Nguyên nhân và các giải pháp chống tham nhũng - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng
Tham nhũng là một căn bệnh phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Vào những năm 50 cảnh sát Cam-pu-chia đã nói không úp mở rằng: làm ruộng ăn lúa, làm làng ăn hối lộ. Mới đây chủ tịch Đảng cầm quyền Um nô, Thủ tướng Malaixia –Mahathir Mohamad đã khóc trước đại hội đảng về nạn tham nhũng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (PL101)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
H V ọ à Tên: Lớp: D20-QT12 MSSV: GVBM: Bài Ti u ể Lu n
ậ Pháp Lu t ậ Đ i
ạ Cương
ĐỀ TÀI: Nguyên nhân và các giải pháp
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay MỤC LỤC L I M Ờ Đ Ở ẦẦU PHẦN I
Nguyên nhân tham nhũng và tác hại của nó
Khái niệm về tham nhũng
Hành vi và một số phương thức thực hiện hành vi tham nhũng
Tác hại của tham nhũng
Nguyên nhân của tệ tham nhũng PHẦẦN II
Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay PHẦẦN III
Các giải pháp chống tham nhũng ở nước ta
Vai trò của các biện pháp phòng ngừa tham nhũng LỜI MỞ ĐẦU
Tham nhũng là một căn bệnh phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Vào
những năm 50 cảnh sát Cam-pu-chia đã nói không úp mở rằng: làm ruộng
ăn lúa, làm làng ăn hối lộ. Mới đây chủ tịch Đảng cầm quyền Um nô, Thủ
tướng Malaixia –Mahathir Mohamad đã khóc trước đại hội đảng về nạn
tham nhũng...Còn ở Việt Nam từ thời Hồng Đức và Gia Long đã có các bộ
luật để chống tham nhũng. Thời Minh Mạng có” phép làm liêm”, thời Tự
Đức có ” chính sách báo liêm” của Nguyễn Trường Tộ. Ngày nay tham
nhũng đã trở thành quốc nạn, là 1 trong 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của
chế độ. Có thể nói tham nhũng là căn bệnh hiểm nghèo gắn liền với mọi
Nhà nước, bởi lẽ chừng nào còn Nhà nước thì còn quyền lực, mà còn quyền
lực thì dễ xuất hiện những người dùng sai quyền lực. Cuộc đấu tranh để
loại bỏ những người sử dụng sai quyền lực ra khỏi bộ máy nhà nước các
cấp là cuộc đấu tranh lâu dài, liên tục bền bỉ và kiên định của mọi nhà
nước, chống mạnh thì thịnh, chống yếu thì suy, ngoài ra không có con
đường nào khác. Ở nước ta từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp,
chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN là con
đường hoàn toàn mới mẻ. Những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều chủ trương,chính sách cởi mở, tạo điều kiện để các thành phần kinh
tế phát triển. Tuy nhiên hệ thống pháp luật vẫn thiếu đồng bộ, một số văn
bản pháp quy vừa mới ban hành đã sớm lạc hậu với thực tiễn, tạo nhiều sơ
hở, dễ bị lợi dụng. Mặt khác, bước vào cơ chế mới, tâm lý nôn nóng làm
giàu có mặt tích cực là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, nhưng cũng có
mặt tiêu cực là làm cho một số người bị tha hoá, đánh mất chính mình
trong chủ nghĩa vị kỷ, hưởng lạc, trong khát vọng làm giàu bằng mọi giá,
bất chấp pháp luật, đạo lý. Bộ máy Nhà nước của chúng ta trải qua các
thời kỳ lịch sử khác nhau chưa đủ thời gian và kinh nghiệm để cải cách kịp
thời, do đó khi bước vào thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên một số
mặt đã bộc lộ không ít khuyết điểm, tình hình đó cùng vớihệ thống thủ tục
hành chính rườm rà, bộ máy cồng kềnh, tạo môi trường dung dưỡng cho tệ
quan liêu tham nhũng. Hệ thống cơ quan tư pháp, hành pháp, thanh tra,
kiểm tra chất lượng và hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Điều này đòi hỏi chúng
ta phải tích cực và chủ động chống tham nhũng có hiệu quả.
Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Nguyên nhân và các giải pháp chống
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”. PHẦN I
NGUYÊN NHÂN THAM NHŨNG VÀ TÁC HẠI CỦA NÓ
KHÁI NIỆM VỀ THAM NHŨNG
Quan niệm về tham nhũng của một số quốc gia trên thế giới
+ Nước Đức: Tham nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót,
thường xảy ra đối với công chức có quyền hành (Từ điển bách khoa của Đức).
+ Nước áo: Tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột.
+ Thụy Sỹ: Tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của
tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước. Đó là hành vi phạm pháp
để phục vụ lợi ích cá nhân (Từ điển Bách Khoa của Thụy Sỹ).
+ Nước Pháp: Tham nhũng bao gồm những hành vi lạm dụng quyền hạn
để thu vén lợi ích vật chất.
Khái niệm về tham nhũng của Việt Nam theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Tham
nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của”. Tham
nhũng là hành vi lợitdụng chức vụ, quyền hạn, vị thế xã hội của viên chức
Nhà nước để làm trái pháp luật hoặc lợi dụng các sơ hở của pháp luật
kiếm lợi cho bản thân, gây hại cho xã hội, cho công dân. Pháp lệnh chống
tham nhũng ngày 26-2-1998 cũng ghi rõ trong điều 1: “Tham nhũng là
hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và
quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ
lợi, gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt
động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Tham nhũng là vật cản lớn nhất
của tiến trình phát triển xã hội, là nguy cơ trực tiếp liên quan đến sự sống
còn của các Nhà nước”. Mặc dù được thể hiện theo những cách khác nhau
song tham nhũng được hiểu khá thống nhất trong văn hoá pháp lý ở các
nước trên thế giới, đó là việc lợi dụng vị trí, quyền hạn thực hiện hành vi
trái pháp luật nhằm trục lợi cá nhân hay nói một cách khác tham nhũng là
việc sử dụng hoặc chiếm đoạt bất hợp pháp công quyền hay nguồn lực tập thể.
HÀNH VI VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN HÀNH VI THAM NHŨNG
Khái niệm về hành vi tham nhũng: Hành vi tham nhũng là hành vi
thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội tham nhũng
đã được pháp luật qui định, đó là các hành vi có ý thức, có chủ định.
