-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Người lái đò sông Đà - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương
Người lái đò sông Đà - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn học dân gian (LITR1234) 42 tài liệu
Đại học Hùng Vương 153 tài liệu
Người lái đò sông Đà - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương
Người lái đò sông Đà - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Văn học dân gian (LITR1234) 42 tài liệu
Trường: Đại học Hùng Vương 153 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ- Nguyễn Tuân A. Tìm hiểu chung:
1. Hoàn cảnh sáng tác
_ Tuỳ bút “Người Lái Đò Sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà”
của Nguyễn Tuân, xuất bản năm 1960. Đây là thời kỳ miền Bắc xây dựng
Chủ nghĩa Xã Hội, xây dựng cuộc sống mới, xây dựng con người mới. Tuỳ
bút gồm 15 bài là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc vào năm 1958 của ông.
_Cảm hứng sáng tạo của nhà văn được bắt nguồn từ thực tế xây dựng
cuộc sống mới ở miền Bắc đặc biệt là vùng núi phía Tây Bắc Tổ quốc.
_“Người Lái Đò Sông Đà” là tác phẩm xuất sắc, là đỉnh cao trong sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn tuân.
2. Nội dung chính: Bài tuỳ bút miêu tả con sông Tây Bắc (Sông Đà)
hung bạo mà trữ tình. Qua đó, tác phẩm làm nổi bật bức tranh thiên
nhiên Tây Bắc hùng vĩ, trữ tình nhưng cũng hết sức khắc nghiệt, dữ dội.
Tác phẩm còn ca ngợi người lái đò tài ba, dũng cảm. Đó cũng chính là
hình ảnh của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Thông qua hình tượng con sông Đà và người lái đò sông Đà, tác giả bày
tỏ tình yêu tha thiết của mình với thiên nhiên, con người và cuộc sống. B.Tìm hiểu chung .
I. Hình tượng con sông Đà.
1. Sông Đà con sông Tây Bắc dữ dằn, hung bạo (hùng vĩ)
1.1.Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược
của nG:“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” Khẳng
định nét độc đáo của dòng sông Đà: Mọi con sông đều chảy về hướng
Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Một dòng chảy riêng, không
khuôn mình vào lẽ thường. sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, nhập vào
Việt Nam. Nó phải trải qua rất nhiều triền núi đá. Vì vậy, ở phần thượng
lưu của sông Đà có rất nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực
xoáy… Từ đó, Nguyễn đã tìm thấy những tính cách hung bạo khác
thường của dòng sông. Khẳng định cá tính độc đáo của Nguyễn Tuân
trong dòng sông văn chương: Một nhà văn có ý thức sâu sắc về cái tôi cá
nhân, về bản ngã, về cá tính riêng trong sáng tạo nghệ thuật.
1.2.Cảnh hai bờ sông
Cái hùng vĩ, sừng sững của sông Đà được thể hiện ngay ở
cảnh đá bờ sông: “Đá bờ sông dựng vách thành”. Cách miêu tả
khiến con sông Đà hiện ngay ra như thành quách sừng sững, đứng án
ngữ ngay trước mặt. Cả ngày mặt sông không có ánh nắng, “mặt sông
chỗ ấy chỉ có lúc đang ngọ mới có mặt trời” bởi hai bên bờ sông đá
dựng đứng như vách thành, cao vút. Cánh miêu tả này tạo được ấn tượng
khá đậm nét về “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yếu
hầu” cách so sánh táo bạo, độc đáo. Dòng chảy bị thu hẹp. Hẹp đến
nỗi “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”. Đặc
biệt khi nhà văn miêu tả: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, 1
đang mùa hè mà cũng thấy lạnh” cái lạnh của từng lớp da thịt, của
sự sợ hãi trước thiên nhiên nơi đây. Khi đi qua quãng này, người ta cảm
tưởng như mình “cảm thấy như mình đang đứng ở hè một cái ngõ
mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ
mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. câu văn tràn dòng với những liên
tưởng của liên tưởng cho thấy sự tài hoa và uyên thâm trong việc sử
dụng ngôn ngữ của Nguyễn. Ta thấy hiện ra trước mắt là một khúc sông
Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.
Nhà văn đã sử dụng nhiều giác quan để miêu tả, không chỉ có thị giác
mà cả xúc giác cùng sự so sánh mới mẻ, độc đáo. Vách thành dựng đứng
gợi sự hiểm trở hùng vĩ, lòng sông hẹp khiến người đọc nghĩ tới lưu tốc
của dòng sông chảy mạnh đến mức nào. Hình ảnh so sánh chính xác, thủ
pháp miêu tả bằng cảm giác, đá bờ sông trở thành một cảnh tượng hiểm
trở ghê gợn, nguy hiểm nhưng cũng hùng vĩ.
1.3.Ghềnh Hát LoGng Sự
hung bạo của con sông còn ở quãng ghềnh Hát LoGng : Sự
phối hợp giữa giG và sGng đã tạo nên sức mạnh uy hiếp “mặt ghềnh
Hát Loóng, dài hàng cây số, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi
nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Câu
văn trải dài, chia làm nhiều vế ngắn, có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên
nhịp nhanh, mạnh, gấp gáp để diễn tả phản ứng dây chuyền giữa sGng,
giG, nước và đá, chứa đựng đầy sự hiểm nguy dữ dằn của con sông như
lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người. Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn
ghè” vừa gợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của
nơi đây. Thủ pháp điệp, so sánh, nhân hóa con sông như một kẻ chuyên
đi đòi nợ dữ dằn. Sông Đà được miêu tả như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ
xuýt” những người trên sông. Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà
con người không thể nào lường trước được.
