



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
--------------
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Đề tài:
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP CỦA VIỆC GIA TĂNG TÌNH TRẠNG LY HÔN TẠI VIỆT NAM NHÓM THỰC 05 HIỆN:
LỚP HỌC PHẦN : 242_HCMI0121_21
GIẢNG VIÊN : ĐÀO THU HÀ Hà Nội, 2025 MỤC LỤC Trang
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ.....................................................................................................1
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................................................2
LỜI CẢM ƠN......................................................................................................................................3
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài:............................................................................................................................4
2. Mục tiêu chọn đề tài:.......................................................................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................................................4
4. Kết cấu đề tài nghiên cứu................................................................................................................4
NỘI DUNG.................................................................................................................................................5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN.........................................................................................................5
1.1. Khái niệm, vị trí, chức năng của gia đình ...................................................................................5
1.1.1.Khái niệm gia đình......................................................................................................................5
1.1.2.Vị trí của gia đình.......................................................................................................................5
1.1.3.Chức năng của gia đình .............................................................................................................6
1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.........................................8
1.2.1.Cơ sở kinh tế - xã hội..................................................................................................................8
1.2.2.Cơ sở chính trị - xã hội...............................................................................................................9
1.2.3.Cơ sở văn hoá............................................................................................................................10
1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ..........................................................................................................10
1.3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình...................................................................................13
1.3.1. Sự biến đổi quy mô của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội......13
1.3.2. Biến đổi trong thực hiện chức năng của gia đình..................................................................14
1.3.3. Biển đổi trong các mối quan hệ gia đình................................................................................18
1.3.3.1. Biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng...............................................................18
1.3.3.2. Biến đổi quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hoá của gia đình...............18
1.3.4. Phương hướng cơ bản để xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.................................................................................................................................19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LY HÔN TẠI VIỆT NAM.................................21
2.1.Thực trạng ly hôn tại Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội............................21
2.2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ly hôn tại Việt Nam ............................................................26
2.2.1. Nguyên nhân chủ quan............................................................................................................26
2.2.2. Nguyên nhân khách quan.................................................................................................27
2.3. Tác động của ly hôn....................................................................................................................28
2.3.1.Tác động tích cực......................................................................................................................28
2.3.1.1. Đối với vợ chồng....................................................................................................................28
2.3.1.2. Đối với con cái.......................................................................................................................29
2.3.1.3. Đối với xã hội.........................................................................................................................29
2.3.2. Tác động tiêu cực.....................................................................................................................29
2.3.2.1. Đối với vợ chồng....................................................................................................................31
2.3.2.2. Đối với con cái.......................................................................................................................31
2.3.2.3. Đối với xã hội.........................................................................................................................32
2.4. Một số giải pháp khắc phục tình trạng ly hôn tại Việt Nam....................................................33
2.4.1. Đối với mỗi cá nhân.................................................................................................................33
2.4.2. Đối với gia đình........................................................................................................................35
2.4.3. Đối với xã hội............................................................................................................................36
KẾT LUẬN........................................................................................................................................40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................41
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ STT Họ và tên Mã sinh viên Nhiệm vụ Đánh giá 67 Bùi Hưng Nguyên 23D180124 Làm nội dung B+ 68 Bùi Thị Nguyệt 23D180031 Làm powerpoint B+ 69 Đinh Thị Ánh Nguyệt 23D180079 Thuyết trình B+ 70 Ngô Như Nguyệt 23D180125 Làm powerpoint B+ 71 Nguyễn Thị Yến Nhi 23D180080 Làm nội dung B+ 72 Nguyễn Thị Yến Nhi 23D180126
Viết mở đầu + kết luận B+ 73 Trần Thị Nhi (nhóm
trưởng) 23D180176 Lên dàn ý, chỉnh word thuyết trình A 74 Trịnh Bá Phát 23D180034 Làm nội dung B+ 75 Ngô Kỳ Phong 23D180035 Làm nội dung B+ 76 Nguyễn Hữu Phú 23D180127 Làm word B+ 77 Đặng Thu Phương 23D180128 Làm nội dung B+ 78 Đỗ Hữu Phước 23D180129 Làm nội dung B+ 79 Lê Minh Quyền 23D180130 Làm powerpoint B+ 80 Vũ Diễm Quỳnh 23D180084 Làm nội dung B+ 81 Phạm Thị Sen 23D180131 Làm nội dung B+ 82 Nguyễn Hải Sơn 23D180178 Làm nội dung B+ 83 Nguyễn Thị Thoa 23D180180 Làm nội dung B+ LỜI CAM ĐOAN
Nhóm 5 xin cam đoan bài thảo luận này là kết quả làm việc nghiêm túc của
nhóm. Thông tin, số liệu, hình ảnh sử dụng trong bài thảo luận là hoàn toàn chính
xác và được trích dẫn rõ ràng từ các nguồn tài liệu đáng tin cậy.
Một số kết luận trong bài thảo luận có sự kế thừa từ những bài nghiên cứu
trước đó, một số là phát hiện mới của riêng nhóm trên cơ sở nghiên cứu, phân tích
một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng.
