lOMoARcPSD|49220901
Ngun gc
- Quyn lc công cng:
Nó có ngun gc quyn lực tư, là thủ đon và s bo v mà quyn lực tư thực hin. Quyn lc
công ích cho vic thc hin bo v quyn lc nhân và xúc tiến s văn minh tiến b ca
xã hi. Mt khác, quyn lc công có sn gii hn ni tại và đặc tính d hoá ca nó.
- Quyn lc xã hi:
Nhng yếu t to to ra quan h quyn lc hi? Khi các cá nhân hoàn toàn xa l ln đầu tương
tác vi nhau thì quan h đó chưa có quan hệ quyn lc. Khi quan h xã hi gia các cá nhân này
xác lp thì quan h quyn lc mi xut hiện. Theo quan điểm ca Karl Marx (1818-1883) thì ngun
gc ca s bt bình đẳng xã hi chính là vic s hu hay không s hữu liệu sn xut. Chế độ
s hữu nhân ngun gc to ra s phân chia quyn lc trong hi, đó người chiếm
hữu liệu sn xuất người quyn lực điều chỉnh hành vi hi của người không
liu sn xut. Max Weber cho rng quyn lc không ch ngun gc kinh tế n t
nhiu yếu t phi kinh tế khác nữa (gia đình, học vn, tôn giáo, uy tín,...). Trong các dng quyn
lc xã hi, quyn lc quan trng nht là quyn lc chính tr. Quyn lc chính tr thường được các
cơ quan của chính ph thc hin.
Talcott Parsons, thì cho rng ngun gc ca quyn lc nm v thế ca mt cu trúc xã hi. Cu
trúc này hoạt động hài hòa, ổn định; nó quy định cho mi v thế hi mt quyn hạn tương ứng.
Để thc hin quyn hạn này, nó đặt ra cho v thế đó một mô hình hành vi được phép, đáng được
mong đợi; nghĩa là khi chúng ta thc hiện các vai trò được xã hội trao cho, thì chúng ta cũng thc
hin quyn lực chúng ta được y nhiệm. Nvậy hội đã tạo cho các vai trò này mt s
hp pháp, hay mt s chính đáng; tức là, nếu chúng ta s chính đáng, sự hp pháp, thì
chúng ta có quyn lc. Quyn lc ca các vai trò xã hi không giống nhau, nhưng chúng phi hp
với nhau để to ra một cơ cấu thng nht và hài hòa.
Hình thc
- Quyn lc công cng: do nhà nước t chc ra và là công c bo v nhà nước, do đó mang
bn cht của nhà nước lp ra nó. Chng hn: “Quân đội nhân dân ca chế độ dân ch A-ten là
mt quyn lc công cng ca bn quý tc, chng li nhng nô l mà h bt phi phục tùng”.
Nói cách khác, quân đội nhân dân ca chế độ dân ch A-ten mang bn cht giai cp ca giai
cp ch nô dân ch, bo v chế độ dân ch A-ten. t khi xut hiện nhà nước, quyn lc công
cng - trong đó quân đội với tư cách là một b phn hp thành ca quyn lc công cng -“đã
tr thành mục đích ch yếu của nhà nước”, mang bản cht giai cp ca giai cp thng tr
trong xã hi. Nhân dân lúc này ch cung cp binh lính và nuôi binh lính ch không n là người
thành lập ra quân đội, cảnh sát như trong tổ chc th tộc trước đây nữa.
- Quyn lc xã hi:
ng bc
Uy quyn
Quyn lc tuyệt đối;
Quyn lc quân ch;
lOMoARcPSD|49220901
Quyn lc thiu s;
Quyn lc dân ch.
T chc xã hi
B máy quan liêu
Quyn lc mm
Quyn lc thông minh
Trt t xã hi
Quan điểm:
Tư tưởng của Ph.Ăngghen về “quyền lc công cộng”:
Nghiên cu các kiểu nhà nước đã đang tồn ti trong lch sử, Ph.Ăngghen cho rằng nhà nước
có ba đặc trưng cơ bản.
Th nhất, nhà nước “phân chia thần dân ca nó theo địa vực”. Do nhu cầu phát trin ca sn
xuất và trao đổi mà nhng liên minh th tc cũ được hình thành trên cơ s huyết thống đã không
còn thích hp và cn phi thay bng mt liên minh mi. Trong liên minh mi này, các thành viên
thuc tt c các th tc hay b lạc đều được t do đi lại, được thc hin quyn lợi và nghĩa vụ
hi.
