lOMoARcPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HTTTKT
& TMĐT
--------
--------
BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
TÀI:
Nhận diện và phê phán luận điểm cho rằng
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lịch sử
Học phần:
Chủ nghĩa xã hội khoa học
Lớp học phần:
251
_HCMI0121_
09
Giảng viên hướng dẫn:
Khuất Thị Nga
Nhóm thực hiện:
Nhóm 3
Hà Nội, tháng 09 năm 2025
MỤC LỤC
lOMoARcPSD| 45740413
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................................................0
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................................0
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN...............................................................................................................0
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con đường đi lên CNXH................................................0
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam................................................2
1.3. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa......................5
CHƯƠNG 2: NHẬN DIỆN LUẬN ĐIỂM CHO RẰNG “VIỆT NAM ĐI LÊN CNXH LÀ SAI LẦM
LỊCH SỬ”..................................................................................................................................................0
2.1. Nguồn gốc và cơ sở hình thành luận điểm........................................................................................0
2.2. Mục đích của luận điểm...................................................................................................................1
2.3. Nội dung và lập luận của quan điểm “Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lịch sử"....1
2.4. Tác động, hệ quả xã hội của luận điểm ............................................................................................ 14
CHƯƠNG 3: PHÊ PHÁN VÀ BÁC BỎ QUAN
ĐIỂM..........................................................................63.1 Tính tất yếu khách quan của con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam ...................................................................................................................................... 16
3.2 Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN .. 17
3.3. Phê phán bản chất sai lầm trong lập luận phủ nhận con đường CNXH ở Việt Nam ........................ 23
CHƯƠNG 4: KHẲNG ĐỊNH TÍNH ĐÚNG ĐẮN..................................................................................0
4.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam................................................................................0
4.2. Thành quả và định hướng phát triển bền vững.................................................................................3
4.3. Ý nghĩa đối với dân tộc và thời đại...................................................................................................8
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN.......................................................................................................................11
5.1. Tóm tắt vấn đề................................................................................................................................11
5.2. Khẳng định tính đúng đắn khoa học và thực tiễn............................................................................11
5.3. Đề xuất, kiến nghị nâng cao nhận thức, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái..............................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO..................................................................................................0
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện bài thảo luận này, tập thể
nhóm chúng em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và hỗ trợ vô cùng quý báu từ nhiều cá
nhân tập thể. Trước hết, chúng em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám
hiệu nhà trường những người luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao tạo mọi điều kiện thuận
lợi để sinh viên có môi trường học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện bản thân một cách
toàn diện. Chính trong môi trường ấy, chúng em cơ hội được tiếp cận, m hiểu, thảo
luận về những vấn đề lớn lao, ý nghĩa cả về mặt luận lẫn thực tiễn, trong đó chủ
đề thảo luận lần này.
lOMoARcPSD| 45740413
Tiếp đó, chúng em xin gửi lời tri ân chân thành đến quý thầy trong tổ bộ môn,
những người đã truyền đạt cho chúng em không chỉ kiến thức chuyên ngành còn cả tinh
thần học thuật nghiêm túc, thái độ nghiên cứu khách quan phương pháp duy khoa
học. Kiến thức chúng em tiếp nhận được không chỉ dừng lại sách vở còn được
mở rộng qua những bài giảng sinh động, những gợi mở sắc bén và những kinh nghiệm quý
báu được đúc kết từ thực tiễn công tác của thầy cô. Đây hành trang quan trọng giúp
chúng em vững tin hơn trong quá trình thực hiện đề tài.
Chúng em đặc biệt xin gửi lời cảm ơn đến giảng viên trực tiếp giảng dạy và hướng
dẫn chúng em trong học phần này. Chính sự tận tâm, sự chỉ bảo cặn kẽ tinh thần trách
nhiệm cao của thầy đã tạo động lực để nhóm chúng em nghiêm c tìm hiểu, lựa chọn
phương pháp tiếp cận phù hợp nỗ lực hoàn thiện bài thảo luận. Những nhận xét, góp ý
định hướng của thầy đã giúp chúng em nhìn nhận vấn đề một cách hệ thống, tránh
được lối suy nghĩ phiến diện, đồng thời khai mở nhiều khía cạnh mới trong quá trình nghiên
cứu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm hiểu, phân tích và trình bày vấn đề, song
do giới hạn về thời gian, kiến thức kinh nghiệm, bài thảo luận khó tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế. Chúng em kính mong nhận được những góp ý quý báu từ thầy c
bạn để bài làm của nhóm ngày càng hoàn thiện hơn, đồng thời cũng để chúng em cơ hội
rèn luyện thêm kỹ năng nghiên cứu, tư duy phản biện và phương pháp trình bày khoa học.
LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam hiện đại, vấn đề lựa chọn con đường phát triển luôn
gắn liền với những bước ngoặt lớn lao. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
dân tộc ta giành được độc lập, mở ra kỷ nguyên mới – kỷ nguyên tự do và tự quyết. Trong
bối cảnh ấy, việc lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam không chỉ là một định hướng chính trị, mà còn là một quyết định mang tính lịch
sử, gắn liền với khát vọng độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Tuy nhiên, cùng với tiến trình lịch sử, đã xuất hiện không ít quan điểm hoài nghi,
phủ nhận. Một trong những luận điểm thường được nhắc đến là: Việt Nam đi lên chủ
nghĩa hội một sai lầm lịch sử”. Đây nhận định phiến diện, bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân khác nhau.
