Nguyên tắc của phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng việc vận dụng nó
vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam
1. Khái niệm chủ nghĩa duy vật biện chứng
C.Mác đã kế thừa tưởng về phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm
Friedrich Hegel luận về chủ nghĩa duy vật của Ludwig Andreas von
Feuerbach phát triển nên phương pháp luận này. Các nhà triết học Marx-
Lenin cho rằng phương pháp duy vật biện chứng sở triết học cho hệ
tưởng của họ.
Triết học Mác một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, hạt nhân
thế giới quan, phương pháp luận của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân,
công cụ nhận thức đại đ giai cấp công nhân nhận thức cải tạo thế giới,
xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công; giải phóng giai cấp, giải phóng hội, xây
dựng chế độ hội mới tốt đẹp hơn đó hội hội ch nghĩa hội
cộng sản chủ nghĩa. Những cống hiến đại của C.Mác trong lĩnh vực triết
học đó tạo nên sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật phép biện
chứng; sáng tạo ra ch nghĩa duy vật lịch sử; m cho triết học tr thành thế
giới quan, phương pháp luận khoa học cách mạng để giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Trong lịch sử triết học duy vật trước C.Mác đã chứa đựng không ít những hạt
nhân hợp lý. Nhưng do sự hạn chế của điều kiện lịch sử hội, trình độ phát
triển của khoa học cho nên tính siêu hình, duy vật về tự nhiên, duy tâm về
hội nhược điểm lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác. Trong khi đó,
phép biện chứng lại bị nhốt trong cái vỏ duy tâm thần của triết học cổ điển
Đức, đặc biệt hệ thống triết học duy tâm, bảo thủ, phản động của
G.V.Ph.Hêghen. Để xây dựng một thế giới quan, phương pháp luận triết học
thực sự khoa học cách mạng, đem lại cho loài người một công cụ nhận
thức đại, C.Mác đã tiến hành cải tạo ch nghĩa duy vật L.Phoiơbắc, phép
biện chứng duy tâm của Hêghen. Công lao của C.Mác trong cải tạo ch nghĩa
duy vật đã được V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong khi nghiên cứu sâu phát
triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị
mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức
hội loài người”.
Phép biện chứng một cống hiến đại, không thể phủ nhận của C.Mác.
C.Mác đã chủ định nghiên cứu phép biện chứng từ rất sớm. Trong khi thừa
nhận những hạt nhân hợp lý, C.Mác đã chỉ ra thế giới quan duy tâm, lộn
ngược, tính chất bảo thủ, phản động, bất lực trước những vấn đề hội
lịch sử trong phép biện chứng của G.V.Ph.Hêghen. C.Mác đã đặt ra yêu cầu
phải sử dụng phép biện chứng duy vật để phân tích các vấn đ hội lịch
sử. Theo đó, phép biện chứng duy vật của C.Mác khác hẳn về chất so với
phép biện chứng duy tâm của G.V.Ph.Hêghen. Đúng như C.Mác đã khẳng
định: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp của
Hê-ghen về bản, n đối lập hẳn với phương pháp y nữa.”(2). Tạo ra
sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật phép biện chứng cống hiến đại
của C.Mác trong lịch sử triết học chưa từng có. C.Mác đã đem lại cho loài
người tiến bộ khí luận sắc bén, công cụ nhận thức đại.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng sở luận của thế giới quan khoa học;
khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động phát triển trong
tự nhiên, hội duy. Triết học Mác-Lênin triết học duy vật, bởi triết
học đó coi ý thức tính chất của dạng vật chất tổ chức cao b não
người nhiệm vụ của bộ não người phản ánh giới t nhiên. Sự phản ánh
tính biện chứng, bởi nhờ con người nhận thức được mối quan hệ
qua lại chung nhất giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất; đồng
thời nhận thức được rằng, sự vận động phát triển của thế giới kết quả
của các mâu thuẫn đang tồn tại bên trong thế giới đang vận động đó.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng - hình thức cao nhất trong các hình thức
của chủ nghĩa duy vật. Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật biện chứng ch nghĩa
duy vật kết hợp với phép biện chứng.