Th hai, “là s thiết lp mt quyn lc công cng, không còn trc tiếp là dân cư tự t chc thành
lực lượng trang nữa” do nhà nước t chức ra. Theo Ph.Ăngghen, ni hàm ca khái nim
quyn lc công cộng “không phải ch gm những người được vũ trang mà còn gm nhng công
c vt cht ph thêm nữa, như nhà tù và đ các loại cơ quan cưỡng bc mà t chc xã hi th tc
không h biết đến”.
Th ba, “Để duy trì quyn lc công cộng đó, cần phi s đóng góp của công dân, đó thuế
má” cùng với chính sách thuế việc “phát hành trước nhng hi phiếu, thc hin các
khon vay n, tức là phát hành công trái”.
V tính tt yếu ca vic thiết lp quyn lc công cng.
Trong cộng đồng th tộc, tù trưởng (người cầm đầu trong thi bình) và th lĩnh quân sự là do tt
c đàn ông đàn trong cộng đồng th tộc đó bu ra “khi trong b lc, mi thành viên
nam giới đến tuổi thành niên đu chiến binh thì vẫn chưa một quyn lc công cng tách
khi nhân dân và có th đứng đối lp với nhân dân”.
Người th lĩnh quân sự đưc th tc bầu ra “Ngoài những chức năng quân s ca mình... còn có
nhng chức năng tế l pháp na; nhng chức năng tế l pháp này không được quy
định mt cách tht chính xác, còn nhng chức năng quân sự tngười th lĩnh quân sự thc hành
vi tư cách là đại biu ti cao ca b lc, hay ca liên minh b lạc”.
Cũng như việc bầu ra tù trưởng hay ch huy quân s, vic bãi min các chc v này cũng do toàn
th nam, n thành viên trong th tc quyết định. Tuy nhiên, trong mt s trường hp, vic bãi
lOMoARcPSD|49220901
min này có th do “Hội đồng b lạc” quyết định, k c khi th tộc không đồng ý. Đáng chú ý là,
các chc sc, sau khi b bãi miễn, đều tr thành chiến binh bình thường như mọi người khác,
thành thường dân.
Ph.Ăngghen cho rng, du sao tt chc th tc vn mt hình thc cộng đồng người “tốt đẹp”:
Không có quân đội, hiến binh và cnh t, không có quý tc, vua chúa, tng đốc, trưởng quan và
quan tòa, không có nhà tù, không có nhng v x án,- thế mà mi vic vn trôi chy.
Việc tách chăn nuôi khỏi trng trọt đã hình thành nên các b lc du mc. Nhng b lc du mc
này từng bước tách ri khi b phn còn li ca những người dã man. Đây là sự phân công xã hi
lớn đầu tiên. “Từ s phân công xã hi ln lần đầu tiên, đã ny sinh ra s phân chia lớn đầu tiên
trong xã hi thành hai giai cp: ch nô và nô l, k bóc lột và người b bóc lột”.
Do lợi ích bản đối lập nhau, trước hết là li ích kinh tế, nên các giai cấp này luôn luôn đấu tranh
với nhau. Để cho nhng mặt đối lp đó không đi đến ch tiêu dit ln nhau tiêu dit luôn c
hi trong mt cuộc đấu tranh ích thì cn phi mt lực lượng ny sinh t xã hội, nhưng
lại đứng trên xã hi và ngày càng tách ri khi xã hi, có nhim v làm du bt s xung đột và gi
cho s xung đột đó nằm trong vòng “trt tự”. Lực lượng đó chính là nhà nưc.
T khi nhà nước xut hin, h tưởng chính tr ra đời thì quyn lc công cng không còn trc
tiếp là dân cư tự t chc thành lực lượng vũ trang nữa. Nhà nước t chức ra quân đội, cnh sát;
xây dng nhà và các loại cơ quan cưỡng bức khác mà người ta không h biết đến trong t chc
xã hi th tộc trước đó. Khi những mâu thun giai cấp trong nước ngày càng tr nên gay gt, khi
những nước giáp gii nhau ngày càng rng lớn đông đúc hơn, thì quyền lc đó cũng ngày càng
được tăng cường, mt s tăng cường đến mc th nut toàn th hi nut luôn c
nhà nước (Ph.Ăngghen).