Tuy nhiên, khi nhìn lại toàn bộ chặng đường cách mạng của n tộc, chúng ta thấy
rằng sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa hội không phải là sự áp đặt chủ quan,
là kết quả của quá trình lịch sử, phù hợp với khát vọng của nhân dân và xu thế tiến bộ của
thời đại. Chính sự lựa chọn ấy đã giúp Việt Nam giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến
chống xâm lược, bảo vvững chắc độc lập n tộc, tiếp tục đạt được những thành tựu
to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hơn ba thập kỷ qua.
lOMoARcPSD| 45740413
Đặt trong bối cảnh hiện nay, việc nhận diện phê phán những luận điểm sai trái
phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu vừa mang tính học thuật, vừa mang
ý nghĩa thực tiễn cấp thiết. giúp chúng ta củng cố niềm tin vào slãnh đạo của Đảng,
khẳng định tính tất yếu khách quan của con đường đã lựa chọn, đồng thời phản bác những
quan điểm phiến diện, thiếu cơ sở khoa học. Đây cũng là cách để thế hệ trẻ tiếp nối truyền
thống kiên định, đồng thời giữ vững niềm tin, ý chí trách nhiệm trước vận mệnh dân
tộc.
Chính vậy, nhóm chúng em lựa chọn đề tài: “Nhận diện phê phán luận điểm
cho rằng Việt Nam đi lên chủ nghĩa hội một sai lầm lịch sử”. Qua bài thảo luận này,
chúng em mong muốn đóng góp một góc nhìn khoa học, khách quan; đồng thời khẳng định
niềm tin, trách nhiệm quyết tâm bảo vệ nền tảng ởng của Đảng. Bằng việc phân
tích lý luận, đối chiếu với thực tiễn phát triển của đất nước, chúng em hy vọng thể làm
sáng rõ sự đúng đắn, tất yếu và giá trị của con đường mà dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con đường đi lên CNXH
1.1.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen
Trong học thuyết của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, chủ nghĩa xã hội được xác định là g
iai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, bắt nguồn từ sự phát triển nội tại của phư
ơng thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hai ông chỉ ra rằng, sự ra đời và mở rộng của nền đại
công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã tạo ra mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa tính chất xã hộ
i hóa cao của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu th
uẫn này không thể giải quyết trong khuôn khổ chế độ cũ, mà tất yếu dẫn đến sự thay thế b
ằng một hình thái kinh tế - xã hội mới: chủ nghĩa xã hội, rồi cao hơn là chủ nghĩa cộng s
n.
Ở giai đoạn đầu, Mác và Ăngghen cho rằng cách mạng vô sản chỉ có thể giành thắ
ng lợi đồng thời ở một số nước tư bản phát triển nhất. Lý do là tại đây, giai cấp vô sản đã
trưởng thành cả về số lượng lẫn ý thức chính trị, đồng thời mâu thuẫn giai cấp biểu hiện r
õ rệt và gay gắt. Bên cạnh đó, tính quốc tế của nền sản xuất tư bản khiến cách mạng xã hộ
i chủ nghĩa khó có thể chỉ diễn ra biệt lập trong phạm vi một quốc gia.
Tuy nhiên, trước sự vận động thực tiễn của xã hội Nga và một số quốc gia Đông Â
u thế kỷ XIX, Mác và Ăng-ghen dần điều chỉnh nhận thức. Các ông cho rằng cách mạng
xã hội chủ nghĩa hoàn toàn có thể bùng nổ ở một nước hoặc một nhóm nước, kể cả nước
kém phát triển, với điều kiện: (i) tồn tại những yếu tố truyền thống như hình thức sở hữu
công cộng (ví dụ công xã nông thôn Nga), (ii) có sự liên hệ, hỗ trợ từ phong trào công nh
ân ở phương Tây. Điều này mở ra khả năng đa dạng hơn cho con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội.
lOMoARcPSD| 45740413
Một luận điểm xuyên suốt và có tính chất nền tảng trong tư tưởng Mác Ăng-ghe
n là sự cần thiết phải trải qua thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng s
ản, mà hình thức chính trị tất yếu là chuyên chính vô sản. Theo các ông, chỉ có
thiết chế chính trị này mới đủ khả năng đập tan bộ máy nhà nước tư sản, xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật mới, và bảo vệ thành quả cách mạng trong bối cảnh đấu tranh giai cấp
còn tiếp d iễn. Đây là một trong những phát hiện lý luận then chốt, vừa phản ánh tính tất
yếu khách quan của sự phát triển, vừa chỉ ra cơ chế thực hiện con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội.
1.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin
Trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển sa
ng giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, với những đặc trưng như tập trung sản xuất và tư bản tài
chính, độc quyền, phân chia thị trường thế giới. V.I.Lênin đã phân tích và chỉ ra rằng, đây
chính là giai đoạn “tột cùng” và “giãy chết” của chủ nghĩa tư bản, đồng thời cũng là thời
kỳ “đêm trước” của cách mạng vô sản.
Từ đó, Lênin bổ sung và phát triển học thuyết Mác bằng một luận điểm có tính
ớc ngoặt: cách mạng xã hội chủ nghĩa không nhất thiết phải nổ ra đồng loạt ở tất cả
các nước tư bản phát triển, mà có thể giành thắng lợi trước tiên ở một quốc gia riêng
lẻ, kể cả ở nước lạc hậu như Nga. Điều kiện quyết định để thực hiện điều này chính là sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản – đội tiên phong chính trị của giai cấp vô sản – cù
ng với sự đoàn kết, ủng hộ của phong trào cách mạng quốc tế.
