờ hầu như chững lại. Các tác giả
chuyên viết truyện lịch sử trước đây như Nguyễn Đức Hiền, Hà Ân, Lê Vân, An Cương ... thường
khai thác lịch sử gắn với các nhân vật anh hùng và truyền thống anh dũng chống giặc ngoại
xâm của dân tộc, bây giờ gần như bế tắc. Tô Hoài mở ra một hướng khai thác mới, hướng khai
thác lịch sử gắn với huyền thoại, phong tục và văn hóa và ông đã khá thành công với Đảo
hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà chử ...
Trong khoảng mười năm sau cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, văn học nói chung và văn
học thiếu nhi nói riêng đang trong giai đoạn trăn trở, tìm tòi. Mảng thơ viết cho các em gần
như bế tắc. Riêng về truyện tuy đã có những dấu hiệu mới, nhưng chưa tạo ra được một biến
chuyển rõ ràng. Tuy nhiên, những dấu hiệu đổi mới này là bước khởi đầu, có ý nghĩa lớn cho
việc đổi mới đồng loạt của văn học thiếu nhi trong giai đoạn tới – giai đoạn văn học nước ta
bước vào thời kỳ biến đổi to lớn và sâu sắc, toàn diện.
7. Giai đoạn 1986 đến nay
Đại hội Đảng lần thứ VI đã thực sự đem lại niềm tin và sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân,
đem lại một không khí mới cho văn học nói chung và văn học thiếu nhi nói riêng. Trong thời
kỳ này đã có sự mở rộng đề tài cũng như hướng tiếp cận đời sống và khả năng khám phá con
người. Thời kỳ trước đây, truyện viết cho thiếu nhi tiếp cận trẻ em trên phương diện đời sống
cộng đồng, đời sống lịch sử, các đề tài thường được phân chia rất rạch ròi. Các nhà văn tiếp
cận trẻ em trong tính chỉnh thể của một nhân cách bị tác động từ nhiều hướng, nhiều chiều,
vì thế, đề tài cũng có sự nhòe lẫn, mỗi tác phẩm không phải chỉ có một đề tài duy nhất. Văn
học đi vào đời sống xã hội nhiều mặt, các hướng quan tâm của sáng tác và tiếp cận trẻ em
cũng đa dạng, phong phú hơn. Truyện viết cho thiếu nhi với đặc trưng riêng của nó vẫn đặc
biệt coi trọng chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, thể hiện tính nhân bản sâu sắc của
văn học dành cho trẻ em.
Nhìn chung, đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi từ sau năm 1975 đã phát triển thật hùng hậu.
Nó chứng tỏ tính chuyên nghiệp của bộ phận sáng tác cho các em. Và cũng vì vậy mà chưa bao
giờ, văn học thiếu nhi Việt Nam lại phát triển phong phú và đa dạng như ở thời kì này. Sáng
tác cho các em ngày càng có sự mở rộng đề tài cũng như hướng tiếp cận đời sống, tiếp cận trẻ
em và khả năng khám phá con người. Đề tài cách mạng và kháng chiến bên cạnh việc kế thừa
và phát huy những thành tựu cũ, còn có sự nhìn nhận và khai thác vấn đề ở chiều sâu mới,
thực hơn, toàn diện hơn, ví dụ: Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, Ngày xưa và bây giờ bạn ở
đâu của Trấn Thiên Hương.... Ý nghĩa nhân văn của tác phẩm đã hướng về những số phận,
những sự thật, đôi khi bị đất. Các tác giả không chỉ đề cập tới bom rơi, đạn nổ, mà còn phản
ánh đời sống tinh thần, nhân cách của con người khi đối mặt với sự khốc liệt của cuộc chiến.
Trong chiến tranh không chỉ xuất hiện cái hùng mà còn có cả cái bị. Ở đây, khoảng cách giữa lOMoAR cPSD| 61184739
cái sống và cái chết, cái cao cả và cái thấp hèn chỉ là trong gang tấc, có khi, chỉ trong giây phút
mà con người ta làm nên điều kỳ diệu, nhưng cũng có khi chỉ một tích tắc họ đã đánh rơi mình.
Khi chiến tranh qua đi, ý thức “cái tôi” thức dậy, con người ta bỗng có cảm hứng đi tìm lại
mình. Đó cũng là lúc Đảng kêu gọi "đổi mới tư duy”. Từ chỗ lấy điểm nhìn xã hội làm hệ quy
chiếu, văn học chuyển sang cái nhìn đời tư, thế sự, lấy số phân con người để đánh giá hiện
thực và nhìn nhân lại quá khứ. Chính trên cơ sở đó, những tác phẩm viết về ký ức tuổi thơ đã
bùng nổ như một sự tất yếu. Các tác phẩm tiêu biểu là Tuổi thơ im lặng (Duy Khán), Dòng sông
thơ ấu (Nguyễn Quang Sáng), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Tuổi thơ khát vọng ( Vũ Đức Nguyên)…
Viết cho lứa tuổi hoa học trò là mảng đề tài đặc biệt khởi sắc. Thế giới nội tâm sâu kín cùng
với những rung động đầu đời (tình yêu học trò) được các tác giả đề cập tới như là sự phát
triển tất yếu của đặc điểm tâm lí trẻ thơ. Có nhiều tác tác phẩm tiêu biểu như “Bây giờ bạn ở
đâu” và “Cỏ may ngày xưa của Trấn Thiên Hương, Hương sữa đầu mùa” của Lê Cảnh Nhạc;
“Có gì không mà tặng bông hồng” của Hồ Việt Khuê và hàng loạt các truyện dài của Nguyễn
Nhật Ánh như: “Còn chút gì để nhớ. Cô gái đến từ hôm qua, Thẳng quỷ nhỏ, Phòng trọ ba
người,...”. Với những tác phẩm này cùng 45 tập “Kính vạn hoa”, Nguyễn Nhật Ánh được bình
chọn là tác giả tiêu biểu nhất của văn học thiếu nhi Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX. Sang
đầu thế kỉ XXI, Nguyễn Nhật Ánh cho ra mắt bạn đọc bộ truyện dài “Chuyện xứ Lạng-bi-ang”
viết theo lối kể chuyện phù thuỷ, kì bí. Bộ sách là sự thử nghiệm một lối viết mới của nhà văn
đang được các bạn đọc nhỏ tuổi yêu quý. Tiếp nữa là “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ”, vẫn với
lối viết dí dỏm kiểu “Kính vạn hoa”, “Tôi là Bê tô” nhưng dấu ấn tâm trạng tác giả đã in đậm
nét hơn, tâm trạng của con người càng đi xa tuổi thơ càng da diết nhớ về tuổi thơ. Đây là tập
sách được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và được chọn đi dự thi văn học thiếu nhi các
nước Đông Nam Á năm 2010.
