lOMoARcPSD| 61457685
a. Nguồn gốc của nhận thức
1.Nguồn gốc của nhận thức
Để tồn tại phát triển, con người hội phải được đáp ứng, thỏa mãn
các nhu cầu
Muốn vậy con người phải hoạt động, tác động vào thế giới khách quan.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động, con người cần có hiểu biết (tri thức)
về đối tượng liên quan trong hoạt động Con người phải tìm hiểu thế
giới: nhận thức
Vậy, nguồn gốc của nhận thức là hoạt động thực tiễn của con người
2.Các yếu tố của quá trình nhận thức Chthể nhận thức với điều
kiện:
- Có khả năng nhận thức
- Có nhu cầu hiểu biết
- Trực tiếp, tích cực thực hiện nhận thức
(2) Khách thể nhận thức: bộ phận của thế giới khách quan trong sựtương tác
với chủ thể nhận thức
(3) Môi trường nhận thức: môi trường xã hội, hoạt động xã hội
b. Bản chất của nhận thức - Quan
niệm duy tâm về nhận thức
CNDTCQ: sự vật chẳng qua chỉ là phức hợp cảm giác của con người. Do vậy,
nhận thức nhận thức cảm giác của con người về sự vật, nhận thức trạng thái
chủ quan của con người về sự vật.
CNDTKQ: không phủ định nhận thức chân lý của con người, giải thích thần
bí.
Platôn cho nhận thức là hồi tưởng lại, nhớ lại những cái linh hồn đã biết trước
khi nhập vào thể xác con người.
Hêghen cho nhận thức không phải là nhận thức bản thân sự vật mà là nhận
thức tinh thần thế giới đang tha hoá thành tự nhiên, hội, lịch sử
- Quan niệm DV trước Mác về nhận thức
Chủ nghĩa duy vật trước Mác nhìn chung có quan niệm duy vật về nhận
thức nhưng lại siêu hình, máy móc, thiếu quan điểm lịch sử, thực tiễn
về nhận thức.
dụ, Phoiơbắc quan niệm nhận thức một cách chết cứng, một lần là đủ,
không có tính lịch sử, không vận động, không biến đổi.
Những người theo trường phái hoài nghi chủ nghĩa thì nghi ngờ sự tồn
tại của sự vật nghi ngờ khả năng nhận thức của con người. Những
người theo thuyết không thể biết cho rằng, con người không thể nhận
thức được bản chất của sự vật, chỉ thể nhận thức được những hiện
tượng bộc lộ ra ngoài của sự vật mà thôi.
Như vậy, không có đại biểu triết học nào trước Mác giải quyết một cách
đúng đắn, khoa học vấn đề bản chất của nhận thức.
lOMoARcPSD| 61457685
- Quan niệm DVBC về bản chất nhận thức
Nhận thức quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con
người trên sthực tiễn. Điều này nghĩa là chủ nghĩa duy vật biện chứng
thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người.
Cơ sở của nhận thức chính là thực tiễn lịch sử - xã hội.
Công nhận khả năng nhận thức thế giới của con người. Không có cái gì con
người không nhận thức được, chỉ có cái mà con người chưa nhận thức được
thôi.
Nhận thức là quá trình biện chứng, có vận động biến đổi, phát triển, đi từ chưa
biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều hơn, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn, từ
bản chất cấp 1 đến bản chất cấp 2… nhưng không có giới hạn cuối cùng. Nhận
thức phải dựa trên sở thực tiễn, lấy thực tiễn làm mục đích nhận thức, làm
tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.
Tóm lại, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn. - Bản chất của nhận thức
Cách hiểu thông thường, nhận thức (cognition) là hành động hay quá trình
tiếp thu kiến thức những am hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm giác
quan, bao gồm các qui trình tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự luận,
sự tính toán, ….
Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam", nhận thức quá trình biện chứng của
sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người
tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Theo quan điểm DVBC, nhận thức quá trình phản ánh biện chứng hiện
thực khách quan vào trong bộ óc của con người, tính tích cực, năng động,
sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn để tìm ra tri thức.
Sự nhận thức của con người vừa ý thức, vừa thức, vừa cụ thể, vừa trừu
tượng mang tính trực giác. Quá trình nhận thức sử dụng tri thức có sẵn
tạo ra tri thức mới.
- Các cấp độ của nhận thức
Dựa vào khả năng phản ánh bản chất của đối tượng nhận thức, người ta chia nhận
thức thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức luận; chúng hai mức nhận
thức khác nhau về đối tượng, tính chất, chức năng cũng như hình thức và trình t
phản ánh.