Lênin đồng thời khẳng định, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mang tính đa dạng,
không rập khuôn, phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, trình độ phát triển kinh tế – xã hội c
ủa từng quốc gia. Trong giai đoạn quá độ, theo ông, không thể bỏ qua những nấc thang tr
ung gian. Chính vì vậy, Lênin đã nhấn mạnh sự cần thiết phải thừa nhận tính tất yếu của
nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có cả chủ nghĩa tư bản nhà nước. Việc này kh
ông đi ngược lại mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là phương thức để phát triển lực lượng sả
n xuất, tích lũy cơ sở vật chất – kỹ thuật, chuẩn bị điều kiện khách quan cho việc xây dựn
g xã hội mới.
Một minh chứng thực tiễn tiêu biểu cho sự sáng tạo lý luận của Lênin chính là Chí
nh sách Kinh tế mới (NEP) được ban hành ở nước Nga sau nội chiến. Chính sách này c
ho phép khôi phục sản xuất hàng hóa, lưu thông tiền tệ, mở cửa thương mại và hợp tác vớ
i tư bản nước ngoài. Trên thực tế, NEP đã giúp nền kinh tế Nga thoát khỏi khủng hoảng,
khôi phục sản xuất và từng bước tạo ra tiền đề vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩ
a xã hội.
Như vậy, với những bổ sung lý luận quan trọng, Lênin đã chứng minh tính khả thi
của việc đi lên chủ nghĩa xã hội từ một quốc gia lạc hậu, đồng thời chỉ ra con đường quá
lOMoARcPSD| 45740413
độ phải vừa có nguyên tắc, vừa có sự linh hoạt. Đóng góp này đã phát triển học thuyết M
ác lên một tầm cao mới, hình thành nên hệ thống lý luận hoàn chỉnh chủ nghĩa Mác L
ênin – trở thành nền tảng cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thế kỷ XX.
→ Tóm lại, các nhà kinh điển Mác - Lênin đã luận giải khoa học về tính tất yếu củ
a chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chỉ ra nh quy luật chung cần p
hải kiên định, đồng thời nhấn mạnh tính đặc thù của xây dựng chủ nghĩa hội trong từn
g điều kiện lịch sử cụ thể ở từng quốc gia dân tộc, từ đó tạo cơ sở khoa học cho không ng
ừng bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo đối với các thế hệ sau.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng sản Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
bản của cách mạng Việt Nam, từ đó phản ánh những vấn đề tính quy luật của cách
mạng Việt Nam. Đó là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Để đạt mục tiêu đó, con đường phát triển của dân tộc
Việt Nam độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Mục tiêu con đường này đúng
theo luận Mác-Lênin; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sự
quản lý của Nhà nước cách mạng; xác định lực lượng cách mạng là toàn thể nhân dân Việt
Nam yêu nước, xây dựng con người Việt Nam năng lực phẩm chất đạo đức cách
mạng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trên cơ sở quan hệ quốc tế hòa
bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển; với phương pháp cách mạng phù hợp…
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hộixã hội ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng
sản. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội không còn áp bức,
bóc lột, xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau. Vận
dụng học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác để nghiên cứu về tiến trình lịch sử,
Hồ Chí Minh cho rằng: "Cách sản xuất sức sản xuất phát triển biến đổi mãi, do đó
mà tưởng của người, chế đhội, v.v., cũng phát triển biến đổi. Chúng ta đều biết
từ đời xưa đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành cây, búa đá đã phát triển dần đến
máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy
đến chế độ lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ bản chủ nghĩa và ngày nay gần một
nửa loài người đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát
triển tiến bộ đó không ai ngăn cản được". Tuy nhn, ngay từ m 1953 Hồ Chí Minh
đã nhận thấy: Tùy hoàn cảnh, các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau.
nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân
chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa hội như các ớc Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta.
lOMoARcPSD| 45740413
Người giải thích: Chế độ dân chủ mới là chế độ dưới sự lãnh đạo của Đảng giai cấp
công nhân, nhân dân đã đánh đổ đế quốc phong kiến; trên nền tảng công nông liên minh,
nhân dân lao động làm chủ, nhân dân dân chủ chuyên chính theo tưởng của chnghĩa
Mác-Lênin. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu
tuân theo những quy luật khách quan, trước hết những quy luật trong sản xuất vật chất;
song, tùy theo bối cảnh cụ thể thời gian, phương thức tiến lên chủ nghĩa hội mỗi
quốc gia sẽ diễn ra một cách khác nhau; trong đó, những nước đã qua giai đoạn phát triển
bản chủ nghĩa sẽ "đi thẳng" lên chủ nghĩa hội. Những nước chưa qua giai đoạn phát
triển này thể đi lên chủ nghĩa hội sau khi đã "đánh đổ để quốc phong kiến" dưới
sự lãnh đạo của Đảng vô sản và được tư tưởng Mác-Lênin dẫn đường. Với nhận định trên,
Hồ Chí Minh đã cho thấy tính chất chung của các quy luật phát triển xã hội và tính đặc thù
trong sự thể hiện các quy luật đó những quốc gia cụ thể, trong những điều kiện cụ thể.
Đối với Việt Nam, hàng nghìn năm dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến, thực
dân, nhiều khuynh hướng cứu dân, cứu nước đã được thử nghiệm nhưng đều không đem
lại kết quả cuối cùng mà dân tộc khát khao đạt được. Chỉ chủ nghĩa hội mới nguồn
gốc của tự do, bình đẳng, bác ái, xóa bỏ những bức tường dài ngăn cản con người yêu đoàn
kết, yêu thương nhau. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân loại nói chung, của Việt
Nam nói riêng vừa một tất yếu của lịch sử, vừa đáp ứng được khát vọng của những lực
lượng tiến bộ xã hội trong quá trình đấu tranh tự giải phóng mình.