Đặc điểm của hành vi tham nhũng: Hành vi tham nhũng là hành vi của
một cá nhân hoặc một nhóm người trong đó có kẻ cầm đầu, nó thường tạo
thành từ các nhóm người có quan hệ thân quen, họ hàng và gần đây trên
thế giới lại hình thành các hành vi tham nhũng có tính tổ chức của nhiều
người dựa trên lợi ích ích kỷ của họ. Loại hành vi này đang có xu hướng
tăng lên rất mạnh mang lại hậu quả rất nghiêm trọng và có hai đặc trưng
nổi bật: một là xuất hiện dưới phương thức tổ chức có đặc trưng khác với
hoạt động cá nhân, loại này được gọi là tham nhũng siêu ngạch với những
hình thức chủ yếu như biển lậu thuế có tổ chức, buôn lậu có tổ chức, làm
giả có tổ chức, vơ vét tổ chức, xâm chiếm có tổ chức biểu hiện chủ yếu là
xâm chiếm vốn của Nhà nước, hai là được sự hoàn thiện với sự tham gia
của quyền lực của một tổ chức nhất định để đạt được mục đích thu được
lợi ích hoặc lợi nhuận siêu ngạch .Về hình thức tham nhũng chủ yếu vẫn
thông qua các hành vi tham ô, hối lộ, lộng quyền, sách nhiễu, dùng quyền
lực để mưu tư lợi, dùng tiền tài làm càn vi phạm pháp luật, dùng tiền tài
thao túng quyền lực, chiếm đoạt quyền lực....Về thủ đoạn, các hành vi
tham nhũng được hình thành bằng nhiều cách: kết cấu bên trong, móc
ngoặc ngoài nước cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật phức
tạp đã làm cho hoạt động tham nhũng ngày một trở nên khó bị phát hiện.
Về lĩnh vực: Đối tượng mà các hoạt động tham nhũng săn đuổi nói chung
tập trung vào nơi có tiền bạc, nguồn lực, quyền hạn, hợp đồng, tài chính,
chức vụ, cơ hội, ...cho nên các lĩnh vực có tỷ lệ thành án cao trên thế giới
ngày nay vẫn là các ngành ngân hàng, tài chính, thương mại, xuất nhập
khẩu,dự trữ quốc gia, giao thông vận tải, bưu điện, xây dựng, các đề án
nước ngoài, các nơi cấp phép hoạt động hoặc thông qua thủ tục hành chính, các cửa khẩu …
Động cơ tham nhũng: Động cơ tham nhũng được hình thành từ các yếu
tố cơ bản như lòng tham, ham muốn vật chất, lòng ham địa vị và quyền
lực cao, muốn làm giàu một cách nhanh chóng, muốn có cuộc sống và lối
sống hơn người về lợi ích hoặc còn do nhiều yếu tố như thiếu bản lĩnh,
thiếu ý chí, dễ sa ngã dẫn đến sự không chấp nhận sự mất cân đối giữa
nhu cầu tiêu dùng với khả năng thu nhập và địa vị công việc của mình.
Mục đích tham nhũng:Mục đích của hành vi tham nhũng là cái đích mà
người phạm tội đặt ra trong óc mình và mong muốn đạt đến bằng hành vi
phạm tội và khi có điều kiện khách quan cho phép thực hiện thì nó dễ trở thành hiện thực.
Một số phương thức thực: hiện hành vi tham nhũng ở Việt Nam Các
hình thức cơ bản của tham nhũng ở nước ta hiện nay vẫn là tham ô, hối lộ,
dựa vào quyền lực để sách nhiễu, dùng quyền lực để mưu lợi riêng, dùng
tiền để làm chuyện phi pháp và các thủ đoạn mà kẻ phạm tội triệt để lợi
dụng là những sơ hở của pháp luật, chính sách, trong các biện pháp tổ
chức, quản lý và điều hành. Thủ đoạn phạm tội rất đa dạng và phức tạp
nhưng thường tập trung ở các dạng sau :
-Có địa phương, đơn vị ra những chỉ thị, nghị quyết không đúng với chính
sách, luật pháp của Nhà nước để thu lợi bất chính, phổ biến là lấy đất
công để chia nhau, lấy đất của nông dân để bóc lột nông dân như một kiểu phát canh thu tô.
-Đề ra hàng loạt các khoản bắt nông dân đóng góp, bưng bít thông tin,
thiếu công khai minh bạch để xà xẻo, tư túi.
-Gây khó khăn, sách nhiễu để đòi hối lộ dưới nhiều hình thức kể cả mua bằng, bán điểm
-Khi xây dựng thì định mức kinh tế -kĩ thuật nâng cao lên, khi thực hiện thì
lắt léo để giảm xuống,có lúc có công trình còn trên dưới 50% lấy chênh
lệch, chia chác làm cho hàng loạt công trình mặc dù được hội đồng
nghiệm thu đánh giá tốt nhưng mới sử dụng đã hư hỏng.
-Lợi dụng buôn bán vận chuyển, đi nước ngoài câu kết với bọn “buôn lậu
thế kỷ”, có tính quốc tế (nhập tàu, xe cũ, máy móc lạc hậu...) bất chấp
hậu quả cho dân và nền kinh tế miễn là có chênh lệch, có hoa hồng.
-Thông đồng với nhau để vay tiền ngân hàng, tiền nước ngoài (như ODA...)
đến hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng mà không tính đến hiệu quả sử dụng.
-Sử dụng tiền quỹ công, tiền tín dụng ưu đãi người nghèo, gia đình chính
sách để cho vay lấy lãi, buôn bán lập quỹ đen, mua tặng phẩm có giá trị lớn tặng nhau ...
-Tạo thành tích giả để tham ô dưới hình thức tiền thưởng, quà cáp, biếu
xén nhau ngày lễ, ngày tết, việc hiếu hỷ đến hàng chục, hàng trăm triệu đồng.
-Tranh mua hàng xuất khẩu chạy để lấy ngoại tệ mua hàng tiêu dùng xa xỉ
về bán lãi chia nhau gây lãng phí và rối loạn thị trường.
-Lập những “dự án lừa” trồng rừng trên giấy, thành lập các “công ty ma”
để hoàn thuế giá trị gia tăng để lấy tiền Nhà nước.
-Thậm chí còn có tình trạng ăn cả tiền cứu trợ người đói nghèo, xã khó
khăn, ăn chặn tiền ủng hộ đồng bào lũ lụt...Ngoài các thủ đoạn trên, kẻ
phạm tội tham nhũng còn lợi dụng triệt để sự buông lỏng về thanh tra,
kiểm tra, kiểm soát để phạm các tội tham ô, hối lộ, sử dụng vốn vào hoạt
động không đúng mục đích...