Như vậy, vi s xut hin giai cp và s ra đời của nhà nước, các chức năng quân sự ca th lĩnh
quân s không còn php na, phải được thay thế băng một quyn lc khác mạnh hơn, với
phm vi hoạt động rộng hơn, không chỉ gm những người được trang còn gồm nhng công
c vt cht ph thêm nữa, nhà tù và đủ các loại cơ quan cưỡng bức khác. Đó chính là quyền lc
công cng ca hi s phân chia giai cấp. Ph.Ăngghen khẳng định: Quyền lc công cng
đặc biệt đó cần thiết, vì t khi s phân chia xã hi thành giai cp thì không th có t chc
trang tự hoạt động của dân được nữa”. Để chng li nô l và bt nô l ng vi nhng công
dân phi phục tùng thì “một đội cnh binh tr nên cn thiết” và Ph.Ăngghen khẳng định: “Quyền
lc công cộng đó đều tn ti trong mỗi nhà nước”.
V tính giai cp ca quyn lc công cng.
Ny sinh t nhu cu phi kim chế nhng s đối lp giai cp, cho nên nhà nước là nhà nước ca
giai cp thế lc nht - giai cp thng tr v mt kinh tế, nh thng tr v mt kinh tế
thng tr luôn v mt chính tr do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc
lt giai cp b áp bc.
Để chng minh cho các nhận định trên, Ph.Ăngghen lấy ví d v mt s kiểu nhà nước đã tồn ti
trong lch sử. Ví như: nhà nước thi c trước hết là nhà nước ca bn ch nô dùng để đàn áp nô
lệ, cũng như nhà nước phong kiến là cơ quan của bn quý tộc dùng để đàn áp nông nô và nhng
nông dân b ph thuộc, còn nhà nước đại ngh hin đại là công c của tư bản dùng để bóc lt lao
động làm thuê. Vi ba hình thc nô dch lớn đặc trưng cho ba thời k ln ca thời đại văn minh:
chế độ nô l; chế độ nông nô và chế độ làm thuê trong thi k hiện đại, nhà nước “vẫn ch là nhà
lOMoARcPSD|49220901
c ca giai cp thng tr, trong mọi trường hp, v thc cht, vn b máy dùng để đàn
áp giai cp b áp bc, b bóc lột”.
“Quyền lc công cộng” do nhà nưc t chc ra và là công c bo v nhà nước, do đó mang bản
cht ca nhà nước lp ra nó. Chng hạn: “Quân đội nhân dân ca chế độ dân ch A-ten mt
quyn lc công cng ca bn quý tc, chng li nhng nô l mà h bt phi phc tùng”. Nói cách
khác, quân đội nhân dân ca chế độ dân ch A-ten mang bn cht giai cp ca giai cp ch
dân ch, bo v chế độ dân ch A-ten.
Vy là, t khi xut hiện nhà nước, quyn lc công cng - trong đó quân đội với tư cách là một b
phn hp thành ca quyn lc công cng -“đã trở thành mục đích chủ yếu của nhà nước”, mang
bn cht giai cp ca giai cp thng tr trong hi. Nhân dân lúc này ch cung cp binh lính
nuôi binh lính ch không còn là người thành lập ra quân đi, cảnh sát như trong t chc th tc
trước đây nữa.
V sc mnh ca quyn lc công cng: Ph.Ăngghen cho rằng con người vi t chức và phương
thc chiến đấu, chất lượng và s lượng, s ng h của dân cư cùng với đó là vũ khí, kỹ thut v.v.
s góp phn quyết định sc mnh ca quyn lc công cộng: “toàn b t chức phương thức
chiến đấu của quân đội, do đó, thắng li tht bại, đều t ra ph thuc vào những điều
kin vt cht, nghĩa điều kin kinh tế, vào cht liu của con người của khí, nghĩa vào
chất lượng và s lượng của dân cư và của k thuật”. Ph.Ăngghen coi trọng tính k luật, coi đây
sc mnh ca lực lượng vũ trang. Ông dẫn li mô t ca Na---ông v cuc chiến đấu giữa đội
k binh Pháp vi k binh Ma-me-lúc để chng minh cho nhận định đó: “Hai người lính Ma-me-
lúc thì trội hơn hẳn 3 ngưi lính Pháp; 100 người lính Ma-me-lúc 100 người lính Pháp thì ngang
nhau; 300 người lính Pháp thì thường thường trội hơn 300 người lính Ma-me-lúc; và 1000 người
lính Pháp thì bao gi cũng đánh bại được 1500 người lính Ma-me-lúc”. đây, sự biến đổi v
lượng đã làm thay đổi v cht. S thay đổi đó do tính kỷ lut quyết định.