Với Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định Đảng như người cầm
lái” cho con thuyền trong suốt cả quá trình cách mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân cả trong cách mạng hội chủ nghĩa. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam một tất yếu, vai trò lãnh đạo của Đảng cũng một tất yếu - điều đó xuất
phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam. Thực tế quá trình cách mạng Việt Nam
vận dụng phát triển ởng Hồ Chí Minh đã nói lên rằng , sự bảo đảm, phát huy vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình phát triển của đất nước theo
mục tiêu chủ nghĩa hội một nguyên tắc vận hành của hội Việt Nam từ khi có Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là một đảng chính trị tồn
tại và phát triển theo những quan điểm của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp sản.
Hồ Chí Minh cho rằng: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam kết quả của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân phong trào yêu nước. Như vậy, so với
học thuyết Mác - Lênin thì Hồ Chí Minh đưa thêm vào, yếu tố thứ ba nữa, đó là phong trào
yêu nước.Quan điểm của Hồ Chí Minh trên đây là hoàn toàn phù hợp với xã hội thuộc địa
và phong kiến như Việt Nam, khi mọi giai cấp, tầng lớp, trừ tư sản mại bản và đại địa chủ,
còn đều mâu thuẫn dân tộc. Đó mâu thuẫn bản giữa toàn thnhân dân Việt Nam
với các thế lực đế quốc và tay sai. Trong thực tế, những phong trào đấu tranh của công nhân
đã kết hợp được rất nhuần nhuyễn với phong trào yêu ớc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
lOMoARcPSD| 45740413
đời, tồn tại và phát triển chính là do nhu cầu tất yếu của xã hội Việt Nam từ đầu năm 1930
trở đi. Đảng đã được toàn dân tộc trao cho sứ mệnh lãnh đạo đất nước trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhận đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động của dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Ngay từ khi ra đời, "thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng đã đề ra đường lối
cách mạng đúng đắn... Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn
chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của c giai cấp khác thì hoặc bị phá sản,
hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không
ngừng củng cố và tăng cường".
Đường lối cách mạng của Đảng hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách về
mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam, Đường lối cách
mạng của Đảng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị...
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tùy theo nội dung, tính chất, phạm
vi và thời gian... Đảng đề ra đường lối cách mạng theo các cấp độ khác nhau. đường lối
chính trị chung, xuyên suốt cả quá trình cách mạng như: đường lối độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa hội. đường lối cách mạng trong thời kỳ lịch sử như: đường lối ch
mạng dân tộc dân chủ nhân dân; đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa. Có đường lối vạch
ra trong từng giai đoạn như: Từ khi ra đời (1930), Đảng đã đề ra đường lối đúng đắn về
giải phóng dân tộc, coi nhiệm vụ hàng đầu đánh đổ đế quốc phong kiến, giành độc
lập dân tộc chính quyền về tay nhân dân. Đường lối đó đã dẫn dắt phong trào cách mạng
đi đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc. Trong giai đoạn kháng chiến kiến
quốc (1945-1975), đường lối của Đảng tiếp tục thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo khi xác
định vừa kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, vừa xây dựng chính quyền dân
chủ nhân dân, phát triển kinh tế, n hóa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Chính
đường lối y đã đưa dân tộc Việt Nam đến thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975, hoàn
thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bước sang giai đoạn sau 1975,
Đảng xác định nhiệm vụ trung tâm tiến hành cách mạng hội chnghĩa trên phạm vi
cả nước, tập trung xây dựng phát triển kinh tế, thực hiện cải tạo hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và bối cảnh quốc tế phức tạp,
nền kinh tế - hội ớc ta lâm vào nhiều khó khăn, khủng hoảng. Trước yêu cầu đó, tại
lOMoARcPSD| 45740413
Đại hội VI (1986), Đảng đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là
đổi mới về kinh tế, chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa, đồng thời tiếp tục đổi mới chính trị, văn hóa, hội, đối ngoại. Từ đó đến nay, đường
lối đổi mới được khẳng định sự lựa chọn đúng đắn, góp phần đưa Việt Nam thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - hội, từng bước hội nhập quốc tế, đạt được nhiều thành tựu quan
trọng trên các lĩnh vực. Như vậy, qua từng thời kỳ, đường lối của Đảng luôn kim chỉ
nam, đảm bảo cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi và phát triển bền vững.
Đường lối cách mạng của Đảng chỉ có giá trị chỉ đạo thực tiễn khi nắm bắt đúng quy
luật vận động khách quan.Vì vậy trong quá trình lãnh đạo chỉ đạo cách mạng, Đảng phải
thường xuyên chủ động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, phát
triển đường lối, thậm chí nếu thấy đường lối không còn phù hợp với sự vận động của thực
tiễn thì phải thay đổi. Đường lối đúng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng, quyết định vị trí, uy tín của Đảng đối với quốc gia dân tộc. vậy, để tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng trước hết phải xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn. Nghĩa
là, đường lối của Đảng phải được hoạch định trên cơ sở kết hợp sáng tạo quan điểm lý luận
khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin; tri thức tiên tiến của nhân loại; đặc điểm, yêu cầu,
nhiệm vụ của thực tiễn cách mạng Việt Nam đặc điểm, xu thế quốc tế. Đường lối đó
phải nhằm phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đường lối đúng sẽ đi vào đời sống, soi
sáng thực tiễn trở thành ngọn cờ thức tỉnh, động viên và tập hợp quần chúng nhân n
tham gia tự giác phong trào cách mạng một cách hiệu quả nhất. Ngược lại, nếu sai lầm về
đường lối thì cách mạng sẽ bị tổn thất, thậm chí bị thất bại. Để hoạch định đường lối cách
mạng đúng đắn Đảng phải nắm vững vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn vận động của đất nước thời đại, tìm tòi nghiên
cứu để nắm bắt những quy luật khách quan, chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều,
chủ quan, duy ý chí.