TÁC HẠI CỦA THAM NHŨNG
Tham nhũng là kẻ thù của nhân dân.Hồ Chủ Tịch đã từng nhận định:
“Tham nhũng là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân, của bộ đội và của chính
phủ vì nó không mang gươm mang súng mà nó nằm trong các tổ chức của
ta để làm hỏng ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của
cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng ta là cần-kiệm -liêm
-chính”.Tham nhũng còn gây ra tác hại làm giảm sút lòng tin của công dân
đối với bộ máy và công chức, viên chức Nhà nước, triệt tiêu động lực cơ
bản nhất của sự phát triển. Điều này đã được V.I. Lênin khuyến cáo:“Nếu
có cái gì đó có thể triệt tiêu được chủnghĩa xã hội thì đó chính là tham
nhũng, quan liêu”. Đây cũng là bài học hàng đầu mà Đảng ta rút ra tại đại
hội lần thứ 6. Đó là bài học lấy dân làm gốc, dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra. Đây cũng là bài học mà ông cha ta đã truyền lại cho con
cháu. Trần Quốc Tuấn đã từng nói: “Người dân vốn không hài lòng, sợ ta
thì khinh địch, sợ địch thì khinh ta, để dân khinh là mất nước”.
Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội.
Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội kéo
lùi sự phát triển tuỳ theo quy mô và mức độ gây hại của nó. Tham nhũng
đã gây thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đô la của
Nhà nước. Chi phí kinh tế của tham nhũng là rất khó xác định nhưng một
số công trình nghiên cứu đã đưa ra đó là:
+ Tăng từ 3-10% cho giá của một giao dịch để đẩy nhanh giao dịch.
+Một mức tổn thất tới 50% nguồn thu từ thuế của chính phủ do hối lộ và
tham nhũng.Một số minh chứng điển hình về tác hại của tham nhũng đối
với nền kinh tế: chỉ riêng tổng thống của nước Công gô (Zaire cũ) với số
tiền tham nhũng trong các năm cầm quyền lên tới 9-10 tỷ USD, bằng 70%
số nợ nước ngoài của nước này. Tại Việt Nam với mức thu nhập bình quân
đầu người vào khoảng 400 USD/năm nhưng những vụ tham nhũng gây
thiệthại nghiêm trọng về kinh tế vẫn diễn ra hàng năm điểm hình như vụ
án Minh Phụng -EPCO đã chiếm đoạt hơn 3.547 tỷ đồng và 25,4 triệu USD
của Nhà nước. Ngoài ra tính đến khi vụ án bị khởi tố ngân sách Nhà nước
còn bị thiệt hại 115 tỷ đồng và 596.303 USD là phí bảo lãnh và lãi phát
sinh của các khoản thiệt hại nói trên. Bên cạnh đó còn là những vụ gây
thiệt hại nhiều đến tiền của Nhà nước và nhân dân như vụ Tamexco đã
thiệt hại 500 tỷ đồng, dệt Nam Định khoảng 900 tỷ đồng... Đặc biệt hiện
nay tình trạng tham nhũng ở Việt Nam gây thiệt hại về kinh tế đang diễn
ra mạnh mẽ trong đầu tư xây dựng cơ bản, hoàn thuế giá trị gia tăng,lạm
dụng quyền lực để bản thân và gia đình tham nhũng …
Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hoá hệ thống pháp luật,
là nguyên nhân liên quan trực tiếp đến sự sống còn của Nhà nướcTác hại
của tham nhũng không chỉ dừng lại ở phương diện thiệt hại vật chất hàng
ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu USD của Nhà nước mà tham nhũng sẽ làm
tầm thường hoá hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ cương xã hội không
thể giữ vững, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà
nước trước nhân dân và là cơ hội để cho kẻ thù pháp hoại, xâm lược. Nếu
các nhà hành pháp mà tự mình phá hoại luật pháp thì làm sao có thể duy
trì được phép nước. Những kẻ tham nhũng chính là những tên đầu trò
trong việc làm tê liệt hệ thống hành pháp là cho Nhà nước trở thành đối
lập và gánh nặng cho công dân. Tham nhũng tất yếu dẫn đến phá hoại đội
ngũ cán bộ Nhà nước bởi vì những kẻ tham nhũng sẽ lừa dối và hư hoá
cấp trên làm cho bộ máy trở thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa
thêm kẻ xấu vào guồng máy và triệt hại đội ngũ viên chưa tốt. Những kẻ
tham nhũng chính là những tên phá hoại từ bên trong của hệ thống hệ
thống hành pháp quốc gia. Tham nhũng sẽ làm cho quần chúng mất đi sự
tin tuởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và đây cũng là
nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến thất bại của Đảng và Nhà nước.Chính
với những tác hại to lớn kể trên cũng như nhiều tác hại do bệnh tham
nhũng tạo ra, nhiều nước đã coi tham nhũng là quốc nạn của đất nước, là
giặc nội xâm nguy hiểm.Trong các văn kiện đại hội VIII, IX Đảng ta khẳng
định: Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống
còn của hệ thống chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều
biện pháp khắc phục, song hiệu quả còn thấp. Phải tiến hành đấu tranh
kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống tham nhũng trong bộ máy
Nhà nước, trong tất cả các ngành, các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Kết
hợp những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược
nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công
tác quản lý, khắc phục sơ hở, vừa xử lý nghiêm kịp thời mọi vi phạm, tội
phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn
chặn, đẩy lùi và loại trừ tham nhũng. Thủ trưởng cơ quan đơn vị, cán bộ
chủ chốt các cấp phải gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống tham
nhũng, trước hết là đối với bản thân. Đấu tranh chống tham nhũng phải
gắn liền với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu, tập trung vào
các hành vi tham ô, chiếm đoạt làm thất thoát tài sản Nhà nước, đòi hối
lộ, đưa và nhận hối lộ. Tham nhũng đã có từ rất lâu trong lịch sử loài
người, có thể từ thời kỳ xuất hiện những hình thức ban đầu của Nhà nước.
Do tác hại của tham nhũng là vô cùng lớn nên việc phòng chống tham
nhũng luôn được coi là nhiệm vụ bức xúc hàng đầu của các quốc gia. Tuy
nhiên gần đây một quan điểm trái ngược đã xuất hiện cho rằng tham
nhũng không thể không nhất quán với phát triển, và đôi khi nó thậm trí
còn thúc đẩy phát triển. Những người nêu ra quan điểm hiện đại này đã
phủ một đám mây mơ hồ lên vấn đề tham nhũng. Chẳng hạn họ cho rằng
định nghĩa về tham nhũng rất khác nhau giữa các nền văn hoá, hàm ý
rằng những gì bị coi là tham nhũng ở phương Tây sẽ được lý giải một cách
khác trong khuôn khổ những tập quán của các nền kinh tế mới nổi. Những
người theo chủ nghĩa xét lại cũng nều đặc trưng về những hiệu ứng của
tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế, đây là những lý luận mơ hồ. Dựa
trên thực tế là, cho đến gần đây một số “con hổ” châu Á vẫn trải qua tăng
trưởng kinh tế phi thường lẫn tham nhũng ở mức độ cao. Cuối cùng người
ta cho rằng hiệu ứng của những cải cách thị trường đến tình trạng tham
nhũng là không rõ ràng.Chủ đề trọng tâm của luận điểm “dầu bôi trơn
bánh xe” làhối lộ có thể là một cách làm có hiệu quả để vượt qua những
qui định phiền hà và những hệ thống pháp luật vô tích sự. Cách lập luận
này không thể khởi nguồn cho những mô hình mang tính học thuật phức
tạp, mà còn hợp pháp hoá cách ứng xử của các công ty tư nhân sẵn sàng
hối lộ cho được việc. Khi xem xét sâu hơn lập luận này có rất nhiều lỗ
hổng. Nó lờ đi quyền tự do làm theo ý mình vốn rất lớn mà nhiều chính trị
gia và quan chức, nhất là ở các xã hội tham nhũng, có được trong việc tạo
dựng, gia tăng và giảithích các quy định phản tác dụng. Do đó thay vì bôi
trơn những bánh xe kêu cót két của một nền hành chính vững chắc, tham
nhũng lại trở thành thứ tiếp sức cho những quy định quá đáng và tuỳ tiện.