Mỗi nhà văn và tác phẩm không chỉ có một giọng điệu; thường có sự y đa dạng. Giai đoạn
trước, cảm hứng sử thi mang lại giọng điệu trang trọng, trong khi hiện nay, với cảm hứng đời
tư – thế sự, cần giọng điệu thân thuộc, bình dị, thậm chí thoải mái. Giọng điệu đóng vai trò
quan trọng trong phong cách của nhà văn. Sau 1975, văn học thiếu nhi có các giọng điệu như
báo chí tin tức phù hợp với nhịp sống hiện đại, giọng suy tư về đời sống cá nhân và xã hội,
cùng giọng trữ tình giàu tính nhân văn. Đặc biệt, giọng nghịch ngợm và hóm hỉnh giúp trẻ em
tiếp cận văn học một cách vui vẻ. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu những tác phẩm thực sự nổi bật,
đặc sắc và tiêu biểu trên trường quốc tế, đòi hỏi sự quan tâm chung của cả xã hội, không chỉ nhà văn
Câu 2: “Tác phẩm văn học viết cho trẻ em là một công trình sư phạm. Người viết cần
cân nhắc nên nói cái gì, nói như thế nào để có lợi cho tâm hồn các em mà không ảnh
hưởng đến sự thể hiện nghệ thuật”. lOMoAR cPSD| 61184739
(Một số ý nghĩ chung quanh vấn đề sách viết cho thiếu nhi, Võ Quảng) Bằng các sáng tác viết
cho thiếu nhi Việt Nam, em hãy bày tỏ quan điểm của em về tác phẩm văn học viết cho trẻ
em không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn mang trong mình sứ mệnh giáo dục và
phát triển tâm hồn trẻ Bài làm
Văn học thiếu nhi từ lâu đã được ví như mảnh đất đặc biệt trong nền văn học, nơi nhà văn
không chỉ gửi gắm cái đẹp của nghệ thuật mà còn gánh vác trọng trách gieo mầm những giá
trị nhân văn cho thế hệ tương lai. Với tâm hồn trong sáng, nhạy cảm và dễ bị ảnh hưởng, trẻ
em cần được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện đẹp đẽ, ý nghĩa, vừa mở ra chân trời trí
tưởng tượng, vừa dạy các em cách yêu thương, sống tử tế và biết trân trọng cuộc sống. Võ
Quảng, một trong những nhà văn tiên phong trong lĩnh vực văn học thiếu nhi Việt Nam, từng
khẳng định: “Tác phẩm văn học viết cho trẻ em là một công trình sư phạm. Người viết cần cân
nhắc nên nói cái gì, nói như thế nào để có lợi cho tâm hồn các em mà không ảnh hưởng đến
sự thể hiện nghệ thuật”. Văn học thiếu nhi không đơn thuần chỉ là giải trí mà còn là một “công
trình sư phạm”, có nghĩa là nó mang tính giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn và hình thành nhân
cách trẻ. Nhận định trên đã nhấn mạnh sứ mệnh kép của văn học thiếu nhi: vừa là một sáng
tạo nghệ thuật, vừa là một công cụ giáo dục tâm hồn trẻ thơ.
Văn học trẻ em lâu nay vẫn quen gọi là văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học hoặc
phổ cập khoa học dành riêng cho trẻ em.Ở Việt Nam, từ đầu thế kỉ XX bắt đầu xuất hiện các
tác phẩm văn học viết cho trẻ em, nhưng phải đến sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, nền văn
học thiếu nhi mới chính thức được hình thành. Đến nay trải qua nhiều thăng trầm, văn học
thiếu nhi Việt Nam đã phát triển phong phú, đa dạng và thực sự trở thành một bộ phận quan
trọng của nền văn học dân tộc. Trong bài tập này, chúng ta sẽ cùng phân tích vai trò kép của
văn học thiếu nhi – vừa là nghệ thuật, vừa là giáo dục – để thấy được tầm quan trọng to lớn
của nó đối với sự phát triển toàn diện của trẻ em.