- Nhận thức thông thường nhận thức khoa học. Căn cứ vào tính tự phát
hay tự giác của sự phản ánh bản chất của đối tượng nhận thức, người ta
chia nhận thức thành nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
- Nhận thức kinh nghiệm
Nhận thức kinh nghiệm được hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, hội, trong các thí nghiệm khoa học trong các hình
thức hoạt động thực tiễn không cơ bản khác. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm
là những tri thức kinh nghiệm.
lOMoARcPSD| 61457685
hai loại tri thức kinh nghiệm tri thức kinh nghiệm thường- những tri thức
thu nhận được nhờ sự quan sát trực tiếp hàng ngày trong lao động sản xuất; tri
thức kinh nghiệm khoa học những tri thức thu được nhờ đúc kết những thí
nghiệm khoa học.
Cả hai loại tri thức này có quan hệ mật thiết, xâm nhập lẫn nhau tạo
ra tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm -
Nhận thức lý luận
Nhận thức luận (còn gọi lý luận) là nhận thức gián tiếp, trừu tượng khái
quát về bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức luận được hình thành trên sở tổng kết nhận thức kinh nghiệm.
Cái khác của nhận thức luận so với nhận thức kinh nghiệm nằm chỗ, nhận
thức luận chức năng phản ánh gián tiếp, tính khái quát trừu tượng cao.
Nhận thức lý luận chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của s
vật, hiện tượng. Do vậy, tri thức lý luận (kết quả của nhận thức lý luận) là sự thể
hiện chân lý sâu sác, chính xác và có hệ thống hơn nhận thức kinh nghiệm.
- Nhận thức thông thường
Nhận thức thông thường (có tính tự phát) nhận thức hình thành tự phát, trực
tiếp từ hoạt động hàng ngày của con người.
Loại nhận thức này phản ánh sự vật, hiện tượng xẩy ra với tất cả những đặc
điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật, hiện tượng.
vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, gắn liền với những quan
niệm sống thực tế hàng ngày, chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội.
- Nhận thức khoa học
Nhận thức khoa học (có tính tự giác) là loại nhận thức được hình thành một cách
tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của
đối tượng nghiên cứu.
Đây là sự phản ánh diễn ra dưới dạng trừu tượng, khái quát vừa có tính hệ thống,
có căn cứ và có tính chân thực.
Sự phản ánh đó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng
ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất quy
luật của đối tượng nghiên cứu.
3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
a. Phạm trù thực tiễn
Các nhà triết học trước Mác ngoài Mác đều chưa trả lời được thực tiễn một
cách thực sự đúng đắn, khoa học.
Các nhà triết học tôn giáo coi hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của thượng đế là thực
tiễn.
Các nhà triết học duy tâm coi hoạt động tinh thần là hoạt động thực tiễn.
Điđờrô - nhà triết học người Pháp thế kỷ XVIII, coi thực tiễn hoạt động thực
nghiệm khoa học. Quan niệm này đúng nhưng chưa đủ.
lOMoARcPSD| 61457685
Phoiơbắc - nhà triết học người Đức thế kỷ XIX cho thực tiễn là những hoạt
động buôn bán tầm thường. Những quan niệm này là chưa khoa học.
- Theo triết học duy vật biện chứng, thực tiễn toàn bộ những hoạt động vật
chất cảm tính, có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải
tạo tự nhiên và xã hội. - Đặc trưng của thực tiễn
Thứ nhất, thực tiễn hoạt động vật chất cảm tính. Đó những hoạt động con
người phải dùng công cụ vật chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối tượng
vật chất để làm biến đổi chúng.
dụ, hoạt động cày ruộng, đào đất, xây nhà, sản xuất ra của cải vật chất nói
chung...
Thứ hai, thực tiễn tính lịch sử - hội. Nghĩa hoạt động thực tiễn hoạt
động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người,
trải qua những giai đoạn lịch sử nhất định, bị giới hạn bởi những điều kiện lịch
sử - cụ thể nhất định.
Thứ ba, thực tiễn hoạt động có tính mục đích - nhằm trực tiếp cải tự nhiên và
xã hội phục vụ con người.
- Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Sản xuất vật chất - hình thức bản, đầu tiên quan trọng nhất; đóng vai trò quyết
định các hình thức thực tiễn khác.
Hoạt động cải tạo hội - chính trị cũng như cải tạo các quan hệ hội. Chẳng
hạn như đấu tranh giai cấp, đấu tranh cho hoà bình, dân chủ, tiến bộ hội…
Hoạt động thực nghiệm khoa học - hình thức đặc biệt của thực tiễn; được tiến
hành trong những điều kiện con người chủ định tạo ra đnhận thức và cải tạo
tự nhiên - xã hội phục vụ con người.
Mỗi hình thức hoạt động thực tiễn có vai trò, chức năng riêng không thể thay thế,
nhưng chúng quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, sản xuất đóng vai tquyết
định đối với các hình thức khác.
b. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức Thực
tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức .
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
Thông qua và bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào sự vật làm cho sự
vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật. Trên cơ sở đó con người có hiểu biết về
chúng. Nghĩa là thực tiễn cung cấp “vật liệu” cho nhận thức. Không có thực tiễn
không thể có nhận thức.
Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói khác
đi, chính thực tiễn người đặt hàng cho nhận thức phải giải quyết. Trên cơ sđó
thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan của con người.
lOMoARcPSD| 61457685
Thực tiễn còn cơ schế tạo công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận thức hiê
quả hơn..
Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Nhận thức của con người bị chi phối bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. Ngay
từ thủa mông muội, để sống con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, tức
để sống, con người phải nhận thức. Nghĩa là ngay từ khi con người xuất hiện
trên trái đất, nhận thức của con người đã bị chi phối bởi nhu cầu thực tiễn.
Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ ý nghĩa đích thực khi được vận dụng
vào thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh
giá giá trị của tri thức - kết quả của nhận thức.
Vì vậy, những tri thức khoa học kết quả của nhận thức càng ý nghĩa, giá tr
khi càng được nhiều người vận dụng vào thực tiễn.
- Nếu nhận thức không thực tiễn nhân, chủ nghĩa hình thức,
chủnghĩa thành tích… thì nhận thức sớm muộn sẽ mất phương hướng, sẽ
phải trả giá.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân
Triết học duy vật biện chứng khẳng định, thực tiễn tiêu chuẩn
kháchquan của chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thông qua thực tiễn, con người mới
“vật chất hoá” được tri thức, “hiện thực hoá” được tưởng. Thông qua
quá trình đó, con người có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm.
Phải hiểu thực tiễn tiêu chuẩn chân một cách biện chứng, nghĩa
lànó vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. - Quan điểm của thực
tiễn
Nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người, phải xuất phát từ
thực tiễn.
Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành. Phải c
trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý luận.
Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận.
Tránh tuyệt đối hthực tiễn coi thường lý luận khi ấy srơi vào bệnh kinh
nghiệm. Ngược lại cũng cần tránh tuyệt đối hoá luận và coi thường thực tiễn
vì khi ấy sẽ rơi vào bệnh giáo điều. 4. Các giai đoạn của quá trình nhận thức
Con đường biện chứng (các giai đoạn) của sự nhận thức
1. Biện chứng của quá trình nhận thức
2. Quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính và thực tiễn
3. Chân lý
- Các giai đoạn của quá trình nhận thức
V.I.Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của nhận thức chân lý: “Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng và từ duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của snhận thức thực tại khách
quan”.
lOMoARcPSD| 61457685
- Như vậy, nhận thức gồm 2 giai đoạn: +Trực quan sinh
động; +Tư duy trừu tượng.
- Trực quan sinh động
Đây giai đoạn đầu tiên nhận thức diễn ra dưới 3 hình thức: cảm giác, tri giác,
biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, được nảy
sinh do sự tác động trực tiếp của khách thể lên giác quan của con người.
Về bản chất, cảm giác hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Do đó,
hình thức biểu hiện của cảm giác phụ thuộc vào chủ thể nhận thức nhưng nội
dung của nó không phụ thuộc vào chủ thể, chỉ phụ thuộc vào khách thể.
▪ Tri giác là tổng hợp của nhiều cảm giác về sự vật. Nói khác đi, tổng hợp nhiều
cảm giác cho ta tri giác vsự vật. kết quả tác động trực tiếp của sự vật đồng
thời lên nhiều giác quan của con người.
Ví dụ, khi xem tivi, cả hình ảnh, màu sắc, âm thanh đều tác động lên các cơ quan
cảm giác của ta (thị giác, thính giác…) và cho ta tri giác về cái đang xem. ▪ Biểu
tượng hình ảnh vsự vật do tri giác đem lại nhưng được tái hiện lại nhờ trí nhớ.
Khác với tri giác, biểu tượng hình ảnh được tái hiện trong óc, khi sự vật không
trực tiếp tác động vào giác quan. Nhưng biểu tượng vẫn giống tri giác chỗ, nó
vẫn chỉ hình ảnh cảm tính vsự vật, tức hình ảnh trực tiếp, bề ngoài về sự
vật.
Cảm giác, tri giác biểu tượng những hình thức của nhận thức cảm tính có
liên hệ hữu cơ với nhau, phản ánh trực tiếp vẻ ngoài của sự vật. Những hình ảnh
này trực tiếp, sống động, phong phú nhưng chưa cho ta sự hiểu biết về bản chất
bên trong của sự vật.