K binh Pháp tuy kém v tài ngh nhưng có kỷ lut, k binh Ma-me-lúc chc chn là gii nht thi
by gi v chiến đấu đơn độc nhưng lại thiếu k luật, do đó cùng tỷ l 2:3 nhưng vi s lượng ít
thì hai người lính Ma-me-lúc trội hơn hẳn 3 người lính Pháp; nhưng cũng vi t l 2:3 s lượng
tăng lên thì 1000 người lính Pháp bao gi cũng đánh bại được 1500 người lính Ma-me-lúc.
Ngoài, sc mnh ca quyn lc công cng còn ph thuc mt phn rt lớn vào sở vt cht,
vào “những công c- tc là dựa vào vũ khí. Ông nói: súng lục thng thanh kiếm; k sn xut ra
công c bo lc hoàn hảo hơn phải thng k sn xut ra công c bo lc không hoàn ho bng.
Tóm li, thng li ca bo lc da vào vic sn xuất vũ khí, và việc sn xuất vũ khí lại da vào sn
xuất nói chung, do đó, lại dựa vào “lực lượng kinh tế”, vào “tình hình kinh tế”, và những phương
tin vt cht mà bo lc chi phối được.
Tuy nhiên, s hoàn ho hay không ca công c bo lực và vũ khí là do con người quyết định; súng
lc hay thanh kiếm đều do con người làm ra, ch cái làm gia tăng thêm sc mnh ca bo
lc mà thôi. Cuối cùng, ông đi đến kết luận: “bt c đâu bt c lúc nào, những điều kin kinh
tếtài ngun kinh tế đu những cái đã giúp cho “bo lực” chiến thng, nếu không có nhng
điu kiện và tài nguyên đó thì bạo lc không còn là bo lc nữa”.
Quan điểm ca H Chí Minh v quyn lc xã hi:
H Chí Minh trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng" đã đặc biệt lưu ý đến đặc trưng này của đời
sng con người làm phát sinh nhu cu v quyn lc xã hi trong quản lí, điều hành các hoạt động
lOMoARcPSD|49220901
cộng đồng: T lúc đầu, loài người đã phải đấu tranh đối vi gii t nhiên để sống còn, như chống
thú d, chống mưa nắng... Mun thng li, thì mỗi người phi da vào lc lượng ca s đông
người, tc ca tp th, ca hi. Riêng l tng nhân thì nhất định không thng ni t
nhiên, không sống n được... Quyn lc hội cũng đặc bit cn thiết trong t chc nn sn
xut xã hội. Như vậy, quyn lchội đã ra đời, tn ti vi tính cách là mt nhu cu khách quan,
vai trò ca mt chức năng hi, mt thuc tính không th thiếu được ca cuc sng cng
đồng, dù nh hay ln. Tu thuc vào nhu cu t chc, qun lí mà tính cht ca quyn lc hi
nhng biu hin khác nhau: trong một đoàn thể, một chính đẳng, tính cht ca quyn lc
hi khác vi quyn lc xã hi trong một gia đình, một dòng h, mt hội đoàn theo nghề nghip.
Tu thuc vào thành phần dân của cộng đồng - thun nhất hay đa dạng, đối lp nhau v quyn
li mà tính cht ca quyn lc xã hi li khác: trong một chính đẳng gm những người cùng chí
ng, t nguyn gia nhp phấn đấu vì một lí tưng khác vi tính cht ca quyn lc hi tn
ti trong mt quc gia vi nhng tng lớp dân khác nhau về v trí hội, đối lp nhau v li
ích... Mt yếu t khác có tính chất cũng rất cơ bản là phương thức thiết lp quyn lc xã hi: trên
sở mt s t nguyn, t giác chp nhn hay bằng phương thức áp đặt, cưỡng chế, bo lc...
T đó, quyền lc hội được hình thành trên sở các quy tắc đạo đức, phong tc, tp quán,
nghí l tôn giáo và s tha nhn quyn uy ca người đứng đầu.

Preview text:

lOMoARcPSD| 49220901 Nguồn gốc
- Quyền lực công cộng:
Nó có nguồn gốc ở quyền lực tư, là thủ đoạn và sự bảo vệ mà quyền lực tư thực hiện. Quyền lực
công có ích cho việc thực hiện bảo vệ quyền lực cá nhân và xúc tiến sự văn minh và tiến bộ của
xã hội. Mặt khác, quyền lực công có sẵn giới hạn nội tại và đặc tính dị hoá của nó.
