










Preview text:
lOMoAR cPSD| 61463864
Câu 1: Nguyên lí về MLH phổ biến và ý nghĩa PPL
I. Tính chất của mối liên hệ phổ biến
1. Tính khách quan của mối liên hệ phổ biến –
Trong thế giới vật chất, các sự vật, hiện tượng luôn có mối liên hệ với nhau, dù nhiều dù ít.
Điềunày là khách quan, không lệ thuộc vào việc con người có nhận thức được các mối liên hệ hay không.
Sở dĩ mối liên hệ có tính khách quan là do thế giới vật chất có tính khách quan. Các dạng vật chất
(bao gồm sự vật, hiện tượng) dù có vô vàn, vô kể, nhưng thống nhất với nhau ở tính vật chất. Có điểm
chung ở tính vật chất tức là chúng có mối liên hệ với nhau về mặt bản chất một cách khách quan. –
Có những mối liên hệ rất gần gũi ta có thể nhận thấy ngay. Ví dụ như mối liên hệ giữa con gà vàquả trứng.
Nhưng có những mối liên hệ phải suy đến cùng, qua rất nhiều khâu trung gian, ta mới thấy được. Gần
đây, chúng ta hay được nghe về lý thuyết “hiệu ứng cánh bướm”. Lý thuyết này xuất phát từ quan
điểm cho rằng những sự vật, hiện tượng ở rất xa nhau nhưng đều có liên quan đến nhau.
2. Tính phổ biến của mối liên hệ phổ biến
Các mối liên hệ tồn tại giữa tất cả các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Không có sự
vật, hiện tượng bất kỳ nào mà không có sự liên hệ với phần còn lại của thế giới khách quan. Lấy lĩnh
vực tự nhiên để phân tích, ta có những mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng thuộc riêng lĩnh vực tự
nhiên. Cũng có những mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng thuộc tự nhiên với các sự vật, hiện
tượng thuộc lĩnh vực xã hội. Lại có những mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng tự nhiên với các
hiện tượng thuộc lĩnh vực tư duy (hay tinh thần)
Khi lấy lĩnh vực xã hội hoặc tư duy để phân tích, ta cũng có những mối liên hệ đa lĩnh vực như trên.
3. Tính phong phú, đa dạng của mối liên hệ phổ biến
Đó là sự muôn hình, muôn vẻ của những mối liên hệ. Tính đa dạng, nhiều loại của sự liên hệ do tính
đa dạng trong sự tồn tại, vận động và phát triển của chính các sự vật, hiện tượng quy định.
Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện
tượng. Ta có thể nêu một số loại hình cơ bản sau:
– Liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài.
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố, các bộ phận, các thuộc
tính, các mặt khác nhau… trong cùng một sự vật. Nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận
động và phát triển của sự vật.
Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau. Nhìn chung, nó không có
ý nghĩa quyết định. Mối quan hệ này thường phải thông qua mối liên hệ bên trong để phát huy tác dụng.
– Liên hệ bản chất và không bản chất, liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên.
Cũng có những tính chất, đặc điểm nêu trên. Ngoài ra, chúng còn có tính đặc thù. Chẳng hạn, cái là
ngẫu nhiên khi xem xét trong mối quan hệ này, lại là tất nhiên trong mối quan hệ khác.
– Liên hệ chủ yếu và thứ yếu; liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
Cách phân loại này nói đến vai trò quyết định đối với sự vận động, phát triển của sự vật.
– Liên hệ bản chất và không bản chất; liên hệ cơ bản và không cơ bản.
Cách phân loại này nói lên thực chất của mối liên hệ là gì.
– Liên hệ bao quát toàn bộ thế giới và liên hệ bao quát một số hoặc một lĩnh vực. Cách
phân loại này vạch ra quy mô của mối liên hệ. -…v…v…
Sự phân loại các mối liên hệ có tính tương đối, vì ta phải đặt mỗi sự liên hệ vào một tình huống, mối quan hệ cụ thể.
(Lưu ý: hai từ “liên hệ” và “quan hệ” không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau.). lOMoAR cPSD| 61463864
Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hóa cho nhau. Sự chuyển hóa như vậy là do ta thay đổi phạm
vi xem xét, phân loại hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật, hiện tượng.
Phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất trong thế giới khách
quan, mang tính phổ biến. Những ngành khoa học cụ thể (toán, lý, hóa…) nghiên cứu những kiểu liên
hệ riêng biệt trong các bộ phận khác nhau của thế giới.
III. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan
điểm toàn diện và quan điểm lịch sử – cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1. Quan điểm toàn diện
Quán triệt quan điểm toàn diện, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng như sau: –Trong
nhận thức, trong học tập
+ Một là, xem xét các mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.
Tức là xem xét những mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các tuộc tính khác nhau
của chính sự vật, hiện tượng đó.
+ Hai là, xem xét các mối quan hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
Tức là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật,
hiện tượng khác, kể cả trực tiếp và gián tiếp.
+ Ba là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn.
Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ
cũng chỉ phản ánh được một số hữu hạn những mối liên hệ. Do đó, trí thức đạt được về sự vật, hiện
tượng chỉ là tương đối, không trọn vẹn, đầy đủ.
Ý thức được điều này sẽ giúp ta tránh được tuyệt đối hóa những tri thức đã có, tránh xem đó là những
chân lý luôn luôn đúng. Để nhận thức được sự vật, chúng ta phải nghiên cứu tất cả những mối liên hệ.
+ Bốn là, tuyệt đối tránh quan điểm phiến diện khi xem xét sự vật, hiện tượng.
Phiến diện tức là chỉ chú ý đến một hoặc một số ít những mối quan hệ. Cũng có nghĩa là xem xét
nhiều mối liên hệ nhưng đều là những mối liên hệ không bản chất, thứ yếu… Đó cũng là cách cào
bằng những thuộc tính, những tính quy định trong bản thân mỗi sự vật.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ đến chỗ khái quát
để rút ra cái bản chất, cái quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng. Điều này không đồng nhất với cách
xem xét dàn trải, liệt kê. – Trong hoạt động thực tiễn
+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi, để cải tạo được sự vật, chúng ta phải dùng hoạt động thực tiễn để biến
đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật và những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với những sự vật khác.
Để đạt được mục đích đó, ta phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện khác nhau để tác
động nhằm làm thay đổi những mối liên hệ tương ứng.
+ Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữ “chính sách dàn đều” và
“chính sách có trọng điểm”. Ví dụ như trong thực tiễn xây dựng, triển khai chính sách Đổi Mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa coi trọng đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, vừa nhấn
mạnh đổi mới kinh tế là trọng tâm.
2. Quan điểm lịch sử – cụ thể
Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không – thời gian nhất định và mang dấu ấn của không – thời
gian. Do đó, ta nhất thiết phải quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, giải quyết mọi vấn
đề do thực tiễn đặt ra. lOMoAR cPSD| 61463864
Nội dung cốt lõi của quan điểm này là chúng ta phải chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch sử – cụ thể
đã làm phát sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực, cả khách quan và chủ quan, của sự ra đời và phát triển của vấn đề.
Nếu không quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể, cái mà chúng ta coi là chân lý sẽ trở nên sai lầm.
Vì chân lý cũng phải có giới hạn tồn tại, có không – thời gian của nó.
II/ Ý nghĩa của mối liên hệ phổ biến:
1/ Mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong đó: +
Quan điểm toàn diện: Khi xem xét bất cứ 1 sự vật hiện tượng nào, chúng ta phải đặt nó trong quan hệ
với sự vật hiện tượng khac, phải nghiên cứu các mặt cấu thành của nó, các quá trình phát triển
của nó, từ trong tổng số mối liên hệ, tìm ra mối liên hệ bản chất chủ yếu … Ví
dụ: nghiên cứu 1 nước thì đặt nó trong quan hệ với các nước trong khu vực. Xét kết nạp đảng
+ Xét các mặt cấu thành: các phòng ban trong 1 đơn vị….
+ Quá trình phát triển: xét quá trình hoạt động, công tác cá nhân để kết nạp.
+ Xét trong mối liên hệ: Quan hệ xã hội… 2/Về Mặt thực tiễn:
+ Ý nghĩa 1: Để cải tạo sự vật thì phải có giải pháp đồng bộ, toàn diện. Chọn lĩnh vực nào là chủ yếu.
Trong Công tác quản lý thì phải phân cấp quản lý.
Ví dụ: nhà nước (bộ ban ngành), cơ quan (phòng, ban)…
Ví dụ: đối mới toàn diện nước ta: kinh tế, chính trị, trong đó kinh tế là trọng tâm, chính trị từng bước.
+ Ý nghĩa 2: Chống quan niệm siêu hình:
Không thấy được trọng tâm, trọng điểm, đánh giá tràn lan các mối liên hệ , không thấy đâu là chủ yếu
đó là siêu hình. Chống chủ nghĩa chết chung và thuận nghị biện. Trong đó, chủ nghĩa chết chung là
Kết hợp 1 cách vô nguyên tắc giữa các sự vật hiện tượng.
+ Ý nghĩa 3: Khi giải quyết 1 vấn đề cần xem xét các yếu tố cấu thành liên hệ mật thiết, phải xem
xét yếu tố lịch sử hình thành trong mối tương quan với hiện tại.
Câu 2: Mối quan hệ giữa TTXH và YTXH. Liên hệ, vận dụng ở VN.
1. Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với tự nhiên và giữa con người
với nhau; trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người
với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã
hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội gồm các thành phần chính như phương thức sản xuất vật chất; điều kiện tự nhiênmôi
trường địa lý; dân số và mật độ dân số v.v, trong đó phương thức sản xuất vật chất là thành phần cơ
bản nhất. Các quan hệ vật chất khác giữa gia đình, giai cấp, dân tộc v.v cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã hội.
2. Ý thức xã hội là gì?