Đặc trưng của phương pháp duy vật biện chứng coi một sự vật hay một
hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển xem xét trong mối quan hệ
với các sự vật hiện tượng khác.
2. Khái quát về nguyên tắc của phương pháp luận chủ nghĩa
duy vật biện chứng
Phương pháp luận biện chứng duy vật được coi những nguyên tắc xuất
phát chỉ đạo các chủ thể trong việc xác định phạm vi, phương pháp, cách
thức, phương tiện tác động nhằm tạo ra những biến đổi cho phù hợp hiệu
quả. Vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật trong quán triệt xử
mối quan hệ lớn giữa tăng trưởng kinh tế phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ công bằng hội nước ta hiện nay góp phần định hướng phát triển
đất nước theo hướng bền vững.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác đã tạo ra một bước ngoặt trong triết học,
một trong những biểu hiện nổi bật của cuộc cách mạng này sự thống nhất
chủ nghĩa duy vật phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật tr thành
sở của thế giới quan phương pháp luận khoa học, một hệ thống
luận phản ánh những mối liên hệ, những quá trình biến đổi của bản thân thế
giới hiện thực, căn cứ vào những kết quả khoa học đã được đúc kết, kết hợp
với sự tổng kết, khái quát thực tiễn hoạt động của con người. Phương pháp
luận của phép biện chứng những kết luận được rút ra từ việc khảo sát các
mối liên hệ của c sự vật, từ q trình phát sinh, phát triển cụ thể của nó, “từ
các mặt liên hệ, liên kết, vận động, sinh ra mất đi của các sự vật”. Vì vậy,
phương pháp luận của phép biện chứng duy vật được coi những nguyên
tắc xuất phát chỉ đạo c chủ thể trong việc xác định phạm vi, phương pháp,
cách thức, phương tiện tác động nhằm tạo ra những biến đổi cho phù hợp
hiệu quả.
Các nguyên tắc bản của phương pháp luận ch nghĩa duy vật biện chứng
cụ thể chúng ta sẽ đi phân tích những mục sau đây...
3. Nguyên tắc khách quan
Với nguyên tắc này, nhận thức về sự vật phải xuất phát từ chính bản thân sự
vật hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn của nó.
vậy, nhận thức cần đạt tới cái bản chất, cái quy luật chi phối sự vật. Đây là
quá trình khó khăn phải trải qua nhiều giai đoạn, bởi lẽ cái bản chất thể
hiện qua vàn các hiện tượng phong phú, đa dạng, phức tạp luôn vận
động, biến đổi.
Bằng thực tiễn, thông qua thực tiễn, kết quả của hoạt động thực tiễn cho
phép đánh giá tri thức ấy khách quan, đúng đắn hay không. V.I.Lênin viết:
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải quan điểm thứ nhất bản
của luận về nhận thức”(1).
vậy, trong nhận thức cần tránh thái độ thụ động, chủ quan, bảo thủ, trì trệ,
thiếu tính ng tạo, cần chủ động, tích cực, thông qua hoạt động thực tiễn
của con người để nhận biết đúng các thuộc tính, các cấp độ bản chất, các hệ
thống quy luật chi phối sự vật.
=> Như vậy, nguyên tắc khách quan điều kiện cần thiết cho mọi nhận thức
khoa học. Nếu nhận thức phương pháp hoạt động của chủ thể không tôn
trọng quy luật khách quan, nếu hoạt động thực tiễn không tuân theo quy luật
khách quan, chúng ta sẽ phải gánh những kết quả không như mong muốn.
4. Nguyên tắc toàn diện, phát triển lịch sử
4.1 Nguyên tắc toàn diện
Theo V.I.Lênin đã viết rằng: “Muốn thực sự thấu hiểu được sự vật, cần phải
nhìn bao quát nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ “quan
hệ gián tiếp” của sự vật đó. Chúng ta không thể làm được điều đó một cách
hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem t tất cả mọi mặt sẽ đề
phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm sự cứng nhắc”(2). Những chỉ
dẫn trên của V.I.Lênin nhắc nhở con người trong nhận thức, muốn biết chân
tướng của sự vật cần phải xem xét sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các
bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của nó; phải xem t sự vật,
hiện tượng này trong mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác kể cả khâu trung
gian của nó, phải xem xét trong mối liên h với nhu cầu thực tiễn đ từ đó
thấy được vị trí, vai trò của c mối liên hệ giữa các mặt trong một sự vật,
hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Qua đó, xác định được
những quan h trọng tâm trọng điểm cần được giải quyết trong những điều
kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nguyên tắc toàn diện này cũng chỉ ra rằng, một
luận điểm đúng đắn trong những quan hệ này lại trở thành sai lầm trong
những quan hệ khác, một luận điểm, một hướng đi, một cách làm đúng đắn,
hữu ích trong điều kiện này lại thể không phù hợp, hại trong điều kiện
khác.
