Nhà Mạc có thực sự đúng đắn trong đường lối ngoại giao - Lịch sử ngoại giao Việt Nam | Học viện Ngoại giao Việt Nam
Mặc dù chỉ có 65 năm nắm triều chính, nhà Mạc đã để lại nhiều thành tựu và chiến tích vẻ vangtrong lịch sử phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên, đối với các chính sách ngoại giao, đặc biệt là vớinhà Minh, người ta vẫn đặt ra một câu hỏi lớn “Liệu nhà Mạc có thực sự đúng đắn trong đườnglối ngoại giao?”
Môn: Lịch sử ngoại giao Việt Nam (IR.001.02)
Trường: Học viện Ngoại giao
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
00:41 7/8/24 NHÀ MẠC - abc
Mặc dù chỉ có 65 năm nắm triều chính, nhà Mạc đã để lại nhiều thành tựu và chiến tích vẻ vang
trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên, đối với các chính sách ngoại giao, đặc biệt là với
nhà Minh, người ta vẫn đặt ra một câu hỏi lớn “Liệu nhà Mạc có thực sự đúng đắn trong đường lối ngoại giao?”
Đầu thế kỷ XVI, nhà Lê sơ sau một thời gian phát triển cực thịnh đã bắt đầu suy thoái. Đặc biệt
là chỉ trong 21 năm cuối triều đại Sơ Lê đã thay đổi 5 đời vua. Cuộc nội chiến giữa các tướng
quân phiệt, phe phái diễn ra liên miên, làm cho nhân dân khắp nước điêu đứng, khổ cực nhưng
cũng đã mở đường cho Mạc Đăng Dung, một người có tài thao lược thâu tóm quyền binh, giữ
chức Thái sư đứng đầu triều đình. Sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, Mạc Đăng
Dung đã ép vua Lê Cung Hoàng nhà Hậu Lê nhường ngôi tháng 6 năm 1527. Việc nhà Mạc thay
thế một nhà Hậu Lê không còn đủ năng lực và bị thiên hạ chán ghét được nhiều nhà sử học đánh
giá là hợp quy luật hưng vong của lịch sử. Nếu dòng họ Mạc không nổi dậy thì các dòng họ thế
tộc khác cũng làm điều tương tự trong bối cảnh lúc đó. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, nhà
Mạc nắm triều chính chỉ có 65 năm (1527 - 15922) và có 5 vị vua trị vì.
Trong bối cảnh đó, các Hoàng đế Trung Hoa luôn đón lấy những cơ hội thuận lợi để đưa quân
xâm chiếm phương Nam. Với hành động “cướp ngôi” của mình, họ Mạc dễ bị Trung Hoa “hỏi
tội”. Âm mưu của chúng là nhân tình hình nước ta rối ren, có nội chiến, lấy cớ "phù Lê diệt
Mạc" như đã dùng dưới thời Hồ khi xâm lược nước ta lần này.
Nhìn chung, đối ngoại và quan hệ với Trung Hoa của nhà Mạc được chia thành 2 giai đoạn: giai
đoạn 1 (1527 - 1541) và giai đoạn 2 (1541 - 1592). Giai đoạn 1 là thời kỳ nhà Lê suy yếu, Mạc
Thái Tổ lợi dụng sự kiện đó để lên ngôi lập nên nhà Mạc và từ đây trở thành dấu mốc quan trọng
đặt nền móng ngoại giao giữa nhà Mạc và nhà Minh. Đây cũng là thời kì mâu thuẫn Lê - Mạc
diễn ra căng thẳng vì nhà Lê liên tục cầu cứu viện trợ và giúp đỡ từ nhà Minh, trong khi nhà
Minh cũng đã có ý định thâu tóm Đại Việt nên vua Minh được nước lấn tới, khiến sự kiện năm
1540 là nhà Mạc tự nguyện hiến đất cho nhà Minh để cầu hòa xảy ra. Tiếp theo trong những năm
ở giai đoạn thứ 2, nhà Mạc lúc này đã có những hoạt động làm mối quan hệ với nhà Minh trở
nên tốt đẹp hơn, ví dụ như cầu phong. Nhà Mạc phải liên tục hiến những vật quý, của lạ cho nhà
Minh, từ đó mà sinh ra hoạt động triều cống, lễ sính. Sau khi đã có được sự tin tưởng của nhà
Minh, nhà Mạc xin lại những vùng đất đã mất những năm về trước và được chấp thuận. Nói tóm
lại, trong giai đoạn thứ 2 này nhà Mạc đã cố gắng xây dựng mối quan hệ hòa hiếu với Trung Hoa. A. Giai đoạn 1527 – 1541
Quan hệ ngoại giao giữa nhà Mạc và Trung Quốc đã căng thẳng, nay lại càng căng thẳng hơn khi
Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Lên ngôi chưa được bao lâu, nhà Mạc đã phải nghĩ cách để about:blank 1/6 00:41 7/8/24 NHÀ MẠC - abc
đối phó và ứng xử với nhà Minh vì hòa hiếu với Trung Hoa là quốc sách. Hơn nữa, lúc bấy giờ
nhà Minh cho rằng nhà Mạc vừa “giết vua, cướp ngôi” nên dễ đem quân hỏi tội. Và có lẽ nhà
Mạc sợ sẽ lặp lại sự thất bại của nhà Hồ - vương triều đã thất bại trong cuộc chiến tranh với
Thiên triều Trung Hoa vào đầu thế kỷ XV.