1.4.Đáng chú ý là những cái hút nước S ông Đà cG những cái hút nước xoá y t ít
:“Trên sông có những hút
nước giống như giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm
móng cầu”. Những cái bpy ghê sợ, chết người! Vpn là nghệ thuật so
sánh liên tưởng độc đáo kèm theo biện pháp nhân hóa“Nước ở đây thở
và kêu nghe đã đủ cho người đọc rùng mình nhưng Nguyễn Tuân không
dừng lại ở đó mà tiếp tục khi so sánh và liên tưởng với cái cửa cống cái
bị sặc nước. khiến người nghe phải rùng mình kinh sợ. Sử dụng những từ
ngữ “thở” và “kêu”, nhà văn đã thể hiện hình ảnh những hút nước và
dòng sông quãng này trong sự hung bạo, dữ tợn đầy khủng khiếp.
Những cái hút nước ở độ sâu: cái hút xoáy tít đáy, như cái giếng
sâu cho thấy độ mạnh của dòng nước; với bề rộng: quay lừ lừ như 2
những cánh quạ đàn. Mặt sông lừ lừ những cánh quạ tìm ăn xác người,
như một sự cảnh báo rợn người về dòng sông dữ dội, nguy hiểm; Sự
nguy hiểm còn thể hiện qua Âm thanh ghê rợn “những cái giếng sâu
nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào, âm thanh vừa dữ dội, vừa kì
quái, nó dường như được phát ra từ cổ họng một con quái vật. cuối cùng
là độ nguy hiểm: Dường như ở đây không phải là hình ảnh sông Đà mà là
hình ảnh của một loài thủy quái nào đó đang muốn uy hiếp con người.
Thế nên “không thuyền nào dám men gần những cái hút nước
ấy”. Dường như hút nước ở sông Đà trở thành nỗi ám ảnh với những
người lái thuyền, họ chỉ muốn tránh mặt chứ không muốn chạm trán với
nó. Bởi nếu không “chèo nhanh để lướt qua quãng sông” sẽ “bị cái
hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt
biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới
thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Hình ảnh đầy chất hiện thực diễn
tả sự “tàn nhpn” của những cái hút nước Sông Đà. Bằng nghệ thuật nhân
hoá, so sánh, thậm xưng những cái hút nước được miêu tả hết sức nguy hiểm.
Tài hoa nhất là khi Nguyễn Tuân đẩy trường liên tưởng đến giới hạn xa
nhất, khi tác giả vẽ ra cảnh một anh bạn quay phim táo tợn ngồi vào
thuyền thúng để thả mình vào những cái hút nước ấy:“ngồi vào một cái
thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống
đáy cái hút sông Đà…”. Dường như miêu tả bằng hình ảnh, âm thanh chưa đủ,
Nguyễn Tuân còn dùng những kiến thức về điện ảnh, những liên tưởng phong phú và đặc
biệt là cảm giác mạnh để miêu tả những nước trên Sông Đà. Nhà văn liên tưởng đến việc có
một anh quay phim táo bạo vì muốn truyền cảm giác lạ cho người xem nên đã ngồi vào
chiếc thuyền thúng tròn vành rồi cả thuyền, cả mình, cả máy quay xuống xoáy hút Sông Đà
để thu ảnh. Đây hẳn là một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ
xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước
được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền
cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông
“nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người
khi Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, khi phải đứng trong lòng
một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người. Những
thước phim ấy truyền cảm lại cho người xem những cảm giác rất mạnh như đang lấy gân
ngồi giữ chặt chiếc ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng vừa bị vứt vào một chiếc cốc pha
lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
1.5.Thác nước sông Đà:
- Với biên pháp Nhân cách hóa trong miêu tả của Nguyễn Tuân, biến thác
nước thành những bầy thủy quái hung hăng, bạo ngược 3
Sự hung bạo của sông Đà còn được miêu tả qua những cái thác nước.( XA)
Miêu tả từ xa đến gần nên lúc đầu là tiếng “réo” “Còn xa lắm mới đến cái thác” nhưng
tâm địa và diện mạo thứ “kẻ thù số một của con người” đã dần hiện ra. Chúng vẳng tới
bằng âm thanh “réo gần mãi lại réo to mãi lên” còn về sau trở thành tiếng “rống” “nó
rống lên” âm thanh được phóng to hết cỡ giống như đang ở đỉnh điểm
của một cơn phấn khích man dại. Nguyễn Tuân còn so sánh tiếng thác
sông Đà giống như tiếng của “một ngàn con trâu mộng đang lồng
lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Một
cách so sánh tuyệt vời hiếm thấy trong văn học. So tiếng reo của lửa như
tiếng thác gầm thì chỉ có Nguyễn Tuân mới so sánh tài hoa như vậy.
Nhưng tài hoa ở chỗ nước và lửa xưa nay vpn kị nhau (thủy - hỏa), có cái
này thì cái kia không tồn tại. Vì mà nó hội tụ ngay trong trang văn của
Nguyễn Tuân, thật tài hoa. Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh
của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm
thanh của một trận động rừng, động đất. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để
tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật, tài
hoa. Nguyễn Tuân thực sự là bậc thầy của ngôn ngữ, ông thổi hồn vào
những con chữ, khiến con chữ như biết nói, biết rung động. Với cách dùng từ
rất chính xác và bất ngờ, khiến sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác trở thành một sinh
thể có tính cách và tâm lí, như một con người. Các sắc thái khác nhau của âm thanh tiếng
“réo” của nước thác: vừa mới
“oán trách” và “van xin” như một kẻ bại trận, biết mình yếu
thế hơn đối thủ; ngay lập tức chuyển sang “khiêu khích” và “chế nhạo” rồi “rống” lên
như một kẻ trên cơ, ra sức giễu cợt, đe dọa đối phương. Bản hợp âm khủng khiếp và đòn
tâm lí chiến trở mặt như trở bàn tay ấy cho thấy sự nham hiểm, xảo quyệt của sông Đà khi
sắp xung trận. Những người lái đò yếu bóng vía và non kinh nghiệm sẽ cảm thấy mất tinh
thần, hồn xiêu phách lạc. Chỉ riêng với âm thanh của thác đá sông Đà, Nguyễn Tuân đã gây
ấn tượng trong người đọc về sự dữ dội đến khủng khiếp của những thác đá Sông Đà.