Chúng em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Nhóm 5 - 242_HCMI0121_21 - Đại học Thương mại LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, nhóm 5 xin gửi lời cảm ơn đến khoa Tài chính – Ngân hàng
Trường Đại học Thương mại đã đưa học phần Chủ nghĩa xã hội khoa học vào giảng
dạy. Đây là một môn học rất hay, rất thực tế và giúp chúng em mở mang thêm
nhiều kiến thức. Trong quá trình học môn học này, chúng em đã nhận được rất
nhiều sự quan tâm, hướng dẫn tận tình của cô Đào Thu Hà - người đã trực tiếp
hướng dẫn nhóm em hoàn thành bài thảo luận này. Chúng em xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến cô, đến sự nhiệt huyết của cô dành cho chúng em trong các buổi học.
Trong quá trình làm bài, do hiểu biết của nhóm chúng em về đề tài “Nguyên
nhân và giải pháp của việc gia tăng tình trạng ly hôn tại Việt Nam” còn nhiều hạn
chế nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Mong cô xem và góp ý thêm cho nhóm
chúng em để kĩ năng làm thảo luận ngày càng hoàn thiện.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm 5 - 242_HCMI0121_21 - Đại học Thương mại LỜI MỞ ĐẦU
Tình trạng ly hôn gia tăng tại Việt Nam đang trở thành một vấn đề xã hội nghiêm
trọng, tác động sâu rộng đến cấu trúc gia đình và nền tảng xã hội. Theo thông tin từ
bài viết "Gia tăng tình trạng ly hôn" đăng trên website http://daidoanket.vn/ vào
ngày 28/6/2022, mỗi năm, Việt Nam ghi nhận khoảng 60.000 vụ ly hôn, tương
đương với tỷ lệ 0,75 vụ ly hôn trên mỗi 1.000 dân. Tỷ lệ ly hôn so với kết hôn đạt
đến mức 25%, tức là cứ mỗi bốn cặp vợ chồng kết hôn thì có một cặp phải ra tòa để
giải quyết tranh chấp. Con số này không chỉ là một cảnh báo nghiêm trọng mà còn
là minh chứng rõ ràng cho những biến động lớn trong cấu trúc và giá trị gia đình trong xã hội hiện đại.
Hiện tượng ly hôn ngày càng gia tăng không chỉ phản ánh vấn đề cá nhân trong
mỗi gia đình, mà còn là một dấu hiệu rõ ràng của sự thay đổi sâu sắc trong cơ cấu
xã hội, văn hóa và kinh tế. Những nguyên nhân dẫn đến ly hôn không thể đơn giản
chỉ là sự bất đồng trong gia đình mà liên quan mật thiết đến những thay đổi trong
vai trò, kỳ vọng của các thành viên trong gia đình, những biến động chính trị, kinh
tế và xã hội, cũng như sự chuyển dịch trong giá trị văn hóa và cách thức nhìn nhận
mối quan hệ vợ chồng. Đồng thời, sự gia tăng này cũng phản ánh những tác động
tiêu cực từ quá trình phát triển xã hội hiện đại, khi mà áp lực công việc, sự mất kết
nối trong giao tiếp, và sự thiếu thấu hiểu về các giá trị bền vững trong mối quan hệ
gia đình ngày càng trở nên nghiêm trọng và rõ rệt.
Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc nguyên nhân và đưa ra các giải pháp để khắc
phục tình trạng ly hôn không chỉ đơn thuần là giải quyết các vấn đề của từng gia
đình, mà còn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát
triển bền vững của xã hội. Việc áp dụng các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
từ các môn khoa học xã hội sẽ giúp làm rõ mối liên hệ giữa các yếu tố xã hội, kinh
tế và văn hóa, từ đó đưa ra những giải pháp toàn diện và hiệu quả để bảo vệ và xây
dựng hạnh phúc gia đình trong xã hội hiện đại.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm, vị trí, chức năng của gia đình
1.1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và
củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thông và quan hệ nuôi
dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
1.1.2. Vị trí của gia đình
a. Gia đình là tế bào của xã hội
- Với việc sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tái sản xuất ra con
người, gia đình như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cơ sỏ để tạo nên cơ thể -
xã hội. Không có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không thể tồn tại và
phát triển được. Vì vậy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì phải quan
tâm dựng tế bào gia đình tốt.
- Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội lại phụ thuộc vào bản
chất của từng chế độ xã hội. Vì vậy, trong mỗi giai đoạn của lịch sử, tác động
của gia đình đối với xã hội không hoàn toàn giông nhau. Trong các xã hội dựa
trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ
xã hội và quan hệ gia đình đã hạn chê rất lớn đến sự tác động của gia đình đối
với xã hội. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia đình
bình đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
b. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên
- Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được yêu thương, nuôi dưỡng,
chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Sự yên ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình là
tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách, thể lực, trí
lực để trở thành công dân tốt cho xã hội. Chỉ trong môi trường yên ấm của gia
đình, cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có động lực để phấn đấu trở
thành con người xã hội tốt.
c. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội
-Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởng
rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của từng người. Tuy nhiên,
mỗi cá nhân lại không thể chỉ sông trong quan hệ tình cảm gia đình, mà côn có
nhu cầu quan hệ xã hội, quan hệ với những người khác ngoài các thành viên
trong gia đình. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là
thành viên của xã hội. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đồng thời
cũng là quan hệ giữa các thành viên của xã hội. Không có cá nhân bên ngoài
gia đình, cùng không thể có cá nhân bên ngoài xã hội. Gia đình là cộng đồng xã
hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan hệ xã hội của mỗi cá nhân. Gia đình cũng
chính là môi trường đầu tiên mà mỗi cá nhân học được và thực hiện quan hệ xã hội.