- Quyền lực xã hội:
Những yếu tố tạo tạo ra quan hệ quyền lực xã hội? Khi các cá nhân hoàn toàn xa lạ lần đầu tương
tác với nhau thì quan hệ đó chưa có quan hệ quyền lực. Khi quan hệ xã hội giữa các cá nhân này
xác lập thì quan hệ quyền lực mới xuất hiện. Theo quan điểm của Karl Marx (1818-1883) thì nguồn
gốc của sự bất bình đẳng xã hội chính là việc sở hữu hay không sở hữu tư liệu sản xuất. Chế độ
sở hữu tư nhân là nguồn gốc tạo ra sự phân chia quyền lực trong xã hội, mà ở đó người chiếm
hữu tư liệu sản xuất là người có quyền lực điều chỉnh hành vi và cơ hội của người không có tư
liệu sản xuất. Max Weber cho rằng quyền lực không chỉ có nguồn gốc là kinh tế mà còn có từ
nhiều yếu tố phi kinh tế khác nữa (gia đình, học vấn, tôn giáo, uy tín,...). Trong các dạng quyền
lực xã hội, quyền lực quan trọng nhất là quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị thường được các
cơ quan của chính phủ thực hiện.
Talcott Parsons, thì cho rằng nguồn gốc của quyền lực nằm ở vị thế của một cấu trúc xã hội. Cấu
trúc này hoạt động hài hòa, ổn định; nó quy định cho mỗi vị thế xã hội một quyền hạn tương ứng.
Để thực hiện quyền hạn này, nó đặt ra cho vị thế đó một mô hình hành vi được phép, đáng được
mong đợi; nghĩa là khi chúng ta thực hiện các vai trò được xã hội trao cho, thì chúng ta cũng thực
hiện quyền lực mà chúng ta được ủy nhiệm. Như vậy xã hội đã tạo cho các vai trò này một sự
hợp pháp, hay một sự chính đáng; tức là, nếu chúng ta có sự chính đáng, có sự hợp pháp, thì
chúng ta có quyền lực. Quyền lực của các vai trò xã hội không giống nhau, nhưng chúng phối hợp
với nhau để tạo ra một cơ cấu thống nhất và hài hòa. Hình thức
- Quyền lực công cộng: do nhà nước tổ chức ra và là công cụ bảo vệ nhà nước, do đó mang
bản chất của nhà nước lập ra nó. Chẳng hạn: “Quân đội nhân dân của chế độ dân chủ A-ten là
một quyền lực công cộng của bọn quý tộc, chống lại những nô lệ mà họ bắt phải phục tùng”.
Nói cách khác, quân đội nhân dân của chế độ dân chủ A-ten mang bản chất giai cấp của giai
cấp chủ nô dân chủ, bảo vệ chế độ dân chủ A-ten. từ khi xuất hiện nhà nước, quyền lực công
cộng - trong đó quân đội với tư cách là một bộ phận hợp thành của quyền lực công cộng -“đã
trở thành mục đích chủ yếu của nhà nước”, mang bản chất giai cấp của giai cấp thống trị
trong xã hội. Nhân dân lúc này chỉ cung cấp binh lính và nuôi binh lính chứ không còn là người
thành lập ra quân đội, cảnh sát như trong tổ chức thị tộc trước đây nữa.
- Quyền lực xã hội: • Cưỡng bức • Uy quyền • Quyền lực tuyệt đối; • Quyền lực quân chủ; lOMoARcPSD| 49220901 • Quyền lực thiểu số; • Quyền lực dân chủ. • Tổ chức xã hội • Bộ máy quan liêu • Quyền lực mềm • Quyền lực thông minh • Trật tự xã hội Quan điểm:
Tư tưởng của Ph.Ăngghen về “quyền lực công cộng”:
Nghiên cứu các kiểu nhà nước đã và đang tồn tại trong lịch sử, Ph.Ăngghen cho rằng nhà nước
có ba đặc trưng cơ bản.
Thứ nhất, nhà nước “phân chia thần dân của nó theo địa vực”. Do nhu cầu phát triển của sản
xuất và trao đổi mà những liên minh thị tộc cũ được hình thành trên cơ sở huyết thống đã không
còn thích hợp và cần phải thay bằng một liên minh mới. Trong liên minh mới này, các thành viên
thuộc tất cả các thị tộc hay bộ lạc đều được tự do đi lại, được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ xã hội.
