




Preview text:
lOMoARcPSD| 49220901 Nguồn gốc
- Quyền lực công cộng:
Nó có nguồn gốc ở quyền lực tư, là thủ đoạn và sự bảo vệ mà quyền lực tư thực hiện. Quyền lực
công có ích cho việc thực hiện bảo vệ quyền lực cá nhân và xúc tiến sự văn minh và tiến bộ của
xã hội. Mặt khác, quyền lực công có sẵn giới hạn nội tại và đặc tính dị hoá của nó.
- Quyền lực xã hội:
Những yếu tố tạo tạo ra quan hệ quyền lực xã hội? Khi các cá nhân hoàn toàn xa lạ lần đầu tương
tác với nhau thì quan hệ đó chưa có quan hệ quyền lực. Khi quan hệ xã hội giữa các cá nhân này
xác lập thì quan hệ quyền lực mới xuất hiện. Theo quan điểm của Karl Marx (1818-1883) thì nguồn
gốc của sự bất bình đẳng xã hội chính là việc sở hữu hay không sở hữu tư liệu sản xuất. Chế độ
sở hữu tư nhân là nguồn gốc tạo ra sự phân chia quyền lực trong xã hội, mà ở đó người chiếm
hữu tư liệu sản xuất là người có quyền lực điều chỉnh hành vi và cơ hội của người không có tư
liệu sản xuất. Max Weber cho rằng quyền lực không chỉ có nguồn gốc là kinh tế mà còn có từ
nhiều yếu tố phi kinh tế khác nữa (gia đình, học vấn, tôn giáo, uy tín,...). Trong các dạng quyền
lực xã hội, quyền lực quan trọng nhất là quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị thường được các
cơ quan của chính phủ thực hiện.
Talcott Parsons, thì cho rằng nguồn gốc của quyền lực nằm ở vị thế của một cấu trúc xã hội. Cấu
trúc này hoạt động hài hòa, ổn định; nó quy định cho mỗi vị thế xã hội một quyền hạn tương ứng.
Để thực hiện quyền hạn này, nó đặt ra cho vị thế đó một mô hình hành vi được phép, đáng được
mong đợi; nghĩa là khi chúng ta thực hiện các vai trò được xã hội trao cho, thì chúng ta cũng thực
hiện quyền lực mà chúng ta được ủy nhiệm. Như vậy xã hội đã tạo cho các vai trò này một sự
hợp pháp, hay một sự chính đáng; tức là, nếu chúng ta có sự chính đáng, có sự hợp pháp, thì
chúng ta có quyền lực. Quyền lực của các vai trò xã hội không giống nhau, nhưng chúng phối hợp
với nhau để tạo ra một cơ cấu thống nhất và hài hòa. Hình thức
- Quyền lực công cộng: do nhà nước tổ chức ra và là công cụ bảo vệ nhà nước, do đó mang
bản chất của nhà nước lập ra nó. Chẳng hạn: “Quân đội nhân dân của chế độ dân chủ A-ten là
một quyền lực công cộng của bọn quý tộc, chống lại những nô lệ mà họ bắt phải phục tùng”.
Nói cách khác, quân đội nhân dân của chế độ dân chủ A-ten mang bản chất giai cấp của giai
cấp chủ nô dân chủ, bảo vệ chế độ dân chủ A-ten. từ khi xuất hiện nhà nước, quyền lực công
cộng - trong đó quân đội với tư cách là một bộ phận hợp thành của quyền lực công cộng -“đã
trở thành mục đích chủ yếu của nhà nước”, mang bản chất giai cấp của giai cấp thống trị
trong xã hội. Nhân dân lúc này chỉ cung cấp binh lính và nuôi binh lính chứ không còn là người
thành lập ra quân đội, cảnh sát như trong tổ chức thị tộc trước đây nữa.
- Quyền lực xã hội: • Cưỡng bức • Uy quyền • Quyền lực tuyệt đối; • Quyền lực quân chủ; lOMoARcPSD| 49220901 • Quyền lực thiểu số; • Quyền lực dân chủ. • Tổ chức xã hội • Bộ máy quan liêu • Quyền lực mềm • Quyền lực thông minh • Trật tự xã hội Quan điểm:
Tư tưởng của Ph.Ăngghen về “quyền lực công cộng”:
Nghiên cứu các kiểu nhà nước đã và đang tồn tại trong lịch sử, Ph.Ăngghen cho rằng nhà nước
có ba đặc trưng cơ bản.
