NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI
I. NHÀ NƯỚC:
1. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước:
a) Nguồn gốc:
- V. I. Lênin đã từng khẳng định rằng:
“Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về
mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được,
thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: Sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ
rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được.”
- Để chứng tỏ thực hư cho câu nói này thì chúng ta hãy quay lại vào
giai đoạn cuối của xã hội cộng sản nguyên thủy:
Trong xã hội lúc này, lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến xuất hiện
sản phẩm dư thừa tương đối, từ đó xuất hiện chế độ tư hữu (chế độ tư
hữu được hiểu là việc chiếm hữu riêng của một số bộ phận giai cấp vì
mục đích cá nhân). Lúc này, sự bất bình đẳng, sự phân hóa giai cấp
diễn ra phổ biến nên đã xuất hiện giai cấp thống trị và giai cấp bị thống
trị. Từ đó, quan hệ áp bức bóc lột dần thay thế cho quan hệ bình đẳng ,
dân chủ công xã thay bằng nền độc tài. Thế nên, các cuộc đấu tranh
nổi dậy của giai cấp bị trị diễn ra thường xuyên. Để bảo vệ quyền lực
của mình, giai cấp thống trị buộc phải dùng bạo lực để đàn áp.
- Việc đó đã tạo ra tiền đề kinh tế và tiền đề xã hội cho sự xuất hiện
của nhà nước.
- Cuộc đấu tranh đầu tiên mang tính quyết liệt này giữa 2 giai cấp chủ
nô và giai cấp nô lệ thời cổ đại dẫn đến sự ra đời của nhà nước.
Vậy: Có 2 nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước, đó là:
- Nguồn gốc sâu xa là sự phát triển lực lượng sản xuất : lực lượng sản
xuất phát triển dẫn đến xuất hiện sản phẩm dư thừa tương đối, từ
đó xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và của cải dẫn đến
việc xã hội có giai cấp.
- Nguyên nhân trực tiếp là do mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp gay
gắt không thể điều hòa được: nhà nước ra đời là một tất yếu khách
quan để “làm dịu” sự xung đột giai cấp, để duy trì xã hội trong vòng
“trật tự” mà ở đó, lợi ích và địa vị của giai cấp thống trị được đảm
bảo.
b) Bản chất của nhà nước:
- là một tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm
bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác.
- V.I.Lênin từng nói: “Nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là
một cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác;
đó là sự kiến lập một “trật tự”, trật tự này hợp pháp hóa và củng cố
sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp.”
- Bản chất nhà nước là nền chuyên chính của giai cấp này đối với giai
cấp khác và đối với toàn xã hội.
- Nhà nước mang tính giai cấp, tính trần tục và tính lịch sử : Sự ra đời,
tồn tại, thay đổi và mất đi của nhà nước gắn liền với sự ra đời, tồn
tại, thay đổi và mất đi của chế độ tư hữu.
- Ví dụ:
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, bản chất của nhà nước là công cụ bạo
lực của giai cấp chủ nô nhằm áp bức nô lệ.
Trong xã hội phong kiến, bản chất của nhà nước là bộ máy bạo lực
của giai cấp phong kiến nhằm thống trị nông nô và toàn thể xã hội.
Nhà nước của giai cấp tư sản có bản chất là công cụ trấn áp của tư
sản đối với giai cấp vô sản…
- Qua đó ta thấy: nhà nước dù tồn tại dưới hình thức nào thì cũng phản ánh và
mang bản chất của giai cấp.
2. Đặc trưng và chức năng cơ bản của nhà nước:
a) Đặc trưng cơ bản của nhà nước:
- V.I Lênin trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng nhắc lại quan điểm
của Ph.Ăngghen rằng, nhà nước thường có ba đặt trưng cơ bản:
- Một là, nhà nước quản lý cư dân trên một vùng lãnh thổ nhất định:
cư dân của nhà nước không chỉ tồn tại quan hệ huyết thống mà còn
tồn tại trên cơ sở quan hệ ngoài huyết thống. Đó là quan hệ kinh tế,
quan hệ xã hội, quan hệ chính trị,…giữa các thành phần cư dân
trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Hình thành biên giới quốc gia
giữa các nhà nước có tư cách là một quốc gia- dân tộc. Trong cộng
đồng nhà nước( quốc gia- dân tộc) có thể tồn tại nhiều giai cấp, tầng
lớp, thành phần xã hội. Có những nhà nước( quốc gia- dân tộc) ngày
nay, ngoài giai cấp, tầng lớp xã hội vẫn còn tồn tại cộng đồng thị
tộc, bộ lạc, bộ tộc. Về nguyên tắc, quyền lực nhà nước có hiệu lực
với tất cả thành viên, tổ chức tồn tại trong phạm vi biên giới quốc
gia. Việc xuất nhập cảnh do nhà nước quản lý.
- Hai là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp
mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên. V.I Lênin, trong tác
phẩm Nhà nước và cách mạng cho rằng, các cơ quan quyền lực giúp
nhà nước thực hiện chức năng trấn áp sự phản kháng của các giai
cấp khác là: ‘’Những đội vũ trang đặt biệt, trong tay có những nhà
tù, v,v,..,‘’đội vũ trang đặt biệt’’ ngoài quân đội nhà nghề còn có
cảnh sát vũ trang, và những cơ quan cưỡng bức, những cơ quan
hành chính thực hiện chức năng cai trị,… để buộc người khác phải
phục tùng ý chí của giai cấp cầm quyền là ‘’là những công cụ vũ lực
chủ yếu của quyền lực nhà nước’’.
Nhà nước quản lý xã hội dựa vào pháp luật là chủ yếu. Bằng hệ
thống pháp luật nhà nước sử dụng phương thức ‘’cưỡng bức’’ mọi cá
nhân, tổ chức trong xã hội phải thực hiện các chính sách theo hướng có
lợi cho giai cấp thống trị. Bộ máy chính quyền từ trung ương đến cơ sở
là công cụ triển khai thực hiện những chính sách của nhà nước. Bộ máy
này được nhà nước trả lương từ các nguồn thu trong ngân sách, do đó
thường trung thành với giai cấp thống trị. Quyền lực nhà nước không
thuộc về nhân dân mà thuộc về giai cấp thống trị, ngày càng xa rời
nhân dân, đối lập với nhân dân.
- Ba là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền.
V.I.Lênin cho rằng, muốn duy trì ‘’quyền lực xã hội đặc biệt, đặt lên
trên xã hội, thì phải có thuế và quốc trái’’. Ph.Ăngghen viết: ‘’Để duy
trì quyền lực công cộng đó, cần phải có sự đóng góp của công dân,
đó là thuế má’’. Và, ‘’ nắm được quyền lực công cộng và quyền thu
thuế, bọn quan lại, với tư cách là những cơ quan của xã hội, được
đặt lên trên xã hội’’.
Như vậy, để duy trì để duy trì sự thống trị của mình, giai cấp
thống trị trước hết phải đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà nước.
Mà muốn bộ máy nhà nước hoạt động thì phải có nguồn tài chính.
Nguồn tài chính được nhà nước huy động chủ yếu là do thu thuế,
sau đó là quốc trái thu được do sự cưỡng bức hoặc do sự tự nguyện
của công dân.
b) Chức năng cơ bản của nhà nước:
- Nhà Nước về bản chất là công cụ thống trị của giai cấp thống trị.
Nhà nước đồng thời thực hiện nhiều chức năng như: chức năng
thống trị và chức năng xã hội, chức năng đối nội và chức năng đối
ngoại, chức năng kinh tế, chức năng văn hoá, chức năng giáo dục.
- Đầu tiên là Chức năng thống trị chính trị: chức năng này chịu sự quy
định bởi tính giai cấp của nhà nước. Do bản chất giai cấp nhà nước
bao giờ cũng đặc chức năng thống trị chính trị của mình lên hàng
đầu, vì thế nên chức năng thống trị chính trị của nhà nước giữ vai trò
quyết định.