Không thể tránh khỏi, sau năm 1527, đế chế Trung Hoa đã lên kế hoạch “thảo phạt” Mạc Đăng
Dung. Đồng thời, các thế lực nhà Lê cũng nổi dậy khắp nơi với mục đích tiêu diệt họ Mạc, lấy
lại những gì đã mất. Bất lợi từ nhiều phía, nhà Mạc đã không tìm cách nhún nhường, không giao
chiến với nhà Minh nhằm hạn chế hao người, tốn của, bằng con đường bang giao. Vào tháng 2
năm Mậu Tý (1528), nhà Mạc cử 1 đoàn sứ bộ sang Yên Kinh để thuyết phục nhà Minh tin vào
những lời biện hộ của mình rằng: “Con cháu họ Lê không còn ai thừa tự nữa, thuộc sứ đại thần
là họ Mạc tạm trông coi việc nước, cai trị dân chúng,…” (Toàn thư). Tuy nhiên, nhà Minh không
tin tưởng, liền cho sứ giả sang điều tra hành động cướp ngôi của nhà Mạc, đồng thời ngầm tìm
con cháu họ Lê để tái lập. Nhà Mạc đã khôn khéo, đón tiếp sứ giả điều tra nồng hậu, còn đem
tặng nhiều vàng bạc để đút lót. Sứ giả nhận vàng bạc, về tâu lại với vua Minh rằng con cháu họ
Lê quả là không còn ai nữa, đã ủy thác cho họ Mạc cầm quyền; người trong nước đều tôn phục
họ Mạc, đồng thời xin tha tội cho họ Mạc. Đây là một sự kiện quan trọng đáng kể trong bang
giao giữa hai nước, vì đây là lần đầu tiên nhà Mạc cử sứ thần sang Trung Hoa, đặt cơ sở cho mối
quan hệ giữa hai vương triều.
Đứng trước thái độ ấy của Minh triều, “Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn lập mưu cắt đất
dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai tượng người bằng vàng và bạc cùng châu báu, của
lạ, vật lạ. Vua Minh thu nhận. Từ đấy Nam Bắc thông sứ đi lại” (Đại Việt sử kí toàn thư). Vấn đề
này đã gây ra rất nhiều tranh cãi và chúng ta cần làm sáng tỏ. Thực chất, hai châu ấy là châu Quy
Hóa và châu Thuận An. Hai châu này đã thuộc về nhà Tống, nhà Nguyên, và sau là nhà Minh.
Do đó, đến thời nhà Mạc, hai châu Quy và Thuận vẫn là đất thuộc quyền sở hữu của Trung
Quốc, nằm trên địa phận tỉnh Quảng Tây. Vì vậy, việc khẳng định nhà Mạc cắt đất dâng cho nhà
Minh vào năm 1528 như sứ thần nhà Lê – Trịnh ghi là một sự nhầm lẫn. Đó chỉ là hành động trả
lại vùng đất vốn từ lâu đã không còn thuộc về Đại Việt nữa mà thôi.