Thứ nhất, nhà nước “phân chia thần dân của nó theo địa vực”. Do nhu cầu phát triển của sản
xuất và trao đổi mà những liên minh thị tộc cũ được hình thành trên cơ sở huyết thống đã không
còn thích hợp và cần phải thay bằng một liên minh mới. Trong liên minh mới này, các thành viên
thuộc tất cả các thị tộc hay bộ lạc đều được tự do đi lại, được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ xã hội.
Thứ hai, “là sự thiết lập một quyền lực công cộng, không còn trực tiếp là dân cư tự tổ chức thành
lực lượng vũ trang nữa” mà do nhà nước tổ chức ra. Theo Ph.Ăngghen, nội hàm của khái niệm
quyền lực công cộng “không phải chỉ gồm những người được vũ trang mà còn gồm những công
cụ vật chất phụ thêm nữa, như nhà tù và đủ các loại cơ quan cưỡng bức mà tổ chức xã hội thị tộc không hề biết đến”.
Thứ ba, “Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có sự đóng góp của công dân, đó là thuế
má” và cùng với chính sách thuế má là việc “phát hành trước những hối phiếu, thực hiện các
khoản vay nợ, tức là phát hành công trái”.
Về tính tất yếu của việc thiết lập quyền lực công cộng.
Trong cộng đồng thị tộc, tù trưởng (người cầm đầu trong thời bình) và thủ lĩnh quân sự là do tất
cả đàn ông và đàn bà trong cộng đồng thị tộc đó bầu ra và “khi ở trong bộ lạc, mọi thành viên
nam giới đến tuổi thành niên đều là chiến binh thì vẫn chưa có một quyền lực công cộng tách
khỏi nhân dân và có thể đứng đối lập với nhân dân”.
Người thủ lĩnh quân sự được thị tộc bầu ra “Ngoài những chức năng quân sự của mình... còn có
những chức năng tế lễ và tư pháp nữa; những chức năng tế lễ và tư pháp này không được quy
định một cách thật chính xác, còn những chức năng quân sự thì người thủ lĩnh quân sự thực hành
với tư cách là đại biểu tối cao của bộ lạc, hay của liên minh bộ lạc”.
Cũng như việc bầu ra tù trưởng hay chỉ huy quân sự, việc bãi miễn các chức vụ này cũng do toàn
thể nam, nữ thành viên trong thị tộc quyết định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc bãi lOMoARcPSD| 49220901
miễn này có thể do “Hội đồng bộ lạc” quyết định, kể cả khi thị tộc không đồng ý. Đáng chú ý là,
các chức sắc, sau khi bị bãi miễn, đều trở thành chiến binh bình thường như mọi người khác, thành thường dân.
Ph.Ăngghen cho rằng, dẫu sao thì tổ chức thị tộc vẫn là một hình thức cộng đồng người “tốt đẹp”:
Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và
quan tòa, không có nhà tù, không có những vụ xử án,- thế mà mọi việc vẫn trôi chảy.
Việc tách chăn nuôi khỏi trồng trọt đã hình thành nên các bộ lạc du mục. Những bộ lạc du mục
này từng bước tách rời khỏi bộ phận còn lại của những người dã man. Đây là sự phân công xã hội
lớn đầu tiên. “Từ sự phân công xã hội lớn lần đầu tiên, đã nảy sinh ra sự phân chia lớn đầu tiên
trong xã hội thành hai giai cấp: chủ nô và nô lệ, kẻ bóc lột và người bị bóc lột”.
Do lợi ích cơ bản đối lập nhau, trước hết là lợi ích kinh tế, nên các giai cấp này luôn luôn đấu tranh
với nhau. Để cho những mặt đối lập đó không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả
xã hội trong một cuộc đấu tranh vô ích thì cần phải có một lực lượng nảy sinh từ xã hội, nhưng
lại đứng trên xã hội và ngày càng tách rời khỏi xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ
cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”. Lực lượng đó chính là nhà nước.
Từ khi nhà nước xuất hiện, hệ tư tưởng chính trị ra đời thì quyền lực công cộng không còn trực
tiếp là dân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa. Nhà nước tổ chức ra quân đội, cảnh sát;
xây dựng nhà tù và các loại cơ quan cưỡng bức khác mà người ta không hề biết đến trong tổ chức
xã hội thị tộc trước đó. Khi những mâu thuẫn giai cấp trong nước ngày càng trở nên gay gắt, khi
những nước giáp giới nhau ngày càng rộng lớn và đông đúc hơn, thì quyền lực đó cũng ngày càng
được tăng cường, một sự tăng cường đến mức nó có thể nuốt toàn thể xã hội và nuốt luôn cả nhà nước (Ph.Ăngghen).