-Ngược lại, gia đình cũng tác động đến cá nhân. Mà thông qua lăng kính gia
đình mà tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư
tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách,vv.. Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn diện
hơn về mỗi cá nhân khi xem xét họ trong các quan hệ xã hội và quan hệ với gia
đình. Có những vấn đề quản lý xã hội phải thông qua hoạt động của gia đình để
tác động đến cá nhân. Nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi cá nhân được thực hiện
với sự hợp tác của các thành viên trong gia đình. Chính vì vậy, ở bất cứ xã hội
nào, giai cấp cầm quyền muôn quản lý xã hội theo yêu cầu của mình cũng đều
coi trọng việc xây dựng và củng cố gia đình. Vậy nên, đặc điểm của gia đình ở
mỗi chế độ xã hội có khác nhau.
1.3.1. Chức năng của gia đình
a. Chức năng tái sản xuất ra con người
- Đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào có thể thay
thế. Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con
người, đáp ứng nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ mà còn đáp ứng
nhu cầu về sức lao động và duy trì sự trường tồn của xã hội.
- Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia đình,
nhưng không chỉ là việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã hội. Bởi vì, thực
hiện chức năng này quyết định đến mật độ dân cư và nguồn lực lao động của
một quốc gia và quốc tế, một yếu tố cấu thành của tồn tại xã hội. Thực hiện
chức năng này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã
hội. Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng
này được thực hiện theo xu hướng hạn chế hay khuyến khích. Trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung cấp.
b. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
- Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình còn có trách nhiệm nuôi
dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con
cái, đồng thời thể hiện trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện chức
năng này, gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành nhân cách,
đạo đức, lối sống của mỗi người. Vì vậy, gia đình là một môi trường văn hóa,
giáo dục, trong môi trường này, mỗi thành viên đều là những chủ thể sáng tạo
những giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục đồng thời cũng là những người thụ
hưởng giá trị văn hóa, và là khách thể chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong gia đình.
- Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến cuộc
đời của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành và tuổi già.
Mỗi thành viên trong gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định, vừa là chủ thể vừa
là khách thể trong việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Đây là chức năng hết
sức quan trọng, mặc dù, trong xã hội có nhiều cộng đồng khác (nhà trường, các
đoàn thể, chính quyền v.v..) cũng thực hiện chức năng này, nhưng không thể
thay thế chức năng giáo dục của gia đình. Với chức năng này, gia đình góp
phần to lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của xã hội, cung cấp và
nâng cao chất lượng nguồn lao động để duy trì sự trường tồn của xã hội, đồng
thời mỗi cá nhân từng bước được xã hội hóa. Vì vậy, giáo dục của gia đình gắn
liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình không gắn với giáo dục
của xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hòa nhập với xã hội, và ngược lại, giáo
dục của xã hội sẽ không đạt được hiệu quả cao khi không kết hợp với giáo dục
của gia đình, không lấy giáo dục của gia đình là nền tảng. Do vậy, cần tránh
khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ thấp giáo dục của xã hội hoặc
ngược lại. Bởi cả hai khuynh hướng ấy, mỗi cá nhân đều không phát triển toàn
diện. Thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm
cha, làm mẹ phải có kiến thức cơ bản, tương đối toàn diện về mọi mặt, văn hóa,
học vấn, đặc biệt là phương pháp giáo dục.
c. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng -
Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù
của gia đình mà các đơn vị kinh tế khác không có được, là ở chỗ, gia đình là
đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội. -
Gia đình không chỉ tham gia trực tiếp vào sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật
chất và sức lao động, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Gia đình
thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia
đình về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình. -
Cùng với sự phát triển của xã hội, ở các hình thức gia đình khác nhau và ngay
cả ở một hình thức gia đình, nhưng tùy theo từng giai đoạn phát triển của xã
hội, chức năng kinh tế của gia đình có sự khác nhau, về quy mô sản xuất, sở
hữu tư liệu sản xuất và cách thức tổ chức sản xuất và phân phối. Vị trí, vai trò
của kinh tế gia đình và mối quan hệ của kinh tế gia đình với các đơn vị kinh tế
khác trong xã hội cũng không hoàn toàn giống nhau. -
Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu
vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả hoạt động kinh tế
của gia đình quyết định hiệu quả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành
viên gia đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào quá trình sản xuất và tái sản
xuất ra của cải, sự giàu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách có
hiệu quả mọi tiềm năng của mình về vốn, về sức lao động, tay nghề của người
lao động, tăng nguồn của cải vật chất cho gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức
năng này, không những tạo cho gia đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi
dạy con cái, mà còn đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
d. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
- Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu
tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý,
bảo vệ chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc
lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm vừa là
trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình
cảm cho mỗi cá nhân, là nơi nương tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi
nương tựa về vật chất của con người. Với việc duy trì tình cảm giữa các thành
viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển của xã hội.
Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.
- Ngoài những chức năng trên, gia đình còn có chức năng văn hóa, chức năng
chính trị... Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa
của dân tộc cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa
của cộng đồng được thực hiện trong gia đình. Gia đình không chỉ là nơi lưu giữ
mà còn là nơi sáng tạo và thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội. Với chức
năng chính trị, gia đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng xã và
hưởng lợi từ hệ thống pháp luật, chính sách và quy chế đó. Gia đình là cầu nối
của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân.
1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội -
Cơ sở kinh tế - xã hội cho việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới ấy là chế độ sở hữu
xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất từng bước hình thành và củng cố thay
thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. -
Xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, tạo cơ sở kinh tế cho việc xây dựng
quan hệ bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong xã hội. Dưới góc
nhìn của Ăngghen, gốc rễ của sự áp bức đối với phụ nữ nằm ở chế độ tư hữu.
Do đó, ông nhận định rằng phụ nữ sẽ được giải phóng khi mà chế độ tư hữu bị
xóa bỏ. Sự biến đổi của chế độ tư hữu sang chế độ công hữu sẽ mang lại một
mối quan hệ tự do hơn rất nhiều do ở đó sẽ không còn sự phụ thuộc của nữ giới
vào nam giới. Ăngghen tin rằng việc giải phóng phụ nữ phụ thuộc vào một số
điều kiện bao gồm việc tạo cơ hội cho toàn bộ phụ nữ tham gia vào quá trình
sản xuất, sự biến đổi lao động nội trợ thành một ngành công nghiệp xã hội, và
sự xã hội hóa giáo dục và chăm sóc trẻ em. Xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất cũng là cơ sở làm cho hôn nhân được thực hiện dựa trên cơ sở tình yêu
chân chính chứ không phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội hay một tính toán nào
khác. Vậy nên không có cái gì gọi là “tình yêu” trong gia đình một vợ một
chồng. Chỉ khi nào xã hội giai cấp bị phân rã (khi mà phụ nữ được giải phóng
khỏi sự lệ thuộc về mặt kinh tế vào nam giới), thì hôn nhân mới có thể thực sự
được dựa trên cơ sở của tình yêu đích thực.
1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội
-Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân
lao động được thực hiện quyền lực của mình không có sự phân biệt giữa nam
và nữ. Việt Nam chúng ta thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa sau CMT8 1945,
sau đó thì Hiến pháp 1946 ra đời, đã ban bố quyền tự do dân chủ, quyền bầu cử
ứng cử không hề phân biệt tôn giáo, nam nữ, dân tộc. => Tiến bộ và văn minh
(của dân, do dân, vì dân). Bình đẳng trong xã hội là cơ sở của bình đẳng trong gia đình.
-Nhà nước cũng chính là công cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu, đè nặng
lên vai người phụ nữ đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ nữ và bảo vệ
hạnh phúc gia đình. và việc thực hiện thành công giải phóng phụ nữ trong Cách
mạng Tháng Mười Nga, từ lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là cơ sở quan trọng để Đảng ta đề ra những quan điểm, chủ trương, Nhà
nước đề ra đường lối, chính sách pháp luật về giải phóng phụ nữ, về bình đẳng
giới. Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm
từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị; nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa nam
và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh
vực văn hóa và thông tin; bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng
bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới...
-Hệ thống pháp luật (Luật Hôn nhân – gia đình và chính sách xã hội) vừa định
hướng vừa thúc đẩy quá trình hình thành gia đình mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.2.3. Cơ sở văn hóa
- Cơ sở văn hóa cho việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội chính là nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, vừa kế thừa những giá trị văn
hóa dân tộc và nhân loại tốt đẹp, vừa sáng tạo những giá trị văn hóa mới.
Chống lại những quan điểm không đúng, những hiện tượng không đúng về hôn
nhân, những cổ hủ của gia đình cũ. Ví dụ như trọng nam khinh nữ, tư tưởng
phụ quyền gia trưởng của người đàn ông trong gia đình, tư tưởng dần được thay
đổi vì tư tưởng đã ăn sâu vào tiềm thức của con người và cần thời gian để cải
thiện bằng các kiến thức mới như Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Phòng
chống bạo lực gia đình, và Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông qua ngày
29/11/2006 và có hiệu lực ngày 01/7/2007. Những quy định, điều lệ trong này
chính là kim chỉ nam để hướng tới mục tiêu xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo
cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển
nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập,
củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
- Phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ nâng cao trình độ
dân trí, kiến thức khoa học, công nghệ của xã hội, cho các thành viên trong gia
đình. Kiến thức mới ở đây là các kiến thức về gia đình, kiến thức ứng xử giữa
các thành viên trong gia đình, hiểu biết được luật từ đó sẽ giảm thiểu vi phạm
pháp luật, từ đó sẽ hình thành giá trị chuẩn mực mới tốt đẹp.
1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ
a. Hôn nhân tự nguyện
Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ. Hôn
nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Hôn nhân tự
nguyện là đảm bảo cho nam nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người kết
hôn, không chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ. Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả
quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và nữ không còn nữa. Tuy nhiên hôn
nhân tiến bộ không khuyến khích việc ly hôn. Vì vậy, cần ngăn chặn những
trường hợp nông nổi khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hôn và
những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.