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan
điểm, tư tưởng, lý luận v.v nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn
phát triển khác nhau. Nói cách khác, ý thức xã hội là những quan hệ tinh thần giữa con người với
nhau, là mặt tinh thần trong quá trình lịch sử. Ý thức xã hội có cấu trúc bên trong xác định, bao gồm
những mức độ khác nhau (ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận (khoa học); tâm lý xã hội và
hệ tư tưởng) và các hình thái của ý thức xã hội (ý thức chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật, triết học, khoa học v.v).
Kết cấu của ý thức xã hội gồm: –
Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán v.v của con người,
của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội được hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp cuộc sống
hàng ngày và phản ánh đời sống đó. Quá trình phản ánh này thường mang tính tự phát, chỉ ghi lại
những biểu hiện bề mặt bên ngoài của xã hội. lOMoAR cPSD| 61463864 –
Hệ tư tưởng xã hội (hệ tư tưởng) là trình độ cao của ý thức xã hội được hình thành khi con
người đã có được nhận thức sâu sắc hơn các điều kiện sinh hoạt vật chất của mình; là nhận thức lý
luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật,
tôn giáo v.v) kết quả sự khái quát hoá những kinh nghiệm xã hội. Có hai loại hệ tư tưởng là: •
Hệ tư tưởng khoa học- phản ánh chính xác, khách quan tồn tại xã hội; •
Hệ tư tưởng không khoa học- phản ánh sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc tồn tại xã hội.
2. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội Thứ
nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức. Trong
lĩnh vực xã hội thì quan hệ này đươc biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý
thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là: -
Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm nguồn gốc tư
tưởngấy trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó, tồn tại xã hội để
lý giải cho ý thức xã hội. -
Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức sản xuất đã thay đổi thì
sớmhay muộn ý thức xã hôi cũng phải thay đổi theo.
Thứ hai: Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội cũ đó sinh
ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biêt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội
như trong truyền thống, tập quán, thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do những nguyên nhân sau đây: -
Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những
hoạtđộng thực tiễn của con người; thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không
phản ánh kịp thời và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói
chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. -
Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một sốhình thái xã hội. -
Ý thức xã hội luôn gắn với những lợi ích nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất địnhtrong xã hội.
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên
tiến, có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai, và có tác dụng tổ chứ
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào hướng giải quyết những nhiệm
vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất mà xã hội đặt ra.
Thứ tư: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý thức
xã hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế, phủ nhận tác
dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự
phát triển của xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lich sử cụ thể, vào tính chất của các mối quan hệ
kinh tế mà tư tưởng đó sinh ra.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vây,
công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hôi mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn
tại xã hội và ý thức xã hội.
Cần quán triệt rằng thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội. Quán
triêt nguyên tắc phương pháp luận này luôn trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Một mặt phải lOMoAR cPSD| 61463864
coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống xã hội
tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại háo đất nước.
Thực trạng và nguyên nhân của sự biến đổi đạo đức của con
người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.1. Đạo đức trong kinh doanh 6 2.
2.Đạo đức trong nền công vụ Việt Nam 9
2.3. Trong văn hoá xã hội 10
2.4.Đạo đức trong ngành giáo dục 12
Câu 4: Vai trò pp luận của triết học đối với các khoa học chuyên ngành.
Vai trò của triết học đối với các khoa học cụ thể và đối với tư duy lý luận:
Sự hình thành, phát triển của triết học không thể tách rời sự phát triển của khoa học cụ thể, qua khái
quát các thành tựu của khoa học cụ thể. Tuy nhiên, triết học lại có vai trò rất to lớn đối với sự phát
triển của khoa học cụ thể, nó là thế giới quan và phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý
luận cho các khoa học cụ thể trong việc đánh giá các thành tựu đã đạt được, cũng như vạch ra phương
hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể. A.Anhxtanh, nhà vật lý học nổi tiếng
của thế kỷ XX, đã nhận xét: “Các khái quát của triết học cần phải dựa trên các kết quả khoa học. Tuy
nhiên, mỗi khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường ảnh hưởng đến sự phát triển
của tư tưởng khoa học khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phương hướng phát triển có thể có”.
Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển của khoa học;
ngược lại chủ nghĩa duy tâm thường được sử dụng làm công cụ biện hộ cho tôn giáo và cản trở khoa
học phát triển. Vào thời cổ đại, khoa học tự nhiên mới bắt đầu hình thành, triết học tự nhiên (một hình
thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại) đã trình bày được một bức tranh tổng quát về thế giới,
đã có nhiều tư tưởng và dự báo thiên tài định hướng cho khoa học phát triển. Vào thời Phục hưng và
nhất là thời cận đại, chủ nghĩa duy vật đã phát triển gắn liền với khoa học tự nhiên, đã góp phần tích
cực vào sự phát triển của khoa học tự nhiên, chống lại sự thống trị của giáo hội. Tuy nhiên vào thời
kỳ này, quan điểm “triết học là khoa học của các khóa học” và phương pháp tư duy siêu hình vẫn giữ
vai trò thống trị. Sự phát triển của khoa học vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã làm cho quan
điểm “triết học là khoa học của các khoa học” và phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp
nữa. Từ đó chủ nghĩa duy vật biện chứng đã ra đời.