1.3. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa
1.3.1. Điều kiện lịch sửxã hội của Việt Nam khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Việt Nam bước vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh vừa có t
huận lợi vừa có nhiều khó khăn, thách thức. Xuất phát điểm của đất nước là một xã hội th
uộc địa, nửa phong kiến, với lực lượng sản xuất hết sức thấp kém. Hậu quả của nhiều thậ
p kỷ chiến tranh ác liệt để lại rất nặng nề, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, tàn dư của c
hế độ thực dân, phong kiến còn nhiều, trong khi các thế lực thù địch luôn tìm cách phá ho
ại độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, bối cảnh quốc tế cũng có ảnh hưởng sâu sắc. Cuộc cách mạng khoa h
ọc và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các quốc gia ở mức độ kh
lOMoARcPSD| 45740413
ác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội ngày càng mang tính quốc tế hóa sâu sắ
c, vừa mở ra thời cơ phát triển nhanh, vừa đặt ra thách thức gay gắt. Thời đại ngày nay, d
ù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ, song xét về bản chất, vẫn là t
hời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các quốc gia với chế độ xã hội v
à trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa cạnh tranh, đấu tranh
gay gắt vì lợi ích dân tộc. Trong dòng chảy đó, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội vẫn tiếp tục, khẳng định xu thế tất
yếu loài ngư ời sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội.
1.3.2. Tính tất yếu khách quan của con đường bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nh
ất đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Ngay từ Cương lĩnh năm 1930, Đảng ta đã xác địn
h sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sẽ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là sự lựa chọn dứt khoát và khoa học, phù hợp với quy luật phát triển khách qua
n của cách mạng Việt Nam, đồng thời đáp ứng nguyện vọng thiết tha của nhân dân và ph
ản ánh xu thế tiến bộ của thời đại.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: con đường đi lên của nước ta là sự phát t
riển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Bỏ qua ở đây không có
nghĩa là phủ định sạch trơn mọi yếu tố tư bản, mà là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị củ
a quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Đồng thời, con đường này
đòi hỏi phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa t
ư bản, đặc biệt là về khoa học, công nghệ và quản lý xã hội, để phát triển lực lượng sản x
uất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
1.1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ bản chnghĩa con đườn
g cách mạng tất yếu khách quan, phản ánh quy luật phát triển phù hợp với điều kiện lịch s
ử cụ thể của Việt Nam. Đây là định hướng chiến lược của toàn Đảng và toàn dân trong qu
á trình xây dựng đất nước.
Thứ hai, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có nghĩa là trong thời kỳ quá độ, nền kinh
tế vẫn tồn tại nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu khác nhau, nhưng quan hệ sản xu
ất và thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa không giữ vai trò thống trị. Trong cơ chế phân
phối, phân phối theo lao động giữ vai trò chủ đạo, song vẫn tồn tại phân phối theo mức đ
ộ đóng góp và thông qua quỹ phúc lợi xã hội. Điều này phản ánh tính phức tạp và đa dạn
g trong thời kỳ quá độ, đồng thời cho thấy mâu thuẫn giữa cũ và mới còn tồn tại.
Thứ ba, quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải tiếp thu có chọn lọc nh
ững thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chủ nghĩa tư bản. Đặc biệt, phải tận dụng các t
lOMoARcPSD| 45740413
hành tựu khoa học, công nghệ, cũng như kinh nghiệm quản lý xã hội hiện đại, để
phục vụ sự phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế tri thức và hội
nhập với xu thế toàn cầu.
Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một quá trìn
h lâu dài, khó khăn, phức tạp và đầy thử thách. Đây là sự biến đổi mang tính chất cách m
ạng, làm thay đổi toàn diện và triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thự
c hiện thành công, cần có quyết tâm chính trị cao và khát vọng lớn của toàn Đảng, toàn d
ân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và bản lĩnh vững vàng trước những biến động
của thời đại, từ đó hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
CHƯƠNG 2: NHẬN DIỆN LUẬN ĐIỂM CHO RẰNG “VIỆT NAM ĐI LÊN
CNXH LÀ SAI LẦM LỊCH SỬ”
2.1. Nguồn gốc và cơ sở hình thành luận điểm
Luận điểm cho rằng Việt Nam đi lên chủ nghĩa hội là một sai lầm lịch sử xuất
hiện chủ yếu từ các quan điểm phản bác con đường hội chủ nghĩa sau Chiến tranh Lạnh,
khi nhiều quốc gia theo hình này lâm o khủng hoảng hoặc sụp đổ. Nguồn gốc của
luận điểm này bắt nguồn từ sự so sánh phiến diện giữa thành tựu phát triển kinh tế của các
nước bản chủ nghĩa phương Tây với những khó khăn, hạn chế của các quốc gia hội
chủ nghĩa trong giai đoạn đầu xây dựng. Sau năm 1991, sự tan rã của Liên Xô và các nước
Đông Âu trở thành cái cớ để nhiều thế lực thù địch và các học giả mang định kiến tưởng
cho rằng mọi con đường hội chủ nghĩa đều thất bại tất yếu, từ đó áp đặt lên Việt Nam
quan điểm rằng lựa chọn này là một “sai lầm lịch sử”.