Đây là một cơ chế mà nhờ đó tham nhũng tự nuôi sống chính bản thân nó.
Một biến thái kinh tế phức tạp của lập luận “dầu bôi trơn là tích cực” là
quan điểm cho rằng hối lộ cho phép cung cầu hoạt động. Quan điểm này
kiên định rằng trong cuộc đặt giá cạnh tranh để có được một hợp đồng
mua hàng cuả chính phủ, người hối lộ nhiều nhất sẽ giành phần thắng và
công ty có chi phí thấp nhất sẽ có khả năng chịu đựng số tiền hối lộ lớn
nhất. Điều đó chỉ hay về lý thuyết nhưng lại không đúng. Thứ nhất,bằng
cách chỉ tập trung vào tệ hối lộ lập luận này không tính đến tham nhũnglà
ăn cắp các nguồn lực công cộng, làm suy yếu tính ổn định kinh tế vĩ mô.
Không những thế những người nhận hối lộ có xu thế chuyển những đồng
tiền tham nhũng được vào các tài khoản ở nước ngoài. Ví dụ theo cách này
Nigiênia đã tổn thất hàng tỷ tiền ngân sách trong những thập kỷ vừa qua.
Thứ hai,việc giả định năng lực đấu thầu cao nhất bắt nguồn từ khía cạnh
hiệu quả -chi phí là không đúng, thay vào đó nó thường gắn với chất lượng
dưới mức tiêu chuẩn. Thứ ba,các chính trị gia hiếm khi chịu làm đối tượng
của một khoản chi trả bất hợp pháp trong cuộc đấu thầu cạnh tranh, trái
lại họ đòi tiền hối lộ một cách kín đáo từ những đối tượng mà họ tin là sẽ
được giữ bí mật. Thứ tư,việc nhìn nhận hối lộ như một cơ chế làm cân
bằng cung cầu không tính đến thực tế là nhiều hàng hoá công cộng không
nên được phân phối cho những người đặt giá cao nhất,thay vào đó mục
tiêu của các chương trình xoá đói giảm nghèo là phân bổ cac nguồn lực
theo sự cần thiết của những người nhận.Cuối cùng quan điểm cung và cầu
về tham nhũng cho rằng những kẻ hối lộ nhận được những hàng hoá mà
họ đã phải trả tiền cho chúng, điều này không phải lúc nào cũng đúng vì
không thể cưỡng chế thi hành các giao dịch tham nhũng bằng luật pháp.
Một trường phái “ biện hộ cho tham nhũng” lý luận rằng hối lộ có thể làm
tăng hiệu quả bằng cách giảm đáng kể thời gian cần thiết cho các thủ tục
xin phép và công việc giấy tờ. Vấn đề đối với lý lẽ “đồng tiền đi trước” này
nằm ở giả định rằng cả hai phía đều thực sự tham gia vào vụ việc và
không đòi hỏi thêm tiền hối lộ. Ở Ấn Độ một công chức cấp cao được hối
lộ không thể giải quyết các thủ tục xin phép nhanh hơn được một chút nào
vì có nhiều người trong giới quan liêu cùng tham gia vào quá trình đó,
nhưng ông ta sẵn sàng đưa ra giải pháp làm chậm trễ quá trình cấp giấy
phép đối với các công ty đối thủ. Ngay cả trong những xã hội mà vô vàn
các qui định phản tác dụng đã được tạo ra nhằm moi của hối lộ vẫn phải
có một hạt nhân Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự
phát triển xã hội. Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự
phát triển xã hội kéo lùi sự phát triển tuỳ theo quy mô và mức độ gây hại
của nó. Tham nhũng đã gây thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng
trăm triệu đô la của Nhà nước. Chi phí kinh tế của tham nhũng là rất khó
xác định nhưng một số công trình nghiên cứu đã đưa ra đó là:+ Tăng từ 3-
10% cho giá của một giao dịch để đẩy nhanh giao dịch.+Một mức tổn thất
tới 50% nguồn thu từ thuế của chính phủ do hối lộ và tham nhũng.Một số
minh chứng điển hình về tác hại của tham nhũng đối với nền kinh tế: chỉ
riêng tổng thống của nước Công gô (Zaire cũ) với số tiền tham nhũng
trong các năm cầm quyền lên tới 9-10 tỷ USD, bằng 70% số nợ nước ngoài
của nước này.Tại Việt Nam với mức thu nhập bình quân đầu người vào
khoảng 400 USD/năm nhưng những vụ tham nhũng gây thiệthại nghiêm
trọng về kinh tế vẫn diễn ra hàng năm điểm hình như vụ án Minh Phụng
-EPCO đã chiếm đoạt hơn 3.547 tỷ đồng và 25,4 triệu USD của Nhà nước.
Ngoài ra tính đến khi vụ án bị khởi tố ngân sách Nhà nước còn bị thiệt hại
115 tỷ đồng và 596.303 USD là phí bảo lãnh và lãi phát sinh của các
khoản thiệt hại nói trên. Bên cạnh đó còn là những vụ gây thiệt hại nhiều
đến tiền của Nhà nước và nhân dân như vụ Tamexco đã thiệt hại 500 tỷ
đồng, dệt Nam Định khoảng 900 tỷ đồng... Đặc biệt hiện nay tình trạng
tham nhũng ở Việt Nam gây thiệt hại về kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ
trong đầu tư xây dựng cơ bản, hoàn thuế giá trị gia tăng,lạm dụng quyền
lực để bản thân và gia đình tham nhũng ...
Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hoá hệ thống pháp luật,
là nguyên nhân liên quan trực tiếp đến sự sống còn của Nhà nước. Tác hại
của tham nhũng không chỉ dừng lại ở phương diện thiệt hại vật chất hàng
ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu USD của Nhà nước mà tham nhũng sẽ làm
tầm thường hoá hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ cương xã hội không
thể giữ vững, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà
nước trước nhân dân và là cơ hội để cho kẻ thù pháp hoại, xâm lược. Nếu
các nhà hành pháp mà tự mình phá hoại luật pháp thì làm sao có thể duy
trì được phép nước. Những kẻ tham nhũng chính là những tên đầu trò
trong việc làm tê liệt hệ thống hành pháp là cho Nhà nước trở thành đối
lập và gánh nặng cho công dân. Tham nhũng tất yếu dẫn đến phá hoại đội
ngũ cán bộ Nhà nước bởi vì những kẻ tham nhũng sẽ lừa dối và hư hoá
cấp trên làm cho bộ máy trở thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa
thêm kẻ xấu vào guồng máy và triệt hại đội ngũ viên chưa tốt. Những kẻ
tham nhũng chính là những tên phá hoại từ bên trong của hệ thống hành
pháp quốc gia. Tham nhũng sẽ làm cho quần chúng mất đi sự tin tuởng
vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và đây cũng là nguyên
nhân căn bản nhất dẫn đến thất bại của Đảng và Nhà nước. Chính với
những tác hại to lớn kể trên cũng như nhiều tác hại do bệnh tham nhũng
tạo ra, nhiều nước đã coi tham nhũng là quốc nạn của đất nước, là giặc
nội xâm nguy hiểm. Trong các văn kiện đại hội VIII, IX Đảng ta khẳng định:
Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn
của hệ thống chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều biện
pháp khắc phục, song hiệu quả còn thấp. Phải tiến hành đấu tranh kiên
quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống tham nhũng trong bộ máy Nhà
nước, trong tất cả các ngành, các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Kết hợp
những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm
hoàn thiện cơ chế, chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác
quản lý, khắc phục sơ hở, vừa xử lý nghiêm kịp thời mọi vi phạm, tội
phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn
chặn, đẩy lùi và loại trừ tham nhũng. Thủ trưởng cơ quan đơn vị, cán bộ
chủ chốt các cấp phải gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống tham
nhũng, trước hết là đối với bản thân. Đấu tranh chống tham nhũng phải
gắn liền với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu, tập trung vào
các hành vi tham ô, chiếm đoạt làm thất thoát tài sản Nhà nước, đòi hối
lộ, đưa và nhận hối lộ. Tham nhũng đã có từ rất lâu trong lịch sử loài
người, có thể từ thời kỳ xuất hiện những hình thức ban đầu của Nhà nước.
Do tác hại của tham nhũng là vô cùng lớn nên việc phòng chống tham
nhũng luôn được coi là nhiệm vụ bức xúc hàng đầu của các quốc gia. Tuy
nhiên gần đây một quan điểm trái ngược đã xuất hiện cho rằng tham
nhũng không thể không nhất quán với phát triển, và đôi khi nó thậm trí
còn thúc đẩy phát triển. Những người nêu ra quan điểm hiện đại này đã
phủ một đám mây mơ hồ lên vấn đề tham nhũng. Chẳng hạn họ cho rằng
định nghĩa về tham nhũng rất khác nhau giữa các nền văn hoá, hàm ý
rằng những gì bị coi là tham nhũng ở phương Tây sẽ được lý giải một cách
khác trong khuôn khổ những tập quán của các nền kinh tế mới nổi. Những
người theo chủ nghĩa xét lại cũng nều đặc trưng về những hiệu ứng của
tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế, đây là những lý luận mơ hồ. Dựa
trên thực tế là, cho đến gần đây một số “con hổ” châu Á vẫn trải qua tăng
trưởng kinh tế phi thường lẫn tham nhũng ở mức độ cao. Cuối cùng người
ta cho rằng hiệu ứng của những cải cách thị trường đến tình trạng tham
nhũng là không rõ ràng.Chủ đề trọng tâm của luận điểm “dầu bôi trơn
bánh xe” là hối lộ có thể là một cách làm có hiệu quả để vượt qua những
qui định phiền hà và những hệ thống pháp luật vô tích sự. Cách lập luận
này không thể khởi nguồn cho những mô hình mang tính học thuật phức
tạp, mà còn hợp pháp hoá cách ứng xử của các công ty tưnhân sẵn sàng
hối lộ cho được việc. Khi xem xét sâu hơn lập luận này có rất nhiều lỗ
hổng. Nó lờ đi quyền tự do làm theo ý mình vốn rất lớn mà nhiều chính trị
gia và quan chức, nhất là ở các xã hội tham nhũng, có được trong việc tạo
dựng, gia tăng và giải thích các quy định phản tác dụng. Do đó thay vì bôi
trơn những bánh xe kêu cót két của một nền hành chính vững chắc, tham
nhũng lại trở thành thứ tiếp sức cho những quy định quá đáng và tuỳ tiện.
Đây là một cơ chế mà nhờ đó tham nhũng tự nuôi sống chính bản thân nó.
Một biến thái kinh tế phức tạp của lập luận “dầu bôi trơn là tích cực” là
quan điểm cho rằng hối lộ cho phép cung cầu hoạt động. Quan điểm này
kiên định rằng trong cuộc đặt giá cạnh tranh để có được một hợp đồng
mua hàng cuả chính phủ, người hối lộ nhiều nhất sẽ giành phần thắng và
công ty có chi phí thấp nhất sẽ có khả năng chịu đựng số tiền hối lộ lớn
nhất. Điều đó chỉ hay về lý thuyết nhưng lại không đúng. Thứ nhất,bằng
cách chỉ tập trung vào tệ hối lộ lập luận này không tính đến tham nhũnglà
ăn cắp các nguồn lực công cộng, làm suy yếu tính ổn định kinh tế vĩ mô.
Không những thế những người nhận hối lộ có xu thế chuyển những đồng
tiền tham nhũng được vào các tài khoản ở nước ngoài. Ví dụ theo cách này
Nigiênia đã tổn thất hàng tỷ tiền ngân sách trong những thập kỷ vừa qua.
Thứ hai,việc giả định năng lực đấu thầu cao nhất bắt nguồn từ khía cạnh
hiệu quả -chi phí là không đúng, thay vào đó nó thường gắn với chất lượng
dưới mức tiêu chuẩn. Thứ ba,các chính trị gia hiếm khi chịu làm đối tượng
của một khoản chi trả bất hợp pháp trong cuộc đấu thầu cạnh tranh, trái
lại họ đòi tiền hối lộ một cách kín đáo từ những đối tượng mà họ tin là sẽ
được giữ bí mật. Thứ tư,việc nhìn nhận hối lộ như một cơ chế làm cân
bằng cung cầu không tính đến thực tế là nhiều hàng hoá công cộng không
nên được phân phối cho những người đặt giá cao nhất,thay vào đó mục
tiêu của các chương trình xoá đói giảm nghèo là phân bổ cac nguồn lực
theo sự cần thiết của những người nhận.Cuối cùng quan điểm cung và cầu
về tham nhũng cho rằng những kẻ hối lộ nhận được những hàng hoá mà
họ đã phải trả tiền cho chúng, điều này không phải lúc nào cũng đúng vì
không thể cưỡng chế thi hành các giao dịch tham nhũng bằng luật pháp.