Thứ hai, “là sự thiết lập một quyền lực công cộng, không còn trực tiếp là dân cư tự tổ chức thành
lực lượng vũ trang nữa” mà do nhà nước tổ chức ra. Theo Ph.Ăngghen, nội hàm của khái niệm
quyền lực công cộng “không phải chỉ gồm những người được vũ trang mà còn gồm những công
cụ vật chất phụ thêm nữa, như nhà tù và đủ các loại cơ quan cưỡng bức mà tổ chức xã hội thị tộc không hề biết đến”.
Thứ ba, “Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có sự đóng góp của công dân, đó là thuế
má” và cùng với chính sách thuế má là việc “phát hành trước những hối phiếu, thực hiện các
khoản vay nợ, tức là phát hành công trái”.
Về tính tất yếu của việc thiết lập quyền lực công cộng.
Trong cộng đồng thị tộc, tù trưởng (người cầm đầu trong thời bình) và thủ lĩnh quân sự là do tất
cả đàn ông và đàn bà trong cộng đồng thị tộc đó bầu ra và “khi ở trong bộ lạc, mọi thành viên
nam giới đến tuổi thành niên đều là chiến binh thì vẫn chưa có một quyền lực công cộng tách
khỏi nhân dân và có thể đứng đối lập với nhân dân”.
Người thủ lĩnh quân sự được thị tộc bầu ra “Ngoài những chức năng quân sự của mình... còn có
những chức năng tế lễ và tư pháp nữa; những chức năng tế lễ và tư pháp này không được quy
định một cách thật chính xác, còn những chức năng quân sự thì người thủ lĩnh quân sự thực hành
với tư cách là đại biểu tối cao của bộ lạc, hay của liên minh bộ lạc”.
Cũng như việc bầu ra tù trưởng hay chỉ huy quân sự, việc bãi miễn các chức vụ này cũng do toàn
thể nam, nữ thành viên trong thị tộc quyết định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc bãi lOMoARcPSD| 49220901
miễn này có thể do “Hội đồng bộ lạc” quyết định, kể cả khi thị tộc không đồng ý. Đáng chú ý là,
các chức sắc, sau khi bị bãi miễn, đều trở thành chiến binh bình thường như mọi người khác, thành thường dân.
Ph.Ăngghen cho rằng, dẫu sao thì tổ chức thị tộc vẫn là một hình thức cộng đồng người “tốt đẹp”:
Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và
quan tòa, không có nhà tù, không có những vụ xử án,- thế mà mọi việc vẫn trôi chảy.
Việc tách chăn nuôi khỏi trồng trọt đã hình thành nên các bộ lạc du mục. Những bộ lạc du mục
này từng bước tách rời khỏi bộ phận còn lại của những người dã man. Đây là sự phân công xã hội
lớn đầu tiên. “Từ sự phân công xã hội lớn lần đầu tiên, đã nảy sinh ra sự phân chia lớn đầu tiên
trong xã hội thành hai giai cấp: chủ nô và nô lệ, kẻ bóc lột và người bị bóc lột”.
Do lợi ích cơ bản đối lập nhau, trước hết là lợi ích kinh tế, nên các giai cấp này luôn luôn đấu tranh
với nhau. Để cho những mặt đối lập đó không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả
xã hội trong một cuộc đấu tranh vô ích thì cần phải có một lực lượng nảy sinh từ xã hội, nhưng
lại đứng trên xã hội và ngày càng tách rời khỏi xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ
cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”. Lực lượng đó chính là nhà nước.
Từ khi nhà nước xuất hiện, hệ tư tưởng chính trị ra đời thì quyền lực công cộng không còn trực
tiếp là dân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa. Nhà nước tổ chức ra quân đội, cảnh sát;
xây dựng nhà tù và các loại cơ quan cưỡng bức khác mà người ta không hề biết đến trong tổ chức
xã hội thị tộc trước đó. Khi những mâu thuẫn giai cấp trong nước ngày càng trở nên gay gắt, khi
những nước giáp giới nhau ngày càng rộng lớn và đông đúc hơn, thì quyền lực đó cũng ngày càng
được tăng cường, một sự tăng cường đến mức nó có thể nuốt toàn thể xã hội và nuốt luôn cả nhà nước (Ph.Ăngghen).