Trước hết, văn học thiếu nhi là nghệ thuật bởi trẻ em cần cái đẹp. Trẻ em là đối tượng đặc
biệt, luôn nhạy cảm với cái đẹp trong thế giới xung quanh. Vì vậy, các tác phẩm văn học dành
cho thiếu nhi phải trước hết chạm tới tâm hồn các em qua cái đẹp của ngôn từ, hình ảnh và
nội dung. Đặc điểm nổi bật của trẻ con là hồn nhiên và ngây thơ, nên hơn hết sức hút của văn
học viết cho thiếu nhi phải luôn luôn thể hiện được sự hồn nhiên, ngây thơ của trẻ. Đó có thể
là sự hồn nhiên, ngây thơ trong hành động hoặc cách cảm, cách nghĩ của các nhân vật trong thơ, truyện:
Hôm nay trời nắng chang chang
Mèo con đi học chẳng mang thứ gì
Chỉ mang một cái bút chì
Và mang một mẩu bánh mì con con
(Phan Thị Vàng Anh – Mèo con đi học) lOMoAR cPSD| 61184739
Khi viết bài thơ này, Phan Thị Vàng Anh mới 7 tuổi. Sự hồn nhiên, ngây thơ của trẻ nhỏ được
thể hiện ở ngay chính nội dung bài thơ và hình ảnh của nhân vật chính trong câu chuyện. Bài
thơ kể lại việc chú Mèo con đi học giữa “trời nắng chang chang”. Đi học nhưng chú lại chẳng
mang theo thứ gì ngoài “một cái bút chì” và “một mẩu bánh mì con con”. Đem bút chì, không
mang theo sách vở gì thì làm sao học đây? Đi học mà lại mang theo bánh mì chắc có lẽ để ăn
khi đói bụng! Sự sơ sài trong việc chuẩn bị đồ dùng học tập và sự chu đáo chuẩn bị đồ ăn
phòng khi đói hết sức ngây thơ, hồn nhiên này chỉ có thể có ở trẻ nhỏ. Điều này sẽ ít, thậm chí
là khó xảy ra ở người lớn song ở trẻ lại là điều rất dễ gặp. Nếu điều này xảy ra ở người lớn sẽ
thành chuyện đáng chê trách song đối với trẻ nhỏ thì lại rất bình thường và có nét ngộ nghĩnh, đáng yêu riêng.
Cùng với đặc điểm về tính hồn nhiên, ngây thơ như đã nói ở trên, đặc điểm về tính giàu hình
ảnh, vần điệu và nhạc điệu cũng là yếu tố không thể thiếu làm nên cái hay, cái đẹp và sức
cuốn hút của văn học thiếu nhi. Trong các tác phẩm thơ viết cho trẻ em, gieo vần là yếu tố
quan trọng tạo nên nhạc điệu cho các câu thơ. Như trong bài thơ Hạt gạo làng ta, nhà thơ
Trần Đăng Khoa đã sử dụng cách gieo toàn vần bằng cuối các câu thơ như: “ta – sa”, “thầy –
đầy – cay” đã tạo nên giai điệu êm ái, ngọt ngào cho các câu thơ; gợi được sự xúc động, thái
độ trân trọng, yêu quý đối với hạt gạo quê hương. Bởi những hạt gạo ấy được kết tinh từ
những hương vị ngọt ngào, giá trị văn hóa của quê hương… “Hạt gạo làng ta Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay…”
Hay ở bài thơ Mời vào của Võ Quảng, cách gieo vần giữa các từ “đó – thỏ”, “tai – nai”, chữ
“Thỏ”, “Nai” được lặp lại ở hai câu thơ liền nhau cùng với sự kết hợp của các thanh trắc, thanh
bằng đã giúp bài thơ trở nên giàu nhạc tính: “Cốc, cốc, cốc! _Ai gọi đó? _Tôi là Thỏ _Nếu là thỏ Cho xem tai _Cốc, cốc, cốc! _Ai gọi đó lOMoAR cPSD| 61184739 _Tôi là nai _Thật là nai Cho xem gạc”
Văn học thiếu nhi có một đặc trưng và cũng là một trong những yếu tố làm nên sự lôi cuốn đối
với trẻ. Đó là sự ngắn gọn, rõ ràng. Tác phẩm ngắn sẽ giúp trẻ dễ nhớ, dễ thuộc; rõ ràng sẽ
giúp trẻ dễ đọc và dễ hiểu. Chỉ những bài thơ, câu chuyện dễ nhớ, dễ đọc, dễ thuộc, dễ hiểu
thì trẻ mới thích và thích được lâu. Tính “ngắn gọn” trong thơ viết cho thiếu nhi được hiểu là
có dung lượng ngắn, số từ trong câu cũng ngắn. Dạng phổ biến trong thơ viết cho trẻ em
thường là thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, thơ lục bát. Kết cấu thơ thường giống với đồng dao – thể
loại văn học dân gian giàu nhịp điệu, dễ đọc, dễ nhớ, dễ thuộc… “Hay nói ầm ĩ Là con vịt bầu Hay hỏi đâu đâu Là con chó vện
Hay chăng dây điện Là con nhện con…
(Kể cho bé nghe-Trần Đăng Khoa)
Văn học thiếu nhi luôn là cuộc hành trình thú vị tìm về với thời ấu thơ, với những thanh âm
trong trẻo nhất, hồn nhiên nhất. Như một sự cộng hưởng với những âm thanh cuộc sống đa
dạng, ngôn từ và giọng điệu trong văn học thiếu nhi hôm nay cũng có những sắc diện, những
dư vị, những biến điệu riêng. Văn học thiếu nhi Việt Nam sử dụng một thứ ngôn từ rất chọn
lọc, giản dị, trong sáng, dễ hiểu và ngắn gọn. Sau lớp vỏ ngôn từ là những hình tượng, những
thông điệp nghệ thuật độc đáo khẳng định sự sáng tạo, nghiêm túc của những người phu chữ.