4.2 Về nguyên tắc phát triển
Phép biện chứng duy vật chỉ ra rằng, liên hệ quá trình tác động qua lại - cái
tạo thành “nguyên nhân cuối cùng của mọi sự vận động biến đổi của sự
vật”. Cho nên, mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng nguyên
nhân tạo nên sự vận động của chúng. Cũng chính do mối liên hệ phổ biến
trong thế giới khách quan luôn tồn tại xu hướng phát triển không ngừng.
Vật chất không vận động đi tới tiêu vong tạo ra sự chuyển a (biến đổi)
theo những ớng khác nhau, trong đó khuynh hướng vận động theo
chiều hướng đi lên, t thấp đến cao, t kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn
(gọi phát triển).
Các chủ thể cần nhận thức chuẩn bị các điều kiện cần thiết, các phương
pháp hành động cho phù hợp để được những biến đổi theo chiều hướng
phát triển. Đây quá trình phức tạp, bởi lẽ, sự biến đổi theo chiều hướng
phát triển của hiện thực quá trình vận động tính quy luật nội tại, diễn ra
trong nó, quá trình phủ định biện chứng, phủ định kế thừa.
4.3 Về nguyên tắc lịch sử
Xem xét hiện tượng hội, V.I. Lênin chỉ dẫn rằng, cần phải “xem xét vấn đề
theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử
như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu
nào, đứng trên quan điểm của sự phát triển đó đ xem xét hiện nay đã
trở thành thế nào?”.
Phép biện chứng duy vật không chỉ một luận khoa học cho phép phản
ánh đúng đắn các sự vật, hiện tượng, còn một công cụ sắc bén đ mổ
xẻ, phân tích các vấn đề hội tìm ra các giải pháp thích hợp cho từng
giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể. Chính nhờ công cụ sắc bén này, chủ nghĩa
Mác đã tìm ra các quy luật vận động của hội, đã nhìn hội như một
thể sống luôn vận động, biến đổi do những mối liên hệ nội tại của tạo ra;
thấy được vai trò quyết định của điều kiện vật chất, của sở kinh tế nhưng
cũng thấy vai trò hết sức to lớn của kiến trúc thượng tầng chính trị, của
tưởng, văn a... Điều đó đã khắc phục được tưởng duy tâm, siêu hình, lối
nhìn nhận phản biện chứng trước đây. Khái lược điều đó cho thấy các
nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật những nguyên
tắc bản để nhận thức về các mối quan hệ lớn nước ta hiện nay.
5. Vận dụng o sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Cần tôn trọng quy luật khách quan; phát huy tính năng động chủ quan
Mục đích, đường lối, chủ trương đặt ra không được xuất phát từ ý muốn ch
quan phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi tính tất
yếu của đời sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể. Khi đã mục đích,
đường lối, chủ trương đúng; phải tổ chức lực lượng vật chất để thực hiện nó.
Nguyên tắc khách quan đòi hỏi phát huy tính năng động chủ quan, tính sáng
tạo của ý thức, của con người. Tôn trọng tri thức khoa học, luận phản ánh
đúng thế giới khách quan, từ đó tạo khả năng c định hình thành được
mục đích, phương hướng, biện pháp ý chí cần thiết cho hoạt động thực
tiễn của con người. Chống thái độ thụ động, lại bảo thủ, t trệ; chú ý
vai trò của lợi ích bởi nếu phù hợp sẽ thúc đẩy, ngược lại, sẽ cản trở thậm chí
cố tình bóp méo, xuyên tạc chân lý. Chống bệnh chủ quan, duy ý chí, lối nghĩ
đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan. Căn bệnh này xuất hiện
chủ yếu do thiếu kiến thức, luận hoặc kém, hoặc lạc hậu; ít kinh nghiệm.
Tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa ý nghĩa
phương pháp luận bản, vừa yêu cầu tính nguyên tắc trong hoạt động
thực tiễn.
Tại Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Trong quá trình thực hiện các phương
hướng bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững giải quyết tốt các mối
quan hệ lớn: quan h giữa đổi mới, ổn định phát triển; giữa đổi mới kinh tế
đổi mới chính trị; giữa kinh tế th trường định hướng hội chủ nghĩa;
giữa phát triển lực lượng sản xuất y dựng, hoàn thiện từng bước quan
hệ sản xuất hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ công bằng hội; giữa xây dựng chủ nghĩa hội bảo
vệ Tổ quốc hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ hội nhập quốc tế; giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện,
cực đoan, duy ý chí”(4). Việc nắm vững giải quyết các mối quan hệ lớn
những khía cạnh cụ thể để thực hiện mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ
nước ta xây dựng được bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tưởng, văn hóa phù hợp, tạo sở để
nước ta trở thành một nước chủ nghĩa hội ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc.
Đại hội XII của Đảng xác định, một trong c nhiệm vụ tổng quát là: Tiếp tục
quán triệt xử tốt các quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định phát
triển; giữa đổi mới kinh tế đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị
trường bảo đảm định hướng hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng
sản xuất xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất hội chủ
nghĩa; giữa Nhà nước thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ công bằng hội; giữa xây dựng chủ nghĩa
hội bảo vệ Tổ quốc hội chủ nghĩa; giữa độc lập, t chủ hội nhập
quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;...”
Như vậy, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ công bằng hội một trong những mối quan hệ lớn cần
được quán triệt trong nhận thức cũng như giải quyết hiệu quả trong thực
tiễn. Việc nhận thức giải quyết mối quan hệ này cần bảo đảm nguyên tắc
khách quan, toàn diện, phát triển lịch sử - cụ thể.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng hội chủ
nghĩa, tăng trưởng kinh tế, phát triển văn a, thực hiện tiến bộ công bằng
hội những bộ phận quan trọng không thể thiếu, quan hệ thống nhất,
cùng tồn tại, ảnh hưởng qua lại, vừa làm tiền đề vừa làm điều kiện cho
nhau. Trong đó, hội muốn phát triển phải tăng trưởng kinh tế để giải
quyết các nhu cầu vật chất không thể thiếu của con người, mặt khác, tăng
trưởng kinh tế thì mới kh năng huy động các nguồn lực vật chất cho việc
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ công bằng hội.
Thực tế không thể một nền văn hóa phát triển lành mạnh, phong phú
một hội tiến bộ, công bằng trên sở một nền kinh tế yếu kém, suy thoái
hay một nền kinh tế tăng trưởng nóng lấy số lượng tăng trưởng thước đo
duy nhất. Ngược lại, trong một hội đạo đức xuống cấp, tham nhũng,
lãng phí cao, nhiều lao động trình độ học vấn tay nghề thấp, bị lâm vào
cảnh thất nghiệp, nghèo đói...thì cũng không thể kinh tế tăng trưởng nhanh,
hiệu quả cao bền vững.
6. Câu hỏi thường gặp về chủ nghĩa duy vật biện chứng
6.1 Hãy nêu bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng?
Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện việc: Giải quyết duy
vật biện chứng vấn đề bản của triết học; Sự thống nhất giữa chủ nghĩa
duy vật với phép biện chứng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ
nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phương pháp giải thích, nhận thức thế
giới, còn là phương pháp cải tạo thế giới của giai cấp ng nhân trong
quá trình cải tạo xây dựng hội; Quan niệm duy vật về lịch sử cuộc
cách mạng trong học thuyết về hội; Sự thống nhất giữa tính khoa học với
tính cách mạng; luận với thực tiễn tạo nên nh sáng tạo của triết học Mác.
6.2 Hãy kể tên các nguyên tắc của phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng?
Các nguyên tắc của phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng thể
kể đến là: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát
triển, nguyên tắc lịch sử...