đây là công cụ thống trị của giai cấp cầm quyền, nhà nước sử dụng
bộ máy quyền lực, thông qua hệ thống chính sách và pháp luật để
duy trì sự thống trị của mình; đàn áp sự phản kháng của các giai
cấp, tầng lớp khác nhằm bảo vệ quyền lợi và địa vị của giai cấp
mình.
- Tuy nhiên để duy trì trật tự xã hội nhà nước của giai cấp thống trị
còn phải thực hiện chức năng xã hội của mình. Nhân danh xã hội,
nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội, điều hành các công việc
chung (giao thông, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường...) của xã hội,
để duy trì sự ổn định của xã hội trong “trật tự” có lợi cho gia cấp
thống trị.
- Như vậy, giữa chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội của
nhà nước luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Chức năng thống trị
chính trị quyết định chức năng xã hội; để duy trì trật tự xã hội có lợi
cho giai cấp thống trị, nhà nước của giai cấp thống trị phải thực hiện
chức năng xã hội.
“Chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự
thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức
năng xã hội đó của nó”.
Nghĩa là một nhà nước tồn tại lâu dài khi giai cấp thống trị biết
giải quyết ổn thoả lợi ích của giai cấp và lợi ích toàn xã hội trong
những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể.
- Để thực hiện vai trò của mình đối với giai cấp thống trị và với toàn
xã hội nhà nước còn phải thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại.
Chức năng đối nội của nhà nước là những mặt hoạt động
chủ yếu của Nhà nước trong nội bộ đất nước. Nhà nước
thực hiện thường xuyên đường lối đối nội nhằm duy trì
trật tự xã hội thông qua các công cụ chính sách xã hội,
luật pháp... Trong tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn
hóa, giáo dục…. Trong đời sống xã hội của mỗi quốc gia,
nhằm đáp ứng và giải quyết những nhu cầu chung của
toàn xã hội và vai trò thống trị của giai cấp thống trị.
Chức năng đối ngoại của nhà nước thể hiện vai trò của
Nhà nước trong quan hệ với các nhà nước và dân tộc
khác. Nhà nước thực hiện chính sách đối ngoại nhằm
giải quyết mối quan hệ với các thể chế nhà nước khác
và với các tổ chức quốc tế dưới danh nghĩa là quốc gia
dân tộc, nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, đáp ứng nhu
cầu trao đổi kinh tế, khoa học - kỹ thuật, y tế, văn hóa,
giáo dục... của mình.
- Mối quan hệ giữa chức năng đối nội và chức năng đối ngoại:
Chức năng đối nội hoạt động tốt sẽ giúp nhà nước duy trì được
trật tự và giải quyết những công việc xã hội, tạo điều kiện để thực
hiện tốt chức năng đối ngoại.
Chức năng đối ngoại được thực hiện tốt sẽ tạo thêm điều kiện
thuận lợi để thực hiện tốt hơn chức năng đối nội, giải quyết hiệu quả
các vấn đề kinh tế - xã hội, đảm bảo, an ninh quốc phòng được giữ
vững; văn hóa, giáo dục, y tế… phát triển.
3. Kiểu và hình thức của nhà nước:
- Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào,
tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào,
- Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực
hiện quyền lực của nhà nước của giai cấp thống trị. Nói cách khác nó là hình thức
cầm quyền của giai cấp thống trị.
- Hình thức nhà nước bị qui định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi
tương quan lực lượng giữa giai cấp đối kháng trong xã hội. Nó cũng bị qui định bởi
cơ cấu giai cấp - xã hội, đặc điểm truyền thống chính trị của đất nước.
( Hình thức nhà nước phụ thuộc vào cơ cấu giai cấp, tương quan lực
lượng giữa các giai cấp trong xã hội, đặc điểm lịch sử văn hóa, truyền
thống, tập quán, tín ngưỡng của mỗi quốc gia - dân tộc.)
- Trong lịch sử, có 4 kiểu nhà nước, trong mỗi kiểu nhà nước có rất
nhiều hình thức nhà nước:
- Kiểu nhà nước chủ nô có 2 hình thức: nhà nước quân chủ chủ nghĩa
và nhà nước cộng hòa chủ nghĩa (quý tộc hay dân chủ).
- Kiểu nhà nước phong kiến gắn liền với nền quân chủ phong kiến, có
2 hình thức cơ bản: nhà nướcphong kiến tập quyền và nhà
nướcphong kiến phân quyền.
- Kiểu nhà nước tư sản gắn liền với nền dân chủ tư sản, có nhiều hình
thức: chế độ cộng hòa tổng thống, chế độ cộng hòa đại nghị (chế độ
cộng hòa thủ tướng), chế độ quân chủ lập hiến; nhà nước liên bang,
nhà nước đơn nhất...
- Kiểu nhà nước vô sản là kiểu nhà nước đặc biệt:
Gắn với nền dân chủ vô sản (xã hội chủ nghĩa); có hai hình
thức cơ bản: nhà nước xô viết và nhà nước dân chủ nhân dân.
Nhà nước vô sản là chính quyền nhân dân, là nhà nước của
dân, do dân và vì dân, chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân
chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ đó.
Nhà nước vô sản có chức năng cơ bản là xây dựng 1 trật tự xã hội mới, thủ
tiêu chế độ người áp bức bóc lột người (đây là chức năng quyết định), trấn áp
sự phản kháng của các lực lượng phản động, chống đối (đây là chức quan
trọng).
Kiểu nhà nước vô sản tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng thực chất
đó là nhà nước do giai cấp vô sản lãnh đạo, liên minh với giai cấp nông dân,
tầng lớp tri thức tiến bộ, đại diện và bảo vệ quyền lợi của giai cấp và toàn thể
nhân dân lao động. Trong đó nhân dân lao động thực sự làm chủ xã hội của
mình và thực hiện sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
- Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là biểu hiện cụ thể của nhà nước vô
sản - nhà nước kiểu mới. Nhà nước đó được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc nhà
nước vô sản.
- Hiện nay, Đảng Cộng Sản VN chủ trương xây dựng nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, một số đặc trưng đc nhấn mạnh là: Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo
nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ”. Bản chất của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là: “Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Về bản chất, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về dân”
- Xây dựng và từng bước tiến tới hoàn thiện nhà nước pháp quyền với mục tiêu của
Đảng Cộng Sản VN là: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI:
1. Nguồn gốc và bản chất của cách mạng xã hội:
a) Nguồn gốc của cách mạng xã hội:
- Nguồn gốc sâu xa:
Cách mạng xã hội là một hiện tượng lịch sử, có nguồn gốc sâu xa là
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ đòi hỏi được giải phóng,
phát triển với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu đang là trở ngại
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện
dưới dạng xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị, đại diện cho lực
lượng sản xuất mới, tiến bộ với giai cấp thống trị, đại diện cho quan
hệ sản xuất đã lạc hậu so với sự phát triển của trình độ lực lượng
sản xuất.
(Mâu thuẫn trong kinh tế này biểu hiện thành mâu thuẫn trong xã hội
giữa giai cấp bị trị (đại diện cho lực lượng sản xuất mới, tiến bộ) với giai
cấp thống trị ( đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi lời, lạc hậu))
Khi mâu thuẫn đó trở nên gay gắt, quyết liệt đòi hỏi phải được giải
quyết, thì sẽ nổ ra cách mạng xã hội.
- Nguồn gốc trực tiếp:
Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến cách mạng xã hội.
Cách mạng xã hội là đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp , là bước
nhảy vọt tất yếu trong sự phát triển của xã hội có giai cấp.