Lê Thị Quế trong Luận án Tiến sĩ của mình đã nhận ra ngôn ngữ trong văn học thiếu nhi là lời
ăn tiếng nói của các em nên “có nhiều từ tượng hình, tượng thanh, động từ, tính từ miêu tả
tạo nên sắc thái tươi vui, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ. Mọi sự diễn đạt cầu kì,
nặng về lí trí, suy tư đều không phù hợp” . Nói vậy là bởi những loại từ này có khả năng tạo
nên sắc thái cụ thể, tác động trực tiếp vào giác quan của trẻ; kích thích và khơi gợi trí tưởng
tượng, sự sáng tạo của trẻ. Từ đó trẻ có thể dễ cảm nhận, dễ hiểu và dễ rung động trước các
hình ảnh, nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Nhiều tác phẩm đã đi sâu vào tâm hồn, tình cảm
các em như Ơn thầy, Ngựa hồng ngựa tía (Dương Thuấn), Là thầy cô của em, Mưa xuân
(Nguyễn Lãm Thắng), Khúc ru cho bố (Đỗ Nhật Nam), Thì thầm (Phùng Ngọc Hùng), Lắng nghe
(Phan Thị Thanh Nhàn), Lời thì thầm của gió (Lê Thị Thu Thủy),… lOMoAR cPSD| 61184739
Văn học thiếu nhi mang sứ mệnh giáo dục tâm hồn và nhân cách.Bên cạnh giá trị nghệ thuật,
tác phẩm văn học thiếu nhi còn là một công cụ giáo dục quan trọng, giúp trẻ hình thành nhân
cách, phát triển tư duy và học cách sống tử tế. Văn học trẻ em có vai trò to lớn là vậy nhưng
không thể thay thế được trong việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ.
Những ảnh hưởng của văn học nghệ thuật đối với các em là một quá trình lâu dài và bền bỉ.
Nó tác động một cách từ từ, nhưng giá trị nhân văn của nó thì có thể tạo nên sức mạnh, ảnh
hưởng sâu sắc và lâu dài tới đời sống tâm hồn, tình cảm, nhân cách của các em.
Nhấn mạnh vào chức năng giáo dục của văn học thiếu nhi Việt Nam, các nhà phê bình Hà
Thị Kim Yến, Lê Thị Quế, Võ Quảng, Tô Hoài đã có những nhận định vô cùng xác đáng nhằm
khẳng định “chức năng giáo dục là chức năng hàng đầu của văn học thiếu nhi Việt Nam”. Cụ
thể, theo Hà Thị Kim Yến, “nói đến các yếu tố làm nên sức hấp dẫn của văn học thiếu nhi chúng
ta không thể không nói đến những bài học nhân văn nhẹ nhàng và sâu lắng mà bộ phận văn
học này đem lại. Mỗi câu chuyện, bài thơ viết cho thiếu nhi đều chứa đựng trong đó một bài
học quý giá”Lê Thị Quế trong Luận án Tiến sĩ Thơ thiếu nhi Việt Nam từ 1986 đến nay (Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2022, tr.56) chỉ ra: “Tính giáo
dục là một trong những đặc trưng cơ bản có tính chất sống còn của nền văn học thiếu nhi”.
Còn theo Tô Hoài: “Nội dung một tác phẩm văn học viết cho thiếu nhi bao giờ cũng quán triệt
vấn đề xây dựng đức tính con người. Một tác phẩm chân chính có giá trị đối với tuổi thơ là
một tác phẩm tham dự mạnh mẽ vào sự nghiệp nên người của bạn đọc ấy”Có thể thấy, văn
học thiếu nhi có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con
người ngay từ thuở ấu thơ. Mỗi tác phẩm văn học không chỉ góp phần bồi dưỡng tâm hồn,
nâng cao năng lực cảm thụ cái đẹp, tiếp thu dần những tri thức cần thiết trong đời sống mà
còn giúp cho trẻ phát triển trí tuệ, mở rộng sự hiểu biết và phát triển toàn diện về nhân cách.
Thứ nhất, đó chính là giáo dục đạo đức, lòng nhân ái. Một tác phẩm viết về con người hay đồ
vật chỉ được coi là một tác phẩm văn học thiếu nhi tác giả biết “trẻ con hóa” những con vật,
đồ vật ấy để nói lên những suy nghĩ của chính các em; cảm thông, chia sẻ, cảm hóa các em
bằng những bài học nhân ái, nhẹ nhàng mà sâu sắc. Hình thành và giáo dục những tình cảm
đạo đức tốt đẹp cho trẻ là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Bởi như Bác Hồ từng nói:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục mà nên.” Giáo dục đạo đức, lòng nhân
ái cho trẻ mầm non sẽ giúp các em lớn lên trong tình yêu thương, biết yêu thương mọi người,
mọi vật xung quanh, dễ hòa nhập vào cuộc sống, dễ tiếp thu sự giáo dục của người lớn, đón
nhận những ảnh hưởng tốt đẹp của môi trường để phát triển nhân cách một cách tích cực.