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn luôn gắn liền với các thành tựu của
khoa học hiện đại, là sự khái quát các thành tựu khoa học mang lại; đồng thời, nó lại đóng vai trò to
lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới quan và
phương pháp luận thật sự khoa học cho các khoa học cụ thể đánh giá đúng các thành tựu đã đạt được,
cũng như xác định đúng phương hướng và phương pháp trong nghiên cứu. Đặc biệt, trong giai đoạn
hiện nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang đạt được nhiều thành tựu to lớn làm thay đổi
sâu sắc nhiều mặt của đời sống xã hội, tình hình thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, thì nắm
vững thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng càng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên,
chủ nghĩa duy vật biện chứng không thể thay thế được các khoa học khác. Theo yêu cầu của sự phát
triển đòi hỏi phải có sự liên minh chặt chẽ giữa triết học với các khoa học khác.
Câu 6: Đặc điểm và bản chất của cuộc CMKHC nghệ hiện nay?
1. Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là gì?
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là sự hòa nhập, kết hợp thành một quá trình duy nhất các
quá trình cách mạng trong khoa học, trong kĩ thuật, trong công nghệ và tác động mạnh mẽ đến công
nghiệp, trong đó quá trình cách mạng trong khoa học đi trước, giữ vai trò dẫn đường và quyết định
các quá trình kĩ thuật, công nghệ, công nghiệp và do đó cũng có vai trò dẫn đường và quyết định định
hướng, quy mô, tốc độ phát triển sản xuất. Nghiên cứu khoa học được công nghiệp hóa, tri thức khoa
học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sản xuất trở thành nơi thực hiện thực tiễn các tri thức khoa
học. Tri thức khoa học trở thành cơ sở lí luận cho sản xuất, quản lí và phát triển xã hội ở các cấp độ lOMoAR cPSD| 61463864
vi mô lẫn vĩ mô và cả ở quy mô toàn cầu. Chính nhờ đó tốc độ phát triển của công nghiệp, của sản
xuất và xã hội ngày càng phát triển với quy mô và nhịp độ nhanh hơn.
Đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại:
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra đầu
tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế kỷ XX với
nội dung chủ yếu là cơ khí hóa, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Cuộc
cách mạng kỹ thuật lần thứ hai còn gọi là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xuất
hiện vào những năm 50 của thế kỷ XX. Mới mấy thập niên trôi qua, nhất là thập niên gần đây, cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã làm nên sự thay đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời
sống kinh tế, chính trị và xã hội. Cuộc cách mạng này có nhiều nội dung, song có 5 nội dung chủ yếu sau: -
Về tự động hóa: Sử dụng ngày càng nhiều máy tự động quá trình, máy công cụ điều khiển bằng số, rôbốt. -
Về năng lượng: Ngoài những dạng năng lượng truyền thống (nhiệt điện, thuỷ điện) ngày nay
đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguyên tử là chủ yếu và các dạng năng lượng “sạch”
như năng lượng mặt trời,..... -
Về vật liệu mới: Chỉ chưa đầy 40 năm trở lại đây các vật liệu mới đã xuất hiện với nhiều
chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật liệu tự nhiên không có được. Ví dụ:
vật liệu tổ hợp (composit); gốm zincôn hoặc cácbuasilích chịu nhiệt..... -
Về công nghệ sinh học: Được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp, nông nghiệp, y
tế, hóa chất, bảo vệ môi trường… như công nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin, kỹ thuật gen và nuôi cấy tế bào. -
Về điện tử và tin học: Đây là lĩnh vực vô cùng rộng lớn, hấp dẫn đang được loài người đặc
biệt quan tâm, nhất là lĩnh vực máy tính diễn ra theo bốn hướng: nhanh (máy siêu tính); nhỏ (vi tính);
máy tính có xử lý kiến thức (trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa (viễn tin học).