Trong lịch sử xã hội có hai cuộc cách mạng xã hội mang tính điển
hình, có quy mô rộng lớn và tính chất triệt để. Đó là cách mạng tư
sản và cách mạng vô sản.
b) Bản chất của cách mạng xã hội:
- Cách mạng xã hội” có thể được hiểu theo hai tầng nghĩa như sau:
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự thay đổi căn bản về chất
toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo học thuyết Hình thái
kinh – tế xã hội của C.Mác thì cách mạng xã hội là sự thay đổi có
tính chất căn bản về chất của một hình thái kinh tế - xã hội, là bước
chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội này lên một hình thái kinh
tế - xã hội mới, tiến bộ hơn. Cách hiểu này áp dụng cho tổng thể xã
hội nói chung, không giới hạn riêng ở một lĩnh vực nào.
Theo nghĩa hẹp , cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai
cấp, là cuộc đấu tranh lật đổ chính quyền, thiết lập một chính quyền
mới tiến bộ hơn. Cách hiểu theo nghĩa hẹp áp dụng cho riêng lĩnh
vực chính trị ở một thời kỳ nhất định.
- Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng luôn là việc giành chính quyền. Bởi vì, chỉ khi nào giành được
chính quyền, giai cấp cách mạng mới xác lập được nền chuyên
chính của mình, tiến tới bảo đảm được quyền lực của mình trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ta cần phân biệt giữa “cách mạng xã hội” với “tiến hóa xã hội”, “cải
cách xã hội” và “đảo chính”:
- Cách mạng xã hội khác với tiến hóa xã hội. Nếu cách mạng xã hội
được thực hiện là do bước nhảy đột biến, làm thay đổi về cht, thay
đổi toàn bộ đời sống xã hội thì tiến hóa xã hội là sự thay đổi dần
dần, thay đổi từng bộ phận, từng yếu tố, từng lĩnh vực của đời sống
xã hội. Giữa cách mạng xã hội và tiến hóa xã hội có mối liên hệ hữu
cơ với nhau trong sự phát triển của xã hội. Tiến hóa xã hội tạo ra
tiền đề cho cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là cơ sở để tiếp tục
có những tiến hóa xã hội trong giai đoạn phát triển sau của xã hội.
- Cách mạng xã hội có sự khác nhau với cải cách xã hội. Cải cách xã
hội chỉ tạo nên những thay đổi bộ phận, lĩnh vực riêng lẻ của đời
sống xã hội. Cải cách xã hội là kết quả đấu tranh của các lực lượng
xã hội tiến bộ. Chỉ có cải cách xã hội triệt để mới là bộ phận hợp
thành của cách mạng xã hội. Khi các cuộc cải cách xã hội được thực
hiện thành công ở những mức độ khác nhau, chúng đều tạo ra sự
phát triển xã hội theo hướng tiến bộ. Không phải cuộc cải cách xã
hội nào cũng được thực hiện, do nhiều lý do chủ quan hoặc khách
quan. Khi tuyệt đối hóa cách mạng xã hội sẽ sa vào chủ nghĩa tả
khuynh coi thường cải cách xã hội; khi tuyệt đối hóa cải cách xã hội
sẽ sa vào chủ nghĩa hữu khuynh coi thường cách mạng xã hội.
- Cách mạng xã hội cũng khác với đảo chính. Đảo chính là phương
thức tiến hành của một nhóm người với mục đích giành chính quyền,
song không làm thay đổi căn bản chế độ xã hội. Đảo chính không
phải là phong trào cách mạng. Nó thường được thực hiện bằng bạo
lực, lật đổ của các phe, nhóm có khuynh hướng chính trị đối lập với
chính quyền đương thời. Đảo chính chỉ có ý nghĩa cách mạng khi nó
thực sự là một bộ phận của phong trào cách mạng.
Để xác định được bản chất của cách mạng xã hội ta cần nhận biết
được các yếu tố sau:
- Tính chất của mỗi cuộc cách mạng xã hội chịu sự quy định bởi mâu
thuẫn cơ bản, bởi nhiệm vụ chính trị mà cuộc cách mạng đó phải
giải quyết, như lật đổ chế độ xã hội nào? Xóa bỏ quan hệ sản xuất
nào? Thiết lập chính quyền thống trị cho giai cấp nào? Thiết lập trật
tự xã hội theo nguyên tắc nào?
- Lực lượng cách mạng xã hội là những giai cấp, tầng lớp người có lợi
ích gắn bó với cách mạng, tham gia vào các phong trào cách mạng,
thực hiện mục đích của cách mạng. Lực lượng của cách mạng xã hội
chịu sự quy định của tính chất, điều kiện lịch sử của cách
mạng.Trong lực lượng cách mạng thì giai cấp giữ vai trò quyết định
thành công của cách mạng, được xem là động lực của cách mạng xã
hội.
- Động lực của cách mạng xã hội là những giai cấp có lợi ích gắn bó
chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng, có tính tự giác, tích cực, chủ
động, kiên quyết, triệt để cách mạng, có khả năng lôi cuốn, tập hợp
các giai cấp, tầng lớp khác tham gia phong trào cách mạng.
- Đối tượng của cách mạng xã hội là những giai cấp và những lực
lượng đối lập cần phải đánh đổ của cách mạng. Trong cách mạng
Tháng Tám ở Việt Nam, đối tượng của cách mạng là chính quyền
thực dân và phong kiến. Để cách mạng xã hội đi đến thành công,
cần thiết phải có giai cấp lãnh đạo cách mạng.
- Giai cấp lãnh đạo cách mạng xã hội là giai cấp có hệ tư tưởng tiến
bộ, đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát
triển của xã hội.
- Điều kiện khách quan của cách mạng xã hội là điều kiện, hoàn cảnh
kinh tế - xã hội, chính trị bên ngoài tác động đến, là tiền đề diễn ra
các cuộc cách mạng xã hội
- Tình thế cách mạng là sự chín mùi của mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, sự phát triển đến đỉnh cao của cuộc đấu
tranh giai cấp dẫn tới những đảo lộn sâu sắc trong nền tảng kinh tế -
xã hội của nhà nước đương thời, khiến cho việc thay thế thể chế
chính trị đó bằng một thể chế chính trị khác, tiến bộ hơn như là một
yêu cầu khách quan không thể đảo ngược.
Lênin đã nêu lên 3 đặc trưng chủ yếu của tình thế cách mạng như
sau :
o Thứ nhất, giai cấp thống trị lâm vào cuộc khủng hoảng chính
trị, bộ máy nhà nước của chúng suy yếu nghiêm trọng.
o Thứ hai, Nỗi cùng khổ và quẫn bách của các giai cấp bị áp bức
trở nên nặng nề hơn mức bình thường.
o Thứ ba, tính tích cực của quần chúng được nâng cao rõ rệt
- Nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội bao gồm ý chí, niềm tin,
trình độ giác ngộ và nhận thức của lực lượng cách mạng vào mục
tiêu và nhiệm vụ cách mạng, là năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ
cách mạng, khả năng tập hợp lực lượng cách mạng của giai cấp lãnh
đạo cách mạng.
(Nhân tố chủ quan gắn liền với mỗi kiểu cách mạng xã hội và mức độ
phát triển của nó trong mỗi kiểu cách mạng cũng rất khác nhau. Trong
cách mạng vô sản, nhân tố chủ quan bao gồm trình độ trưởng thành
của phong trào công nhân, phong trào quần chúng lao động dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự sẵn sàng về tư tưởng, về tổ chức
và hành động của Đảng cộng sản, ý chí quật khởi của quần chúng sẵn
sàng đứng lên lật đổ nhà nước tư sản.)
- Thời cơ cách mạng là thời điểm đặc biệt khi điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan đã chín muồi. Đó là lúc thuận lợi nhất có thể bùng
nổ cách mạng, có ý nghĩa quyết định đối với thành công của cách
mạng.
- Mục tiêu của cách mạng xã hội là giành chính quyền để thiết lập
một trật tự xã hội mới tiến bộ. Mục tiêu của cách mạng đòi hỏi phải
có các hình thức và phương pháp cách mạng phù hợp.