Khái quát về ly hôn:
-Khái niệm ly hôn: Theo khoản 14 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014 nêu
rõ: Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất có trách nhiệm ra phán
quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng. Phán quyết ly hôn của Tòa án
thể hiện dưới hai hình thức: bản án hoặc quyết định.
Nếu hai bên vợ chồng thuận tình ly hôn thỏa thuận với nhau giải quyết được tất
cả các nội dung quan hệ vợ chồng khi ly hôn thì Tòa án công nhận ra phán
quyết dưới hình thức là quyết định.
Nếu vợ chồng có mâu thuẫn, tranh chấp thì Tòa án ra phán quyết dưới dạng bản án ly hôn.
Như vậy, Ly hôn dược định nghĩa tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 theo
đó ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án.
- Các trường hợp ly hôn:
Trường hợp thuận tình ly hôn: Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn,
nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài
sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm
quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu
không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi
chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
Ly hôn theo yêu cầu của một bên:
oKhi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa
án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia
đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn
nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được.
oTrong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu
cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
oTrong trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly
hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không
thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo
lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có
căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
b. Hôn nhân một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng
- Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một
chồng là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Thực hiện hôn
nhân một vợ một chồng là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời
cũng phù hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.
- Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài
người, khi có sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên
thủy. Tuy nhiên, trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất
chỉ đối với người phụ nữ. Vì vậy trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng là thực hiện sự giải phóng đối với
phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng. Trong đó
vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn đề của cuộc
sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng, chính
đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu khác v.v..
Đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề chung của
gia đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái… nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc.
- Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha
mẹ với con cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ có nghĩa
vụ yêu thương con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng,
nghe lời dạy bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa
anh chị em sẽ có những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do sự chênh lệch tuổi
tác, nhu cầu, sở thích, sắc riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn
trong gia đình là vấn đề cần được quan tâm của mọi người.
- Cách mạng XHCN với việc xoá bỏ QHSX chiếm hữu tư nhân TBCN tất yếu sẽ
làm cho chế độ cộng thê do QHSX đó đẻ ra, tức chế độ mãi dâm chính thức và
không chính thức biến mất. Nhờ đó, chế độ hôn nhân một vợ một chồng được
thực hiện “trọn vẹn”.
c. Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý:
- Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia
đình mà là quan hệ xã hội. Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi
người, xã hội không can thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết
hôn, tức là đã đưa quan hệ riêng bước vào quan hệ thì phải có sự thừa nhận của
xã hội, điều đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân.
- Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân là thể hiện sự tôn trọng trong tình
yêu, trách nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã
hội và ngược lại. Đây cũng là biện pháp ngăn chặn những cá nhân lợi dụng
quyền tự do kết hôn, tự do ly hôn để thỏa mãn những nhu cầu không chính
đáng, để bảo vệ hạnh phúc của cá nhân và gia đình.
- Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn
và tự do ly hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó
một cách đầy đủ nhất.
1.3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình
1.3.1. Sự biến đổi quy mô của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự biến đổi quy mô của gia đình ở
Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố như kinh tế, văn hóa, các chính sách
xã hội và sự thay đổi trong tư tưởng.
a. Sự thu hẹp quy mô gia đình
- Từ kiểu gia đình truyền thống đến gia đình hạt nhân. Thời trước, hầu hết các
gia đình Việt Nam đều là kiểu gia đình truyền thống, nhiều thế hệ chung sống
cùng nhau dưới một mái nhà, chủ yếu là 3 thế hệ trở lên. Tuy nhiên, từ sau quá
độ lên chủ nghĩa xã hội đặc biệt sau đổi mới năm 1986, các gia đình có xu
hướng chuyển sang kiểu gia đình hạt nhân chỉ có 2 thế hệ cha mẹ và con cái.
- Ví dụ: Các gia đình ở Việt Nam trước đây hầu hết có 3 thế hệ chung sống bao
gồm ông bà, bố mẹ và con cái thậm chí có nhiều gia đình có 4 thế hệ từ thời cụ
kính. Vai trò của các thành viên trong các gia đình truyền thống thường có xu
hướng như sau: đàn ông lo kinh tế, phụ nữ lo việc nội trợ. Việc sống chung
nhiều thế hệ như thế có thể dẫn đến rất nhiều mâu thuẫn do sự khác biệt trong
tư tưởng, lối sống đặc biệt khoảng cách thế hệ giữa các thành viên. Các gia đình
ở Việt Nam bây giờ hầu hết chỉ có 2 thế hệ bao gồm cha mẹ và con cái. Cả vợ
chồng đều sẽ chia sẻ các vấn đề từ kinh tế đến công việc nhà.
b. Ảnh hưởng của chính sách dân số.
-Từ cuối thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước thực hành mạnh mẽ, cương quyết với
chinh sách “mỗi gia đình chỉ sinh ra từ 1 đến 2 con”. Chính sách này đặc biệt
còn được làm ráo riết với các Đảng viên. Điều này đã góp phần thu hẹp quy mô gia đình rất nhiều.