Từ nội dung của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nêu trên, ta thấy có hai đặc điểm chủ yếu sau: -
Một là, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp (bao gồm cả khoa học tự nhiên – kỹ
thuật lẫn khoa học – xã hội, nhất là khoa học kinh tế) do con người tạo ra và thông qua con người đến
lực lượng sản xuất. Nó đòi hỏi cần phải có chính sách đầu tư cho khoa học, kỹ thuật, công nghệ tương
ứng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. -
Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học ra đời thay thế cho phát minh cũ có xu
hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng của một thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống ngày
càng mở rộng. Nó đòi hỏi cần được kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược khoa học và công nghệ với chiến
lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Các cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại:
Cho đến nay nhân loại đã trải qua hai cuộc cách mạng công nghiệp và phần lớn các nước trên thế giới
đang trải qua cuộc cách mạng lần thứ ba. Trong khi đó, một số nước phát triển đã bắt đầu triển khai
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (được gọi tắt là cách mạng công nghiệp 4.0). Việc tìm hiểu
đặc điểm của các cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại và khả năng vận dụng nó để phát
triển kinh tế Việt Nam có ý nghĩa thực tiễn to lớn. -
Cuộc cách mạng lần thứ nhất bắt đầu vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII ở nước Anh, sau đó lan
ra khắp thế giới và kết thúc ở phương Tây vào giữa thế kỷ XIX. Đặc điểm của cuộc cách mạng này
là tập trung chuyên môn hóa sản xuất, với sự ra đời của máy móc, đã tạo ra mô hình tổ chức lao động
bằng hệ thống máy móc, với ba bộ phận (máy phát lực, máy truyền lực và máy công tác). Và cùng
với nó là sự ra đời các nhà máy, xí nghiệp với các quy mô khác nhau và ngày càng to lớn. Nội dung
của cuộc cách mạng này là thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc. Biểu trưng của cuộc lOMoAR cPSD| 61463864
cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là máy hơi nước. Đây là cuộc cách mạng to lớn trong lịch sử
nhân loại. Theo đánh giá của C.Mác về tác động của cuộc công nghiệp lần thứ nhất đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, ông khẳng định: “Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa
đấy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lưởng sản xuất của tất
cả các thế hệ trước gộp lại”. -
Cuộc cách mạng lần thứ hai diễn ra và cuối thế kỷ XIX, kết thúc vào cuối những năm 30 của
thế kỷ XX, khi năng lực sản xuất bằng máy móc cơ khí đã đạt tới những giới hạn. Điểm sáng của
cuộc cách mạng lần thứ hai là dựa trên những phát minh ra động cơ đốt trong, nguồn năng lượng mới
là dầu mỏ, khí đốt và các nguyên liệu thép và kim loại màu, các hóa phẩm tổng hợp… Đặc điểm lớn
nhất của cuộc cách mạng này là việc chuyển sang sản xuất trên cơ sở điện – cơ khí và tự động hóa
cục bộ trong sản xuất tạo ra những ngành sản xuất mới, và việc sử dụng các nguyên liệu kim loại và
hợp kim mới mà trước đây chưa từng được sử dụng. -
Cuộc cách mạng lần thứ ba bắt đầu từ thập niên 40 của thế kỷ XX đến nay, chia thanh hai
giai đoạn kế tiếp nhau:
• Cách mạng khoa học kỹ thuật (từ đầu thập niên 40 đến giữa thập niên 70);
• Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, diễn ra vào cuối thập niên 70 thế kỷ XX trở lại đây.
So với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai, cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật có nội dung phong phú, đa dạng và rộng hơn nhiều, Đó là sự phát triển vượt bậc không
những diễn ra trong các ngành khoa học cơ bản (Toán, Vật lý, Sinh học, Hóa học) mà còn thể
hiện ở nhiều ngành khoa học kỹ thuật mới như: khoa học vũ trụ, điều khiển học, mà còn hình
thành nên các kỹ thuật, nguyên liệu, vật liệu, năng lượng mà các giai đoạn trước đó chưa từng
có được. Cuộc cách mạng khoa hoc - công nghệ diễn ra đồng thời cả hai lĩnh vực khoa học và
công nghệ, là quá trình biến đổi tận gốc lực lượng sản xuất của xã hội hiện đại, được thực hiện
với vai trò dẫn đường của khoa học trong toàn bộ chu trình: khoa học - công nghệ - sản xuất và môi trường.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế,
chính trị và xã hội. Nội dung chủ yếu của nó là:
• Sử dụng ngày càng nhiều máy móc tự động hóa, máy móc, công cụ điều khiển bằng số, rô bốt;
• Cùng với việc sử dụng năng lượng truyền thống (nhiệt điện, thủy điện) đã và đang sử dụng
năng lượng nguyên tử an toàn và năng lượng sạch;
• Phát triển các loại vật liệu mới như composite, gốm siêu dẫn, kim loại màu, hóa phẩm tổng hợp;
• Công nghệ sinh học phát triển được ứng dụng ngày càng nhiều trong các lĩnh vực công nghiệp,
nông nghiệp như: công nghệ vi sinh, nuôi cấy tế bào…, công nghệ điện tử, tin học… -
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại nhiều nước phát triển, ra đời trên cơ sở, nền
tảng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Theo ông Claus Schwab – Chủ tịch Diễn đàn kinh
tế thế giới khi định nghĩa về cuộc cách mạng 4.0, ông cho rằng: “Cuộc cách mạng lần thứ tư sinh ra
từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới
giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Đặc trưng của cuộc cách mạng 4.0 là:
• Trí tuệ nhân tạo, kết nối vạn vật thông qua internet, phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây;
• Về lĩnh vực công nghệ sinh học tập trung vào nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong
nông nghiệp, thủy sản, y dược, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo…;
• Cuối cùng là vật lý – sự xuất hiện của rô bốt thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới
và công nghệ nano….. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo sẽ tác động mạnh mẽ sự
thay đổi ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế các nước trên thế giới. Một mặt, nó tạo ra sự phát triển
vượt bậc và kinh tế của các nước. Mặt khác, nó cũng tạo ra những thách thức lớn đối với các lOMoAR cPSD| 61463864
nền kinh tế về việc giảm đáng kể lao động phổ thông bị thay thế bởi các rô bốt thông minh. Từ
đó, dẫn tới tình trạng thất nghiệp, bất ổn về đời sống và chính trị…....