sở hình thành luận điểm này n xuất phát từ những khó khăn nội tại của Việt
Nam trong thời kỳ trước đổi mới: kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp dẫn đến
khủng hoảng, lạm phát, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, khiến một bộ phận trong
ngoài nước nghi ngờ khả năng thành công của con đường hội chủ nghĩa. Bên cạnh
đó, sự thiếu hiểu biết hoặc cố tình bỏ qua bối cảnh lịch sử dân tộc Việt Nam một đất nước
vừa trải qua chiến tranh giải phóng dân tộc lâu dài, cần một con đường phát triển độc
lập, tự chủ, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể – đã góp phần củng cố luận điểm sai lệch
này. Một số thế lực phản động và truyền thông phương Tây cũng sử dụng các phương tiện
tuyên truyền, viện dẫn các khó khăn trước mắt để phủ nhận tính tất yếu và chính đáng của
sự lựa chọn này.
Thực chất, việc Việt Nam đi lên chủ nghĩa hội không phải là một sự áp đặt ngẫu
nhiên được hình thành trên squy luật phát triển lịch sử của dân tộc, kế thừa
tưởng Hồ Chí Minh và sự lựa chọn của nhân dân qua các thời kỳ cách mạng. Từ sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, mục tiêu giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội và
lOMoARcPSD| 45740413
con người, đặt nền móng cho con đường hội chủ nghĩa. Sau năm 1975, thống nhất đất
nước đòi hỏi một mô hình phát triển vừa bảo đảm độc lập dân tộc, vừa phù hợp với xu thế
thời đại, và lựa chọn xã hội chủ nghĩa là kết quả của quá trình đấu tranh lịch sử chứ không
phải một quyết định mang tính thử nghiệm.
2.2. Mục đích của luận điểm
Mục đích của luận điểm cho rằng Việt Nam đi lên chủ nghĩa hội một sai lầm
lịch sử xuất phát từ nhiều động cơ khác nhau, trong đó chủ yếu nhằm phục vụ lợi ích chính
trị, tưởng chiến lược của các thế lực đối lập với con đường hội chủ nghĩa. Một
trong những mục đích chính là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
làm suy yếu niềm tin của nhân dân đối với con đường xã hội chủ nghĩa mà đất nước đã lựa
chọn. Bằng cách gắn nhãn “sai lầm lịch sử”, họ muốn gieo rắc hoài nghi, gây chia rẽ trong
xã hội và kích động xu hướng rời bỏ nền tảng tư tưởng hiện tại để chuyển sang quỹ đạo tư
bản chủ nghĩa.
Luận điểm này còn nhằm làm giảm uy tín quốc tế của Việt Nam, biến những thành
tựu chưa toàn diện hoặc khó khăn trong quá trình phát triển thành bằng chứng chống lại
chế độ. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đây một công cụ để gây sức ép chính trị và kinh tế,
ép buộc Việt Nam phải chấp nhận những hình phát triển phụ thuộc vào các ớc lớn
hoặc đi theo con đường mà các thế lực bên ngoài mong muốn. Mục tiêu sâu xa hơn là từng
bước làm mất ổn định chính trị, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và tiến tới thay đổi chế
độ chính trị theo hướng có lợi cho họ.
2.3. Nội dung và lập luận của quan điểm “Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là
một sai lầm lịch sử"
Các quan điểm phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thường dựa trên mộ
t số nhóm lập luận chính sau đây:
Thứ nhất, các thế lực thù địch tuyệt đối hóa sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên
Xô và Đông Âu để phủ nhận tính đúng đắn của học thuyết Mác-Lênin. Chúng rêu rao rằn
g “sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô chính là sự cáo chung, là cái chết của chủ ng
hĩa xã hội”, “nếu Việt Nam vẫn cứ tiếp tục đi theo chủ nghĩa xã hội thì cũng sẽ theo vết x
e đổ của Liên Xô, sẽ tất yếu dẫn tới sự sụp đổ, đó là tương lai nhìn thấy trước”, “chủ nghĩ
a xã hội ngày nay đã vào giờ thứ 25 trên phạm vi toàn cầu”. Có thể nói, đây là những luậ
n điệu được các thế lực thù địch sử dụng chống phá từ ngay sau khi hệ thống xã hội chủ n
ghĩa theo mô hình của Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trên thực tế đã bị bác bỏ cả về lý luận
và thực tiễn.
thể thấy thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ hội chủ nghĩa Liên Đông
Âu không phải do chủ nghĩa Mác Lênin sai lầm mà chính do các Đảng Cộng sản
lOMoARcPSD| 45740413
những quốc gia này đã nhận thức vận dụng sai chủ nghĩa Mác Lênin, thậm chí đòi x
ét lại, phản bội, xa rời những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, nhiều quốc gia trên thế giới vẫn đang coi chủ nghĩa x
ã hội là mục tiêu của mình và đang chứng minh chủ nghĩa xã hội sẽ là tương lai của
loài n gười.
Lập luận này cố tình đánh đồng sự sụp đổ của một mô hình Xô Viết với sự thất bạ
i của cả một học thuyết khoa học cách mạng, bỏ qua những nguyên nhân chủ quan, kh
ách quan dẫn đến sự khủng hoảng đó.