Trước hết, lòng nhân ái được biểu hiện cụ thể trong tình yêu thương giữa con người với con
người. Một trong những nội dung cơ bản của văn học viết cho thiếu nhi là đề cập đến tình
cảm gia đình. Đó là tình cảm kính yêu, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, quan tâm, yêu thương
anh chị em trong gia đình. Nội dung tình cảm này chúng ta có thể tìm thấy ở rất nhiều các tác
phẩm văn học viết cho lứa tuổi mầm non như: Thương ông (Tú Mỡ), Thăm nhà bà, Giữa vòng
gió thơm (Quang Huy), Mẹ ốm (Trần Đăng Khoa), Làm anh (Phan Thị Thanh Nhàn), Ngôi nhà
(Tô Hà), Em yêu nhà em (Đoàn Thị Lam Luyến)... Tình cảm kính trọng, biết ơn thầy cô, yêu
thương, giúp đỡ bạn bè và yêu thương, quan tâm tới những người lao động trong xã hội cũng lOMoAR cPSD| 61184739
là một nội dung được nhắc đến nhiều trong các tác phẩm văn học viết cho trẻ lứa tuổi mầm
non. Có thể kể đến những tác phẩm như: Những chiếc áo ấm, Giọng hót chim Sơn Ca, Bó hoa
tặng cô, Bàn tay cô giáo, Cái bát xinh xinh, Hạt gạo làng ta, Chú bộ đội hành quân trong mưa,…
Hay tình cảm với quê hương, đất nước và lòng kính yêu đối với lãnh tụ, với Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại cũng là một nội dung tình cảm đạo đức tiêu biểu được giáo dục cho trẻ em lứa
tuổi mầm non qua các tác phẩm như: Bác Hồ của em, Ảnh Bác... Thông qua các tác phẩm văn
học quen thuộc, trẻ hiểu biết hơn về cuộc sống, tình người trong thế giới xung quanh cũng
như trách nhiệm của bản thân với gia đình, làng xóm, mái trường, quê hương, đất nước… Trẻ
có thể thông cảm, đồng cảm được với những nỗi bất hạnh, khổ đau hay vui với niềm vui, hạnh
phúc của các nhân vật trong tác phẩm văn học, như những con người ngoài đời thực.
Lòng nhân ái, tình cảm đạo đức được giáo dục cho trẻ em còn là tình yêu thương giữa con
người với thiên nhiên, tình yêu quê hương đất nước nổi bật trong các bài thơ như: Trăng sáng,
Trăng ơi từ đâu đến, Hoa kết trái, Tết đang vào nhà, Cây đa, Ông mặt trời óng ánh... Thế giới
thiên nhiên tươi đẹp với những tình cảm đầy yêu thương được thể hiện trong các tác phẩm
viết cho các em sẽ được lưu giữ mãi trong tâm hồn trẻ thơ, theo các em đi suốt cuộc đời, gìn
giữ và nối dài truyền thống đạo đức, truyền thống tương thân tương ái của dân tộc. Từ tình
yêu thiên nhiên, từ mối giao cảm với thiên nhiên, văn học đã góp phần giáo dục các em thái
độ biết trân trọng, giữ gìn, bảo vệ thiên nhiên, sẵn sàng yêu thương mọi người, mọi vật trong
thế giới xung quanh mình. Đó cũng là những phẩm chất tốt đẹp của con người sống có trách
nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
Thứ hai đó chính là giáo dục trí tuệ, phát triển nhận thức tư duy cho trẻ. Có thể nói văn học
nghệ thuật là tài liệu bách khoa đầu tiên đối với trẻ mầm non ngay cả khi các em chưa biết
đọc, biết viết. Việc sử dụng chất liệu sáng tác ngôn từ nghệ thuật đã khiến cho tác phẩm văn
học trở thành đối tượng dễ dàng để các em tiếp xúc một cách tự nhiên thông qua lời hát ru,
kể chuyện, đọc truyện của bà, của mẹ, của thầy cô giáo và người lớn trong quá trình vừa học
vừa chơi với trẻ thơ. Khi được tiếp xúc với các tác phẩm văn học thường xuyên, trẻ sẽ được
mở rộng hiểu biết về mọi mặt của thế giới xung quanh các em. Có thể nói, tác phẩm văn học
trở thành công cụ giáo dục trí tuệ, góp phần phát triển nhận thức, tư duy cho các em ngay từ thuở lọt lòng.