6.3 Sự đòi hỏi của nguyên tắc khách quan gì?
Nguyên tắc khách quan đòi hỏi, chủ thể khi nhận thức sự vật, hình tượng cần
phải nắm bắt n vốn trong hiện thực, không ý muốn chủ quan
“tô hồng” hay “bôi đen”, tránh tùy tiện áp đặt cho cái xa lạ với nó.

Preview text:

Nguyên tắc của phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và việc vận dụng nó
vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam
1. Khái niệm chủ nghĩa duy vật biện chứng
C.Mác đã kế thừa tư tưởng về phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm
Friedrich Hegel và lý luận về chủ nghĩa duy vật của Ludwig Andreas von
Feuerbach và phát triển nên phương pháp luận này. Các nhà triết học Marx-
Lenin cho rằng phương pháp duy vật biện chứng là cơ sở triết học cho hệ tư tưởng của họ.
Triết học Mác là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, là hạt nhân
thế giới quan, phương pháp luận của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là
công cụ nhận thức vĩ đại để giai cấp công nhân nhận thức và cải tạo thế giới,
xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công; giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, xây
dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn đó là xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Những cống hiến vĩ đại của C.Mác trong lĩnh vực triết
học đó là tạo nên sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phép biện
chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; làm cho triết học trở thành thế
giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng để giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Trong lịch sử triết học duy vật trước C.Mác đã chứa đựng không ít những hạt
nhân hợp lý. Nhưng do sự hạn chế của điều kiện lịch sử xã hội, trình độ phát
triển của khoa học cho nên tính siêu hình, duy vật về tự nhiên, duy tâm về xã
hội là nhược điểm lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác. Trong khi đó,
phép biện chứng lại bị nhốt trong cái vỏ duy tâm thần bí của triết học cổ điển
Đức, đặc biệt là hệ thống triết học duy tâm, bảo thủ, phản động của
G.V.Ph.Hêghen. Để xây dựng một thế giới quan, phương pháp luận triết học
thực sự khoa học và cách mạng, đem lại cho loài người một công cụ nhận
thức vĩ đại, C.Mác đã tiến hành cải tạo chủ nghĩa duy vật L.Phoiơbắc, phép
biện chứng duy tâm của Hêghen. Công lao của C.Mác trong cải tạo chủ nghĩa
duy vật đã được V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong khi nghiên cứu sâu và phát
triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và
mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người”.
Phép biện chứng là một cống hiến vĩ đại, không thể phủ nhận của C.Mác.
C.Mác đã chủ định nghiên cứu phép biện chứng từ rất sớm. Trong khi thừa
nhận những hạt nhân hợp lý, C.Mác đã chỉ ra thế giới quan duy tâm, lộn
ngược, tính chất bảo thủ, phản động, bất lực trước những vấn đề xã hội và
lịch sử trong phép biện chứng của G.V.Ph.Hêghen. C.Mác đã đặt ra yêu cầu
phải sử dụng phép biện chứng duy vật để phân tích các vấn đề xã hội và lịch
sử. Theo đó, phép biện chứng duy vật của C.Mác khác hẳn về chất so với
phép biện chứng duy tâm của G.V.Ph.Hêghen. Đúng như C.Mác đã khẳng
định: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp của
Hê-ghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa.”(2). Tạo ra
sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng là cống hiến vĩ đại
của C.Mác mà trong lịch sử triết học chưa từng có. C.Mác đã đem lại cho loài
người tiến bộ vũ khí lý luận sắc bén, công cụ nhận thức vĩ đại.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học; là
khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển trong
tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học Mác-Lênin là triết học duy vật, bởi triết
học đó coi ý thức là tính chất của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não
người và nhiệm vụ của bộ não người là phản ánh giới tự nhiên. Sự phản ánh
có tính biện chứng, bởi nhờ nó mà con người nhận thức được mối quan hệ
qua lại chung nhất giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất; đồng
thời nhận thức được rằng, sự vận động và phát triển của thế giới là kết quả
của các mâu thuẫn đang tồn tại bên trong thế giới đang vận động đó.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng - nó là hình thức cao nhất trong các hình thức
của chủ nghĩa duy vật. Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa
duy vật kết hợp với phép biện chứng.