Năm Kỷ Sửu (1529), sách Đại Việt thông sứ cho biết, bề tôi cũ của triều Lê là hai anh em Trịnh
Ngung -Trịnh Ngang chạy sang triều Minh tố cáo Mạc Đăng Dung cướp nước, đồng thời xin
viện binh để đánh dẹp nhà Mạc. Nhưng vì Mạc triều đem nhiều lễ đút lót bầy tôi nhà Minh ở nơi
biên thùy nên ý định đó đã không thành. Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” chép
là đút lót cho biên thần nước Minh, có nghĩa là các viên quan đứng đầu các tỉnh phía nam Trung
Quốc, chủ yếu là Lưỡng Quảng. Có lẽ sau sự kiện này, tình hình quan hệ Mạc – Minh tạm thời yên ổn.
Vào năm 1534, nhà Minh đã sai Hàm Ninh hầu Cừu Loan và Binh bộ Thượng thư Mao Bá Ôn
dẫn quân đến biên giới, tuyên bố tiến đánh họ Mạc. Để đối phó, Mạc Thái Tông đã chủ động
chuẩn bị sẵn sàng ứng chiến khi chiến tranh xảy ra. Ông cho “tu sửa trại sách, luyện tập thủy about:blank 2/6 00:41 7/8/24 NHÀ MẠC - abc
quân, trưng cầu hết thảy các cựu thần lão tướng để cùng bàn việc nước” (Lê Quý Đôn (1978),
Đại Việt thông sử, Tlđd, tr.277).
Nhưng rồi quan hệ Mạc – Minh lại trở nên căng thẳng hơn khi vào tháng 2 năm 1537, vua Lê
Trang Tông sai Trịnh Duy Liêu sang Minh triều trình bày về việc cướp ngôi, giết vua của Mạc
Đăng Dung. Khi nghe tin đó, Mạc Thái Tổ liền sai người đến Vân Nam đưa thư trình báo, thanh
minh, nhưng triều đình nhà Minh cho lời đó là dối trá, không đúng sự thật, “tiếp tục cho đạo
quân của tướng Cừu Loan tiến sát biên thùy, nhưng do dự chưa tiến vào” (Đại Việt thông sử,
tr271). Từ đây, mối quan hệ giữa nhà Minh và nhà Mạc ngày càng trở nên căng thẳng.
Tháng 4 năm 1537, Thượng thư bộ Lễ và Thượng thư bộ Binh nhà Minh bàn bạc để chuẩn bị
cuộc viễn chinh trừng phạt nhà Mạc, cùng định tội Mạc Thái Tổ. Thậm chí, vua quan nhà Minh
còn treo thưởng khắp nơi cho ai bắt được cha con Mạc Thái Tổ. Đồng thời, chọn những người có
tài năng, thích hợp để sử dụng, điều động binh lương. (Hồ Bạch Thảo, Minh thực lực: Quan hệ
Trung Quốc – Việt Nam thế kỉ XIV – XVII, Tập 3, Nxb Hà Nội, tr.187 – 188). Tuy nhiên, lúc bấy
giờ, bản thân nội bộ nhà Minh lại có sự phân hóa thành hai phe chủ hòa và chủ chiến nên việc cử
binh tạm thời đình lại. Đến tháng 3 năm 1538, nhà Minh mới quyết định tiếp tục cử Hàm Ninh
hầu Cửu Loan làm Tổng đốc quân vụ, Mao Bá Ôn làm Tổng đốc tham tán “được tiện nghi hành
sự”, chỉ huy đạo quân chinh phạt họ Mạc. Đứng trước nguy cơ bị đánh từ hai phía: nhà Minh
chuẩn bị tiến đánh từ phía Bắc xuống, và quân đội nhà Lê từ Thanh Hóa sẵn sàng đánh ra Thăng
Long, Mạc Đăng Dung phải bằng mọi cách thoát ra khỏi tình trạng bế tắc đó. Mạc Đăng Dung ở
vào thế bắt buộc phải hòa với nhà Minh để đối phó với phía ủng hộ nhà Lê ở phía Nam. Vào năm
1538, Mạc Thái Tông đã sai nhóm Nguyễn Văn Thái mang thư sang Vân Nam, nhờ quan trấn
thủ nhà Minh giúp nhưng nhà Minh cho là dối trá, không đúng sự thật (Quốc sử quán triều
Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.112).