Như vậy, với sự xuất hiện giai cấp và sự ra đời của nhà nước, các chức năng quân sự của thủ lĩnh
quân sự không còn phù hợp nữa, mà phải được thay thế băng một quyền lực khác mạnh hơn, với
phạm vi hoạt động rộng hơn, không chỉ gồm những người được vũ trang mà còn gồm những công
cụ vật chất phụ thêm nữa, nhà tù và đủ các loại cơ quan cưỡng bức khác. Đó chính là quyền lực
công cộng của xã hội có sự phân chia giai cấp. Ph.Ăngghen khẳng định: “ Quyền lực công cộng
đặc biệt đó là cần thiết, vì từ khi có sự phân chia xã hội thành giai cấp thì không thể có tổ chức
vũ trang tự hoạt động của dân cư được nữa”. Để chống lại nô lệ và bắt nô lệ cùng với những công
dân phải phục tùng thì “một đội cảnh binh trở nên cần thiết” và Ph.Ăngghen khẳng định: “Quyền
lực công cộng đó đều tồn tại trong mỗi nhà nước”.
Về tính giai cấp của quyền lực công cộng.
Nảy sinh từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập giai cấp, cho nên nhà nước là nhà nước của
giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị về mặt kinh tế, và nhờ thống trị về mặt kinh tế mà
thống trị luôn về mặt chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc
lột giai cấp bị áp bức.
Để chứng minh cho các nhận định trên, Ph.Ăngghen lấy ví dụ về một số kiểu nhà nước đã tồn tại
trong lịch sử. Ví như: nhà nước thời cổ trước hết là nhà nước của bọn chủ nô dùng để đàn áp nô
lệ, cũng như nhà nước phong kiến là cơ quan của bọn quý tộc dùng để đàn áp nông nô và những
nông dân bị phụ thuộc, còn nhà nước đại nghị hiện đại là công cụ của tư bản dùng để bóc lột lao
động làm thuê. Với ba hình thức nô dịch lớn đặc trưng cho ba thời kỳ lớn của thời đại văn minh:
chế độ nô lệ; chế độ nông nô và chế độ làm thuê trong thời kỳ hiện đại, nhà nước “vẫn chỉ là nhà lOMoARcPSD| 49220901
nước của giai cấp thống trị, và trong mọi trường hợp, về thực chất, vẫn là bộ máy dùng để đàn
áp giai cấp bị áp bức, bị bóc lột”.
“Quyền lực công cộng” do nhà nước tổ chức ra và là công cụ bảo vệ nhà nước, do đó mang bản
chất của nhà nước lập ra nó. Chẳng hạn: “Quân đội nhân dân của chế độ dân chủ A-ten là một
quyền lực công cộng của bọn quý tộc, chống lại những nô lệ mà họ bắt phải phục tùng”. Nói cách
khác, quân đội nhân dân của chế độ dân chủ A-ten mang bản chất giai cấp của giai cấp chủ nô
dân chủ, bảo vệ chế độ dân chủ A-ten.
Vậy là, từ khi xuất hiện nhà nước, quyền lực công cộng - trong đó quân đội với tư cách là một bộ
phận hợp thành của quyền lực công cộng -“đã trở thành mục đích chủ yếu của nhà nước”, mang
bản chất giai cấp của giai cấp thống trị trong xã hội. Nhân dân lúc này chỉ cung cấp binh lính và
nuôi binh lính chứ không còn là người thành lập ra quân đội, cảnh sát như trong tổ chức thị tộc trước đây nữa.
Về sức mạnh của quyền lực công cộng: Ph.Ăngghen cho rằng con người với tổ chức và phương
thức chiến đấu, chất lượng và số lượng, sự ủng hộ của dân cư cùng với đó là vũ khí, kỹ thuật v.v.
sẽ góp phần quyết định sức mạnh của quyền lực công cộng: “toàn bộ tổ chức và phương thức
chiến đấu của quân đội, và do đó, thắng lợi và thất bại, đều tỏ ra là phụ thuộc vào những điều
kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào
chất lượng và số lượng của dân cư và của kỹ thuật”. Ph.Ăngghen coi trọng tính kỷ luật, coi đây là
sức mạnh của lực lượng vũ trang. Ông dẫn lời mô tả của Na-pô-lê-ông về cuộc chiến đấu giữa đội
kỵ binh Pháp với kỵ binh Ma-me-lúc để chứng minh cho nhận định đó: “Hai người lính Ma-me-
lúc thì trội hơn hẳn 3 người lính Pháp; 100 người lính Ma-me-lúc và 100 người lính Pháp thì ngang
nhau; 300 người lính Pháp thì thường thường trội hơn 300 người lính Ma-me-lúc; và 1000 người
lính Pháp thì bao giờ cũng đánh bại được 1500 người lính Ma-me-lúc”. Ở đây, sự biến đổi về
lượng đã làm thay đổi về chất. Sự thay đổi đó do tính kỷ luật quyết định.