2. Phương pháp của cách mạng xã hội:
Mục tiêu của cách mạng xã hội: giành lại chính quyền bằng cách lật đổ chính quyền
lỗi thời, phản động, cản trở sự phát triển của XH và thiết lập trật tự xã hội tiến bộ hơn.
Muốn làm được điều đó thì cần có phương pháp cách mạng phù hợp.
Có 2 phương pháp chính:
a) Phương pháp cách mạng bạo lực:
- Là hình thức tiến hành cách mạng bằng bạo lực để giành lấy chính
quyền, là hành động của lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của
giai cấp lãnh đạo, vượt qua giới hạn luật pháp của giai cấp thống trị
hiện thời, xác lập chính quyền nhà nước của giai cấp cách mạng.
- Đây là hình thức cách mạng khá phổ biến. Vì trên thực tế, trong
hội có giai cấp, giai cấp thống trị không bao giờ từ bỏ địa vị thống trị
của mình dù nó đã lỗi thời, lạc hậu.
Nếu chỉ hoạt động đấu tranh hợp pháp thì không thể giành lại chính quyền. Thế
nên phải chiến tranh cách mạng thông qua bạo lực cách mạng.
- Một số nhà triết học cũng đã nêu lên quan điểm về việc sử dụng pp
bạo lực cách mạng là cần thiết:
C.Mác và Ph.Ăngghen trong các tác phẩm Phê phán Cương lĩnh
Gôta, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đều khẳng định để giành
chính quyền từ tai giai cấp tư sản thì phải tiến hành bạo lực cách
mạng .
V.I.Lênin cho rằng :”Nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vô sản
không thể bằng con đường “tiêu vong” được, mà chỉ có thể theo quy
luật chung, bằng một cuộc cách mạng bạo lực thôi”.
- Tuy nhiên,bạo lực cũng chỉ là công cụ, phương tiện để lực lượng cách
mạng giành lấy chính quyền nhà nước từ tay giai cấp thống trị.
b) Phương pháp hòa bình:
- Là một phương pháp để giành lại chính quyền, là phương pháp đấu
tranh không dùng đến bạo lực để giành chính quyền (trong điều kiện
cho phép). Là phương pháp đấu tranh nghị trường, thông qua chế độ
dân chủ, bằng bầu cử để giành đa số ghế trong nghị viện và chính
phủ.
- Là phương pháp rất có lợi, ít gây đau khổ, tuy được sử dụng rất ít
(nhưng rất quý).
- Điều kiện để phương pháp hòa bình được diễn ra:
Giai cấp thống trị không còn bộ máy bạo lực đáng kể hoặc là còn
nhưng chúng đã mất hết ý chí chống lại lực lượng cách mạng.
Lực lượng cách mạng phát triển mạnh, áp đảo kẻ thù
- Tuy nhiên, quan điểm “quá độ hòa bình” thực chất là quan điểm phủ
định bạo lực cách mạng của bọn cơ hội chủ nghĩa theo hướng hữu
khuynh. Ở Việt Nam, hiện nay, các thế lực phản động ở cả trong và
ngoài nước có âm mưu “diễn biến hòa bình”.
(Diễn biến hòa bình: là khái niệm được một số nhà nước xã hội chủ
nghĩa sử dụng để nói về một chiến lược chính trị - ý thức hệ và xã hội
của chủ nghĩa tư bản và chính trị cánh hữu nhằm chống lại chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa Marx-Lenin và chủ nghĩa cộng sản. Đó là một quá
trình diễn biến lâu dài, âm thầm, không đổ máu và yên lặng, nhưng sẽ
dẫn đến sự loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và ý thức hệ
của nó ở tại các nước xã hội chủ nghĩa)
- Ngay trong đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng có biểu hiện “tự diễn
biến, tự chuyển hóa”.
(Tự diễn biến,tự chuyển hóa: sự suy thoái từ bên trong; là quá trình tự
biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên
theo chiều hướng tiêu cực, làm mất dần các chuẩn mực của người cộng
sản, dẫn đến xa rời những nguyên tắc, quan điểm mácxít; suy giảm
nghiêm trọng niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước)
- Thế nên cần phải nhận diện nhanh và kiên quyết đấu tranh đến cùng.
3. Vấn đề cách mạng xã hội trên thế giới hiện nay:
- Hiện nay, xã hội đã có nhiều đổi khác so với những năm 70 của thế
kỉ XX trở về trước. Xã hội hiện tại bị chia phối bởi đặc điểm của thời
đại:
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Nền kinh tế tri thức ở các nước phát triển.
Xu hướng đối thoại thay cho xu hướng đối đầu.
Những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản phần nào làm dịu mâu thuẫn
giai cấp.
Sự xung đột về giai cấp vẫn còn, song không còn gay gắt, quyết liệt
như trước, thay vào đó là sự xung đột về sắc tộc, tôn giáo, về kinh tế
các quốc gia, khu vực.
Cùng với đó là sự ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, nạn đói, bệnh tật ở nhiều nước,… cũng là nguyên nhân tạo ra
sự bất ổn trong thế giới đương đại.
- Trong xã hội hiện đại tiềm ẩn những biến động xã hội theo chiều
hướng tiến bộ dưới hình thức cải tổ, cải cách, đổi mới như ở các nước
xã hội chủ nghĩa trước đây và hình thức hợp tác mới trên cơ sở các
lực lượng xã hội có thể chấp nhận được ở các nước theo các chủ
nghĩa chính trị khác nhau hiện nay.
- Vì lợi ích chung của toàn thế giới, các nước có chủ nghĩa xã hội và
chính trị khác nhau vẫn có thể thông qua các tổ chức quốc tế, đối
thoại, hòa giải, những tranh chấp về kinh tế, lãnh thổ lãnh hải, tài
nguyên thiên nhiên, v.v.. và những bất đồng khác. Xu hướng đối
thoại, hòa giải đang là xu hướng chủ đạo hiện nay. Các cuộc chiến
tranh dưới màu sắc dân tộc, tôn giáo, hay dưới chiêu bài “nhân đạo”
chống vũ khí hóa học, sinh học, đang bị các thế lực tiến bộ lên án
phản đối.
- Xu hướng giữ vững độc lập tự chủ của quốc gia dân tộc, không phụ
thuộc và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đấu tranh
cho dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội đang diễn ra mạnh mẽ,
ngày càng tỏ ra chiếm ưu thế. Các quốc gia, dân tộc sẽ đi tới một xã
hội dân chủ, tự do, công bằng, văn minh theo cách của mình thông
qua các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, y
tế, khoa học - công nghệ,.. Và do đó dù không có các cuộc các mạng
điển hình như đã từng diễn ra trong lịch sử, thì xã hội hiện đại sẽ
phát triển theo hướng thay đổi từng bộ phận, yếu tố, lĩnh vực trong
đời sống xã hội. Thay đổi trước hết về lực lượng sản xuất rồi đến
quan hệ sản xuất, từ đó dẫn đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế tức cơ sở
hạ tầng và do đó thay đổi các yếu tố của cấu trúc thượng tầng xã
hội, dẫn đến thay đổi toàn bộ xã hội.
- Trong thời đại ngày nay, theo nguyên lý về sự phát triển của triết
học Mác-Lênin, khó có thể để bùng nổ những cuộc cách mạng xã hội
điển hình như cách mạng tháng 10 Nga năm 1917,… các cuộc cách
mạng sẽ diễn ra dưới hình thức chuyển hóa, thay đổi dần dần từng
yếu tố, bộ phận, lĩnh vực của đời sống xã hội. Xã hội sau sẽ phát
triển hơn xã hội trước.
- Việt Nam đang hướng tới mục tiêu : dân giàu nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh.