“Mậu tuất năm thứ 6 (1538), mùa xuân, họ Mạc sai Nguyễn Văn Thái sang nước Minh dâng biểu
xin hàng và xin xét xử” (Đại Việt sử ký toàn thư). Tuy nhiên, chuyến đi sứ này chắc chắn không
đạt được kết quả gì vì sau đấy nhà Minh vẫn tiếp tục điều động quân đội xuống phía Nam. Vào
tháng 9 năm 1540, Cừu Loan và Mưu Bá Ôn đã kéo quân đến Quảng Tây, áp sát biên giới Đại
Việt. Đồng thời truyền đi sắc lệnh cho Đại Việt rằng: “Nếu ai mang quận huyện đến hàng sẽ
được giao cho cai quản chính quận huyện đó; giết hoặc bắt cha con Mạc Đăng Dung đến hàng
được thưởng 20000 vàng”, nếu “cha con Đăng Dung quả muốn trói tay chịu tội, nạp đủ số hộ
tịch nhân dân, nạp cống, tuân theo mệnh, sẽ được tha tội chết.”
Nhà Minh đã sử dụng đồng thời cả hai phương thức: vừa sử dụng sức mạnh quân sự nhằm khoa
trương thanh thế và đe dọa, trấn áp tinh thần đối phương; vừa tìm cách dụ dỗ mua chuộc để nhà
Mạc quy thuận nếu không muốn chiến tranh xảy ra. Điều này đã đặt nhà Mạc trước hai sự lựa
chọn là chiến tranh với nhà Minh hoặc nhún nhường quy thuận để tránh chiến tranh.
Mạc Đăng Dung đã chấp nhận “khổ nhục kế”, tức tự trói mình lại đầu hàng, mong đạt 1 mục
đích cuối cùng là quân đội Cừu Loan, Mao Bá Ôn rút binh. Khách quan mà xét, nếu cuộc chiến about:blank 3/6 00:41 7/8/24 NHÀ MẠC - abc
Mạc – Minh xảy ra thì chắc chắn không chỉ họ Mạc bị diệt như họ Hồ trước đây, mà quan trọng
hơn, người dân Đại Việt cũng sẽ phải đổ xương máu một cách vô ích. Đại Việt sử ký toàn thư cho
biết: “Ngày 20/10/1541,bọn Mao Bá Ôn về Yên Kinh tâu nói rằng: Mạc Đăng Dung tự trói mình
dâng lễ hàng ở cửa ải, xin tuân theo chính sóc, tước bỏ tiếm hiệu, trả lại đất 4 động đã xâm
chiếm, xin nội phụ xưng thân, hằng năm ban cho lịch đại thống, bù đủ số lễ vật cống hiến hàng
năm, cúi mình kính thuận”. Hành đ ng ộ
cắt đất này gây ra rất nhiều tranh cãi. Tuy nhiên sau này
cũng có nhiều nhà sử gia nhận định rằng đây là m t
ộ hành động khôn ngoan, khéo léo trong
đường lối ngoại giao của nhà Mạc. Chính sử nhà Minh ghi nhận rằng Mạc Đăng Dung đã dâng
những tên đất không có thực, hoặc là đất vốn có của nhà Minh. Vậy nên nhà Mạc khi ấy là giả vờ
thần phục để có được sự độc lập thực sự cho đất nước. Kết quả là tránh được cho đất nước m t ộ
cuộc xâm lược của 22 vạn quân Minh.