-Ví dụ: Gia đình thời bao cấp (trước 1986): Một cặp vợ chồng có thể sinh từ 4
đến 5 con thậm chí nhiều hơn thế. Điều này xuất phát từ những quan điểm
truyền thống từ thời xa xưa “con cái là lộc trời cho”, “đông con hơn nhiều của”.
Gia đình sau thời kỳ bao cấp (sau 1986): hầu hết các cặp vợ chồng chỉ sinh từ 1
đến 2 con để chăm lo tốt cho con cái, không bị những áp lực về kinh tế.
c. Tác động của đô thị hóa và công nghiệp hóa
- Do tác động của đô thị hóa, công nghiệp hóa có rất nhiều người dân di cư từ
nông thôn lên các thành phố lớn để cải thiện thu nhập. Điều đó ảnh hưởng đến cấu trúc của gia đình.
- Ví dụ: Gia đình ở quê có con cái đi học, đi làm xa ở trên các thành phố lớn.
Hầu hết các gia đình có cặp vợ chồng từ 50 tuổi trở lên chỉ có 2 vợ chồng sống
với nhau do con cái đi học, đi làm xa thỉnh thoảng mới về. Có một số cặp vợ
chồng trẻ gửi con ở quê cho ông bà chăm sóc để lên các thành phố lớn kiếm
tiền, sau đó gửi tiền để ông bà chăm sóc con cái.
d. Thay đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình và tư duy hôn nhân
-Hiện nay, do được tiếp cận với giáo dục và những tư tưởng tiên tiến hơn, phụ
nữ có những thay đổi về tư duy, họ tập trung phát triển sự nghiệp thay vì lập gia đình và sinh con sớm.
-VD: Thời trước, phụ nữ thường lập gia đình rất sớm từ năm 18 tuổi đến 22 tuổi
thậm chí ở một số vùng còn có nạn tảo hôn. Và phụ nữ thường có vai trò chỉ ở
nhà làm nội trợ, chăm sóc gia đình, còn người đàn ông sẽ trụ cột đảm nhiệm
kinh tế. Bây giờ, có rất nhiều phụ nữ chọn kết hôn muộn hoặc không kết hôn.
Họ dành thời gian trong khoảng thời gian sau khi tốt nghiệp Đại học để tập
trung phát triển sự nghiệp.
e. Tác động của hội nhập và lối sống phương Tây
- Sự phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với thế giới khiến quan niệm và tư
tưởng về gia đình có nhiều sự thay đổi đặc biệt là giới trẻ. Một số người trẻ có
xu hướng sống độc thân hoặc sống chung nhưng không kết hôn.
- Ví dụ: Gia đình có yếu tố quốc tế. Một số người Việt kết hôn với người ngoại
quốc tạo nên những gia đình đa văn hóa, dân tộc, có quy mô nhỏ nhưng mang tính chất toàn cầu.
- Xu hướng sống độc thân: Do áp lực về kinh tế, lối sống nên nhiều người trẻ
hiện nay có xu hướng chọn lối sống một mình đặc biệt ở các thành phố lớn như
Hà Nội, thành phố HCM. Điều đó sẽ làm giảm quy mô gia đình rất lớn nếu vấn
đề tiếp tục duy trì và lan rộng ra.
1.3.2. Biến đối trong thực hiện chức năng của gia đình
Biến đổi trong thực hiện chức năng của gia đình là sự thay đổi trong cách mà các
gia đình thực hiện các chức năng truyền thống của mình trong xã hội hiện đại. Các
chức năng này bao gồm việc duy trì nòi giống, kinh tế, giáo dục và thỏa mãn nhu
cầu tâm sinh lý, tình cảm. Biến đổi này xảy ra do nhiều yếu tố, bao gồm sự thay đổi
về kinh tế, văn hóa, pháp lý, và xã hội. Các thay đổi trong cấu trúc gia đình, vai trò
của nam nữ, và tác động của các yếu tố bên ngoài như công nghệ, toàn cầu hóa,
hoặc chính sách nhà nước đều có thể ảnh hưởng đến cách gia đình thực hiện các chức năng của mình.
a. Chức năng duy trì nòi giống
- Gia đình hiện đại: Trong thời đại y học hiện đại, việc sinh con trong gia đình
không còn là sự tự nhiên mà gia đình thực hiện một cách tự ý và có kiểm soát
đối với số lượng con và thời điểm sinh con. Hơn nữa, việc sinh con cũng bị
điều chỉnh bởi chính sách xã hội của Nhà nước, dựa trên tình hình dân số và
nhu cầu về lực lượng lao động của xã hội. Từ những năm 70 và 80 của thế kỷ
XX, Nhà nước đã tuyên truyền, lan truyền và áp dụng rộng rãi các phương tiện
và biện pháp kỹ thuật tránh thai và kiểm soát dân số thông qua Cuộc vận động
sinh đẻ có kế hoạch, khuyến khích mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ 1 đến 2 con.
Đầu thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, dân số Việt Nam đang chuyển từ giai đoạn
tăng trưởng đến giai đoạn gia hóa. Để đảm bảo lợi ích của gia đình và sự phát
triển bền vững của xã hội, thông điệp mới trong kế hoạch hóa gia đình là mỗi
cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con.