Kỵ binh Pháp tuy kém về tài nghệ nhưng có kỷ luật, kỵ binh Ma-me-lúc chắc chắn là giỏi nhất thời
bấy giờ về chiến đấu đơn độc nhưng lại thiếu kỷ luật, do đó cùng tỷ lệ 2:3 nhưng với số lượng ít
thì hai người lính Ma-me-lúc trội hơn hẳn 3 người lính Pháp; nhưng cũng với tỷ lệ 2:3 mà số lượng
tăng lên thì 1000 người lính Pháp bao giờ cũng đánh bại được 1500 người lính Ma-me-lúc.
Ngoài, sức mạnh của quyền lực công cộng còn phụ thuộc một phần rất lớn vào cơ sở vật chất,
vào “những công cụ” - tức là dựa vào vũ khí. Ông nói: súng lục thắng thanh kiếm; kẻ sản xuất ra
công cụ bạo lực hoàn hảo hơn phải thắng kẻ sản xuất ra công cụ bạo lực không hoàn hảo bằng.
Tóm lại, thắng lợi của bạo lực dựa vào việc sản xuất vũ khí, và việc sản xuất vũ khí lại dựa vào sản
xuất nói chung, do đó, lại dựa vào “lực lượng kinh tế”, vào “tình hình kinh tế”, và những phương
tiện vật chất mà bạo lực chi phối được.
Tuy nhiên, sự hoàn hảo hay không của công cụ bạo lực và vũ khí là do con người quyết định; súng
lục hay thanh kiếm đều do con người làm ra, nó chỉ là cái làm gia tăng thêm sức mạnh của bạo
lực mà thôi. Cuối cùng, ông đi đến kết luận: “bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, những điều kiện kinh
tế và tài nguyên kinh tế đều là những cái đã giúp cho “bạo lực” chiến thắng, nếu không có những
điều kiện và tài nguyên đó thì bạo lực không còn là bạo lực nữa”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền lực xã hội:
Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng" đã đặc biệt lưu ý đến đặc trưng này của đời
sống con người làm phát sinh nhu cầu về quyền lực xã hội trong quản lí, điều hành các hoạt động lOMoARcPSD| 49220901
cộng đồng: Từ lúc đầu, loài người đã phải đấu tranh đối với giới tự nhiên để sống còn, như chống
thú dữ, chống mưa nắng... Muốn thắng lợi, thì mỗi người phải dựa vào lực lượng của số đông
người, tức là của tập thể, của xã hội. Riêng lẻ từng cá nhân thì nhất định không thắng nổi tự
nhiên, không sống còn được... Quyền lực xã hội cũng đặc biệt cần thiết trong tổ chức nền sản
xuất xã hội. Như vậy, quyền lực xã hội đã ra đời, tồn tại với tính cách là một nhu cầu khách quan,
có vai trò của một chức năng xã hội, một thuộc tính không thể thiếu được của cuộc sống cộng
đồng, dù nhỏ hay lớn. Tuỳ thuộc vào nhu cầu tổ chức, quản lí mà tính chất của quyền lực xã hội
có những biểu hiện khác nhau: trong một đoàn thể, một chính đẳng, tính chất của quyền lực xã
hội khác với quyền lực xã hội trong một gia đình, một dòng họ, một hội đoàn theo nghề nghiệp.
Tuỳ thuộc vào thành phần dân cư của cộng đồng - thuần nhất hay đa dạng, đối lập nhau về quyền
lợi mà tính chất của quyền lực xã hội lại khác: trong một chính đẳng gồm những người cùng chí
hướng, tự nguyện gia nhập phấn đấu vì một lí tưởng khác với tính chất của quyền lực xã hội tổn
tại trong một quốc gia với những tầng lớp dân cư khác nhau về vị trí xã hội, đối lập nhau về lợi
ích... Một yếu tố khác có tính chất cũng rất cơ bản là phương thức thiết lập quyền lực xã hội: trên
cơ sở một sự tự nguyện, tự giác chấp nhận hay bằng phương thức áp đặt, cưỡng chế, bạo lực...
Từ đó, quyền lực xã hội được hình thành trên cơ sở các quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán,
nghí lễ tôn giáo và sự thừa nhận quyền uy của người đứng đầu.