- Tư duy trừu tượng
Đây là giai đoạn cao hơn về chất của quá trình nhận thức. Nó nảy sinh trên cơ sở
của nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn với 3 hình thức: khái niệm, phán
đoán, suy lý.
Khái niệm hình thức đầu tiên, bản của duy trừu tượng, phản ánh khái
quát, gián tiếp một hoặc một số thuộc tính chung tính bản chất nào đó của một
nhóm sự vật được biểu thị bằng một từ hay một cụm từ.
Phán đoán hình thức liên kết các khái niệm để khẳng định hay phủ định một
thuộc tính nào đó của svật, hiện tượng dưới hình thức ngôn ngữ. dụ,
nhôm là kim loại, nhựa không dẫn điện...
- Suy lý là sự lập luận mà xuất phát từ những phán đoán đã biết làm tiền đề
rút ra phán đoán mới làm kết luận. Tính đúng đắn của phán đoán mới được
rút ra phụ thuộc vào tính đúng đắn của các phán đoán làm tiền đề sự
tuân thủ quy tắc lôgíc cũng như phương pháp duy của chủ thể nhận thức.
Ví dụ, từ các phán đoán: A thuộc B, và B thuộc C, người ta thể rút ra kết luận:
A thuộc C. Tương tự như vậy, từ hai phán đoán: mọi kim loại đều dẫn điện
nhôm là kim loại, chúng ta rút ra phán đoán mới làm kết luận: nhôm dẫn điện.
lOMoARcPSD| 61457685
- Có hai loại suy luận:
+ suy luận quy nạp - đi từ cái riêng tới cái chung (tức từ phán đoán đơn nhất
qua phán đoán đặc thù đến phán đoán phổ biến)
+ suy luận diễn dịch - đi từ cái chung tới cái riêng (từ phán đoán phổ biến qua
phán đoán đặc thù rồi tới phán đoán đơn nhất).
- Quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức tính thực tiễn - Nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá trình nhận
thức thống nhất, liên hệ bổ sung cho nhau và đều dựa trên cơ sở thực tiễn.
Nhận thức cảm tính sở cho nhận thức tính, không nhận thức
cảm tính thì không nhận thức tính. - Nhờ nhận thức tính mà con
người mới đi sâu nhận thức được bản chất sự vật, làm cho nhận thức của
con người ngày càng sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, đúng đắn hơn.
-Cả hai giai đoạn nhận thức này luôn dựa trên sở thực tiễn, được kiểm
tra bởi thực tiễn và đều nhằm phục vụ thực tiễn.
5. Tính chất của chân lý
- Khái niệm về chân lý
Khái niệm: chân là những tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và
được thực tiễn kiểm nghiệm. Ví dụ, mọi kim loại đều dẫn điện...
Bản chất của chân lý là tri thức đúng
Nguồn gốc của chân lý: kết quả của nhận thức, nên chân nguồn gốc từ
thực tiễn
Do đó, không có chân lý chung chung, trừu tượng.
- Tính chất của chân lý
- Tính chất: tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối tính cụ thể.+ Tính
khách quan hay chân lý khách quan: Công nhận chân lý khách quan nghĩa
công nhận rằng nội dung tri thức của chân lý là khách quan, không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con người chỉ phụ thuộc vào thế giới khách quan.
+ Tính cụ thể của chân hay chân cụ thể: Chân đạt được trong quá trình
nhận thức bao giờ cũng phản ánh svật, hiện tượng trong một điều kiện cthể
với những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, trong một không gian thời gian xác định.
Do đó, không chân chung chung, trừu tượng. Tính chất này của chân là
squan trọng cho quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức hoạt động
thực tiễn. Chính chân lý là cụ thể nên cách mạng phải sáng tạo.
+ Tính tuyệt đối và tương đối của chân lý hay chân lý tuyệt đối và chân lý tương
đối:
Chân lý tuyệt đối là chân lý nội dung của phản ánh đúng đắn, đầy đủ, toàn
diện về hiện thực khách quan.
Chân tương đối chân nội dung của phản ánh đúng đắn hiện thực
khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa toàn diện, mới phản ánh đúng một mặt, một
khía cạnh của sự vật, hiện tượng, sẽ được nhận thức của con người bổ sung, hoàn
lOMoARcPSD| 61457685
thiện. Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý quan hệ biện chứng với nhau.
Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số chân lý tương đối .
Mặt khác, trong mỗi chân lý tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của
chân lý tuyệt đối.
Triết học duy vật biện chứng chỉ ra rằng, nhận thức của con người toàn ng
tuyệt đối, nếu xem xét nhận thức như một quá trình phát triển vô tận của các thế
hệ người. Nhận thức của con người cũng không toàn năng, tương đối nếu
xem xét nhận thức chỉ giới hạn từng người, từng thế hệ người cụ thể. Chân
tuyệt đối chân tương đối đều sự thể hiện quá trình nhận thức chân
khách quan của con người.