Những thạch trận đá trên sông Đà
Khi đến gần hơn với thác nước, bọt sóng hiện ra trắng xóa cả một
chân trời đá, bao la, hùng vĩ khiến con người ta không khỏi cảm thấy
choáng ngợp trước cảnh tượng thiên nhiên dữ dội, kì vĩ.
Nói đến sự dữ dội, nghiệt ngã của sông Đà không thể không nhắc tới
những bãi đá. Dường như khi miêu tả những bãi đá vô tri trên đoạn
thác sông Đà, Nguyễn Tuân đã sử dụng thủ pháp nhân hGa khiến người
đọc như nhận ra ông đang miêu tả con người chứ không phải một vật vô
tri. Từng thớ đá được Nguyễn Tuân thổi hồn vào trở nên có hình hài, cá 4
tính.“Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông,
hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm
mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt
sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.” Đá ở dòng
sông Đà như một lớp mai phục chỉ chực chờ thuyền đến để ” “nhổm lên
“vồ” lấy thuyền.
Cá tính của những thớ đá cũng được khắc họa rõ nét sức mạnh
điêu khắc ngôn từ của Nguyễn Tuân để thổi hồn vào từng thớ đá: “Cả
một chân trời đá … mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn
nhúm”, “méo mó”. “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn
nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”.
Nguyễn Tuân đã sử dụng những tính từ miêu tả tính cách, ngoại hình con
người để miêu tả cho chính những hòn đá nơi đây. Mỗi hòn đá xuất hiện
trên dòng sông Đà này đều có sở thích riêng, nhiệm vụ riêng “trông
tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của
đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã bàn giao việc cho mỗi hòn”.
Trùng vi thạch trận của những phiến đá bày ra như được ai đó điều
khiển từ xa khiến con người càng thêm khiếp sợ. Miêu tả đá mà Nguyễn
Tuân dùng những từ ngữ như “hai đứa” làm người ta liên tưởng đến sự
bày binh bố trận trong một cuộc chiến. Thế rồi, hòn đá khác còn “hất
hàm hỏi cái thuyền”, rồi “thách thức” như muốn tuyên chiến với thuyền.
Cả một trận địa đá sẵn sàng dìm chết con thuyền. Những hòn đá vô tri
vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của
thiên nhiên hoang dại và hung dữ S
ông Đà lại dàn bà y thạch trận
Bãi đá ngầm được nhà văn miêu tả như một thạch trận dàn bày công
phu, khéo léo với ba trùng vây kiên cố. Mỗi trùng vây được thần sông
thần đá “thiết kế” theo một sơ đồ riêng, giao phG cho nhiệm vụ
riêng. Hàng tiền vệ có trách nhiệm lừa dụ con thuyền vào sâu
thạch trận nên chỉ có hai tảng đá canh cửa “trông như là sơ hở”.
Tuyến giữa sẽ đGn đánh trực diện trong khi tuyến đầu vòng lại đánh
khuýp quật vu hồi”. Tuyến đá cuối cùng kiên quyết nhất gồm những
“boong ke chìm và những pháo đài đá nổi” sẽ tiêu diệt con
thuyền cùng tất cả thuyền trưởng và thuỷ thủ nếu nó lọt khỏi hai vòng
vây trước… Bằng hệ thống từ ngữ, hình ảnh nhân hoá phong phú, độc
đáo, Nguyễn Tuân đã khiến sông Đà hiện lên như một loài thuỷ quái
khổng lồ “độc giữ và nham hiểm”. 5 Ở trùng vâ
y thứ nhấ t - HÀNG TIỀN VỆ
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử,
một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền
vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất
chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ
nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào
trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: "Mặt nước hò la vang
dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán”. Sóng nước như thể
quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và
hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy
thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra
giữa trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh
đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy
bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò".
Trùng vi thứ hai- TUYẾN GIỮA vô cùng hiểm trở "Tăng thêm nhiều
cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua
phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên
sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền". Bốn năm bọn
thủy quân của ải nước bên trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào
tập đoàn của tử. Không ngớt khiêu khích. Lũ thủy quân xô như trực
nuốt chửng con thuyền. Khí thế của chúng vô cùng mạnh mẽ và hung
hãn. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với
ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử "vẫn
không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến
ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!
Trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn nhưng bên trái, bên phải đều là
luồng chết cả. “Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa
bọn đá hậu vệ của con thác.
Với sự bày binh bố trận vô cùng linh họat, sông Đà chỉ với mục đích
duy nhất ấy là lấy mạng của những người đi thuyền. Đồng thời những
câu văn miêu tả này cũng cho thấy nghệ thuật dùng từ tài tình, sự quan
sát tinh tế, nhạy bén của Nguyễn Tuân.