- Gia đình truyền thông: Nếu trước đây, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán và
nhu cầu sản xuất nông nghiệp, trong gia đình Việt Nam truyền thống, nhu cầu
về con cái thể hiện qua ba phương diện: phải có con, càng đông con càng tốt và
nhất thiết phải có con trai nối dõi.
- Ví dụ: Ở các thành phố lớn như TP HCM hay Hà Nội tỷ lệ sinh giảm mạnh do
giới trẻ không muốn kết hôn hoặc sinh con vì áp lực tài chính và công việc.
Ngoài ra, hầu như các gia đình hiện nay chỉ lựa chọn sinh từ 1 đến 2 con vì chi
phí nuôi dưỡng 1 đứa trẻ ngày càng tăng cao. b. Chức năng giáo dục
- Trong xã hội Việt Nam truyền thống, giáo dục gia đình là nền tảng của giáo dục
xã hội, nhưng ngày nay, giáo dục xã hội áp đảo giáo dục gia đình và đặt ra mục
tiêu và yêu cầu giáo dục gia đình. Điểm tương đồng giữa giáo dục gia đình
truyền thống và giáo dục xã hội mới là cả hai tiếp tục nhấn mạnh sự hy sinh của cá nhân cho cộng đồng.
- Giáo dục gia đình hiện nay phát triển theo hướng gia đình đầu tư tài chính cho
giáo dục con cái tăng lên. Nội dung giáo dục gia đình hiện nay không chỉ tập
trung vào giáo dục đạo đức, cách ứng xử trong gia đình, dòng họ và làng xã, mà
còn hướng tới giáo dục kiến thức khoa học hiện đại, trang bị công cụ cho con
cái để hòa nhập với thế giới.
- Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống giáo dục xã hội, cùng với sự phát triển
kinh tế hiện nay, vai trò của các thực thể trong gia đình giáo dục đang có xu
hướng giảm đi. Mâu thuẫn này là một thực tế chưa có lời giải quyết hiệu quả ở
Việt Nam hiện nay. Các tác động này làm giảm đáng kể vai trò của gia đình
trong việc thực hiện chức năng xã hội hóa, giáo dục trẻ em ở nước ta trong thời gian qua.
- Ví dụ: Trẻ em hiện nay tiếp cận Internet, mạng xã hội từ rất sớm, nên chịu ảnh
hưởng nhiều từ bạn bè, thần tượng và nền văn hóa đa dạng, đôi khi làm giảm
ảnh hưởng của giáo dục gia đình. Đặc biệt, đa phần giới trẻ hiện nay chạy theo
những trào lưu trên mạng xã hội như Tiktok, FB.. c. Chức năng kinh tế
- Khi xem xét về tổng quan, kinh tế gia đình đã trải qua hai bước chuyển đổi
quan trọng: Đầu tiên, từ kinh tế tự cấp tự túc trở thành kinh tế hàng hoá, nghĩa
là từ việc gia đình sản xuất đủ để đáp ứng nhu cầu của gia đình, trở thành đơn
vị sản xuất chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của người khác hoặc của xã hội. Thứ
hai, từ đơn vị kinh tế với đặc điểm sản xuất hàng hoá để đáp ứng nhu cầu của
thị trường quốc gia, trở thành tổ chức kinh tế của nền kinh tế thị trường hiện
đại, đáp ứng nhu cầu của thị trường toàn cầu.
- Hiện nay, kinh tế gia đình đang trở thành một phần quan trọng trong nền kinh tế
quốc gia. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh sản phẩm
hàng hoá với các nước trong khu vực và trên thế giới, kinh tế gia đình đang
phải đối mặt với nhiều khó khăn và rào cản trong việc chuyển đổi thành hướng
sản xuất kinh doanh hàng hoá sâu hơn trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
Nguyên nhân là do kinh tế gia đình phần lớn có quy mô nhỏ, lao động ít và tự sản xuất là chính.
- Sự phát triển của kinh tế hàng hoá và nguồn thu nhập bằng tiền của gia đình
đang tăng lên, khiến gia đình trở thành "người tiêu dùng" quan trọng của xã hội.
Các gia đình Việt Nam đang tiến tới "tiêu dùng sản phẩm do người khác sản
xuất", nghĩa là sử dụng hàng hoá và dịch vụ xã hội
- Ví dụ: Ngày xưa, một gia đình ở nông thôn có thể tự sản xuất lương thực, thực
phẩm, từ trồng lúa, nuôi gà đến dệt vải. Hiện nay, hầu hết các gia đình mua sắm
thực phẩm từ siêu thị, chợ thay vì tự sản xuất. Trước đây, gia đình có thể làm
chung trong một cơ sở kinh doanh nhỏ (ví dụ: làm bánh, dệt vải). Ngày nay,
mỗi thành viên thường có công việc riêng, làm thuê cho các doanh nghiệp lớn
thay vì làm trong gia đình.
d. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm - Trong xã hô Ž i hiê Ž
n đại, đô Ž bền vững của gia đình không chỉ phụ thuô c Ž vào sự ràng buô Ž c của các mối quan hê Ž về trách nhiê Ž
m, nghĩa vụ giữa vợ và chồng; cha
mẹ và con cái; sự hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích gia đình, mà nó còn bị chi
phối bởi các mối quan hê Ž hòa hợp tình cảm giữa chồng và vợ; cha mẹ và con
cái, sự đảm bảo hạnh phúc cá nhân, sinh hoạt tự do, chính đáng của mỗi thành viên gia đình trong cuô Ž c sống chung. - Trong gia đình Viê Ž t Nam hiê Ž
n nay, nhu cầu thỏa mãn tâm lý - tình cảm đang
tăng lên, do gia đình có xu hướng chuyển đổi từ chủ yếu là đơn vị kinh tế sang
chủ yếu là đơn vị tình cảm. Viê Ž c thực hiê Ž n chức năng này là mô Ž t yếu tố rất quan trọng tác đô Ž
ng đến sự tồn tại, bền vững của hôn nhân và hạnh phúc gia đình, đặc biê Ž t là viê Ž
c bảo vê Ž chăm sóc trẻ em và người cao tuổi, nhưng hiê n Ž
nay, các gia đình đang đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biê Ž t,
trong tương lai gần, khi mà tỷ lê Ž các gia đình chỉ có mô t Ž con tăng lên thì đời
sống tâm lý - tình cảm của nhiều trẻ em và kể cả người lớn cũng sẽ kém phong
phú hơn, do thiếu đi tình cảm về anh, chị em trong cuô Ž c sống gia đình. - Tác đô Ž ng của công nghiê Ž
p hóa và toàn cầu hóa dẫn tới tình trạng phân hóa giàu
nghèo sâu sắc, làm cho mô Ž t số hô Ž
gia đình có cơ may mở rô Ž ng sản xuất, tích lũy
tài sản, đất đai, tư liê Ž
u sản xuất thì trở nên giàu có, trong khi đại bô Ž phâ Ž n các gia
đình trở thành lao đô Ž
ng làm thuê do không có cơ hô Ž
i phát triển sản xuất, mất
đất đai và các tư liê Ž
u sản xuất khác, không có khả năng tích lũy tài sản, mở rô Ž ng
sản xuất. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các hô nghèo, khắc phục khoảng
cách giàu nghèo đang có xu hướng ngày càng gia tăng.
- Cùng với đó, vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi tâm lý truyền thống về vai trò
của con trai, tạo dựng quan niê Ž
m bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách nhiê Ž
m nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ già và thờ phụng tổ tiên. Nhà nước cần có những giải pháp, biê Ž
n pháp nhằm bảo đảm an toàn tình dục, giáo dục giới tính
và sức khỏe sinh sản cho các thành viên sẽ là chủ gia đình tương lai; củng cố chức năng xã hô Ž
i hóa của gia đình, xây dựng những chuẩn mực và mô hình mới
về giáo dục gia đình, xây dựng nô Ž
i dung và phương pháp mới về giáo dục gia đình, giúp cho các bâ Ž
c cha mẹ có định hướng trong giáo dục và hình thành nhân
cách trẻ em; giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn giữa nhu cầu tự do, tiến bô Ž của người phụ nữ hiê Ž n đại với trách nhiê Ž m làm dâu theo quan niê Ž m truyền thống,
mâu thuẫn về lợi ích giữa các thế hê Ž
, giữa cha mẹ và con cái. Nó đòi hỏi phải
hình thành những chuẩn mực mới, bảo đảm sự hài hòa lợi ích giữa các thành
viên trong gia đình cũng như lợi ích giữa gia đình và xã hô Ž i.
- Ví dụ: Trước đây, trong một gia đình Việt Nam truyền thống, ông bà sống cùng
con cháu, được chăm sóc khi về già. Ngày nay, nhiều người cao tuổi sống độc
lập, một số vào viện dưỡng lão vì con cái bận rộn hoặc sống xa. Việc sử dụng
công nghệ cũng ảnh hưởng đến giao tiếp trong gia đình. Nhiều gia đình có xu
hướng ít trò chuyện trực tiếp vì mỗi thành viên bận rộn với điện thoại, máy tính cá nhân.
1.3.3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình
1.3.3.1. Biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng
- Trong thực tế, hôn nhân và gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với những
thách thức, biến đổi lớn. Dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công
nghệ hiện đại, toàn cầu hóa… khiến các gia đình phải gánh chịu nhiều mặt trái
như: quan hệ vợ chồng – gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại
tình, quan hệ tình dục trước hôn nhân và ngoài hôn nhân, chung sống không kết
hôn. Đồng thời, xuất hiện nhiều bi kịch, thảm án gia đình, người già cô đơn, trẻ
nhỏ sống ích kỷ, bạo hành trong gia đình, xâm hại tình dục… Từ đó, dẫn tới hệ
lụy là giá trị truyền thông bị phá vỡ, lung lay và hiện tượng gia tăng số hộ gia
đình đơn thân, độc thân, kết hôn đồng tính, sinh con ngoài giá thú,… Ngoài ra,
sức ép từ cuộc sống hiện đại (công việc căng thẳng, không ổn định, di chuyển
nhiều,…) cũng khiến cho hôn nhân trở nên khó khăn hơn cho nhiều người trong xã hội.
- Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ cột của gia đình, mọi quyền lực
trong gia đình đều thuộc về người đàn ông. Người chồng là người chủ sở hữu