Một trường phái “ biện hộ cho tham nhũng” lý luận rằng hối lộ có thể làm
tăng hiệu quả bằng cách giảm đáng kể thời gian cần thiết cho các thủ tục
xin phép và công việc giấy tờ. Vấn đề đối với lý lẽ “đồng tiền đi trước” này
nằm ở giả định rằng cả hai phía đều thực sự tham gia vào vụ việc và
không đòi hỏi thêm tiền hối lộ. Ở Ấn Độ một công chức cấp cao được hối
lộ không thể giải quyết các thủ tục xin phép nhanh hơn được một chút nào
vì có nhiều người trong giới quan liêu cùng tham gia vào quá trình đó,
nhưng ông ta sẵn sàng đưa ra giải pháp làm chậm trễ quá trình cấp giấy
phép đối với các công ty đối thủ. Ngay cả trong những xã hội mà vô vàn
các qui định phản tác dụng đã được tạo ra nhằm moi của hối lộ vẫn phải có một hạt nhân.
Nguyên nhân tham nhũng: Tiền, lòng tham của con người và sự lỏng
lẽo của pháp luật, thiếu cảnh giác của các tổ chức,… PHẦN II
Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam 2020: Những con số đáng chú ý
- Toàn ngành thanh tra đã triển khai gần 6.900 cuộc thanh tra hành chính
và hơn 210.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Qua thanh tra
phát hiện vi phạm về kinh tế hơn 119.500 tỉ đồng, hơn 9.000 ha đất; kiến
nghị thu hồi hơn 44.500 tỉ đồng và trên 1.400 ha đất; kiến nghị xử lý kỷ
luật hành chính hơn 2.650 tập thể và nhiều cá nhân…
- TAND các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 436 vụ với 1.175 bị cáo, đã
xét xử sơ thẩm 269 vụ/645 bị cáo phạm các tội tham nhũng. Trong đó có
tám bị cáo bị tuyên phạt tù chung thân hoặc tử hình; xét xử phúc thẩm 158 vụ, 326 bị cáo.
- Về kết quả thi hành án liên quan đến việc thu hồi tài sản tham nhũng nói
chung, số thi hành xong là hơn 3.600 việc (đạt tỉ lệ hơn 84% số vụ việc có
điều kiện thi hành). Số tiền thu được là hơn 15.000 tỉ đồng, đạt tỉ lệ
43,42% số có khả năng thi hành.
- Năm 2020, các cấp, các ngành đã tiến hành chuyển đổi vị trí công tác
nhằm phòng ngừa tham nhũng đối với hơn 17.900 cán bộ, công chức, viên
chức (tăng hơn 50% so với năm 2019).
Theo số liệu do Tổ chức Minh bạch thế giới (TI) công bố, Chỉ số cảm nhận
tham nhũng (CPI) của Việt Nam trong những năm gần đây đã tăng lên, thể
hiện một chỉ báo tích cực đối với các nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta
trong công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN). Cụ thể, năm 2018, Việt
Nam đạt 33/100 điểm, xếp hạng 117/180 toàn cầu. Trong năm 2018, Đảng
và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực đẩy mạnh công tác PCTN, điển hình là việc
nhanh chóng, kiên quyết xử lý các vụ án tham nhũng lớn và hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý về PCTN. Tháng 11/2018, Quốc hội đã thông qua Luật
Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) gồm 10 chương với 96 điều. Chính
phủ đã chỉ đạo tăng cường kiểm tra và tổ chức thực hiện nghiêm các biện
pháp PCTN như: đề cao tính liêm chính trong khu vực công, thực hiện hiệu
quả công tác kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công
chức... Vì vậy, chỉ số CPI của Việt Nam năm 2019 đạt 37/100 điểm, tăng 4
điểm so với năm 2018, đứng thứ 96/180 quốc gia, vùng lãnh thổ trong
bảng xếp hạng toàn cầu, tăng 21 bậc so với năm 2018. Đây là mức điểm
cao nhất mà Tổ chức Minh bạch thế giới đánh giá đối với Việt Nam và là
năm có mức tăng điểm cao nhất từ trước đến nay; cũng là sự khẳng định
những kết quả tích cực trong công tác PCTN ở Việt Nam.
Những kết quả nêu trên thể hiện quyết tâm chính trị cùng với những hành
động quyết liệt, thực hiện những giải pháp hiệu quả của Đảng và Nhà
nước, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương trong công
tác PCTN. Cụ thể, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng
được thành lập “với mong muốn đẩy mạnh công tác phòng, chống tham
nhũng thêm một bước”(1). Trong nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, có
56.572 đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong đó có 16.259 cấp ủy viên các cấp.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành kiểm tra 13 tổ chức đảng và 33
đảng viên. Qua kiểm tra, kết luận các tổ chức đảng, đảng viên đều có
khuyết điểm, vi phạm, trong đó đề nghị thi hành kỷ luật bằng hình thức
khiển trách 3 tổ chức đảng, thi hành kỷ luật 13 đảng viên (khiển trách 7,
cảnh cáo 6). Ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị đã kiểm tra 15.898 tổ
chức đảng và 55.217 đảng viên, trong đó số tổ chức đảng có vi phạm là
10.478, phải thi hành kỷ luật 791 tổ chức đảng; số đảng viên có vi phạm
là 42.757, trong đó phải thi hành kỷ luật 20.344 trường hợp(2).
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng đến cuối năm 2018,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 45 nghị
quyết, chỉ thị, quy định, kết luận về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và
phòng, chống tham nhũng; Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
thông qua, ban hành 45 luật, pháp lệnh, 46 nghị quyết; Chính phủ đã ban
hành 511 nghị định, 413 nghị quyết, 160 quyết định nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp
phần phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng; đã thi hành kỷ luật 53.306 đảng
viên với hơn 60 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 16 Ủy
viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, trong đó có cả
Ủy viên Bộ Chính trị(3).