Dưới mắt nhìn rất độc đáo, cá tính của nhà văn, đá ở đây có cả nhân hình
và nhân tính, lại có cả tướng, cả quân, tên nào tên nấy hung bạo, ngỗ
ngược, luôn sẵn sàng giao chiến không chịu thua bất cứ ai. Cái dữ dội ấy
còn được tăng thêm gấp bội với sự thanh viện của thác sông Đà, dữ dội,
hào hùng lấn át đối phương. Sức mạnh của thác, của đá sông Đà đã được
tác giả đẩy lên ngang tầm với sức mạnh của thần linh khi sử dụng
cụm“binh pháp của thần sông, thần đá” để miêu tả trận địa đá.
Tác giả đã dùng kiến thức về quân sự, võ thuật, thể thao, thủ pháp nghệ
thuật nhân hóa, thậm xưng để làm nổi bật cái nham hiểm, xảo quyệt của
sông Đà. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông Đà hung bạo, tàn ác
không khác gì “kẻ thù số một” của con người. Chẳng thế mà sông Đà 6
được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh: “Núi cao
sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Nghệ thuật
Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để thi tài với tạo hoá. Ông dùng những câu góc cạnh, giàu
tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập; sử dụng lối nói ví von,
ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị; vận dụng hiểu biết của nhiều
ngành khác nhau: địa lý,lịch sử, hội họa, văn chương và những tri thức về tự nhiên để khắc
họa vẻ đẹp của sông Đà. Cùng với nghệ thuật nhân hóa, liên tưởng phong phú, ngòi bút
miêu tả độc đáo, con sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác, khi bước vào trang văn
Nguyễn Tuân đã trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lí rất ghê gớm, đáng sợ. Nội dung
Đoạn trích là khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, đầy cá tính của sông Đà, biểu tượng cho vẻ
đẹp hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Đó chính là sức mạnh của thiên nhiên mà con
người cần chinh phục và cũng là niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp.
2. Dòng sông thơ mộng trữ tình.
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại.
Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp và cuộc sống. Và tùy bút
“Người lái đò sông Đà” là một tùy bút như vậy. Nổi bật lên trong tác
phẩm là hình tượng con sông Đà với hai nét tính cách tiêu biểu, đó là
hung bạo và trữ tình, thơ mộng. Với sự hiểu biết sâu, gắn bó máu thịt và
niềm đam mê cháy bỏng bừng vào trang văn, Nguyễn Tuân đã biến dòng
sông của tự nhiên thành dòng sông nghệ thuật, thành một sinh thể có
tâm hồn tính cách, trước hết là những đẹp thơ mộng, trữ tình được tái
hiện qua ngòi bút của Nguyễn Tuân làm say mê bao trái tim bạn đọc.
“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”: cảm thán về vẻ đẹp
nên thơ, thi vị của các dòng sông, Lời đề từ hé mở vẻ đẹp trữ
tình của Sông Đà.
Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà ở nhiều góc độ tầm
nhìn khác nhau, lúc thì nhìn từ trên cao xuống tức là lúc đi máy bay trên
sông Đà, lúc lại nhìn gần đi từ rừng ra và đi thuyền trực tiếp trên sông nước.
2.1.GGc nhìn từ trên cao (máy bay), Sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân
*Trước hết là cảm nhận của nhà văn về vẻ đẹp của sông Đà khi nhìn
từ trên cao xuố ng
- từ trên máy bay, dòng chảy uốn lượn của con
sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình” phép
so sánh cụ thể hóa dáng hình mềm mại của sông Đà giống như ca dao
xưa ví dòng sông uốn lượn như hình con long trên núi rừng Tây Bắc.
Đặc biệt là giống như mái tóc của người thiếu nữ “Con sông Đà
tuôn dài tuôn dài như một ánh tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng 7
hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Câu văn
vừa có đường nét, hình khối và màu sắc, vừa có sự so sánh và cảm nhận
lại như hát lên trong giọng điệu. Ban đầu giọng điệu ấy có âm vực
cao, trường độ nhanh. Nhưng càng về cuối nó hạ thấp dần và chậm lại,
kéo dài ra, lan tỏa trong không gian đến bất tận. Người ta có cảm giác từ
trên thượng nguồn, sông Đà chảy ngoằn ngoèo, dích dắc giữa điệp trùng
núi đá và rừng cây đại ngàn nhưng càng về xuôi, sông Đà càng êm ả,
thẳng dòng. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được
núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều. Điệp ngữ “tuôn dài” được
lặp lại hai lần nhấn mạnh chiều dài sông Đà chảy suốt chiều dài biên giới
phía Tây Tổ quốc, như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của
dòng sông; mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa
bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng. phép so sánh sông Đà như một
áng tGc trữ tình lại nhấn mạnh dáng hình dòng sông mềm mại óng ả,
mượt mà, duyên dáng uyển chuyển, yêu kiều.Phép so sánh" như một
áng tóc trữ tình "tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm
tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất.
Chữ"áng "thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn
với" tóc "thành" áng tóc trữ tình ". Nguyên cả cụm từ ấy đã nói lên hết
cái chất thơ, chất trẻ trung và đẹp đẽ, thơ mộng của dòng sông. Cảnh vì
thế mà vừa thực lại vừa mộng. Hai chữ"ẩn hiện "càng tăng lên sự bí ẩn
và trữ tình của dòng sông. hình ảnh ẩn hiện mây trời Tây Bắc và
phép so sánh mây trời ấy cuồn cuộn như mù khói núi mèo đốt nương
xuân, chính điều này làm tăng thêm vẻ hư ảo kín đáo e ấp tình tứ của dòng sông.
Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà – của người đàn bà kiều diễm còn
được tác giả nhấn mạnh qua động từ "bung nở " là một động từ mạnh
đứng trước hai loài hoa của mùa xuân là hoa gạo đỏ tươi và hoa ban trắng tinh khiết
kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm
người đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài
thêm hoa ban trắng, hoa gạo đỏ và đẹp mơ màng như sương khói mùa
xuân. Sự nhân cách hóa đó làm tăng thêm cảm nhận về sự vận động của
sắc màu cứ xôn xao rạo rực rồi bừng lên lộng lpy, trang điểm cho dòng
sông đẹp tuyệt diệu cuốn hút lòng người
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua
việc miêu tả sắc nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của
Nguyễn Tuân về con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn " Tôi đã
nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên
qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà " .Chính
vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn
lpn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh
thpm và ánh nắng" sớm xanh, trưa vàng, chiều tím "do sự phản
quang của mây trời và đẹp như một đóa hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân 8
lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi
mùa có vẻ đẹp riêng trong cách so sánh rất cụ thể:“ mùa xuân dòng
xanh ngọc bích”, Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc.
Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Một sắc xanh tinh khiết,
trong trẻo làm say đắm lòng người. Nguyễn Tuân còn so sánh sắc
xanh ấy với sắc xanh canh hến của sông Gâm sông Lô như một
cách để khẳng định sắc màu rất riêng của sông Đà. tác giả nhấn
mạnh: “Chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh cánh hến” tức là
màu xanh đục của sông Gâm, sông Lô (cả ba con sông này đều chảy
qua miền rừng núi Tây Bắc Bộ. Sự so sánh về màu sắc làm cho dòng
sông có vẻ đẹp riêng (Ngọc bích: vừa trong lại vừa có sự phản chiếu óng
ánh). Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, “Mùa thu
nước sông Đà lừ lừ chính đỏ”, tác giả lại so sánh. “Lừ lừ chín đỏ như
da người bầm đi vì rượu bữa”, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về". Phép so sánh, kết hợp với
từ láy tượng hình “lừ lừ”, tình từ “bầm đi” vừa gợi tả dòng chảy nặng
nề, điềm đạm và chậm rãi của con sông mang nặng phù sa thượng
nguồn, vừa thể hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa bao hiểm nguy, bộc lộ
được sức mạnh tiềm ẩn chứa đầy đe dọ, cuồng loạn của một dòng sông
vpn "năm năm báo oán đời đời đánh ghen" với con người. Như vậy,
trong cái hùng vĩ dữ dội, dòng sông vpn có nét thơ mộng trữ tình, và
trong cái thơ mộng trữ tình, nó vpn ẩn chứa vẻ dữ dằn, nguy hiểm. Đó
cũng là hai nét tính cách đối lập làm nên vẻ đẹp đầy cá tính của sông Đà trong thơ Quang Lâm:
"Đẹp ngàn đời biển trời sông bát ngát
Cá dầm xanh, anh vũ nhảy theo mùa
Khi mùa lũ thác reo gầm dữ dội
Thu chớm lạnh sóng nước lặng lờ trôi" (Nhớ sông Đà)
Dòng sông có vẻ đẹp riêng của mỗi mùa. Cái hay của văn Nguyễn Tuân
không chỉ ở vốn văn hóa, vốn từ vựng phong phú, trí tưởng tượng bay
bổng mà còn ở cảm xúc, ở thái độ: “Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng
sông Đà là đen như thực dân pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ
mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà
phiết vào bản đồ lai chữ”. Nhà văn đã đứng trên lập trường dân tộc
để viết những dòng này. Những dòng, những chữ thấm sâu tình đất nước. 9
2.2. GGc nhìn từ trongg rừng ra dòng sông mang vẻ đẹp của một “cố nhân”
_ Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn
Tuân đã để cho ngòi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sông
Đà như một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Khi bắt
gặp ánh nắng chiếu vào mắt, Vẻ đẹp của nước Sông Đà gợi nhớ đến một
trò chơi của con trẻ “trước mắt thấy loang loáng như trẻ con
nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”, đẹp một cách hồn
nhiên và trong sáng. Nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê
hồn trong ánh sáng" loé lên một màu nắng tháng ba Đường
thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu". (Mượn một câu thơ trong
bài thơ Đường nổi tiếng "Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi
Quảng Lăng" – Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ
thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ
Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình.
_ Vẻ đẹp của bờ bãi sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên trong khu
vườn cổ tích Khung cảnh: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn
bươm bướm trên sông Đà”. bay rợp bên sông với những sắc màu sặc
sỡ. Tạo cảm giác lạc vào thế giới thần tiên, khu vườn cổ tích. Tất cả đều
thuộc về một cái gì đó từ quá khứ. Khi bất ngờ gặp lại Sông Đà tác giả
bất ngờ cảm nhận được cái gì đó đàm đằm ấm ấm hết sức thân thuộc.
Chính vì thế nên tác giả bật ra gọi Sông Đà là cố nhân. Biết bao thân
thương trong hai tiếng cố nhân ấy. Bởi lẽ sau bao lâu không gặp, đến
giây phút hội ngộ không sao giấu nổi sự xúc động Vì vậy khi được gặp lại
con sông tác giả vui vô cùng để rồi thốt lên “Chao ôi”. Tác giả dùng hai
hình ảnh liên tưởng: vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm,
vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Có cái hạnh phúc nào bằng
sau những ngày mưa dầm được nhìn thấy ánh nắng ấm áp, có cái hạnh
phúc nào bằng được mơ lại giấc mơ đẹp đứt quãng. Niềm hạnh phúc khi
bắt gặp sông Đà cũng giống như vậy. Và dòng sông thì vpn đang chờ đợi
người tri kỷ.“Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó
đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy
mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại
bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.Cách so sánh độc đáo, nhân
cách hóa, sông Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: Thân thiện, dễ mến,
phảng phất hơi ấm tình người của dòng sông “đằm đằm ấm ấm” thân
thuộc khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”. Nó trở
thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về. 10
2.4. T rong g óc
nhìn từ giữa lòng sông Đà, con sông mang vẻ đẹp
của một người tình n hân
Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ Đó là vẻ đẹp
tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn lưu lại dấu tích của lịch sử cha ông.
“Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời
Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Sự lặng tờ ấy
được nhấn mạnh trong cả cái êm ả, yên bình của không gian và cả cái
thăm thẳm, xa xăm của thời gian. “Bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, làm nổi bật
vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai.
Bờ sông nổi lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Trong
cảnh lặng như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết,
nhà văn đã nhìn thấy một vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú
lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người”.
Hình ảnh “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp” vừa gợi tả sự
trùng điệp của những đồi cỏ gianh nối tiếp nhau đến tận những dãy núi
xa xăm, vừa gợi ra hình ảnh sinh sôi, nảy nở, tràn đầy sức sống của
những “nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi
đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Hình ảnh miêu tả gợi lên
cái non tơ, tràn đầy sức sống tô điểm cho vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà,
sự giàu đẹp trù phú của Sông Đà. Người và thiên nhiên đã hoàn toàn
quấn quýt, hài hòa. “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng
cỏ sương”, “nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái
tiếng nói riêng của con vật lành…”. Vẻ đẹp ấy thật đầy chất thơ,
chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lpy.
Hình ảnh “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng
như bạc rơi thoi” với hình ảnh so sánh độc đáo vừa gợi tả âm thanh
(tiếng qupy), vừa cho thấy màu sắc (sắc trắng như bạc), vừa chỉ rõ dáng
hình (thon dài như thoi) của những đàn cá dầm xanh quý hiếm. Bằng
nghệ thuật cổ điển lấy động tả tĩnh. Khung cảnh lặng tờ đến nỗi tác giả
cảm nhận được cả tiếng cá qupy. “Tiếng cá đập nước sông đuổi mất
đàn hươu vụt biến”. Phải chăng đó cũng là khoảng lặng trong tâm hồn
của Nguyễn Tuân để hứng lấy những âm thanh nên thơ của sự sống, một
sự sống trỗi mình trong lá ngô non, búp cỏ non mạnh mẽ trong tiếng đập
nước của cá? và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt
nước lênh bênh… bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người
tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên
quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà văn có
sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước: “Dải
sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
của “một người tình nhân chưa quen biết”. khi ở trên sông thì Sông 11
Đà như một “ tình nhân” (khắng khít gắn bó, đắm say). Con sông Đà như
một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ “như nhớ thương
những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang
lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Con sông trở
nên hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy
buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ
điển trên dòng trên”. Đó là niềm mong ước của nhà văn nửa muốn gìn
giữ những nét nguyên sơ của con sông, nửa muốn cải tạo mà khai phá nó
để phục vụ con người – đó phải chăng cũng là lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn?
Những câu văn xuôi của Nguyễn Tuân vút lên như vần thơ mềm mại, du
dương, như nét vẽ thanh nhẹ, hư ảo. Dưới ngòi bút dạt dào, chất thơ,
chất họa, vẻ đẹp của dòng nước sông Đà hiện lên như một bức tranh kì
thú như những thước phim huyền ảo. Nguyễn Tuân như đưa người đọc
vào thế giới thần tiên cổ tích, thơ mộng, cảnh vừa hoang sơ, cổ kính, vừa
thơ mộng, trữ tình, vừa lặng tờ, êm ả, vừa ẩn chứa sức sống tươi non.
Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa
miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh
lãng mạn. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp
Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ
mộng và trữ tình. cũng là một dòng sông lai láng chất thơ trong cảm
nhận của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một công
trình nghệ thuật, một tác phẩm hội hoạ mà tạo hoá ban tặng tô điểm cho
đất nước; ông khám phá dòng sông ở phương diện thẩm mỹ nên nên thể
hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại rồi mà dường như tâm hồn
của bạn đọc vpn đang trôi mênh mang trên một dòng sông “hồn nhiên
như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. II. Hình t ượng người l á i đ ò sông Đà .
1.Vẻ đẹp bình dị của người dân lao động
Trước hết, người lái đò hiện lên với những vẻ đẹp bình dị của
người lao động. Điểm đặc biệt đầu tiên của nhân vật này chính là
không có tên gọi cụ thể mà tên của ông gắn liền với nghề nghiệp: "ông
lái đò". Ông có công việc là lái trên sông Đà, hằng ngày đối diện với
thiên nhiên hung bạo. Điều này thể hiện, ông là đại diện cho vẻ đẹp
người lái đò trên sông nước, cần mpn.
2. Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba:
2.1.Ông lái đò là người thạo nghề, cG tình yêu nghề. Hằng ngày
phải đối diện với “loài thủy quái” hung bạo, ông vpn giữ thái độ bình tĩnh,
lạc quan đáng quý. Trong đôi mắt của Nguyễn Tuân, người lái đò còn hiện
lên với sự từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò. Ông am 12
hiểu về Sông Đà cùng trí nhớ tuyệt vời “ông đò nắm chắc binh pháp
của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục kích của
lũ đá”. Đến đây, ta băn khoăn tự hỏi, có phải chính vẻ đẹp của ông đò
trong thiên tùy bút này đã gợi cảm hứng để nhà thơ Vũ Quần Phương viết
lên những dòng thơ mộc mạc:
"Tôi thuộc ngầm thuộc đá
Tôi thuộc lũ, thuộc dòng [...]