Preview text:

NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI I. NHÀ NƯỚC:
1. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước: a) Nguồn gốc: - V
. I. Lênin đã từng khẳng định rằng:
“Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về
mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được,
thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: Sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ
rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được.” -
Để chứng tỏ thực hư cho câu nói này thì chúng ta hãy quay lại vào
giai đoạn cuối của xã hội cộng sản nguyên thủy:
Trong xã hội lúc này, lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến xuất hiện
sản phẩm dư thừa tương đối, từ đó xuất hiện chế độ tư hữu (chế độ tư
hữu được hiểu là việc chiếm hữu riêng của một số bộ phận giai cấp vì
mục đích cá nhân). Lúc này, sự bất bình đẳng, sự phân hóa giai cấp
diễn ra phổ biến nên đã xuất hiện giai cấp thống trị và giai cấp bị thống
trị. Từ đó, quan hệ áp bức bóc lột dần thay thế cho quan hệ bình đẳng ,
dân chủ công xã thay bằng nền độc tài. Thế nên, các cuộc đấu tranh
nổi dậy của giai cấp bị trị diễn ra thường xuyên. Để bảo vệ quyền lực
của mình, giai cấp thống trị buộc phải dùng bạo lực để đàn áp. - Việc
đó đã tạo ra tiền đề kinh tế và tiền đề xã hội cho sự xuất hiện của nhà nước. -
Cuộc đấu tranh đầu tiên mang tính quyết liệt này giữa 2 giai cấp chủ
nô và giai cấp nô lệ thời cổ đại dẫn đến sự ra đời của nhà nước.
Vậy: Có 2 nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước, đó là: -
Nguồn gốc sâu xa là sự phát triển lực lượng sản xuất : lực lượng sản
xuất phát triển dẫn đến xuất hiện sản phẩm dư thừa tương đối, từ
đó xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và của cải dẫn đến
việc xã hội có giai cấp. -
Nguyên nhân trực tiếp là do mâu thuẫn và đấu tr anh giai cấp gay
gắt không thể điều hòa được: nhà nước ra đời là một tất yếu khách
quan để “làm dịu” sự xung đột giai cấp, để duy trì xã hội trong vòng
“trật tự” mà ở đó, lợi ích và địa vị của giai cấp thống trị được đảm bảo.
b) Bản chất của nhà nước: -
là một tổ chức chính trị của giai cấp thống trị v ề mặt kinh tế nhằm
bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác. -
V.I.Lênin từng nói: “Nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là
một cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác;
đó là sự kiến lập một “trật tự”, trật tự này hợp pháp hóa và củng cố
sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp.” -
Bản chất nhà nước là nền chuyên chính của giai cấp này đối với giai
cấp khác và đối với toàn xã hội. -
Nhà nước mang tính giai cấp, tính trần tục và tính lị ch sử : Sự ra đời,
tồn tại, thay đổi và mất đi của nhà nước gắn liền với sự ra đời, tồn
tại, thay đổi và mất đi của chế độ tư hữu. - Ví dụ:
 Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, bản chất của nhà nước là công cụ bạo
lực của giai cấp chủ nô nhằm áp bức nô lệ.
 Trong xã hội phong kiến, bản chất của nhà nước là bộ máy bạo lực
của giai cấp phong kiến nhằm thống trị nông nô và toàn thể xã hội.
 Nhà nước của giai cấp tư sản có bản chất là công cụ trấn áp của tư
sản đối với giai cấp vô sản… -
Qua đó ta thấy: nhà nước dù tồn tại dưới hình thức nào thì cũng phản ánh và
mang bản chất của giai cấp.
2. Đặc trưng và chức năng cơ bản của nhà nước:
a) Đặc trưng cơ bản của nhà nước: -
V.I Lênin trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng nhắc lại quan điểm
của Ph.Ăngghen rằng, nhà nước thường có ba đặt trưng cơ bản: -
Một là, nhà nước quản lý cư dân trên một vùng lãnh thổ nhất định:
cư dân của nhà nước không chỉ tồn tại quan hệ huyết thống mà còn
tồn tại trên cơ sở quan hệ ngoài huyết thống. Đó là quan hệ kinh tế,
quan hệ xã hội, quan hệ chính trị,…giữa các thành phần cư dân
trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Hình thành biên giới quốc gia
giữa các nhà nước có tư cách là một quốc gia- dân tộc. Trong cộng
đồng nhà nước( quốc gia- dân tộc) có thể tồn tại nhiều giai cấp, tầng
lớp, thành phần xã hội. Có những nhà nước( quốc gia- dân tộc) ngày
nay, ngoài giai cấp, tầng lớp xã hội vẫn còn tồn tại cộng đồng thị
tộc, bộ lạc, bộ tộc. Về nguyên tắc, quyền lực nhà nước có hiệu lực
với tất cả thành viên, tổ chức tồn tại trong phạm vi biên giới quốc
gia. Việc xuất nhập cảnh do nhà nước quản lý. -
Hai là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp
mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên. V.I Lênin, trong tác
phẩm Nhà nước và cách mạng cho rằng, các cơ quan quyền lực giúp
nhà nước thực hiện chức năng trấn áp sự phản kháng của các giai
cấp khác là: ‘’Những đội vũ trang đặt biệt, trong tay có những nhà
tù, v,v,..,‘’đội vũ trang đặt biệt’’ ngoài quân đội nhà nghề còn có
cảnh sát vũ trang, và những cơ quan cưỡng bức, những cơ quan
hành chính thực hiện chức năng cai trị,… để buộc người khác phải
phục tùng ý chí của giai cấp cầm quyền là ‘’là những công cụ vũ lực
chủ yếu của quyền lực nhà nước’’.
Nhà nước quản lý xã hội dựa vào pháp luật là chủ yếu. Bằng hệ
thống pháp luật nhà nước sử dụng phương thức ‘’cưỡng bức’’ mọi cá
nhân, tổ chức trong xã hội phải thực hiện các chính sách theo hướng có
lợi cho giai cấp thống trị. Bộ máy chính quyền từ trung ương đến cơ sở
là công cụ triển khai thực hiện những chính sách của nhà nước. Bộ máy
này được nhà nước trả lương từ các nguồn thu trong ngân sách, do đó
thường trung thành với giai cấp thống trị. Quyền lực nhà nước không
thuộc về nhân dân mà thuộc về giai cấp thống trị, ngày càng xa rời
nhân dân, đối lập với nhân dân. -
Ba là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền.
V.I.Lênin cho rằng, muốn duy trì ‘’quyền lực xã hội đặc biệt, đặt lên
trên xã hội, thì phải có thuế và quốc trái’’. Ph.Ăngghen viết: ‘’Để duy
trì quyền lực công cộng đó, cần phải có sự đóng góp của công dân,
đó là thuế má’’. Và, ‘’ nắm được quyền lực công cộng và quyền thu
thuế, bọn quan lại, với tư cách là những cơ quan của xã hội, được
đặt lên trên xã hội’’.
Như vậy, để duy trì để duy trì sự thống trị của mình, giai cấp
thống trị trước hết phải đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà nước.
Mà muốn bộ máy nhà nước hoạt động thì phải có nguồn tài chính.
Nguồn tài chính được nhà nước huy động chủ yếu là do thu thuế,
sau đó là quốc trái thu được do sự cưỡng bức hoặc do sự tự nguyện của công dân.
b) Chức năng cơ bản của nhà nước: -
Nhà Nước về bản chất là công cụ thống trị của giai cấp thống trị.
Nhà nước đồng thời thực hiện nhiều chức năng như: chức năng
thống trị và chức năng xã hội, chức năng đối nội và chức năng đối
ngoại, chức năng kinh tế, chức năng văn hoá, chức năng giáo dục. -
Đầu tiên là Chức năng thống trị chính trị: chức năng này chịu sự quy
định bởi tính giai cấp của nhà nước. Do bản chất giai cấp nhà nước
bao giờ cũng đặc chức năng thống trị chính trị của mình lên hàng
đầu, vì thế nên chức năng thống trị chính trị của nhà nước giữ vai trò quyết định.