Văn học thiếu nhi giúp trẻ nhận biết về các mối quan hệ xã hội xung quanh như câu chuyện
“Gấu qua cầu” đã dạy trẻ cách suy nghĩ logic và hợp tác với người khác để giải quyết tình
huống khó khăn. Trẻ học được rằng nhường nhịn và hợp tác là một cách thông minh để đạt
được mục tiêu chung.Hai chú gấu đã không chọn cách tranh giành, mà thay vào đó suy nghĩ
cách giải quyết sáng tạo, giúp trẻ học cách tìm nhiều giải pháp cho một vấn đề. Hay như câu
chuyện “Dê con nhanh trí” trẻ học được cách bình tĩnh suy nghĩ và phản ứng nhanh trong
những tình huống khó khăn.Dê con đã dùng trí thông minh và cách nói chuyện khéo léo để
lừa con sói, thay vì đối đầu trực tiếp. Điều này giúp trẻ hiểu rằng sức mạnh trí tuệ có thể vượt
qua sức mạnh thể chất.: Dê con dám đối mặt với kẻ thù bằng sự bình tĩnh và tự tin, một phẩm
chất quan trọng trong cuộc sống lOMoAR cPSD| 61184739
Trẻ nhận biết các thế giới thực vật qua “Hoa Kết Trái” giới thiệu cho trẻ em về chu trình phát
triển của cây cối, từ lúc nảy mầm, ra hoa cho đến khi kết trái hay như “Bắp Cải Xanh” kể về
quá trình lớn lên của bắp cải từ những chiếc lá non đến khi tạo thành một cây bắp cải hoàn
chỉnh. Cả hai câu chuyện giúp trẻ em tìm hiểu về vòng đời của cây cối, kích thích trí tò mò và
tình yêu với thiên nhiên.Trẻ học cách quan sát sự phát triển của cây cối qua các giai đoạn, rèn
luyện kỹ năng ghi nhớ và kết nối thông tin.Trẻ hiểu rằng cây cối chỉ phát triển tốt khi được
chăm sóc kỹ lưỡng, từ đó hình thành ý thức chăm chỉ và yêu quý thành quả lao động. Các bài
thơ, câu chuyện bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu giúp các em nhận biết được các đặc điểm điển
hình của các con vật, đồ vật xung quanh các em thật phong phú, sinh động. Đó là những con
gà, con mèo, con chó, con vịt… được nuôi trong gia đình của các em: “Tro bếp làm đệm Mèo ta khoanh tròn Cả hai cùng ấm Cùng ngủ thật ngon”
(Mèo và tro bếp- Phạm Hổ)
Hay là cái đinh, cái chổi, đôi dép, chiếc nồi đồng… trong thơ Phạm Hổ, Trần Đăng Khoa, Võ
Quảng… là những đồ vật trong nhà khi đi vào trong thơ đã đem đến cho các em những nhận
thức mới lạ về các đồ vật xung quanh mình. Nhà thơ đã thổi hồn vào các sự vật bằng phép tu
từ nhân hóa khiến cho chúng trở nên sống động, gần gũi với các em như những người bạn
của trẻ thơ: Thích buộc nhiều thắt lưng/ Cả đời không đi dép/ Chổi múa dạo một vòng/ Rác
trong nhà biến sạch (Phạm Hổ). Từ các đặc điểm của sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên,
cuộc sống xã hội, con người trong các tác phẩm văn học, trẻ em được giáo dục trí tuệ một
cách tự nhiên, giúp các em phát triển nhận thức và tư duy mỗi ngày qua các hoạt động học
tập, vui chơi cùng văn chương nghệ thuật.
Các tác phẩm văn học không chỉ giúp các em nhận thức về đặc điểm của thế giới xung quanh
mà còn mở rộng nhận thức cho các em về những mối quan hệ trong cuộc sống: giữa thiên
nhiên với thiên nhiên, giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên,… giúp
trẻ tích lũy được hiểu biết, kinh nghiệm về cuộc sống, những phép đối nhân xử thế, mỗi ngày
các em vừa được bồi dưỡng tâm hồn vừa được hoàn thiện và phát triển về nhân cách.
Thứ ba, văn học thiếu nhi còn có tính giáo dục về thẩm mĩ. Thị hiếu thẩm mĩ là khả năng cảm
nhận cái đẹp, phân biệt được cái đẹp với cái xấu. Văn học là nghệ thuật ngôn từ được coi là
lĩnh vực đặc thù của việc sáng tạo và thể hiện cái đẹp. Vì vậy, vẻ đẹp của tác phẩm văn chương
sẽ giúp hình thành cho trẻ em khả năng cảm nhận cái đẹp, các em sẽ biết phân biệt cái tốt
đẹp với cái xấu xa trong đời sống hàng ngày cũng như trong nghệ thuật. Từ những tác phẩm
văn học, các em thấy được cả một thế giới bao la, rộng lớn bên ngoài với những hình ảnh đẹp
đẽ, sinh động thông qua hệ thống ngôn ngữ chọn lọc, giàu hình ảnh, nhịp điệu, nhạc điệu với
các phương tiện và biện pháp tu từ độc đáo tạo nên những bức tranh muôn màu về thiên nhiên và cuộc sống: lOMoAR cPSD| 61184739
Một mùi hương mong mỏng Thơm đẫm vào ban mai
Gió chạm cánh hoa nhài Mang hương đi khắp lối. Buổi sáng ở quê nội Núi đồi ngủ trong mây Mặt trời như trái chín Treo lủng lẳng vòm cây.
(Buổi sáng quê nội, Nguyễn Lãm Thắng) Sân nhà em sáng quá
Nhờ ánh trăng sáng ngời
Trăng tròn như cái đĩa Lơ lửng
mà không rơi. Những hôm nào
trăng khuyết, Trông giống con thuyền trôi. Em đi trăng theo bước, Như muốn cùng đi chơi.
(Trăng sáng, Nhược Thủy)
Thế giới đầy màu sắc, giàu hình ảnh đẹp trong văn chương góp phần bồi dưỡng cho các em trí
tưởng tượng bay bổng, khả năng liên tưởng phong phú về sự vật, hiện tượng trong thế giới
xung quanh. Những hình ảnh được miêu tả trong các tác phẩm văn học rất sinh động, trong
trẻo, tươi tắn và đầy sức sống giúp các em không chỉ cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc
sống mà còn thêm yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và con người. Vì vậy, có thể nói nội dung
giáo dục và hình thành thị hiếu thẩm mĩ cho trẻ không tách rời với các nội dung giáo dục khác
mà chúng có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau, cùng tạo nên một thể thống nhất các
nội dung giáo dục trong tác phẩm văn học, góp phần quan trọng cho sự hình thành và phát
triển nhân cách tốt đẹp cho trẻ thơ.