Thứ hai, họ cho rằng Việt Nam không có đủ tiền đề, điều kiện để đi lên CNXH. D
ựa trên lý luận về việc CNXH chỉ có thể ra đời ở các nước tư bản phát triển cao, các quan
điểm này cho rằng Việt Nam, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triể
n tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên CNXH là hành động "đốt cháy giai đoạn", duy ý chí.
Những kẻ cơ hội, phản động lớn tiếng suy diễn rằng, nếu không theo con đường đi lên ch
ủ nghĩa xã hội thì rất có thể đất Việt Nam đã trở thành con rồng, con hổ như Hàn Quốc, S
ingapore… Tuy nhiên, đây thực chất là những luận điệu của những kẻ có dụng tâm
xấu. Thực tiễn Việt Nam đã bác bỏ những luận điệu này. Ai đã từng sống qua hai thời kỳ
trướ c đổi mới và đổi mới ở Việt Nam đều thấy rõ những thay đổi lớn lao, những bước
chuyển mình, tiến bộ thực sự của cả một dân tộc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hó a, quốc phòng an ninh, đối ngoại
Không chỉ chúng ta mà cộng đồng quốc tế cũng đánh giá cao sự phát triển của Việ t
Nam. Báo chí thế giới dùng nhiều mỹ từ để nói về những thay đổi tích cực ở Việt Nam
như: “Điều kỳ diệu Việt Nam”, “Việt Nam – ngôi sao đang nổi trên bản đồ kinh tế thế giớ
i”, “Việt Nam – điểm sáng kinh tế thế giới”, Việt Nam được coi là “tấm gương với nhiều
nước đang phát triển trên thế giới”. Chúng vin vào thực tế khó khăn, nền kinh tế bị tàn ph
á sau chiến tranh để lập luận rằng lựa chọn con đường XHCN đã làm Việt Nam tụt hậu so
với các quốc gia có cùng xuất phát điểm trong khu vực nhưng lại phát triển theo con đườ
ng tư bản.
Thứ ba, họ khoét sâu vào những sai lầm, yếu kém trong một giai đoạn lịch sử nhất
định để phủ nhận toàn bộ quá trình xây dựng CNXH. Lập luận này tập trung phê phán m ô
hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp trước thời kỳ Đổi mới. Họ chỉ ra
những hậu quả như kinh tế trì trệ, lạm phát, đời sống nhân dân khó khăn để khẳng định đ
ó là bản chất của CNXH. Ngay cả với mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện
nay, họ vẫn cho rằng đó là một khái niệm mâu thuẫn, mơ hồ, thực chất là "kinh tế tư bản
nhà nước" trá hình, nhằm phủ nhận vai trò kiến tạo, định hướng của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa và những thành tựu vượt bậc của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác L
ênin đã khẳng định: “Xây dựng tòa lâu đài của chủ nghĩa xã hội từ những viên gạch của c
lOMoARcPSD| 45740413
hủ nghĩa tư bản, chứ không phải từ hư vô, từ mảnh đất trống không, phải dùng c
hai tay mà nắm bắt lấy những thành tựu của chủ nghĩa tư bản”. Kế thừa là quy luật phát
triển, xâ y dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kế thừa nhiều giá trị của chủ nghĩa tư bản là
tất yếu lịc h sử. Do vậy, việc dựa vào những điểm tương đồng giữa các nước xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa để ngụy biện, đánh tráo, biến cái không bản chất thành cái bản
chất rồi cho rằng Việt Nam đang đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hoặc là thiếu hiểu
biết hoặc là cố tình xuyên tạc.
Cuối cùng, các thế lực thù địch tuyên truyền rằng “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ
thể từ những nước bản chủ nghĩa đã phát triển; Việt Nam xác định đi lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là trái quy luật, “chưa học bò đã lo họ
c chạy”, cuối cùng sẽ chỉ là con đường vòng đến chủ nghĩa tư bản mà thôi”.
Tuy nhiên, đây là sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác Lênin. Bên cạnh khả năng quá độ
trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản phát triển lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng
đã chỉ ra khả năng quá độ gián tiếp từ một nước tiền tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội và chỉ
ra những điều kiện cần thiết để thực hiện sự quá độ gián tiếp này. C.Mác nhận định rằng,
loài người xét trên phạm vi rộng và thời gian dài, sẽ trải qua 5 hình thái kinh tế – xã hội,
nhưng ở một xã hội cụ thể, có thể bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế – xã hội nào đ
ó trong quá trình phát triển thì vẫn là quá trình lịch sử – tự nhiên, vẫn là hợp quy luật.
Ngoài ra, các thế lực thù địch, phản động không ngớt lời ca ngợi, “tô son, trát phấ
n” rằng “chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, việc cho rằng chủ nghĩa tư bản là bóc lột
chỉ đúng ở thế kỷ XIX trong giai đoạn đầu, hiện nay chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ ng
hĩa tư bản nhân dân, đã vì người lao động. Ngày nay, công nhân đã có cổ phần, cổ phiếu,
đã trở thành ông chủ, không bị bóc lột nữa. Những điều mà chủ nghĩa xã hội mong muốn
thì chủ nghĩa tư bản hiện nay đã thực hiện rồi, chủ nghĩa tư bản có thể hội tụ với chủ nghĩ
a xã hội trong thời đại hậu công nghiệp, văn minh tin học hiện nay. Việt Nam nói đi lên c
hủ nghĩa xã hội chỉ là nói về cái hư vô, không có thật”.