Sau sự việc tự trói mình ở Trấn Nam Quan, trở về Cổ Trai, trấn Hải Dương, chẳng bao lâu thì
Mạc Đăng Dung từ trần vào ngày 22/08/1541. Như vậy, vào cuối đời khi tuổi đã già, sức đã yếu,
Mạc Đăng Dung đã cố gắng gánh chịu nỗi nhục nhã để con cháu ông tránh khỏi tai họa của một
cuộc chiến tranh khốc liệt. Với hành động chịu nhẫn nhục của mình, Mạc Đăng Dung không chỉ
tạo cho các tướng Cừu Loan, Mao Bá Ôn cái cớ để rút quân mà còn làm dịu đi tâm trạng của vị
Hoàng đế Trung Hoa lúc nào cũng sẵn sàng cử binh thảo phạt các nước chư hầu. Sau sự việc này,
quan hệ Mạc – Minh bước vào một thời kỳ mới: thời kỳ hai nước thông hiếu, tuế cống và thăm hỏi lẫn nhau. B. Giai đoạn 1541- 1592
Trong hoạt động triều cống, đối với các đời vua Việt Nam, việc được “thiên triều” Trung Hoa
công nhận và sắc phong được coi là vô cùng hệ trọng. Các vị vua Nhà Mạc cũng vậy, đặc biệt là
Mạc Thái Tổ cũng không tránh khỏi thông lệ của lịch sử.
Trong suốt thời kỳ đầu thành lập vương triều Mạc tới trước năm 1540, nhà Minh chưa thừa nhận
sự tồn tại chính thức của vương triều Mạc tại Đại Việt, bản thân Mạc Thái Tổ và triều đình Mạc
luôn vấp phải những hành động chống đối của nhà Minh. Bởi vậy, cho đến năm 1540, nhà Mạc
mang hàng biểu sang Yên Kinh cầu phong có được sự thừa nhận chính thức từ vương triều nhà
Mạc vào năm 1541. Trong thời kì này, sau sự kiện ở Trấn Nam quan cuối năm 1540, Minh Thế
Tông hạ chiếu tha tội cho cha con Mạc Đăng Dung nhưng đổi Quốc hiệu nước An Nam thành
An Nam Đô thống sứ ty. Cụ thể, Mạc Thái Tổ được phong làm Đô Thống sứ, ấn bạc nha môn
Tòng nhị phẩm, ấn khắc chữ An Nam Đô thống sứ ty. Hàng năm, quan lại Quảng Tây thay mặt
triều đình nhà Minh ban lịch Đại Thống cho nhà Mạc. Khi tờ chiếu và ấn của nhà Minh đưa đến
triều đình vào năm 1541 thì lúc này Mạc Đăng Dung đã băng hà. Mạc Phúc Hải, hay Mạc Hiến
Tông, sai người sang báo tang tại quân môn Lăng Quảng và xin nối chức. Nhà Minh chấp thuận.
Tổng quát, có tổng cộng 4 đời vua Mạc được nhận sắc phong của nhà Minh. about:blank 4/6 00:41 7/8/24 NHÀ MẠC - abc
Bên cạnh việc sách phong, một hoạt động khác cũng vô cùng quan trọng trong quan hệ bang giao
Mạc - Minh nói riêng và quan hệ bang giao Việt - Trung nói chung là hoạt động triều cống, lễ sính.
Phân tích rõ hơn về cống phẩm, thì đây là những vật phẩm mà nước nhỏ cống cho nước lớn, các
nước chư hầu cống cho thiên triều của mình. Đối với Trung Hoa, ngoài các vật cống phẩm như
vàng, bạc, châu báu thì những cống phẩm còn lại sẽ ít được để ý. Tuy giá trị cống phẩm không
nhiều khi so sánh với những gì các nước chư hầu được nhận, nhưng đây vẫn là một hoạt động
thông lệ và diễn ra đều đặn. Nếu như các nước chư hầu không còn triều cống thiên triều thì đồng
nghĩa quan hệ ngoại giao giữa hai nước không còn êm ấm, có thể dẫn tới chiến tranh.