Cuối cùng, văn học thiếu nhi có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, cung
cấp cho trẻ thơ một vốn từ ngữ khổng lồ, đặc biệt là những từ ngữ nghệ thuật. Ngay từ khi
vừa mới sinh ra đời, trẻ đã có thể được nghe bà, nghe mẹ hát ru, kể chuyện. Việc tiếp xúc với
các tác phẩm văn học từ nhỏ chính là cơ hội quan trọng giúp trẻ được tiếp xúc với lời nói bên lOMoAR cPSD| 61184739
cạnh việc tiếp thu ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày với những người xung quanh. Việc cho trẻ
làm quen với các tác phẩm văn học từ nhỏ sẽ giúp trẻ được mở rộng vốn từ. Thông qua các
hoạt động cho trẻ nghe đọc sách, đọc thơ, nghe kể chuyện hoặc dạy trẻ kể lại truyện sẽ giúp
các em vừa được phát triển vốn từ vừa phát triển lời nói mạch lạc, nói rõ nghĩa rõ lời, đúng
cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt. Để nhớ hay có thể dùng một từ nào đó để thể hiện suy nghĩ tình
cảm của mình , trẻ cần phải được tiếp xúc với từ đó rất nhiều lần nhưng việc bắt trẻ nghe
người khác lặp đi lặp lại một từ nhiều lần để nhớ là điều khó khăn và nhàm chán đối với trẻ.Khi
trẻ thường xuyên tiếp xúc với các tác phẩm văn học thiếu nhi, vốn từ ngữ của các em phong
phú và sống động hơn. Các em tự hình thành cho mình khả năng diễn đạt một vấn đề một
cách mạch lạc, giàu hình ảnh và biểu cảm bởi đã được học cách diễn đạt sinh động ấy trong các tác phẩm
Ví dụ, câu chuyện “Ba cô gái” giúp trẻ em hiểu rằng lời nói cần mạch lạc, rõ ràng để diễn đạt
ý tưởng và suy nghĩ hiệu quả, nhận ra rằng lời nói không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn
thể hiện tính cách và giá trị của con người. Câu chuyện” Chú dê đen” kể về chú dê đen dũng
cảm đối đầu với sói. Dê đen sử dụng cả lời nói cứng rắn và tư thế tự tin để đuổi sói đi, bảo vệ
bản thân và bạn bè. Dê đen dũng cảm và tự tin, biết cách sử dụng lời nói để gây ấn tượng
mạnh với đối phương. Điều này dạy trẻ em cách trình bày suy nghĩ của mình một cách rõ ràng
và hợp lý. Qua lời nói mạnh mẽ của dê đen, trẻ học được rằng giọng điệu và ngôn ngữ phù
hợp có thể giúp mình xử lý tình huống khó khăn
Ngôn ngữ trong các tác phẩm văn học là ngôn ngữ mang đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật,
với khả năng biểu đạt giàu hình ảnh, biểu cảm. Vì vậy, các tác phẩm văn học không chỉ giúp
các em phát triển vốn từ, phát triển lời nói mạch lạc mà còn giúp các em mở rộng vốn từ ngữ
nghệ thuật, nâng cao khả năng cảm thụ và biểu đạt bằng ngôn ngữ nghệ thuật.
Trong thực tế cũng có không ít tác giả viết cho thiếu nhi lại đặt cao mục đích giáo huấn, quá
coi trọng việc giáo dục luân lý cho trẻ nên tác phẩm viết ra thường khô khan, cứng nhắc, không
phù hợp với trẻ. Chính vì vậy độc giả nói chung và độc giả là trẻ con nói riêng sẽ không thích
tiếp nhận những tác phẩm như vậy. Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn đã nói về những tác giả, tác
phẩm viết cho thiếu nhi hời hợt, phản cảm trong cách giáo dục trẻ trong bài viết “Ra vườn
nhặt nắng” đăng trên Tạp chí điện tử Văn nghệ Thái Nguyên, ngày 05/7/2016 như sau: “Chả
biết do tay phù thủy nào, mà văn học thiếu nhi của ta suốt thời này cứ già ngay từ lúc còn hoài
thai. Chả mấy bài không chềnh ềnh cái bục giáo huấn. Chưa đặt bút đã nhăm nhăm xem chỗ
nào đây có thể nhét được giáo điều. Đất sống từng bài thì huấn thị cứ chiếm sạch”. Ý kiến
nhận xét này của nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn thật đúng và sâu sắc vì đã phản ánh được thực
tế sáng tác của nhiều nhà văn, nhà thơ viết cho thiếu nhi ở Việt Nam hiện nay. Đó là những
nhà văn, nhà thơ có tư tưởng sai lầm là dùng văn chương để dạy trẻ theo cách của mình. Và
đúng như nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn đã nói, sáng tác của những tác giả đó “hắc vị dạy, nhạt
vị thơ bảo sao trẻ không ngán được chứ!
Một tác phẩm văn học thiếu nhi chỉ thực sự thành công khi nghệ thuật và giáo dục được kết
hợp hài hòa. Nếu tác phẩm chỉ tập trung vào giáo dục mà bỏ qua yếu tố nghệ thuật, câu chuyện
dễ trở nên khô khan, giáo điều. Ngược lại, nếu chỉ chú trọng vào tính giải trí, tác phẩm sẽ lOMoAR cPSD| 61184739
không để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn trẻ em. Võ Quảng trong các tác phẩm của mình
luôn tìm cách cân bằng hai yếu tố này.