Trong năm 2019, công tác PCTN đã có bước tiến mạnh mẽ với nhiều chủ
trương, giải pháp đột phá, đi vào chiều sâu, do đó tham nhũng được kiềm
chế, từng bước ngăn chặn và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần quan
trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy
tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Nổi bật là đẩy mạnh việc xây
dựng, hoàn thiện thể chế trên các lĩnh vực đời sống: “Cụ thể là Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành gần 30 văn bản về xây dựng
Đảng, hệ thống chính trị và PCTN. Quốc hội đã thông qua 18 luật, 20 nghị
quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 100 nghị định, 119
nghị quyết, 37 quyết định, 33 chỉ thị. Như vậy, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại
hội ĐBTQ lần thứ XII đến nay, đã thi hành kỷ luật hơn 90 cán bộ thuộc
diện Trung ương quản lý, trong đó có 21 đồng chí Ủy viên Trung ương
Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng (2 Ủy viên Bộ Chính trị), 22 sĩ
quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang”(4). Những tháng đầu năm 2020,
Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN yêu cầu tập trung đưa ra xét xử sơ thẩm
10 vụ án nghiêm trọng, phức tạp được dư luận xã hội quan tâm.
Có thể khẳng định rằng, công tác PCTN ở Việt Nam đã đạt được những kết
quả đáng ghi nhận; nạn tham nhũng đã bị ngăn chặn, đẩy lùi; niềm tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước được
nâng lên. Có thể khái quát một số đặc điểm của công tác PCTN ở Việt Nam như sau:
- Không có vùng cấm, không có đặc quyền, không có ngoại lệ, không chịu
sự tác động không đúng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào;
- Làm từng bước, rõ đến đâu xử lý đến đó;
- Nhân dân và cả hệ thống chính trị vào cuộc;
- Nhân văn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội;
- Lấy phòng ngừa là chính, cơ bản, phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách.
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác PCTN ở Việt Nam vẫn còn một số hạn
chế như: công tác tuyên truyền, giáo dục về PCTN hiệu quả chưa cao, hiện
tượng phải hối lộ, bôi trơn hoặc tác động bằng hình thức khác để được
thuận lợi hơn trong giải quyết công việc còn phổ biến; một số cơ chế,
chính sách còn thiếu chặt chẽ, chưa phù hợp với thực tiễn; thực thi pháp
luật có lúc, có nơi chưa nghiêm. Công tác tổ chức, cán bộ, kiểm soát tài
sản, thu nhập còn nhiều hạn chế, vướng mắc; vấn đề phát hiện, xử lý
tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tự phát hiện, xử lý tham nhũng trong nội bộ... PHẦN III
Các giải pháp chống tham nhũng ở nước ta
Để nâng cao hiệu quả công tác PCTN trong thời gian tới, cần triển khai
thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, giữ vững nền tảng tư tưởng, thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra đối với cán bộ, đảng
viên trong từng giai đoạn cách mạng.
Chỉ có nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
cách mạng của Đảng mới bảo đảm cho cán bộ, đảng viên xác định đúng
mục tiêu, lý tưởng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân.
Thực hiện giáo dục liêm chính, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền
về phòng, chống tham nhũng: “Liêm” là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của
công và của dân; trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng,
không cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, dìm dập người giỏi, để
giữ địa vị và danh tiếng của mình. “Chính” là thẳng thắn, đứng đắn. Đối
với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn
kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi những khuyết điểm. Đối với
người: không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ
chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc. Ðối với việc: đặt
việc công lên trên việc tư, làm việc gì cũng phải đến nơi, đến chốn, không
ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân, cho nước.
Hai là, coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Có thấm nhuần đạo đức cách mạng, cán bộ, đảng viên mới giữ gìn được lối
sống trong sạch, kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực
dụng và mọi tệ nạn xã hội. Chính phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên là sức “đề kháng” mạnh mẽ chống lại mọi suy
thoái, biến chất. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XI và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XII của Đảng đã chỉ rõ những
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên và những giải pháp cơ bản để khắc
phục, ngăn ngừa. Trong tình hình hiện nay, cùng với việc thực hiện quyết
liệt các giải pháp nêu trên, cần bổ sung thêm những biện pháp, những
cách làm mới, thiết thực. Đổi mới công tác quản lý, kê khai tài sản của
đảng viên đối với chi bộ; tăng cường các biện pháp giáo dục, kiểm tra,
giám sát cán bộ, đảng viên. Nếu như những biểu hiện “lệch chuẩn”, sự suy
thoái về đạo đức, lối sống sớm được phát hiện, chấn chỉnh từ nơi đảng
viên công tác, thì sự tha hóa, tham nhũng sẽ được ngăn chặn kịp thời.
Ba là, xác định tiêu chí và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng
về đạo đức, kết hợp hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 4 (khóa XI) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa
XII của Đảng gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về “Đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức bao gồm toàn bộ các hoạt động, từ
giáo dục cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ
nghĩa cá nhân và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xử lý
theo pháp luật và kỷ luật đảng đối với cán bộ, đảng viên vi phạm; rèn
luyện lập trường quan điểm, bồi dưỡng tư tưởng, lý tưởng cách mạng,
nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức, lối sống theo
chuẩn mực tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên, đến xây dựng tiêu chuẩn đạo đức của cán bộ, đảng viên, cụ thể hóa
thành tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ; phát huy tính
tiền phong gương mẫu, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên…
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa XI) và Nghị quyết Hội nghị
Trung ương lần thứ 4 khóa XII của Đảng chỉ phát huy hiệu quả nếu mỗi cán
bộ, đảng viên và cơ quan, đơn vị kiên trì, kiên quyết từng bước đấu tranh
để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Bốn là, các cấp ủy, tổ chức đảng cần chú trọng công tác kiểm tra, giám
sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị.
Từng tổ chức cơ sở đảng cần hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy định về
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là của bí thư cấp
ủy các cấp. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ; đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình, khắc phục tình
trạng nể nang, né tránh, ngại đấu tranh với những biểu hiện vi phạm.
Đồng thời, có cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dám đấu tranh, bảo đảm
ngăn chặn kịp thời mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay từ
cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cần tích cực, chủ động và kịp
thời bổ sung những nội dung phù hợp; phối hợp chặt chẽ với công tác bảo
vệ chính trị nội bộ trong phát hiện, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm. Từng
cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp nắm rõ thực trạng và nguy
cơ của tình hình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong tổ chức mình;
kịp thời phát hiện sớm và ngăn chặn hiệu quả mọi biểu hiện vi phạm.
Tăng cường hơn nữa vai trò, hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung
ương về phòng, chống tham nhũng, các cơ quan nội chính, ủy ban kiểm
tra các cấp cũng như các cơ quan pháp luật.
Về cán bộ và công tác cán bộ, Đảng ta đã luôn khẳng định: công tác cán
bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Cuộc đấu tranh PCTN có thành công vững chắc hay không phụ thuộc một
phần quan trọng vào việc có làm tốt công tác cán bộ hay không. Vì vậy,
trong thời gian tới cần thực hiện nghiêm Quyết định số 205-QĐ/TW ngày
23/9/2019 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ
và chống chạy chức, chạy quyền.