đây là công cụ thống trị của giai cấp cầm quyền, nhà nước sử dụng
bộ máy quyền lực, thông qua hệ thống chính sách và pháp luật để
duy trì sự thống trị của mình; đàn áp sự phản kháng của các giai
cấp, tầng lớp khác nhằm bảo vệ quyền lợi và địa vị của giai cấp mình. -
Tuy nhiên để duy trì trật tự xã hội nhà nước của giai cấp thống trị
còn phải thực hiện chức năng xã hội của mình. Nhân danh xã hội,
nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội, điều hành các công việc
chung (giao thông, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường...) của xã hội,
để duy trì sự ổn định của xã hội trong “trật tự” có lợi cho gia cấp thống trị. -
Như vậy, giữa chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội của
nhà nước luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Chức năng thống trị
chính trị quyết định chức năng xã hội; để duy trì trật tự xã hội có lợi
cho giai cấp thống trị, nhà nước của giai cấp thống trị phải thực hiện chức năng xã hội.
“Chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự
thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức
năng xã hội đó của nó”.
Nghĩa là một nhà nước tồn tại lâu dài khi giai cấp thống trị biết
giải quyết ổn thoả lợi ích của giai cấp và lợi ích toàn xã hội trong
những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể. -
Để thực hiện vai trò của mình đối với giai cấp thống trị và với toàn
xã hội nhà nước còn phải thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại.
 Chức năng đối nội của nhà nước là những mặt hoạt động
chủ yếu của Nhà nước trong nội bộ đất nước. Nhà nước
thực hiện thường xuyên đường lối đối nội nhằm duy trì
trật tự xã hội thông qua các công cụ chính sách xã hội,
luật pháp... Trong tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn
hóa, giáo dục…. Trong đời sống xã hội của mỗi quốc gia,
nhằm đáp ứng và giải quyết những nhu cầu chung của
toàn xã hội và vai trò thống trị của giai cấp thống trị.
 Chức năng đối ngoại của nhà nước thể hiện vai tr ò của
Nhà nước trong quan hệ với các nhà nước và dân tộc
khác. Nhà nước thực hiện chính sách đối ngoại nhằm
giải quyết mối quan hệ với các thể chế nhà nước khác
và với các tổ chức quốc tế dưới danh nghĩa là quốc gia
dân tộc, nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, đáp ứng nhu
cầu trao đổi kinh tế, khoa học - kỹ thuật, y tế, văn hóa, giáo dục... của mình. -
Mối quan hệ giữa chức năng đối nội và chức năng đối ngoại:
Chức năng đối nội hoạt động tốt sẽ giúp nhà nước duy trì được
trật tự và giải quyết những công việc xã hội, tạo điều kiện để thực
hiện tốt chức năng đối ngoại.
Chức năng đối ngoại được thực hiện tốt sẽ tạo thêm điều kiện
thuận lợi để thực hiện tốt hơn chức năng đối nội, giải quyết hiệu quả
các vấn đề kinh tế - xã hội, đảm bảo, an ninh quốc phòng được giữ
vững; văn hóa, giáo dục, y tế… phát triển.
3. Kiểu và hình thức của nhà nước: - Kiểu nhà nước
là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào,
tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào, - Hình thức nhà nước
là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực
hiện quyền lực của nhà nước của giai cấp thống trị. Nói cách khác nó là hình thức
cầm quyền của giai cấp thống trị. -
Hình thức nhà nước bị qui định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi
tương quan lực lượng giữa giai cấp đối kháng trong xã hội. Nó cũng bị qui định bởi
cơ cấu giai cấp - xã hội, đặc điểm truyền thống chính trị của đất nước.
( Hình thức nhà nước phụ thuộc vào cơ cấu giai cấp, tương quan lực
lượng giữa các giai cấp trong xã hội, đặc điểm lịch sử văn hóa, truyền
thống, tập quán, tín ngưỡng của mỗi quốc gia - dân tộc.) -
Trong lịch sử, có 4 kiểu nhà nước, trong mỗi kiểu nhà nước có rất
nhiều hình thức nhà nước: -
Kiểu nhà nước chủ nô có 2 hình thức: nhà nước quân chủ chủ nghĩa
và nhà nước cộng hòa chủ nghĩa (quý tộc hay dân chủ). -
Kiểu nhà nước phong kiến gắn liền với nền qu ân chủ phong kiến, có
2 hình thức cơ bản: nhà nướcphong kiến tập quyền và nhà
nướcphong kiến phân quyền. -
Kiểu nhà nước tư sản gắn liền với nền dân chủ tư sản, có nhi ều hình
thức: chế độ cộng hòa tổng thống, chế độ cộng hòa đại nghị (chế độ
cộng hòa thủ tướng), chế độ quân chủ lập hiến; nhà nước liên bang, nhà nước đơn nhất... -
Kiểu nhà nước vô sản là kiểu nhà nước đặc biệt:
 Gắn với nền dân chủ vô sản (xã hội chủ nghĩa); có hai hình
thức cơ bản: nhà nước xô viết và nhà nước dân chủ nhân dân.
 Nhà nước vô sản là chính quyền nhân dân, là nhà nước của
dân, do dân và vì dân, chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân
chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ đó.
 Nhà nước vô sản có chức năng cơ bản là xây dựng 1 trật tự xã hội mới, thủ
tiêu chế độ người áp bức bóc lột người (đây là chức năng quyết định), trấn áp
sự phản kháng của các lực lượng phản động, chống đối (đây là chức quan trọng).
 Kiểu nhà nước vô sản tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng thực chất
đó là nhà nước do giai cấp vô sản lãnh đạo, liên minh với giai cấp nông dân,
tầng lớp tri thức tiến bộ, đại diện và bảo vệ quyền lợi của giai cấp và toàn thể
nhân dân lao động. Trong đó nhân dân lao động thực sự làm chủ xã hội của
mình và thực hiện sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. -
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là biểu hiện cụ thể của nhà nước vô
sản - nhà nước kiểu mới. Nhà nước đó được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc nhà nước vô sản. -
Hiện nay, Đảng Cộng Sản VN chủ trương xây dựng nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, một số đặc trưng đc nhấn mạnh là: Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo
nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ”. Bản chất của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là: “Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Về bản chất, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về dân” -
Xây dựng và từng bước tiến tới hoàn thiện nhà nước pháp quyền với mục tiêu của
Đảng Cộng Sản VN là: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI:
1. Nguồn gốc và bản chất của cách mạng xã hội:
a) Nguồn gốc của cách mạng xã hội: - Nguồn gốc sâu xa:
 Cách mạng xã hội là một hiện tượng lịch sử, có nguồn gốc sâu xa là
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ đòi hỏi được giải phóng,
phát triển với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu đang là trở ngại
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
 Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện
dưới dạng xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị, đại diện cho lực
lượng sản xuất mới, tiến bộ với giai cấp thống trị, đại diện cho quan
hệ sản xuất đã lạc hậu so với sự phát triển của trình độ lực lượng sản xuất.
(Mâu thuẫn trong kinh tế này biểu hiện thành mâu thuẫn trong xã hội
giữa giai cấp bị trị (đại diện cho lực lượng sản xuất mới, tiến bộ) với giai
cấp thống trị ( đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi lời, lạc hậu))
 Khi mâu thuẫn đó trở nên gay gắt, quyết liệt đòi hỏi phải được gi ải
quyết, thì sẽ nổ ra cách mạng xã hội. - Nguồn gốc trực tiếp:
 Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến cách mạng xã hội.