Như vậy, với sự xuất hiện giai cấp và sự ra đời của nhà nước, các chức năng quân sự của thủ lĩnh
quân sự không còn phù hợp nữa, mà phải được thay thế băng một quyền lực khác mạnh hơn, với
phạm vi hoạt động rộng hơn, không chỉ gồm những người được vũ trang mà còn gồm những công
cụ vật chất phụ thêm nữa, nhà tù và đủ các loại cơ quan cưỡng bức khác. Đó chính là quyền lực
công cộng của xã hội có sự phân chia giai cấp. Ph.Ăngghen khẳng định: “ Quyền lực công cộng
đặc biệt đó là cần thiết, vì từ khi có sự phân chia xã hội thành giai cấp thì không thể có tổ chức
vũ trang tự hoạt động của dân cư được nữa”. Để chống lại nô lệ và bắt nô lệ cùng với những công
dân phải phục tùng thì “một đội cảnh binh trở nên cần thiết” và Ph.Ăngghen khẳng định: “Quyền
lực công cộng đó đều tồn tại trong mỗi nhà nước”.
Về tính giai cấp của quyền lực công cộng.
Nảy sinh từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập giai cấp, cho nên nhà nước là nhà nước của
giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị về mặt kinh tế, và nhờ thống trị về mặt kinh tế mà
thống trị luôn về mặt chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc
lột giai cấp bị áp bức.
Để chứng minh cho các nhận định trên, Ph.Ăngghen lấy ví dụ về một số kiểu nhà nước đã tồn tại
trong lịch sử. Ví như: nhà nước thời cổ trước hết là nhà nước của bọn chủ nô dùng để đàn áp nô
lệ, cũng như nhà nước phong kiến là cơ quan của bọn quý tộc dùng để đàn áp nông nô và những
nông dân bị phụ thuộc, còn nhà nước đại nghị hiện đại là công cụ của tư bản dùng để bóc lột lao
động làm thuê. Với ba hình thức nô dịch lớn đặc trưng cho ba thời kỳ lớn của thời đại văn minh:
chế độ nô lệ; chế độ nông nô và chế độ làm thuê trong thời kỳ hiện đại, nhà nước “vẫn chỉ là nhà lOMoARcPSD| 49220901
nước của giai cấp thống trị, và trong mọi trường hợp, về thực chất, vẫn là bộ máy dùng để đàn
áp giai cấp bị áp bức, bị bóc lột”.
“Quyền lực công cộng” do nhà nước tổ chức ra và là công cụ bảo vệ nhà nước, do đó mang bản
chất của nhà nước lập ra nó. Chẳng hạn: “Quân đội nhân dân của chế độ dân chủ A-ten là một
quyền lực công cộng của bọn quý tộc, chống lại những nô lệ mà họ bắt phải phục tùng”. Nói cách
khác, quân đội nhân dân của chế độ dân chủ A-ten mang bản chất giai cấp của giai cấp chủ nô
dân chủ, bảo vệ chế độ dân chủ A-ten.
Vậy là, từ khi xuất hiện nhà nước, quyền lực công cộng - trong đó quân đội với tư cách là một bộ
phận hợp thành của quyền lực công cộng -“đã trở thành mục đích chủ yếu của nhà nước”, mang
bản chất giai cấp của giai cấp thống trị trong xã hội. Nhân dân lúc này chỉ cung cấp binh lính và
nuôi binh lính chứ không còn là người thành lập ra quân đội, cảnh sát như trong tổ chức thị tộc trước đây nữa.
Về sức mạnh của quyền lực công cộng: Ph.Ăngghen cho rằng con người với tổ chức và phương
thức chiến đấu, chất lượng và số lượng, sự ủng hộ của dân cư cùng với đó là vũ khí, kỹ thuật v.v.
sẽ góp phần quyết định sức mạnh của quyền lực công cộng: “toàn bộ tổ chức và phương thức
chiến đấu của quân đội, và do đó, thắng lợi và thất bại, đều tỏ ra là phụ thuộc vào những điều
kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào
chất lượng và số lượng của dân cư và của kỹ thuật”. Ph.Ăngghen coi trọng tính kỷ luật, coi đây là
sức mạnh của lực lượng vũ trang. Ông dẫn lời mô tả của Na-pô-lê-ông về cuộc chiến đấu giữa đội
kỵ binh Pháp với kỵ binh Ma-me-lúc để chứng minh cho nhận định đó: “Hai người lính Ma-me-
lúc thì trội hơn hẳn 3 người lính Pháp; 100 người lính Ma-me-lúc và 100 người lính Pháp thì ngang
nhau; 300 người lính Pháp thì thường thường trội hơn 300 người lính Ma-me-lúc; và 1000 người
lính Pháp thì bao giờ cũng đánh bại được 1500 người lính Ma-me-lúc”. Ở đây, sự biến đổi về
lượng đã làm thay đổi về chất. Sự thay đổi đó do tính kỷ luật quyết định.