Đặc trưng của phương pháp duy vật biện chứng là coi một sự vật hay một
hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ
với các sự vật và hiện tượng khác.
2. Khái quát về nguyên tắc của phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng
Phương pháp luận biện chứng duy vật được coi là những nguyên tắc xuất
phát chỉ đạo các chủ thể trong việc xác định phạm vi, phương pháp, cách
thức, phương tiện tác động nhằm tạo ra những biến đổi cho phù hợp và hiệu
quả. Vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật trong quán triệt và xử lý
mối quan hệ lớn giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là góp phần định hướng phát triển
đất nước theo hướng bền vững.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác đã tạo ra một bước ngoặt trong triết học,
một trong những biểu hiện nổi bật của cuộc cách mạng này là sự thống nhất
chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật trở thành cơ
sở của thế giới quan và phương pháp luận khoa học, vì nó là một hệ thống lý
luận phản ánh những mối liên hệ, những quá trình biến đổi của bản thân thế
giới hiện thực, căn cứ vào những kết quả khoa học đã được đúc kết, kết hợp
với sự tổng kết, khái quát thực tiễn hoạt động của con người. Phương pháp
luận của phép biện chứng là những kết luận được rút ra từ việc khảo sát các
mối liên hệ của các sự vật, từ quá trình phát sinh, phát triển cụ thể của nó, “từ
các mặt liên hệ, liên kết, vận động, sinh ra và mất đi của các sự vật”. Vì vậy,
phương pháp luận của phép biện chứng duy vật được coi là những nguyên
tắc xuất phát chỉ đạo các chủ thể trong việc xác định phạm vi, phương pháp,
cách thức, phương tiện tác động nhằm tạo ra những biến đổi cho phù hợp và hiệu quả.
Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng
cụ thể chúng ta sẽ đi phân tích ở những mục sau đây...
3. Nguyên tắc khách quan
Với nguyên tắc này, nhận thức về sự vật phải xuất phát từ chính bản thân sự
vật hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó.
Vì vậy, nhận thức cần đạt tới cái bản chất, cái quy luật chi phối sự vật. Đây là
quá trình khó khăn và phải trải qua nhiều giai đoạn, bởi lẽ cái bản chất thể
hiện qua vô vàn các hiện tượng phong phú, đa dạng, phức tạp và luôn vận động, biến đổi.
Bằng thực tiễn, thông qua thực tiễn, kết quả của hoạt động thực tiễn cho
phép đánh giá tri thức ấy có khách quan, đúng đắn hay không. V.I.Lênin viết:
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản
của lý luận về nhận thức”(1).
Vì vậy, trong nhận thức cần tránh thái độ thụ động, chủ quan, bảo thủ, trì trệ,
thiếu tính sáng tạo, mà cần chủ động, tích cực, thông qua hoạt động thực tiễn
của con người để nhận biết đúng các thuộc tính, các cấp độ bản chất, các hệ
thống quy luật chi phối sự vật.
=> Như vậy, nguyên tắc khách quan là điều kiện cần thiết cho mọi nhận thức
khoa học. Nếu nhận thức và phương pháp hoạt động của chủ thể không tôn
trọng quy luật khách quan, nếu hoạt động thực tiễn không tuân theo quy luật
khách quan, chúng ta sẽ phải gánh những kết quả không như mong muốn.
4. Nguyên tắc toàn diện, phát triển và lịch sử 4.1 Nguyên tắc toàn diện
Theo V.I.Lênin đã viết rằng: “Muốn thực sự thấu hiểu được sự vật, cần phải
nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan
hệ gián tiếp” của sự vật đó. Chúng ta không thể làm được điều đó một cách
hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề
phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và sự cứng nhắc”(2). Những chỉ
dẫn trên của V.I.Lênin nhắc nhở con người trong nhận thức, muốn biết chân
tướng của sự vật cần phải xem xét sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các
bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của nó; phải xem xét sự vật,
hiện tượng này trong mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác kể cả khâu trung
gian của nó, phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn để từ đó
thấy được vị trí, vai trò của các mối liên hệ giữa các mặt trong một sự vật,
hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Qua đó, xác định được
những quan hệ trọng tâm trọng điểm cần được giải quyết trong những điều
kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nguyên tắc toàn diện này cũng chỉ ra rằng, một
luận điểm là đúng đắn trong những quan hệ này lại trở thành sai lầm trong
những quan hệ khác, một luận điểm, một hướng đi, một cách làm là đúng đắn,
hữu ích trong điều kiện này lại có thể là không phù hợp, có hại trong điều kiện khác.