2. Dấu hiệu đặc trưng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là
Đặc trưng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là sự xuất hiện và bùng nổ công
nghệ cao, đó là công nghệ dựa vào những thành tựu khoa học với hàm lượng tri thức cao.
Tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại: •
Làm xuất hiện nhiều ngành mới, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. •
Tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ trên thế giới và trong các quốc gia. •
Làm nền kinh tế thế giới chuyển dần từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Tác động:
=> Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tác động ngày càng sâu sắc, làm xuất hiện nhiều
ngành mới, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ, làm cho kinh tế thế giới chuyển dần từ
nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức (nền kinh tế dựa trên tri thức, kỹ thuật, công nghệ cao).
Vai trò của khoa học công nghệ hiện đại với vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nền kinh tế Việt Nam:
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiên đại, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã chỉ
ra rằng: Khoa học đã đi trước một bước và giữ vai trò chủ đạo và định hướng trong phát triển công
nghệ, sức sản xuất của mọi nền kinh tế. Trong điều kiện của nền kinh tế nước ta, nội dung cơ bản của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là trang bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại
cho các ngành kinh tế, cùng với việc xây dựng cơ cấu kỹ thuật, công nghệ nhiều tầng, nhiều trình độ
cho phù hợp với điều kiện của nền kinh tế Việt Nam. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa do
Đảng ta xác định thông qua các Nghị quyết của Đại hội Đảng, đặc biệt là các Nghị quyết Đại hội lần
thứ X, XI, XII, đều khẳng định: Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, kết hợp công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại
ở những khai quyết định. Với quan điểm của các Nghị quyết Đảng đã nêu, con đường trang bị kỹ
thuật – công nghệ cho các ngành kinh tế quốc dân đối với nước ta hiện nay cần phải phát triển công
nghệ nội sinh thông qua việc đẩy mạnh triển khai cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc
biệt là công nghệ 4.0. Trong quá trình đó, cần coi trọng việc ứng dụng những thành tựu mới, tiên tiến
về khoa học của thế giới, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ để phục vụ
các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời phải chú trọng việc sử dụng công
nghệ mới gắn với yêu cầu tạo việc làm; kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiên đại; phát
triển công nghệ ngoại sinh và nội sinh hóa công nghệ tiên tiến của các nước phát triển để sớm được
công nghệ tiên tiến, qua đó rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước phát triển. Cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra những cơ hội để Việt Nam nắm bắt và vận dụng những thành
tựu của khoa học và công nghệ để phát triển kinh tế đất nước. Với sự xuất hiện của một lực lượng sản
xuất mới như: Rô bốt có trí tuệ nhân tạo có khả năng làm việc, giao tiếp và học hỏi; kết nối vạn vật
thông qua internet, bằng cách này đã giúp máy móc – rô bốt có thể giao tiếp với nhau và thay thế con
người ở rất nhiều công việc trong các ngành kinh tế… Tuy nhiên, cuộc cách mạng 4.0 theo dự báo sẽ
tạo ra những thách thức không nhỏ đối với các nền kinh tế khi rô bốt có thể thay thế những lao động
ở nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Các thách thức trên đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn về nhận thức và
hành động của Chính phủ, người dân và doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế Việt Nam
hiện nay vẫn dựa nhiều vào lao động trình độ thấp và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác,
những yếu kém về quản trị ở tầm quốc gia cũng là một trở ngại trong quá trình tiếp cận và triển khai
cuộc cách mạng công nghệ 4.0 ở nước ta. Trong quá trình phát triển kinh tế đất nước trong những
năm tới, khoa học công nghệ càng có vai trò to lớn như Văn kiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng
đã khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, làm cho khoa học công nghệ thực sự là
quốc sách hàng đầu, là động lực quan trong nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri
thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, lOMoAR cPSD| 61463864
quốc phòng, an ninh”. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là thành tựu to lớn của cả nhân loại, sẽ là cơ
hội cho những quốc gia, dân tộc biết nắm bắt thời cơ, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam.
1. Cách mạng khoa học công nghệ là gì?
Cách mạng khoa học và công nghệ đang làm thay đổi toàn bộ diện mạo của nền sản xuất xã hội cũng
như điều kiện, tính chất và nội dung lao động, thành phần lực lượng sản xuất, phân công lao động xã
hội và cơ cấu ngành nghề của xã hội. Nó cũng dẫn đến việc tăng nhanh năng suất lao động, tác động
đến mọi mặt của xã hội (bao gồm cả văn hóa, đời sống hàng ngày, tâm lý con người và mối quan hệ
giữa xã hội và tự nhiên) và dẫn đến sự tăng tốc mạnh mẽ của tiến bộ khoa học và công nghệ. .