Các tính chất trên của chân quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau.
Thiếu một trong các tính chất đó thì những tri thức đạt được trong quá trình nhận
thức không có giá trị đối với con người.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61457685
a. Nguồn gốc của nhận thức
1.Nguồn gốc của nhận thức
Để tồn tại và phát triển, con người và xã hội phải được đáp ứng, thỏa mãn các nhu cầu
Muốn vậy con người phải hoạt động, tác động vào thế giới khách quan.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động, con người cần có hiểu biết (tri thức)
về đối tượng liên quan trong hoạt động Con người phải tìm hiểu thế giới: nhận thức
Vậy, nguồn gốc của nhận thức là hoạt động thực tiễn của con người
2.Các yếu tố của quá trình nhận thức Chủ thể nhận thức với điều kiện:
- Có khả năng nhận thức - Có nhu cầu hiểu biết
- Trực tiếp, tích cực thực hiện nhận thức
(2) Khách thể nhận thức: bộ phận của thế giới khách quan trong sựtương tác
với chủ thể nhận thức
(3) Môi trường nhận thức: môi trường xã hội, hoạt động xã hội
b. Bản chất của nhận thức - Quan
niệm duy tâm về nhận thức
CNDTCQ: sự vật chẳng qua chỉ là phức hợp cảm giác của con người. Do vậy,
nhận thức là nhận thức cảm giác của con người về sự vật, nhận thức trạng thái
chủ quan của con người về sự vật.
CNDTKQ: không phủ định nhận thức chân lý của con người, và giải thích thần bí.
Platôn cho nhận thức là hồi tưởng lại, nhớ lại những cái mà linh hồn đã biết trước
khi nhập vào thể xác con người.
Hêghen cho nhận thức không phải là nhận thức bản thân sự vật mà là nhận
thức tinh thần thế giới đang tha hoá thành tự nhiên, xã hội, lịch sử
- Quan niệm DV trước Mác về nhận thức
Chủ nghĩa duy vật trước Mác nhìn chung có quan niệm duy vật về nhận
thức nhưng lại siêu hình, máy móc, thiếu quan điểm lịch sử, thực tiễn về nhận thức.
Ví dụ, Phoiơbắc quan niệm nhận thức một cách chết cứng, một lần là đủ,
không có tính lịch sử, không vận động, không biến đổi.
Những người theo trường phái hoài nghi chủ nghĩa thì nghi ngờ sự tồn
tại của sự vật và nghi ngờ khả năng nhận thức của con người. Những
người theo thuyết không thể biết cho rằng, con người không thể nhận
thức được bản chất của sự vật, chỉ có thể nhận thức được những hiện
tượng bộc lộ ra ngoài của sự vật mà thôi.
Như vậy, không có đại biểu triết học nào trước Mác giải quyết một cách
đúng đắn, khoa học vấn đề bản chất của nhận thức. lOMoAR cPSD| 61457685
- Quan niệm DVBC về bản chất nhận thức
Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con
người trên cơ sở thực tiễn. Điều này có nghĩa là chủ nghĩa duy vật biện chứng
thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người.
Cơ sở của nhận thức chính là thực tiễn lịch sử - xã hội.
Công nhận khả năng nhận thức thế giới của con người. Không có cái gì mà con
người không nhận thức được, chỉ có cái mà con người chưa nhận thức được mà thôi.
Nhận thức là quá trình biện chứng, có vận động biến đổi, phát triển, đi từ chưa
biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều hơn, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn, từ
bản chất cấp 1 đến bản chất cấp 2… nhưng không có giới hạn cuối cùng. Nhận
thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, lấy thực tiễn làm mục đích nhận thức, làm
tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.
Tóm lại, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn. - Bản chất của nhận thức
Cách hiểu thông thường, nhận thức (cognition) là hành động hay quá trình
tiếp thu kiến thức và những am hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác
quan, bao gồm các qui trình tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự lí luận, sự tính toán, ….
Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam", nhận thức là quá trình biện chứng của
sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người
tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Theo quan điểm DVBC, nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng hiện
thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động,
sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn để tìm ra tri thức.
Sự nhận thức của con người vừa ý thức, vừa vô thức, vừa cụ thể, vừa trừu
tượng và mang tính trực giác. Quá trình nhận thức sử dụng tri thức có sẵn và tạo ra tri thức mới.
- Các cấp độ của nhận thức
Dựa vào khả năng phản ánh bản chất của đối tượng nhận thức, người ta chia nhận
thức thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận; chúng là hai mức nhận
thức khác nhau về đối tượng, tính chất, chức năng cũng như hình thức và trình tự phản ánh.
- Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Căn cứ vào tính tự phát
hay tự giác của sự phản ánh bản chất của đối tượng nhận thức, người ta
chia nhận thức thành nhận thức thông thường và nhận thức khoa học - Nhận thức kinh nghiệm
Nhận thức kinh nghiệm được hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội, trong các thí nghiệm khoa học và trong các hình
thức hoạt động thực tiễn không cơ bản khác. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm
là những tri thức kinh nghiệm. lOMoAR cPSD| 61457685
Có hai loại tri thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm thường- là những tri thức
thu nhận được nhờ sự quan sát trực tiếp hàng ngày và trong lao động sản xuất; tri
thức kinh nghiệm khoa học – là những tri thức thu được nhờ đúc kết những thí nghiệm khoa học.
Cả hai loại tri thức này có quan hệ mật thiết, xâm nhập lẫn nhau tạo
ra tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm - Nhận thức lý luận
Nhận thức lý luận (còn gọi là lý luận) là nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái
quát về bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết nhận thức kinh nghiệm.
Cái khác của nhận thức lý luận so với nhận thức kinh nghiệm nằm ở chỗ, nhận
thức lý luận có chức năng phản ánh gián tiếp, có tính khái quát và trừu tượng cao.
Nhận thức lý luận chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự
vật, hiện tượng. Do vậy, tri thức lý luận (kết quả của nhận thức lý luận) là sự thể
hiện chân lý sâu sác, chính xác và có hệ thống hơn nhận thức kinh nghiệm.
- Nhận thức thông thường
Nhận thức thông thường (có tính tự phát) là nhận thức hình thành tự phát, trực
tiếp từ hoạt động hàng ngày của con người.
Loại nhận thức này phản ánh sự vật, hiện tượng xẩy ra với tất cả những đặc
điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật, hiện tượng. Vì
vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, gắn liền với những quan
niệm sống thực tế hàng ngày, chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội. - Nhận thức khoa học
Nhận thức khoa học (có tính tự giác) là loại nhận thức được hình thành một cách
tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của
đối tượng nghiên cứu.
Đây là sự phản ánh diễn ra dưới dạng trừu tượng, khái quát vừa có tính hệ thống,
có căn cứ và có tính chân thực.
Sự phản ánh đó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng
ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy
luật của đối tượng nghiên cứu.
3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức a. Phạm trù thực tiễn
Các nhà triết học trước Mác và ngoài Mác đều chưa trả lời được thực tiễn một
cách thực sự đúng đắn, khoa học.
Các nhà triết học tôn giáo coi hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của thượng đế là thực tiễn.
Các nhà triết học duy tâm coi hoạt động tinh thần là hoạt động thực tiễn.
Điđờrô - nhà triết học người Pháp thế kỷ XVIII, coi thực tiễn là hoạt động thực
nghiệm khoa học. Quan niệm này đúng nhưng chưa đủ. lOMoAR cPSD| 61457685
Phoiơbắc - nhà triết học người Đức thế kỷ XIX cho thực tiễn là những hoạt
động buôn bán tầm thường. Những quan niệm này là chưa khoa học.
- Theo triết học duy vật biện chứng, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật
chất cảm tính, có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải
tạo tự nhiên và xã hội. - Đặc trưng của thực tiễn
Thứ nhất, thực tiễn là hoạt động vật chất cảm tính. Đó là những hoạt động mà con
người phải dùng công cụ vật chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối tượng
vật chất để làm biến đổi chúng.
Ví dụ, hoạt động cày ruộng, đào đất, xây nhà, sản xuất ra của cải vật chất nói chung...
Thứ hai, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội. Nghĩa là hoạt động thực tiễn là hoạt
động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người, và
trải qua những giai đoạn lịch sử nhất định, bị giới hạn bởi những điều kiện lịch
sử - cụ thể nhất định.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích - nhằm trực tiếp cải tự nhiên và
xã hội phục vụ con người.
- Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Sản xuất vật chất - hình thức cơ bản, đầu tiên quan trọng nhất; đóng vai trò quyết
định các hình thức thực tiễn khác.
Hoạt động cải tạo xã hội - chính trị cũng như cải tạo các quan hệ xã hội. Chẳng
hạn như đấu tranh giai cấp, đấu tranh cho hoà bình, dân chủ, tiến bộ xã hội…
Hoạt động thực nghiệm khoa học - hình thức đặc biệt của thực tiễn; được tiến
hành trong những điều kiện mà con người chủ định tạo ra để nhận thức và cải tạo
tự nhiên - xã hội phục vụ con người.
Mỗi hình thức hoạt động thực tiễn có vai trò, chức năng riêng không thể thay thế,
nhưng chúng quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, sản xuất đóng vai trò quyết
định đối với các hình thức khác.
b. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức Thực
tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức .
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
Thông qua và bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào sự vật làm cho sự
vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật. Trên cơ sở đó con người có hiểu biết về
chúng. Nghĩa là thực tiễn cung cấp “vật liệu” cho nhận thức. Không có thực tiễn
không thể có nhận thức.
Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói khác
đi, chính thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức phải giải quyết. Trên cơ sở đó
thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan của con người. lOMoAR cPSD| 61457685
Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận thức hiêụ quả hơn..
Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Nhận thức của con người bị chi phối bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. Ngay
từ thủa mông muội, để sống con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, tức
là để sống, con người phải nhận thức. Nghĩa là ngay từ khi con người xuất hiện
trên trái đất, nhận thức của con người đã bị chi phối bởi nhu cầu thực tiễn.
Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng
vào thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh
giá giá trị của tri thức - kết quả của nhận thức.
Vì vậy, những tri thức khoa học kết quả của nhận thức càng có ý nghĩa, giá trị
khi càng được nhiều người vận dụng vào thực tiễn.
- Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ nghĩa hình thức,
chủnghĩa thành tích… thì nhận thức sớm muộn sẽ mất phương hướng, sẽ phải trả giá.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý •
Triết học duy vật biện chứng khẳng định, thực tiễn là tiêu chuẩn
kháchquan của chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thông qua thực tiễn, con người mới
“vật chất hoá” được tri thức, “hiện thực hoá” được tư tưởng. Thông qua
quá trình đó, con người có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. •
Phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý một cách biện chứng, nghĩa
lànó vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. - Quan điểm của thực tiễn
Nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người, phải xuất phát từ thực tiễn.
Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành. Phải chú
trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý luận.
Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận.
Tránh tuyệt đối hoá thực tiễn và coi thường lý luận vì khi ấy sẽ rơi vào bệnh kinh
nghiệm. Ngược lại cũng cần tránh tuyệt đối hoá lý luận và coi thường thực tiễn
vì khi ấy sẽ rơi vào bệnh giáo điều. 4. Các giai đoạn của quá trình nhận thức
Con đường biện chứng (các giai đoạn) của sự nhận thức
1. Biện chứng của quá trình nhận thức
2. Quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính và thực tiễn 3. Chân lý
- Các giai đoạn của quá trình nhận thức
V.I.Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của nhận thức chân lý: “Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”. lOMoAR cPSD| 61457685
- Như vậy, nhận thức gồm 2 giai đoạn: +Trực quan sinh
động; +Tư duy trừu tượng. - Trực quan sinh động
Đây là giai đoạn đầu tiên nhận thức diễn ra dưới 3 hình thức: cảm giác, tri giác, biểu tượng.
▪ Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, được nảy
sinh do sự tác động trực tiếp của khách thể lên giác quan của con người.
Về bản chất, cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Do đó,
hình thức biểu hiện của cảm giác phụ thuộc vào chủ thể nhận thức nhưng nội
dung của nó không phụ thuộc vào chủ thể, chỉ phụ thuộc vào khách thể.
▪ Tri giác là tổng hợp của nhiều cảm giác về sự vật. Nói khác đi, tổng hợp nhiều
cảm giác cho ta tri giác về sự vật. Nó là kết quả tác động trực tiếp của sự vật đồng
thời lên nhiều giác quan của con người.
Ví dụ, khi xem tivi, cả hình ảnh, màu sắc, âm thanh đều tác động lên các cơ quan
cảm giác của ta (thị giác, thính giác…) và cho ta tri giác về cái đang xem. ▪ Biểu
tượng là hình ảnh về sự vật do tri giác đem lại nhưng được tái hiện lại nhờ trí nhớ.
Khác với tri giác, biểu tượng là hình ảnh được tái hiện trong óc, khi sự vật không
trực tiếp tác động vào giác quan. Nhưng biểu tượng vẫn giống tri giác ở chỗ, nó
vẫn chỉ là hình ảnh cảm tính về sự vật, tức là hình ảnh trực tiếp, bề ngoài về sự vật.
Cảm giác, tri giác và biểu tượng là những hình thức của nhận thức cảm tính có
liên hệ hữu cơ với nhau, phản ánh trực tiếp vẻ ngoài của sự vật. Những hình ảnh
này trực tiếp, sống động, phong phú nhưng chưa cho ta sự hiểu biết về bản chất bên trong của sự vật. - Tư duy trừu tượng
Đây là giai đoạn cao hơn về chất của quá trình nhận thức. Nó nảy sinh trên cơ sở
của nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn với 3 hình thức: khái niệm, phán đoán, suy lý.
Khái niệm là hình thức đầu tiên, cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái
quát, gián tiếp một hoặc một số thuộc tính chung có tính bản chất nào đó của một
nhóm sự vật được biểu thị bằng một từ hay một cụm từ.