4.2 Về nguyên tắc phát triển
Phép biện chứng duy vật chỉ ra rằng, liên hệ là quá trình tác động qua lại - cái
tạo thành “nguyên nhân cuối cùng của mọi sự vận động và biến đổi của sự
vật”. Cho nên, mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng là nguyên
nhân tạo nên sự vận động của chúng. Cũng chính do có mối liên hệ phổ biến
mà trong thế giới khách quan luôn tồn tại xu hướng phát triển không ngừng.
Vật chất không vận động đi tới tiêu vong mà tạo ra sự chuyển hóa (biến đổi)
theo những hướng khác nhau, trong đó có khuynh hướng vận động theo
chiều hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn (gọi là phát triển).
Các chủ thể cần nhận thức và chuẩn bị các điều kiện cần thiết, các phương
pháp hành động cho phù hợp để có được những biến đổi theo chiều hướng
phát triển. Đây là quá trình phức tạp, bởi lẽ, sự biến đổi theo chiều hướng
phát triển của hiện thực là quá trình vận động có tính quy luật nội tại, diễn ra
trong nó, là quá trình phủ định biện chứng, phủ định có kế thừa.
4.3 Về nguyên tắc lịch sử
Xem xét hiện tượng xã hội, V.I. Lênin chỉ dẫn rằng, cần phải “xem xét vấn đề
theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử
như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu
nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành thế nào?”.
Phép biện chứng duy vật không chỉ là một lý luận khoa học cho phép phản
ánh đúng đắn các sự vật, hiện tượng, nó còn là một công cụ sắc bén để mổ
xẻ, phân tích các vấn đề xã hội và tìm ra các giải pháp thích hợp cho từng
giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể. Chính nhờ công cụ sắc bén này, chủ nghĩa
Mác đã tìm ra các quy luật vận động của xã hội, đã nhìn xã hội như một cơ
thể sống luôn vận động, biến đổi do những mối liên hệ nội tại của nó tạo ra;
thấy được vai trò quyết định của điều kiện vật chất, của cơ sở kinh tế nhưng
cũng thấy vai trò hết sức to lớn của kiến trúc thượng tầng chính trị, của tư
tưởng, văn hóa.. Điều đó đã khắc phục được tư tưởng duy tâm, siêu hình, lối
nhìn nhận phản biện chứng trước đây. Khái lược điều đó cho thấy các
nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật là những nguyên
tắc cơ bản để nhận thức về các mối quan hệ lớn ở nước ta hiện nay.
5. Vận dụng vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Cần tôn trọng quy luật khách quan; phát huy tính năng động chủ quan
Mục đích, đường lối, chủ trương đặt ra không được xuất phát từ ý muốn chủ
quan mà phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất
yếu của đời sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể. Khi đã có mục đích,
đường lối, chủ trương đúng; phải tổ chức lực lượng vật chất để thực hiện nó.
Nguyên tắc khách quan đòi hỏi phát huy tính năng động chủ quan, tính sáng
tạo của ý thức, của con người. Tôn trọng tri thức khoa học, lý luận phản ánh
đúng thế giới khách quan, từ đó tạo khả năng xác định và hình thành được
mục đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động thực
tiễn của con người. Chống thái độ thụ động, ỷ lại và bảo thủ, trì trệ; và chú ý
vai trò của lợi ích bởi nếu phù hợp sẽ thúc đẩy, ngược lại, sẽ cản trở thậm chí
cố tình bóp méo, xuyên tạc chân lý. Chống bệnh chủ quan, duy ý chí, lối nghĩ
đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan. Căn bệnh này xuất hiện
chủ yếu là do thiếu kiến thức, lý luận hoặc kém, hoặc lạc hậu; ít kinh nghiệm.
Tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa có ý nghĩa
phương pháp luận cơ bản, vừa là yêu cầu có tính nguyên tắc trong hoạt động thực tiễn.