Cách mạng khoa học và công nghệ là một giai đoạn tự nhiên trong lịch sử, có tính chất đặc trưng của
thời đại chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa cộng sản. Nó là một hiện tượng toàn thế giới,
nhưng các hình thức biểu hiện của nó, cũng như diễn biến và hậu quả của nó, về cơ bản là khác nhau
ở các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
Cách mạng khoa học và công nghệ là một quá trình kéo dài có hai điều kiện tiên quyết chính là khoa
học – công nghệ và xã hội. Những tiến bộ của khoa học tự nhiên vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20
đóng vai trò quan trọng nhất trong việc mở đường cho cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, dẫn
đến một cuộc cách mạng cơ bản trong quan điểm về vật chất và hình thành một bức tranh mới về thế giới.
Nó bắt đầu với việc phát hiện ra electron và radium, sự chuyển đổi của các nguyên tố hóa học, nguồn
gốc của thuyết tương đối và thuyết lượng tử, và nó đánh dấu một bước đột phá khoa học trong các
lĩnh vực vi mô và vận tốc cao. Cơ sở lý thuyết của hóa học đã trải qua những thay đổi đáng kể trong
những năm 1920 do những tiến bộ trong vật lý học. Thuyết lượng tử giải thích bản chất của liên kết
hóa học; đến lượt nó, điều này đã mở ra cho khoa học và ngành công nghiệp những khả năng rộng
lớn về sự biến đổi hóa học của vật chất. Có được hiểu biết sâu sắc về cơ chế di truyền, phát triển di
truyền và lý thuyết nhiễm sắc thể hình thành.
Ngoài ra còn có một bước tiến mang tính cách mạng trong công nghệ, chủ yếu là kết quả của việc sử
dụng điện trong công nghiệp và giao thông vận tải. Đài phát thanh được phát minh và trở nên phổ
biến rộng rãi. Hàng không nổi lên.
Vào những năm 1940, khoa học đã giải quyết được vấn đề tách hạt nhân nguyên tử. Nhân loại làm
chủ được năng lượng nguyên tử. Sự phát triển của điều khiển học có tầm quan trọng lớn. Nghiên cứu
phát triển lò phản ứng nguyên tử và bom nguyên tử buộc các nước tư bản lần đầu tiên phải tổ chức
phối hợp tương tác khoa học và công nghiệp trong khuôn khổ một kế hoạch khoa học kỹ thuật quy
mô lớn của quốc gia. Điều này cung cấp kinh nghiệm cho việc triển khai các chương trình nghiên cứu
khoa học kỹ thuật quốc gia tiếp theo.
Các cơ quan nhà nước về lập kế hoạch và quản lý hoạt động khoa học được thành lập ở hầu hết các
quốc gia vào cuối những năm 1950 dưới ảnh hưởng của những tiến bộ của Liên Xô trong nghiên cứu
về không gian vũ trụ, cũng như kinh nghiệm của Liên Xô trong việc tổ chức và lập kế hoạch khoa
học. Tăng cường liên hệ trực tiếp giữa các dự án phát triển khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh việc sử dụng
các thành tựu khoa học trong công nghiệp. Máy tính điện tử, đã trở thành biểu tượng của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, được phát triển vào những năm 1950 và được sử dụng rộng rãi trong
nghiên cứu và công nghiệp, sau đó là quản lý.
Sự xuất hiện của máy tính báo trước sự khởi đầu của việc chuyển dần các chức năng logic của con
người sang máy móc và về lâu dài, là sự chuyển đổi sang tự động hóa tích hợp trong sản xuất và quản
lý. Máy tính điện tử là một loại công nghệ mới về cơ bản làm thay đổi vị trí và vai trò của con người
trong quá trình sản xuất.
Trong những năm 1940 và 1950, có những thay đổi cơ bản trong cấu trúc của hầu hết các ngành khoa
học và trong hoạt động khoa học do kết quả của những khám phá khoa học và kỹ thuật lớn. Sự tương
tác của khoa học với công nghệ và sản xuất tăng lên. Vì vậy, trong những năm 1940 và 1950, nhân
loại bước vào thời kỳ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. lOMoAR cPSD| 61463864
2. Đặc điểm của cách mạng khoa học và công nghệ: (1)
Việc chuyển đổi khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp thông qua sự kết hợp của các
cuộccách mạng khoa học, công nghệ và công nghiệp; sự tăng cường của sự tương tác giữa ba lĩnh
vực này; và giảm khoảng thời gian từ khi ra đời một ý tưởng khoa học mới đến khi nó được triển khai trên thực tế. (2)
Một giai đoạn mới trong quá trình phân công lao động xã hội, gắn liền với việc chuyển khoa
họcthành lĩnh vực hàng đầu của hoạt động kinh tế và xã hội – một lĩnh vực đang trở nên phổ biến trong tự nhiên. (3)
Sự biến đổi về chất của tất cả các yếu tố của lực lượng sản xuất (đối tượng lao động, công cụ
sảnxuất và bản thân người lao động), toàn bộ quá trình sản xuất ngày càng tăng lên do tổ chức khoa
học và kỹ thuật sản xuất, giảm tiêu dùng cụ thể của ngành về nguyên vật liệu, vốn và lao động: tri