Trong “Quê nội”, Võ Quảng vừa kể chuyện một cách tự nhiên, vừa lồng ghép những bài học
nhẹ nhàng. Nhân vật cậu bé Cục với những trò nghịch ngợm, ngây thơ đã khắc họa trọn vẹn
hình ảnh của một đứa trẻ vùng quê Việt Nam. Qua những câu chuyện nhỏ nhặt như trốn học
đi bắt chim hay phụ giúp bà nội cấy lúa, trẻ em học được giá trị của sự trung thực, chăm chỉ
và yêu thương gia đình. Đặc biệt, cách kể chuyện hồn nhiên, dí dỏm khiến trẻ không cảm thấy
bị “dạy bảo” mà tự nhiên cảm nhận bài học qua chính hành động của nhân vật
Một vấn đề quan trọng trong nhận định của Võ Quảng là vai trò của người viết:“Người viết
cần cân nhắc nên nói cái gì, nói như thế nào để có lợi cho tâm hồn các em” Viết cho thiếu nhi
là một công việc đặc biệt và không hề dễ dàng. Nó đòi hỏi người viết phải có sự nhạy bén,
trách nhiệm, và tình yêu sâu sắc dành cho trẻ em. Một tác giả văn học thiếu nhi phải đảm
nhiệm nhiều vai trò quan trọng như người truyền cảm hứng về cái đẹp. Ví dụ, Nguyễn Nhật
Ánh trong “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” đã tạo nên một thế giới tuổi thơ tươi đẹp qua hình
ảnh làng quê, những trò chơi giản dị và tình cảm anh em sâu sắc. Ngôn ngữ của ông vừa mộc
mạc, vừa đầy chất thơ, giúp trẻ nhận ra vẻ đẹp của cuộc sống xung quanh.
Người viết phải cẩn trọng trong việc lựa chọn nội dung và thông điệp truyền tải, đảm bảo rằng
tác phẩm mang đến những giá trị tích cực, tránh ảnh hưởng xấu đến nhận thức của trẻ. Những
câu chuyện bạo lực, tiêu cực hoặc thiếu tính nhân văn cần được loại bỏ hoặc xử lý một cách phù hợp.
Tâm hồn trẻ nhỏ giống như tờ giấy trắng, dễ bị ảnh hưởng nhưng cũng dễ bị nhàm chán nếu
nội dung không phù hợp. Do đó, người viết cần thấu hiểu tâm lý trẻ em: chúng yêu thích
những câu chuyện kỳ thú, hồn nhiên, giàu trí tưởng tượng nhưng cũng cần cảm nhận được
tình yêu thương, sự an toàn trong tác phẩm.
Nhà văn viết cho thiếu nhi cần đặt mình vào vị trí của trẻ, hiểu điều các em cần, yêu thích và
trân trọng. Điều này giúp tác giả viết nên những câu chuyện không chỉ phù hợp mà còn có sức
lay động sâu sắc với trẻ nhỏ. Như Tô Hoài từng nói: “Viết cho thiếu nhi là viết bằng cả trái tim.”
Tác giả phải yêu trẻ, hiểu trẻ và dành tâm huyết tạo nên những câu chuyện chạm đến thế giới
nội tâm non nớt nhưng phong phú của trẻ nhỏ.”
Tóm lại, nhận định của Võ Quảng đã khẳng định một cách sâu sắc vai trò kép của văn học thiếu
nhi – vừa là một tác phẩm nghệ thuật sáng tạo, vừa là một công trình sư phạm mang tính giáo
dục cao. Một tác phẩm viết cho trẻ em không chỉ dừng lại ở việc thỏa mãn trí tưởng tượng,
khơi gợi niềm vui mà còn phải gieo mầm những giá trị nhân văn, giúp các em lớn lên với tâm
hồn trong sáng và nhân cách tốt đẹp. Người viết, vì vậy, không chỉ là một nghệ sĩ sáng tạo mà
còn là một nhà giáo dục tận tâm, mang trái tim yêu thương và trí tuệ sắc sảo để dẫn dắt các
em vào thế giới văn chương, đồng thời định hướng các em trở thành những con người giàu
cảm xúc, biết yêu thương và trân trọng cuộc sống. Nhận định này không chỉ là kim chỉ nam
cho những người sáng tác văn học thiếu nhi mà còn là lời nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm
vun đắp tâm hồn thế hệ tương lai thông qua những trang sách đầy ý nghĩa. lOMoAR cPSD| 61184739
Đối tượng của văn học là toàn bộ thế giới hiện thực bao gồm đời sống tự nhiên, xã hội và con
người. Vì vậy, có thể nói văn học nghệ thuật là tài liệu bách khoa đầu tiên đối với trẻ mầm
non ngay cả khi các em chưa biết đọc, biết viết. Việc sử dụng chất liệu sáng tác ngôn từ nghệ
thuật đã khiến cho tác phẩm văn học trở thành đối tượng dễ dàng để các em tiếp xúc một
cách tự nhiên thông qua lời hát ru, kể chuyện, đọc truyện của bà, của mẹ, của thầy cô giáo và
người lớn trong quá trình vừa học vừa chơi với trẻ. Với những đặc trưng tiêu biểu, phù hợp
với đối tượng là trẻ thơ, văn học viết cho trẻ lứa tuổi mầm non có vai trò to lớn không thể
thay thế được trong việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ, mang lại cho
trẻ thơ vẻ đẹp, tình yêu với cuộc sống và con người.
Trong tương lai, chắc chắn rằng văn học thiếu nhi sẽ còn phát triển hơn nữa, trở thành một
dòng chảy mãnh liệt, hòa vào dòng chung là văn học dân tộc. Có thể khẳng định, văn học thiếu
nhi là một trong những mảnh ghép không thể thiếu của văn học Việt Nam.