Phán đoán là hình thức liên kết các khái niệm để khẳng định hay phủ định một
thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng dưới hình thức ngôn ngữ. Ví dụ,
nhôm là kim loại, nhựa không dẫn điện...
- Suy lý là sự lập luận mà xuất phát từ những phán đoán đã biết làm tiền đề
rút ra phán đoán mới làm kết luận. Tính đúng đắn của phán đoán mới được
rút ra phụ thuộc vào tính đúng đắn của các phán đoán làm tiền đề và sự
tuân thủ quy tắc lôgíc cũng như phương pháp tư duy của chủ thể nhận thức.
Ví dụ, từ các phán đoán: A thuộc B, và B thuộc C, người ta có thể rút ra kết luận:
A thuộc C. Tương tự như vậy, từ hai phán đoán: mọi kim loại đều dẫn điện và
nhôm là kim loại, chúng ta rút ra phán đoán mới làm kết luận: nhôm dẫn điện. lOMoAR cPSD| 61457685 - Có hai loại suy luận:
+ suy luận quy nạp - đi từ cái riêng tới cái chung (tức là từ phán đoán đơn nhất
qua phán đoán đặc thù đến phán đoán phổ biến)
+ suy luận diễn dịch - đi từ cái chung tới cái riêng (từ phán đoán phổ biến qua
phán đoán đặc thù rồi tới phán đoán đơn nhất).
- Quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính và thực tiễn - Nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá trình nhận
thức thống nhất, liên hệ bổ sung cho nhau và đều dựa trên cơ sở thực tiễn.
Nhận thức cảm tính là cơ sở cho nhận thức lý tính, không có nhận thức
cảm tính thì không có nhận thức lý tính. - Nhờ có nhận thức lý tính mà con
người mới đi sâu nhận thức được bản chất sự vật, làm cho nhận thức của
con người ngày càng sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, đúng đắn hơn.
-Cả hai giai đoạn nhận thức này luôn dựa trên cơ sở thực tiễn, được kiểm
tra bởi thực tiễn và đều nhằm phục vụ thực tiễn.
5. Tính chất của chân lý - Khái niệm về chân lý
Khái niệm: chân lý là những tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và
được thực tiễn kiểm nghiệm. Ví dụ, mọi kim loại đều dẫn điện...
Bản chất của chân lý là tri thức đúng
Nguồn gốc của chân lý: là kết quả của nhận thức, nên chân lý có nguồn gốc từ thực tiễn
Do đó, không có chân lý chung chung, trừu tượng.
- Tính chất của chân lý
- Tính chất: tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.+ Tính
khách quan hay chân lý khách quan: Công nhận chân lý khách quan nghĩa là
công nhận rằng nội dung tri thức của chân lý là khách quan, không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con người chỉ phụ thuộc vào thế giới khách quan.
+ Tính cụ thể của chân lý hay chân lý cụ thể: Chân lý đạt được trong quá trình
nhận thức bao giờ cũng phản ánh sự vật, hiện tượng trong một điều kiện cụ thể
với những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, trong một không gian và thời gian xác định.
Do đó, không có chân lý chung chung, trừu tượng. Tính chất này của chân lý là
cơ sở quan trọng cho quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn. Chính chân lý là cụ thể nên cách mạng phải sáng tạo.
+ Tính tuyệt đối và tương đối của chân lý hay chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối:
Chân lý tuyệt đối là chân lý mà nội dung của nó phản ánh đúng đắn, đầy đủ, toàn
diện về hiện thực khách quan.
Chân lý tương đối là chân lý mà nội dung của nó phản ánh đúng đắn hiện thực
khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa toàn diện, mới phản ánh đúng một mặt, một
khía cạnh của sự vật, hiện tượng, sẽ được nhận thức của con người bổ sung, hoàn lOMoAR cPSD| 61457685
thiện. Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý quan hệ biện chứng với nhau.
Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số chân lý tương đối .
Mặt khác, trong mỗi chân lý tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của chân lý tuyệt đối.
Triết học duy vật biện chứng chỉ ra rằng, nhận thức của con người là toàn năng
tuyệt đối, nếu xem xét nhận thức như một quá trình phát triển vô tận của các thế
hệ người. Nhận thức của con người cũng là không toàn năng, là tương đối nếu
xem xét nhận thức chỉ giới hạn ở từng người, từng thế hệ người cụ thể. Chân lý
tuyệt đối và chân lý tương đối đều là sự thể hiện quá trình nhận thức chân lý
khách quan của con người.
Các tính chất trên của chân lý quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau.
Thiếu một trong các tính chất đó thì những tri thức đạt được trong quá trình nhận
thức không có giá trị đối với con người.