Kỵ binh Pháp tuy kém về tài nghệ nhưng có kỷ luật, kỵ binh Ma-me-lúc chắc chắn là giỏi nhất thời
bấy giờ về chiến đấu đơn độc nhưng lại thiếu kỷ luật, do đó cùng tỷ lệ 2:3 nhưng với số lượng ít
thì hai người lính Ma-me-lúc trội hơn hẳn 3 người lính Pháp; nhưng cũng với tỷ lệ 2:3 mà số lượng
tăng lên thì 1000 người lính Pháp bao giờ cũng đánh bại được 1500 người lính Ma-me-lúc.
Ngoài, sức mạnh của quyền lực công cộng còn phụ thuộc một phần rất lớn vào cơ sở vật chất,
vào “những công cụ” - tức là dựa vào vũ khí. Ông nói: súng lục thắng thanh kiếm; kẻ sản xuất ra
công cụ bạo lực hoàn hảo hơn phải thắng kẻ sản xuất ra công cụ bạo lực không hoàn hảo bằng.
Tóm lại, thắng lợi của bạo lực dựa vào việc sản xuất vũ khí, và việc sản xuất vũ khí lại dựa vào sản
xuất nói chung, do đó, lại dựa vào “lực lượng kinh tế”, vào “tình hình kinh tế”, và những phương
tiện vật chất mà bạo lực chi phối được.
Tuy nhiên, sự hoàn hảo hay không của công cụ bạo lực và vũ khí là do con người quyết định; súng
lục hay thanh kiếm đều do con người làm ra, nó chỉ là cái làm gia tăng thêm sức mạnh của bạo
lực mà thôi. Cuối cùng, ông đi đến kết luận: “bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, những điều kiện kinh
tế và tài nguyên kinh tế đều là những cái đã giúp cho “bạo lực” chiến thắng, nếu không có những
điều kiện và tài nguyên đó thì bạo lực không còn là bạo lực nữa”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền lực xã hội:
Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng" đã đặc biệt lưu ý đến đặc trưng này của đời
sống con người làm phát sinh nhu cầu về quyền lực xã hội trong quản lí, điều hành các hoạt động lOMoARcPSD| 49220901
cộng đồng: Từ lúc đầu, loài người đã phải đấu tranh đối với giới tự nhiên để sống còn, như chống
thú dữ, chống mưa nắng... Muốn thắng lợi, thì mỗi người phải dựa vào lực lượng của số đông
người, tức là của tập thể, của xã hội. Riêng lẻ từng cá nhân thì nhất định không thắng nổi tự
nhiên, không sống còn được... Quyền lực xã hội cũng đặc biệt cần thiết trong tổ chức nền sản
xuất xã hội. Như vậy, quyền lực xã hội đã ra đời, tồn tại với tính cách là một nhu cầu khách quan,
có vai trò của một chức năng xã hội, một thuộc tính không thể thiếu được của cuộc sống cộng
đồng, dù nhỏ hay lớn. Tuỳ thuộc vào nhu cầu tổ chức, quản lí mà tính chất của quyền lực xã hội
có những biểu hiện khác nhau: trong một đoàn thể, một chính đẳng, tính chất của quyền lực xã
hội khác với quyền lực xã hội trong một gia đình, một dòng họ, một hội đoàn theo nghề nghiệp.
Tuỳ thuộc vào thành phần dân cư của cộng đồng - thuần nhất hay đa dạng, đối lập nhau về quyền
lợi mà tính chất của quyền lực xã hội lại khác: trong một chính đẳng gồm những người cùng chí
hướng, tự nguyện gia nhập phấn đấu vì một lí tưởng khác với tính chất của quyền lực xã hội tổn
tại trong một quốc gia với những tầng lớp dân cư khác nhau về vị trí xã hội, đối lập nhau về lợi
ích... Một yếu tố khác có tính chất cũng rất cơ bản là phương thức thiết lập quyền lực xã hội: trên
cơ sở một sự tự nguyện, tự giác chấp nhận hay bằng phương thức áp đặt, cưỡng chế, bạo lực...
Từ đó, quyền lực xã hội được hình thành trên cơ sở các quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán,
nghí lễ tôn giáo và sự thừa nhận quyền uy của người đứng đầu.