thức mới mà xã hội thu nhận được theo cách “thay thế” chi phí cho nguyên vật liệu, thiết bị và nhân
lực, hoàn trả nhiều lần các khoản chi cho nghiên cứu khoa học và phát triển kỹ thuật. (4)
Sự thay đổi về bản chất, nội dung lao động và sự lớn mạnh của vai trò các yếu tố sáng tạo;
sựchuyển đổi quá trình sản xuất “từ quá trình lao động giản đơn thành một quá trình khoa học” (5)
Trên cơ sở này, xuất hiện những điều kiện tiên quyết về vật chất và kỹ thuật để khắc phục
sựtương phản và khác biệt đáng kể giữa lao động trí óc và thể chất, giữa thành thị và nông thôn, giữa
khu vực sản xuất và phi sản xuất. (6)
Sự phát triển của các nguồn năng lượng mới, có tiềm năng vô hạn và các vật liệu tổng hợp cóđặc tính quy định. (7)
Sự gia tăng vô cùng to lớn về ý nghĩa kinh tế và xã hội của dịch vụ thông tin như một
phươngtiện cung cấp sự quản lý và kiểm soát một cách khoa học đối với nền sản xuất xã hội và sự
phát triển tương ứng của các phương tiện thông tin đại chúng. (8)
Sự tăng trưởng về trình độ văn hóa và giáo dục phổ thông, chuyên biệt của người lao động;
sựgia tăng thời gian rảnh rỗi. (9)
Sự phát triển tương tác của các khoa học, nghiên cứu toàn diện các vấn đề phức tạp, và vai
tròcủa khoa học xã hội và đấu tranh tư tưởng.
(10) Sự tăng tốc mạnh mẽ của tiến bộ xã hội, quốc tế hóa hơn nữa tất cả các hoạt động của conngười
trên toàn hành tinh, sự gia tăng của “các vấn đề sinh thái” và sự cần thiết liên quan của sự điều tiết
khoa học của hệ thống tự nhiên-xã hội. 3. Ý nghĩa của cách mạng khoa học công nghệ:
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo tiền đề cho sự ra đời của một hệ thống thống nhất cho
các lĩnh vực nỗ lực quan trọng nhất của con người: nắm vững lý thuyết về các quy luật tự nhiên và xã
hội (khoa học), cơ sở vật chất kỹ thuật và tri thức dùng để cải tạo tự nhiên ( công nghệ), quá trình tạo
ra của cải vật chất (sản xuất) và các phương pháp được sử dụng để đạt được mối liên hệ hợp lý giữa
các hành động thực tiễn trong quá trình sản xuất (quản lý).
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang làm thay đổi cơ bản nền sản xuất nông nghiệp bằng
cách chuyển lao động nông nghiệp thành một loại hình lao động công nghiệp. Đồng thời, lối sống
nông thôn ngày càng giống lối sống thành thị. Sự phát triển của khoa học, công nghệ và công nghiệp
thúc đẩy quá trình đô thị hóa theo chiều sâu, và sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng
và giao thông hiện đại góp phần quốc tế hóa đời sống văn hóa.
Sự thay đổi hàm lượng lao động đang diễn ra dần dần trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội trong
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm thay đổi rất nhiều nhu cầu đặt ra về nguồn lao động.
Bên cạnh sự gia tăng khối lượng giáo dục phổ thông bắt buộc, vấn đề đào tạo nghề nâng cao cho
người lao động và khả năng đào tạo lại định kỳ, đặc biệt là trong các lĩnh vực lao động đang phát triển
mạnh nhất đang nảy sinh.
Quy mô và tốc độ thay đổi của sản xuất và đời sống công cộng đi kèm với cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ đòi hỏi ở mức độ chưa từng có dự đoán kịp thời và đầy đủ nhất có thể về tổng thể các
hệ quả của chúng, cả về kinh tế và xã hội, cũng như ảnh hưởng của chúng. về xã hội, con người và thiên nhiên. lOMoAR cPSD| 61463864
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tạo tiền đề cho sự thay đổi cơ bản về tính chất sản xuất
và chức năng của lực lượng sản xuất chủ yếu là người lao động. Nó đặt ra những yêu cầu ngày càng
cao về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, khả năng tổ chức và trình độ văn hóa và trí tuệ chung của
người lao động, đồng thời cũng làm tăng vai trò của động cơ đạo đức và trách nhiệm cá nhân trong
lao động. Nội dung của lao động dần dần sẽ bao gồm quản lý và điều khiển sản xuất; sự khám phá và
sử dụng các quy luật tự nhiên; sự phát triển và giới thiệu các kỹ thuật sản xuất tiên tiến, vật liệu mới
và các dạng năng lượng, các dụng cụ và công cụ lao động; và sự biến đổi điều kiện sống của người
dân. Điều kiện cần thiết cho quá trình này là giải phóng xã hội cho người lao động và phát triển nhân
tố con người trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ – nâng cao trình độ văn hoá và văn hoá
chung của mọi thành viên trong xã hội và tạo ra dư địa không giới hạn cho sự phát triển hài hoà. của
cá nhân, chỉ có thể hoàn thành trong quá trình xây dựng chủ nghĩa cộng sản.