Năm là, phát huy vai trò tích cực của báo chí, truyền thông, kiểm soát,
quản lý tốt các hoạt động báo chí, xuất bản, internet và mạng xã hội.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan báo chí, truyền thông trong
đấu tranh với các luận điệu thù địch, sai trái, phòng, chống “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”. Các cơ quan báo chí, truyền thông phải phản ánh trung
thực, kịp thời, góp phần đưa chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước
vào cuộc sống và là kênh thông tin quan trọng phát hiện những mặt tiêu
cực trong xã hội, những biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức. Bên cạnh đó, báo chí, truyền thông đóng vai trò giám sát
và phản biện xã hội; nâng cao hiệu quả tuyên truyền, nêu gương người
tốt, việc tốt, lấy nhân tố tích cực để đẩy lùi tiêu cực, chú trọng việc giáo
dục đạo đức bằng cách nêu gương của cán bộ, đảng viên, thực hiện
nghiêm Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành
Trung ương quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước
hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.
Sáu là, hoàn thiện chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ để từng bước
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và lợi ích thiết thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Bảo đảm thu nhập, tiền lương tương xứng với sự đóng góp, phù hợp với
công sức, trí tuệ của mỗi người đã cống hiến; thực hiện đẩy mạnh cải cách
tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ,
đảng viên, công chức để góp phần PCTN. Ngoài sự nỗ lực vươn lên của bản
thân mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thì trách nhiệm của cấp
ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị các cấp phải thật
sự quan tâm đến điều kiện làm việc, thu nhập và cuộc sống cho họ. Chống
đặc quyền, đặc lợi, đồng thời có những chính sách, quy định chế độ khen
thưởng cả về vật chất và tinh thần, bảo đảm công khai, dân chủ, công
bằng giữa các cấp quản lý cán bộ và giữa cán bộ, công chức với nhân dân.
Vai trò và trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng
1. Vai trò của xã hội
Tham nhũng là căn bệnh của bộ máy nhà nước; đồng thời, đó cũng là một
tệ nạn xã hội cần bài trừ, lên án. Mọi công dân đều có trách nhiệm tham
gia tích cực để ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới xóa bỏ các điều kiện tồn tại của
tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội. Nếu như đấu tranh chống tham
nhũng trước hết là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước thì việc tham
gia tích cực vào cuộc đấu tranh đó vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của
các tổ chức và từng thành viên trong xã hội. Các em học sinh, sinh viên
ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cũng có thể tham gia tích cực
vào công tác này. Sự tham gia của các em có thể được thể hiện trước hết
ở thái độ nghiêm túc trong học tập, tự phấn đấu bằng chính năng lực của
bản thân. Bên cạnh đó, các em cũng cần có thái độ thẳng thắn và đấu
tranh kiên quyết với mọi biểu hiện tiêu cực diễn ra trong nhà trường.
Về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn đấu tranh chống tham
nhũng, các nước trên thế giới đều khẳng định trong bối cảnh xây dựng nhà
nước pháp quyền, xã hội, công dân đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
cuộc chiến chống tệ nạn tham nhũng. Vai trò của xã hội thể hiện ở việc
thực hiện chức năng giám sát, phản biện đối với hoạt động của bộ máy
nhà nước nói chung và trong công tác PCTN nói riêng. Xã hội có quyền đòi
hỏi Nhà nước thực hiện đúng chức năng của mình cũng như đòi hỏi phải
xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm của đội ngũ cán bộ, công chức, những
người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, hình thành nên từ sự đóng góp
của các thành viên trong xã hội (Luật phòng, chống tham nhũng năm
2005, sửa đổi năm 2018) đã có những quy định để tạo cơ sở pháp lý để xã
hội tham gia đấu tranh chống tệ tham nhũng qua việc quy định vai trò và
trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; vai
trò và trách nhiệm của báo chí; vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp,
hiệp hội ngành nghề; trách nhiệm của công dân và ban thanh tra nhân
dân với các loại hình tham gia thích hợp với tính chất hoạt động của các tổ chức này.
2. Trách nhiệm của xã hội
2.1. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm sau đây:
+ Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện pháp luật về PCTN; phản
biện xã hội, kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật về PCTN; kiến nghị
việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng;
+ Động viên Nhân dân tham gia tích cực vào việc phát hiện, phản ánh, tố
cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng;
+ Cung cấp thông tin cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm
quyền trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng;
+ Giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có
quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền áp dụng
các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, xác minh vụ việc tham nhũng, xử
lý người có hành vi tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng, kiến nghị
việc bảo vệ, khen thưởng người có công phát hiện, tố cáo hành vi tham
nhũng. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, trả
lời trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, kiến nghị; đối
với vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
2.2. Trách nhiệm của cơ quan báo chí, nhà báo.
- Cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng,
đưa tin về hoạt động PCTN và vụ việc tham nhũng.
- Cơ quan báo chí, nhà báo có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân có thẩm quyền cung cấp thông tin liên quan đến hành vi tham
nhũng. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được yêu cầu có trách nhiệm
cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật về báo chí và quy định
khác của pháp luật có liên quan.
- Cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm phản ánh khách quan, trung
thực và chấp hành các quy định khác của pháp luật về báo chí, quy tắc
đạo đức nghề nghiệp khi đưa tin về hoạt động phòng, chống tham nhũng và vụ việc tham nhũng.
2.3. Trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề
- Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách
nhiệm tuyên truyền, động viên người lao động, thành viên, hội viên của
mình thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; tổ
chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện tham nhũng; kịp thời
thông báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi tham nhũng.
- Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách
nhiệm kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật về PCTN.
- Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phối hợp với hiệp hội
doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề tổ chức diễn đàn để trao đổi, cung cấp
thông tin, phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng.
2.4. Trách nhiệm của công dân, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám
sát đầu tư của cộng đồng.
- Công dân tự mình hoặc thông qua Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát
đầu tư của cộng đồng hoặc thông qua tổ chức mà mình là thành viên
tham gia phòng, chống tham nhũng.
- Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng. TRÍCH DẪN Ghi chú:
(1) Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên họp thứ nhất Ban Chỉ
đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày 04/02/2013.
(2) Ủy ban Kiểm tra Trung ương, 70 năm truyền thống ngành Kiểm tra Đảng
(1948 - 2018), Nxb Thông tin và Truyền thông, H.2018, tr.286 - 287
(3) Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại phiên họp thứ
15 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày 21/01/2019.
(4) Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại phiên họp thứ
17 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng ngày 15/01/2020
đánh giá kết quả hoạt động năm 2019 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trọng
tâm công tác PCTN năm 2020. ♥♥♥