Ngay từ hoạt động bang giao đầu tiên giữa nhà Mạc và nhà Minh, Mạc Thái Tổ đã dâng lễ sính
cho Trung Hoa và xem đó là một trong những phương thức để thiết lập quan hệ hòa hiếu giữa đôi
bên. Vào năm 1528, Mạc Thái Tổ dâng cho nhà Minh “hai châu Quy, Thuận”, “hai tượng người
bằng vàng và bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua Minh thu nhận, từ đấy Nam Bắc thông sứ đi
lại”. Có thể nói, đây là một bước ngoặt lớn trong quan hệ ngoại giao nước ta thời kì đó, thúc đẩy
giao thương, giao lưu văn hóa. Cho đến năm 1540, Mạc Thái Tổ cùng bầy tôi dâng biểu xin
hàng, từ ấy quy định cụ thể cho hoạt động tiến cống bắt đầu được ban hành. Cụ thể: Bắt đầu từ
năm 1542, nhà Mạc chính thức thực thi nhiệm vụ triều cống, nối lại mối quan hệ với Minh triều
sau nhiều năm bị gián đoạn; Cống theo định lệ 3 năm 1 lần. Đến cuối triều Mạc, nhà Mạc phải
triều cống thêm 8 lần nữa, tuy nhiên nhiều lần trong số đó, nhà Mạc tiến hành cống gộp. Tiêu
biểu, năm 1584, Mạc Mậu Hợp sai sứ thần sang cống nhà Minh và đề nghị nhà Minh cho gộp 2
kì cống trong 6 năm làm một, sau đó đi tới thỏa thuận “6 năm 1 lần cống 2 lễ” (Lục niên lưỡng
cống). Ta thấy rằng, nhà Mạc đã rất khôn khéo trong ngoại giao, thỏa thuận được một chính sách
có thể nói là sáng giá, góp phần củng cố mối quan hệ hòa hiếu giữa đôi bên.
Từ sau năm 1540, nhà Mạc đã thành công đòi lại được những vùng đất đã rơi vào tay Trung
Quốc. Năm 1580, nhà Minh cắt trả cho Đại Việt 6 giáp, 12 thôn ở Lôi Động, Quy Thuận. Trong
vấn đề biên giới, nhà Minh tỏ rõ thái độ tôn trọng nhà Mạc, không tùy tiện áp đặt ý muốn hay
tìm cách trấn áp, đe dọa nữa. Tiếp đó, đến ngày 12/10/1586, theo Minh sử, triều Minh đã tiếp tục
trả cho Đại Việt 120 thôn cùng với thôn Ngân Giang, Long Phố, Ba Mễ và Cô Cổ, đưa tổng số
đất đai mà nhà Minh trả cho nhà Mạc trong giai đoạn này là 6 giáp và 136 thôn.
Việc duy trì mối quan hệ hữu nghị của các nước là yêu cầu số một nhằm bảo vệ vững chắc biên
giới lãnh thổ, kể cả khi phải đối mặt với những lực lượng hùng mạnh muốn xâm chiếm nước ta.
Rút kinh nghiệm từ nhà Hồ, họ Mạc đã có nhiều chính sách ngoại giao khôn ngoan song cũng
hết sức thận trọng đối với Trung Hoa để kiên quyết không khuất phục và bảo vệ vững chắc biên
giới của Đại Việt trước cuộc xâm lấn của quốc gia này. Bên cạnh đó, còn có lực lượng quân sự
của Lão Qua và Xạ Lí, Bát Bách sẵn lòng phối hợp với nhà Minh nhưng họ Mạc đã dùng chiến about:blank 5/6 00:41 7/8/24 NHÀ MẠC - abc
thuật vừa đánh vừa hòa. Chỉ một bước đi sai lầm sẽ đưa vào tình trạng quốc gia hỗn loạn bởi giặc
ngoại xâm và xung đột chính trị.
Hay như hiện tại, Việt Nam cũng đang làm rất tốt trong công tác đối ngoại với Trung Quốc, cố
gắng duy trì quan hệ hữu nghị giữa đôi bên. Ngày nay, công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo
Việt Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi tham vọng bành trướng của Trung Quốc, mong muốn
nuốt trọn Biển Đông. Mỗi ngày trên báo chí tràn ngập các thông tin về nhiều vụ việc tàu đánh cá
của ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm chìm, ngư cụ bị tịch thu, thiết bị bị bắn phá; đồng
thời Trung Quốc quân sự hoá một số đảo trong quần đảo Trường Sa và hướng tới tuyên bố thành
lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ) trên vùng trời Biển Đông. Việt Nam giữ thái độ trung
lập, sẵn sàng "hợp tác" với nước đàn anh trong khối xã hội chủ nghĩa trong vấn đề giải quyết
tranh chấp lãnh thổ song phương và đa phương. Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc cũng bị
ngăn cấm, tương tự như chính sách nhà Mạc đã áp dụng với nhà MinhMinh. about:blank 6/6