 Cách mạng xã hội là đỉnh cao của cuộc đ
ấu tranh giai cấp , là bước
nhảy vọt tất yếu trong sự phát triển của xã hội có giai cấp.  T
rong lịch sử xã hội có hai cuộc cách mạng xã hội mang tính điển
hình, có quy mô rộng lớn và tính chất triệt để. Đó là cách mạng tư
sản và cách mạng vô sản.
b) Bản chất của cách mạng xã hội: -
“ Cách mạng xã hội” có thể được hiểu theo hai tầng nghĩa như sau:
 Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự th
ay đổi căn bản về chất
toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo học thuyết Hình thái
kinh – tế xã hội của C.Mác thì cách mạng xã hội là sự thay đổi có
tính chất căn bản về chất của một hình thái kinh tế - xã hội, là bước
chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội này lên một hình thái kinh
tế - xã hội mới, tiến bộ hơn. Cách hiểu này áp dụng cho tổng thể xã
hội nói chung, không giới hạn riêng ở một lĩnh vực nào.  Theo nghĩa hẹp
, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai
cấp, là cuộc đấu tranh lật đổ chính quyền, thiết lập một chính quyền
mới tiến bộ hơn. Cách hiểu theo nghĩa hẹp áp dụng cho riêng lĩnh
vực chính trị ở một thời kỳ nhất định. -
Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng luôn là việc giành chính quyền. Bởi vì, chỉ khi nào giành được
chính quyền, giai cấp cách mạng mới xác lập được nền chuyên
chính của mình, tiến tới bảo đảm được quyền lực của mình trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. 
Ta cần phân biệt giữa “cách mạng xã hội” với “tiến hóa xã hội”, “cải
cách xã hội” và “đảo chính”: -
Cách mạng xã hội khác với tiến hóa xã hội. Nếu cách mạng xã hội
được thực hiện là do bước nhảy đột biến, làm thay đổi về chất, thay
đổi toàn bộ đời sống xã hội thì tiến hóa xã hội là sự thay đổi dần
dần, thay đổi từng bộ phận, từng yếu tố, từng lĩnh vực của đời sống
xã hội. Giữa cách mạng xã hội và tiến hóa xã hội có mối liên hệ hữu
cơ với nhau trong sự phát triển của xã hội. Tiến hóa xã hội tạo ra
tiền đề cho cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là cơ sở để tiếp tục
có những tiến hóa xã hội trong giai đoạn phát triển sau của xã hội. -
Cách mạng xã hội có sự khác nhau với cải cách xã hội. Cải cách xã
hội chỉ tạo nên những thay đổi bộ phận, lĩnh vực riêng lẻ của đời
sống xã hội. Cải cách xã hội là kết quả đấu tranh của các lực lượng
xã hội tiến bộ. Chỉ có cải cách xã hội triệt để mới là bộ phận hợp
thành của cách mạng xã hội. Khi các cuộc cải cách xã hội được thực
hiện thành công ở những mức độ khác nhau, chúng đều tạo ra sự
phát triển xã hội theo hướng tiến bộ. Không phải cuộc cải cách xã
hội nào cũng được thực hiện, do nhiều lý do chủ quan hoặc khách
quan. Khi tuyệt đối hóa cách mạng xã hội sẽ sa vào chủ nghĩa tả
khuynh coi thường cải cách xã hội; khi tuyệt đối hóa cải cách xã hội
sẽ sa vào chủ nghĩa hữu khuynh coi thường cách mạng xã hội. -
Cách mạng xã hội cũng khác với đảo chính. Đảo chính là phương
thức tiến hành của một nhóm người với mục đích giành chính quyền,
song không làm thay đổi căn bản chế độ xã hội. Đảo chính không
phải là phong trào cách mạng. Nó thường được thực hiện bằng bạo
lực, lật đổ của các phe, nhóm có khuynh hướng chính trị đối lập với
chính quyền đương thời. Đảo chính chỉ có ý nghĩa cách mạng khi nó
thực sự là một bộ phận của phong trào cách mạng. 
Để xác định được bản chất của cách mạng xã hội ta cần nhận biết được các yếu tố sau: -
Tính chất của mỗi cuộc cách mạng x
ã hội chịu sự quy định bởi mâu
thuẫn cơ bản, bởi nhiệm vụ chính trị mà cuộc cách mạng đó phải
giải quyết, như lật đổ chế độ xã hội nào? Xóa bỏ quan hệ sản xuất
nào? Thiết lập chính quyền thống trị cho giai cấp nào? Thiết lập trật
tự xã hội theo nguyên tắc nào? -
Lực lượng cách mạng xã hội là những giai cấp, tầng l ớp người có lợi
ích gắn bó với cách mạng, tham gia vào các phong trào cách mạng,
thực hiện mục đích của cách mạng. Lực lượng của cách mạng xã hội
chịu sự quy định của tính chất, điều kiện lịch sử của cách
mạng.Trong lực lượng cách mạng thì giai cấp giữ vai trò quyết định
thành công của cách mạng, được xem là động lực của cách mạng xã hội. -
Động lực của cách mạng xã hội là những gi
ai cấp có lợi ích gắn bó
chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng, có tính tự giác, tích cực, chủ
động, kiên quyết, triệt để cách mạng, có khả năng lôi cuốn, tập hợp
các giai cấp, tầng lớp khác tham gia phong trào cách mạng. -
Đối tượng của cách mạng xã hội là những giai cấp và nhữn g lực
lượng đối lập cần phải đánh đổ của cách mạng. Trong cách mạng
Tháng Tám ở Việt Nam, đối tượng của cách mạng là chính quyền
thực dân và phong kiến. Để cách mạng xã hội đi đến thành công,
cần thiết phải có giai cấp lãnh đạo cách mạng. -
Giai cấp lãnh đạo cách mạng xã hội là gi
ai cấp có hệ tư tưởng tiến
bộ, đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của xã hội. -
Điều kiện khách quan của cách mạng xã hội là đi ều kiện, hoàn cảnh
kinh tế - xã hội, chính trị bên ngoài tác động đến, là tiền đề diễn ra
các cuộc cách mạng xã hội -
Tình thế cách mạng là sự chín mùi của mâu thuẫn gi ữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, sự phát triển đến đỉnh cao của cuộc đấu
tranh giai cấp dẫn tới những đảo lộn sâu sắc trong nền tảng kinh tế -
xã hội của nhà nước đương thời, khiến cho việc thay thế thể chế
chính trị đó bằng một thể chế chính trị khác, tiến bộ hơn như là một
yêu cầu khách quan không thể đảo ngược.
 Lênin đã nêu lên 3 đặc trưng chủ yếu của tình thế cách mạng như sau : o
Thứ nhất, giai cấp thống trị lâm vào cuộc khủng hoảng chính
trị, bộ máy nhà nước của chúng suy yếu nghiêm trọng. o
Thứ hai, Nỗi cùng khổ và quẫn bách của các giai cấp bị áp bức
trở nên nặng nề hơn mức bình thường. o
Thứ ba, tính tích cực của quần chúng được nâng cao rõ rệt - Nhân tố chủ quan tr
ong cách mạng xã hội bao gồm ý chí, niềm tin,
trình độ giác ngộ và nhận thức của lực lượng cách mạng vào mục
tiêu và nhiệm vụ cách mạng, là năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ
cách mạng, khả năng tập hợp lực lượng cách mạng của giai cấp lãnh đạo cách mạng.
(Nhân tố chủ quan gắn liền với mỗi kiểu cách mạng xã hội và mức độ
phát triển của nó trong mỗi kiểu cách mạng cũng rất khác nhau. Trong
cách mạng vô sản, nhân tố chủ quan bao gồm trình độ trưởng thành
của phong trào công nhân, phong trào quần chúng lao động dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự sẵn sàng về tư tưởng, về tổ chức
và hành động của Đảng cộng sản, ý chí quật khởi của quần chúng sẵn
sàng đứng lên lật đổ nhà nước tư sản.) -
Thời cơ cách mạng là thời điểm đặc biệt khi điều kiện k hách quan và
nhân tố chủ quan đã chín muồi. Đó là lúc thuận lợi nhất có thể bùng
nổ cách mạng, có ý nghĩa quyết định đối với thành công của cách mạng. -
Mục tiêu của cách mạng xã hội là giành chí
nh quyền để thiết lập
một trật tự xã hội mới tiến bộ. Mục tiêu của cách mạng đòi hỏi phải
có các hình thức và phương pháp cách mạng phù hợp.