Tại Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Trong quá trình thực hiện các phương
hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối
quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa;
giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện,
cực đoan, duy ý chí”(4). Việc nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn là
những khía cạnh cụ thể để thực hiện mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ ở
nước ta là xây dựng được cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để
nước ta trở thành một nước chủ nghĩa xã hội ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Đại hội XII của Đảng xác định, một trong các nhiệm vụ tổng quát là: “Tiếp tục
quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát
triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị
trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;...”
Như vậy, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một trong những mối quan hệ lớn cần
được quán triệt trong nhận thức cũng như giải quyết có hiệu quả trong thực
tiễn. Việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ này cần bảo đảm nguyên tắc
khách quan, toàn diện, phát triển và lịch sử - cụ thể.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội là những bộ phận quan trọng không thể thiếu, có quan hệ thống nhất,
cùng tồn tại, có ảnh hưởng qua lại, vừa làm tiền đề vừa làm điều kiện cho
nhau. Trong đó, xã hội muốn phát triển phải có tăng trưởng kinh tế để giải
quyết các nhu cầu vật chất không thể thiếu của con người, mặt khác, tăng
trưởng kinh tế thì mới có khả năng huy động các nguồn lực vật chất cho việc
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Thực tế không thể có một nền văn hóa phát triển lành mạnh, phong phú và
một xã hội tiến bộ, công bằng trên cơ sở một nền kinh tế yếu kém, suy thoái
hay một nền kinh tế tăng trưởng nóng lấy số lượng tăng trưởng là thước đo
duy nhất. Ngược lại, trong một xã hội mà đạo đức xuống cấp, tham nhũng,
lãng phí cao, nhiều lao động có trình độ học vấn và tay nghề thấp, bị lâm vào
cảnh thất nghiệp, nghèo đói...thì cũng không thể có kinh tế tăng trưởng nhanh,
hiệu quả cao và bền vững.
6. Câu hỏi thường gặp về chủ nghĩa duy vật biện chứng
6.1 Hãy nêu bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng?
Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện ở việc: Giải quyết duy
vật biện chứng vấn đề cơ bản của triết học; Sự thống nhất giữa chủ nghĩa
duy vật với phép biện chứng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật biện chứng không chỉ là phương pháp giải thích, nhận thức thế
giới, mà còn là phương pháp cải tạo thế giới của giai cấp công nhân trong
quá trình cải tạo và xây dựng xã hội; Quan niệm duy vật về lịch sử là cuộc
cách mạng trong học thuyết về xã hội; Sự thống nhất giữa tính khoa học với
tính cách mạng; lý luận với thực tiễn tạo nên tính sáng tạo của triết học Mác.
6.2 Hãy kể tên các nguyên tắc của phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng?
Các nguyên tắc của phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng có thể
kể đến là: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát
triển, nguyên tắc lịch sử...
6.3 Sự đòi hỏi của nguyên tắc khách quan là gì?
Nguyên tắc khách quan đòi hỏi, chủ thể khi nhận thức sự vật, hình tượng cần
phải nắm bắt nó như nó vốn có trong hiện thực, không vì ý muốn chủ quan
mà “tô hồng” hay “bôi đen”, tránh tùy tiện áp đặt cho nó cái xa lạ với nó.
Document Outline

  • Nguyên tắc của phương pháp luận của chủ nghĩa duy
    • 1. Khái niệm chủ nghĩa duy vật biện chứng
    • 2. Khái quát về nguyên tắc của phương pháp luận ch
    • 3. Nguyên tắc khách quan
    • 4. Nguyên tắc toàn diện, phát triển và lịch sử
      • 4.1 Nguyên tắc toàn diện
      • 4.2 Về nguyên tắc phát triển
      • 4.3 Về nguyên tắc lịch sử
    • 5. Vận dụng vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam
    • 6. Câu hỏi thường gặp về chủ nghĩa duy vật biện ch
      • 6.1 Hãy nêu bản chất của chủ nghĩa duy vật biện ch
      • 6.2 Hãy kể tên các nguyên tắc của phương pháp luận
      • 6.3 Sự đòi hỏi của nguyên tắc khách quan là gì?