Sống cuộc đời sông nước Tôi lấy nước làm nhà Nước là bầu là bạn Tôi nhìn nước trên sông
Gắng hiểu dòng dưới đáy"
(Với sông Đà - Vũ Quần Phương)
2.2.Người lái đò là người mưu trí ,dũng cảm, bản lĩnh Nguyễn Tuân
đã sử dụng nghệ thuật đối lập để làm nổi bật phẩm chất đáng quý này
nơi ông. Trước hết, tác giả đi sâu vào miêu tả dòng sông Đà như một loài
“thủy quái” hung tợn. Nó hiện lên với “diện mạo và tâm địa một thứ
kẻ thù số một”. Sự nguy hiểm và hung bạo ấy được thể hiện ở việc
dòng sông có đầy cạm bpy với những ghềnh, thác, hút nước, sóng nước.
Thêm đó, những thạch trận trùng điệp, đầy luồng chết như luôn chầu
chực nuốt chửng, đập tan con thuyền càng làm nổi bật sự nguy hiểm của
dòng sông. Đối lập với sự hung tợn ấy là hình ảnh người lái đò ung
dung, bình thản. Ông đã bước vào cuộc vượt thác giống như vị chỉ huy
bước vào trận đánh. Tác giả đã đặt nhân vật của mình vào trong môi
trường chiến trận, từ đó để nhân vật tự bộc lộ hết phẩm chất đáng quý
của bản thân. Khi vượt qua trùng vây đầu tiên, ta sẽ thấy rõ sự chiến
đấu hết mình của người lái đò.
Ở trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến
“Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn
chiến ác liệt diễn ra, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả
đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”..;, “đá tiền
vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh.
Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức
mạnh của đội quân đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi
nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”, ‘canh cửa”, “hất hàm’. Cộng
hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo:
“ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó. Tất cả làm nổi bật thế và lực
của đá sông vừa đông vừa mạnh, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với
ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người
đọc bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá,
nước thác reo hò làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội 13
tăng thêm không khí chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn
đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh quật vô hồi xông vào “đá
trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”, “như đô vật tóm lấy
thắt lưng ông đò”. Ông đã bình tĩnh “ Hai tay giữ lấy mái chèo
khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Lúc bị sóng thác đánh miếng đòn hiểm độc
“ bGp chặt lấy hạ bộ” đau điếng, Trong khi thế lực của Đà giang như
vậy, mà ông lái đò tuổi đã già, trong tay chỉ có một mái chèo làm vũ khí,
con thuyền của ông thì quá nhỏ bé trước muôn trùng sóng nước. Cuộc
chiến đó đã có lúc ông lái đò rơi vào tình thế bị động, bị sóng nước đánh
cho “mặt méo bệch” có nghĩa là nó làm cho biến dạng không chỉ ở
khuôn mặt mà còn gây đau đớn cho ông lái đò cả về thần thái. Nhưng
trước tình thế nguy cấp ấy, ông lái đò đã thể hiện sự tài hoa, trí dũng và
kinh nghiệm chèo đò của mình. Ông cố nén cơn đau chống đỡ ngón
đòn hiểm độc nhất của dòng sông và kiên cường dũng cảm vượt qua hỗn
chiến, đưa ra tiếng chỉ huy tỉnh táo“hai chân vẫn kẹp chắt lấy cuống
lái”, tiếng chỉ huy của ông vẫn ngắn gọn tỉnh táo”. để phá xong
trùng vi thạch trận thứ nhất. Ông bình tĩnh và tự tin, đưa con thuyền
thóat hiểm. Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của
mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của
sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân
sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà.
Đây chính là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng
song toàn của ông lái đò. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức
chịu đựng phi thường “ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp
chặt cuống lái” chỉ huy ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng “phá
song trùng vi thạch trận thứ nhất”.
Ở trùng vây thứ hai để tô đậm hơn tài năng chèo đò của ông,
Nguyễn Tuân đã tiếp tục dựng lên chặng vượt thác thứ hai. Ở chặng
này con sông Đà hiện lên ranh mãnh, xảo quyệt và nham hiểm hơn cả
chặng vượt thác lần thứ nhất. Ở khúc sông ngày nó “tăng thêm nhiều
cửa tử” và để đánh lừa con thuyền, nó đã “bố trí cửa sinh lệch qua
bờ hữu ngạn”, “dòng thác như hùm như beo đang hồng hộc tế
mạnh trên sông Đà, bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ
trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Rõ ràng
lúc này dòng thác hiện lên như một con thú đang đòi nuốt chết con
thuyền và ông lái đò. Trong hoàn cảnh nguy cấp như vậy, chỉ cần một
chút sơ sảy, ông lái đò phải trả giá bằng cả sinh mệnh của mình, song ở
trùng vi thạch trận thứ hai, ông đã từ thế thủ của chặng thứ nhất
chuyển sang thế công. Ông nén cái đau về thể xác (thác nước đã đánh
trúng đòn vào chỗ hiểm), điều khiển con thuyền vượt qua “trùng vi
thạch trận.” Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn 14
vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”, “ông đò nắm chắc
binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật
phục kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình
thế. khi thì ông “nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi,
ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng
nhanh vào cửa sinh, lúc thì ông tránh bọn thủy quân cửa ải nước mà
“rảo bơi chèo lên”, “đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở
đường tiến”, ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi
lên thác sông Đà như cưỡi hổ”, con thuyền của ông lao qua các cửa
tử phóng đúng vào cửa sinh. Ông lái đò có những động tác nhanh, mạnh,
táo bạo nhưng chuẩn xác. Những động từ mạnh được Nguyễn Tuân sử
dụng như “ghì cương, phóng nhanh, lái miết, đè sấn, chặt đòi” đã
miêu tả hành động dứt khoát đầy tài hoa và trí dũng của ông lái đò. Đặc
biệt ông đã khiến cho kẻ địch là thằng đá tướng phải “tiu nghỉu” cái
mặt vì để thua ông lái đò. Điều đó lại càng tô đậm tài năng chèo đò ở
người lái đò sông Đà. Ông như một dũng tướng, bình tĩnh xử lí tình huống
nguy hiểm một cách gan dạ và mưu trí. Ông luôn tỉnh táo không hề nao
núng, sáng suốt ứng phó kịp thời thay đổi chiến thuật phù hợp để chế
ngự dòng thác man dại, độc địa, xảo trá một cách ngoạn mục.
Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến
của sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên
những nét đẹp của ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường.
Trí tưởng tượng và vốn từ phong phú, Nguyễn Tuân tạo được đoạn
văn mang đầy không khí trận mạc, sinh động cuộc chiến đấu của người
lái đò với thác nước, với tầng lớp đá mai phục mà ông lái đò ngày nào
cũng phải đối mặt với Đà giang.
-Tay lái ra hoa của ông lái đò nghệ sĩ: “Còn một trùng vây thứ ba
nữa. Ít cửa hơn nhưng bên trái, bên phải đều là luồng chết cả
“Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ
của con thác khiến ông lái đò phải vận dụng tài năng nghề nghiệp của
mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô bay
trong không trung, Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa
đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép, Vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn
được”; để “xuyên qua mặt nước” những động từ mạnh “vút” hay
“xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng
với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ
nhanh mạnh vừa cảm nhận được độ khéo léo của con thuyền trong
hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ thuật lái thuyền 15
đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông
lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Trên Sông Đà oai phong, linh hoạt, bình tĩnh và tỉnh táo để chiến
thắng một con sông có nhiều mưu mô và hiểm ác. ĐG là tài hoa của
người nghệ sĩ. Dù bất cứ nghề nào, con người cũng bộ lộ tài khéo, điêu
luyện, con người đó là nghệ sĩ. Nguyễn Tuân quan niệm như vậy.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng
âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở
nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ
ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh
của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
3. Khiêm tốn giản dị, cốt cách tài hoa và phong thái ung dung nghệ sĩ.
-Ông lái đò có tâm hồn phong phú, giản dị mà thanh cao. Nhà
đò nghỉ lại trong hang đá, “đốt lửa trong hang, nướng ống cơm lam,
và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm
cá, hang cá mùa khô (…) cũng chẳng thấy ai bàn một lời nào về
cuộc chiến thắng vừa qua (…) cuộc sống của họ ngày nào cũng
phải chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái
sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì hồi hộp
đáng nhớ. Họ nghĩ thế lúc ngừng chèo”. Sau khi vượt thác: ông lái
đò là một người bình thường, giản dị, khi ê m
tốn , không bàn thêm lời nói
về cuộc thuỷ chiến sinh tử “dòng thác xóa tan trong trí nhớ” mà
thản nhiên đốt lửa, nướng cơm lam và nói về cá anh vũ cá dầm
xanh. Đó chính là vẻ đẹp của tâm hồn người nghệ sĩ lớn, là phẩm chất anh hùng, là người
lập lên chiến công phi thường nhưng lại cảm thấy đó là những gì rất đỗi bình thường Phải
chăng ông lái đò cũng đồng nghiệp của mình thiết tha gắn bó với nghề
nghiệp. Tài hoa nghệ thuật còn ở chổ đó. Nguyễn Tuân đã sữ dụng tri
thức của nhiều lĩnh vực khác nhau: hội hoạ, điện ảnh, võ thuật,
quân sự…để khắc họa hình tượng ông lái đò.
Nói tóm lại, ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” hội tụ cả với tư cách của
một người nghệ sĩ tài hoa và một người lao động bình thường trong thời đại mới. Nguyễn
Tuân đã cho thấy một chủ nghĩa anh hùng mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
đó là chất nghệ sĩ tài hoa trong những con người lao động giản dị bình thường. Qua đây ta
cũng thấy được tài năng uyên bác của Nguyên Tuân, của một tài năng suốt đời đi tìm cái
đẹp, đi tìm chất vàng mười đã qua thử lửa.
4.Đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng hình tượng của Nguyễn Tuân:
Nhận xét:Người lái đò thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn
nói. Nhưng ông lại là người anh hùng trước mắt NT. Nhà văn đã phát hiện
ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với 16
sóng to gió lớn để chèo chóng con thuyền. Ông hiện lên trong tác phẩm
là người lao động hăng say, quên mình vì công việc.
– Vẻ đẹp người lái đò chính là “chất vàng mười” mà Nguyễn Tuân đã
khám phá được trong chuyến thực tế Tây Bắc và thể hiện thật độc đáo trong thiên tùy bút. III.Tổng kết:
Bài tùy bút miêu tả con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình qua đó, tác
gỉa làm nổi bật bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, trữ tình nhưng
cũng hết sức khắc nghiệt, dữ dội. Tác phẩm còn ca ngợi người lái đò tài
ba, dũng cảm. Đó cũng chính là hình ảnh của nhân dân ta trong sự
nghiệp xây dựng đất nước. Thông qua hình tượng con Sông Đà và người
lái đò, tác giả bày tỏ tình yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống. 17