2. Phương pháp của cách mạng xã hội:
Mục tiêu của cách mạng xã hội: giành lại chính quyền bằng cách lật đổ chính quyền
lỗi thời, phản động, cản trở sự phát triển của XH và thiết lập trật tự xã hội tiến bộ hơn.
Muốn làm được điều đó thì cần có phương pháp cách mạng phù hợp. Có 2 phương pháp chính:
a) Phương pháp cách mạng bạo lực: -
Là hình thức tiến hành cách mạng bằng bạo lực để gi ành lấy chính
quyền, là hành động của lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của
giai cấp lãnh đạo, vượt qua giới hạn luật pháp của giai cấp thống trị
hiện thời, xác lập chính quyền nhà nước của giai cấp cách mạng. -
Đây là hình thức cách mạng khá phổ biến. Vì trên thực tế, trong xã
hội có giai cấp, giai cấp thống trị không bao giờ từ bỏ địa vị thống trị
của mình dù nó đã lỗi thời, lạc hậu. Nếu chỉ có hoạt động đấu tranh hợp pháp thì không thể giành lại chính quyền. Thế
nên phải chiến tranh cách mạng thông qua bạo lực cách mạng. -
Một số nhà triết học cũng đã nêu lên quan điểm về việc sử dụng pp
bạo lực cách mạng là cần thiết:
 C.Mác và Ph.Ăngghen trong các tác phẩm Phê phán Cương lĩnh
Gôta, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đều khẳng định để giành
chính quyền từ tai giai cấp tư sản thì phải tiến hành bạo lực cách mạng .
 V.I.Lênin cho rằng :”Nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vô sản
không thể bằng con đường “tiêu vong” được, mà chỉ có thể theo quy
luật chung, bằng một cuộc cách mạng bạo lực thôi”. -
Tuy nhiên,bạo lực cũng chỉ là công cụ, phương tiện để lực lượng cách
mạng giành lấy chính quyền nhà nước từ tay giai cấp thống trị.
b) Phương pháp hòa bình: -
Là một phương pháp để giành lại chính quyền, là phương pháp đấu
tranh không dùng đến bạo lực để giành chính quyền (trong điều kiện
cho phép). Là phương pháp đấu tranh nghị trường, thông qua chế độ
dân chủ, bằng bầu cử để giành đa số ghế trong nghị viện và chính phủ. -
Là phương pháp rất có lợi, ít gây đau khổ, tuy được sử dụng rất ít (nhưng rất quý). -
Điều kiện để phương pháp hòa bình được diễn ra:
 Giai cấp thống trị không còn bộ máy bạo lực đ áng kể hoặc là còn
nhưng chúng đã mất hết ý chí chống lại lực lượng cách mạng.
 Lực lượng cách mạng phát triển mạnh, áp đảo kẻ thù -
Tuy nhiên, quan điểm “quá độ hòa bình” thực chất là quan điểm phủ
định bạo lực cách mạng của bọn cơ hội chủ nghĩa theo hướng hữu
khuynh. Ở Việt Nam, hiện nay, các thế lực phản động ở cả trong và
ngoài nước có âm mưu “diễn biến hòa bình”.
(Diễn biến hòa bình: là khái niệm được một số nhà nước xã hội chủ
nghĩa sử dụng để nói về một chiến lược chính trị - ý thức hệ và xã hội
của chủ nghĩa tư bản và chính trị cánh hữu nhằm chống lại chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa Marx-Lenin và chủ nghĩa cộng sản. Đó là một quá
trình diễn biến lâu dài, âm thầm, không đổ máu và yên lặng, nhưng sẽ
dẫn đến sự loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và ý thức hệ
của nó ở tại các nước xã hội chủ nghĩa) -
Ngay trong đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng có biểu hiện “tự diễn
biến, tự chuyển hóa”.
(Tự diễn biến,tự chuyển hóa: sự suy thoái từ bên trong; là quá trình tự
biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên
theo chiều hướng tiêu cực, làm mất dần các chuẩn mực của người cộng
sản, dẫn đến xa rời những nguyên tắc, quan điểm mácxít; suy giảm
nghiêm trọng niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước) -
Thế nên cần phải nhận diện nhanh và kiên quyết đấu tranh đến cùng.
3. Vấn đề cách mạng xã hội trên thế giới hiện nay: -
Hiện nay, xã hội đã có nhiều đổi khác so với những năm 70 của thế
kỉ XX trở về trước. Xã hội hiện tại bị chia phối bởi đặc điểm của thời đại:
 Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hi ện đại.
 Nền kinh tế tri thức ở các nước phát triển.
 Xu hướng đối thoại thay cho xu hướng đối đầu.
 Những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản phần n ào làm dịu mâu thuẫn giai cấp.
 Sự xung đột về giai cấp vẫn còn, song không còn gay gắt, quyết liệt
như trước, thay vào đó là sự xung đột về sắc tộc, tôn giáo, về kinh tế các quốc gia, khu vực.
 Cùng với đó là sự ô nhiễm môi trường, cạn ki ệt tài nguyên thiên
nhiên, nạn đói, bệnh tật ở nhiều nước,… cũng là nguyên nhân tạo ra
sự bất ổn trong thế giới đương đại. -
T rong xã hội hiện đại tiềm ẩn những biến động xã hội theo chiều
hướng tiến bộ dưới hình thức cải tổ, cải cách, đổi mới như ở các nước
xã hội chủ nghĩa trước đây và hình thức hợp tác mới trên cơ sở các
lực lượng xã hội có thể chấp nhận được ở các nước theo các chủ
nghĩa chính trị khác nhau hiện nay. -
Vì lợi ích chung của toàn thế giới, các nước có chủ nghĩa xã hội và
chính trị khác nhau vẫn có thể thông qua các tổ chức quốc tế, đối
thoại, hòa giải, những tranh chấp về kinh tế, lãnh thổ lãnh hải, tài
nguyên thiên nhiên, v.v.. và những bất đồng khác. Xu hướng đối
thoại, hòa giải đang là xu hướng chủ đạo hiện nay. Các cuộc chiến
tranh dưới màu sắc dân tộc, tôn giáo, hay dưới chiêu bài “nhân đạo”
chống vũ khí hóa học, sinh học, đang bị các thế lực tiến bộ lên án phản đối. -
Xu hướng giữ vững độc lập tự chủ của quốc gia dân tộ c, không phụ
thuộc và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đấu tranh
cho dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội đang diễn ra mạnh mẽ,
ngày càng tỏ ra chiếm ưu thế. Các quốc gia, dân tộc sẽ đi tới một xã
hội dân chủ, tự do, công bằng, văn minh theo cách của mình thông
qua các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, y
tế, khoa học - công nghệ,.. Và do đó dù không có các cuộc các mạng
điển hình như đã từng diễn ra trong lịch sử, thì xã hội hiện đại sẽ
phát triển theo hướng thay đổi từng bộ phận, yếu tố, lĩnh vực trong
đời sống xã hội. Thay đổi trước hết về lực lượng sản xuất rồi đến
quan hệ sản xuất, từ đó dẫn đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế tức cơ sở
hạ tầng và do đó thay đổi các yếu tố của cấu trúc thượng tầng xã
hội, dẫn đến thay đổi toàn bộ xã hội. -
Trong thời đại ngày nay, theo nguyên lý về sự phát triển của triết
học Mác-Lênin, khó có thể để bùng nổ những cuộc cách mạng xã hội
điển hình như cách mạng tháng 10 Nga năm 1917,… các cuộc cách
mạng sẽ diễn ra dưới hình thức chuyển hóa, thay đổi dần dần từng
yếu tố, bộ phận, lĩnh vực của đời sống xã hội. Xã hội sau sẽ phát
triển hơn xã hội trước. -
Việt Nam đang hướng tới mục tiêu : dân giàu nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.