2.4. Tác động, hệ quả xã hội của luận điểm
2.4.1. Về Tư tưởng - Chính trị: Xói mòn nền tảng tư tưởng, làm suy giảm niềm tin
Đây là tác động thâm độc và nguy hiểm nhất. Mục tiêu hàng đầu của các luận điệu
này là tấn công trực diện vào nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tư
ởng Hồ Chí Minh. Bằng cách xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu và khoét sâu vào nhữ
ng khó khăn, yếu kém, chúng gieo rắc sự hoài nghi, làm lung lay niềm tin của một bộ phậ
n cán bộ, đảng viên và nhân dân vào con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Khi niề
m tin – yếu tố nền tảng của mọi xã hội – bị xói mòn, sẽ dẫn đến mất phương hướng, khủn
g hoảng lý tưởng. Thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa": Từ sự dao động về tư tưởng,
một bộ phận cán bộ, đảng viên có thể phai nhạt lý tưởng cách mạng, suy thoái về tư tưởn
lOMoARcPSD| 45740413
g chính trị, đạo đức, lối sống. Đây chính là mối nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" t
ừ bên trong nội bộ, một trong những thách thức lớn nhất đối với sự vững mạnh của Đảng
và chế độ.
2.4.2. Về Kinh tế - Xã hội: Phủ nhận thành tựu, gây chia rẽ và làm trì trệ sự phát t
riển
Các luận điệu sai trái tác động tiêu cực đến môi trường xã hội và động lực phát triể
n kinh tế của đất nước. Chúng cố tình vẽ nên một bức tranh u ám về kinh tế - xã hội Việt
Nam, xem nhẹ hoặc phủ nhận sạch trơn những thành tựu vượt bậc về tăng trưởng kinh tế,
xóa đói giảm nghèo, hội nhập quốc tế mà cả thế giới đã công nhận. Điều này gây ra tâm l
ý bi quan, chán nản, làm suy giảm động lực lao động, sáng tạo và cống hiến của người dâ
n. Làm rạn nứt khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng cách kích động các vấn đề nhạy cảm
như dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, hay khoét sâu vào khoảng cách giàu nghèo, c
ác luận điệu này nhằm tạo ra mâu thuẫn xã hội, gây chia rẽ giữa nhân dân với Đảng và N
hà nước. Sự mất đoàn kết là nguy cơ làm suy yếu sức mạnh nội sinh của dân tộc, tạo điều
kiện cho các thế lực bên ngoài can thiệp.
2.4.3. Về An ninh Quốc gia: Tạo cớ cho sự can thiệp và gây mất ổn định
Đây là mục tiêu cuối cùng mà các thế lực thù địch hướng tới thông qua việc lan tru
yền các luận điệu sai trái.
Là công cụ của chiến lược "diễn biến hòa bình": Các quan điểm sai trái này chính l
à "vũ khí" tư tưởng, là phương tiện đắc lực để các thế lực thù địch thực hiện chiến
lược "diễn biến hòa bình". Chúng tạo ra "lý do", "cái cớ" để vu cáo Việt Nam vi p
hạm dân chủ, nhân quyền, từ đó can thiệp vào công việc nội bộ, gây sức ép trên cá
c diễn đàn quốc tế.
Tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn chính trị: Việc lan truyền các thông tin sai lệch, kích đ
ộng có thể dẫn đến các hành vi quá khích, tụ tập đông người trái phép, gây rối an n
inh trật tự. Nếu không được ngăn chặn kịp thời, đây có thể trở thành ngòi nổ cho c
ác điểm nóng chính trị, đe dọa trực tiếp đến sự ổn định và an toàn của quốc gia.
2.4. 4. Làm sai lệch hình ảnh quốc gia, gây trở ngại cho công tác đối ngoại và hội
nhập quốc tế
Ngoài các tác động trong nước, các luận điệu sai trái còn là công cụ để các thế lực
bên ngoài làm sai lệch, bóp méo hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng được
khuếch đại, trích dẫn bởi các cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí để biên soạn các báo cáo, ph
úc trình thiếu khách quan, vu cáo Việt Nam "vi phạm dân chủ, nhân quyền". Điều này gâ
y ra những hệ quả trực tiếp có thể kể đến như tạo ra nhận thức sai lệch: Nó khiến một b
phận dư luận quốc tế, thậm chí cả một số chính giới nước ngoài, có cái nhìn phiến diện, s
lOMoARcPSD| 45740413
ai lệch về bản chất chế độ và tình hình thực tế tại Việt Nam. Gây khó khăn cho công tác n
goại giao: Những thông tin sai lệch này tạo ra những trở ngại, gây sức ép không đáng có t
rong các quan hệ song phương và đa phương, trong các cuộc đối thoại về những
vấn đề m à hai bên cùng quan tâm. Nó làm giảm hiệu quả của công tác ngoại giao nhân
dân và nỗ l ực quảng bá hình ảnh một Việt Nam hòa bình, ổn định và phát triển.BÊn cạnh
đó còn ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, hợp tác: Một hình ảnh quốc gia bị bóp méo theo
hướng tiê u cực về chính trị có thể gây ra tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư, du khách nước
ngoài, từ đó ảnh hưởng gián tiếp đến quá trình thu hút đầu tư, phát triển du lịch và hội
nhập kinh tế quốc tế.
2.4.5. "Đầu độc" nhận thức, lý tưởng của thế hệ trẻ, bào mòn tương lai của dân tộ
c
Thế hệ trẻ, với đặc tính năng động, nhạy bén người sử dụng chủ yếu không
gian mạng, chính là đối tượng trọng điểm mà các luận điệu sai trái nhắm tới. Tác động đến
tầng lớp này mang tính chiến lược cùng nguy hiểm như gây nhiễu loạn thông tin, m
hồ về giá trị: Giữa một "ma trận" thông tin thật giả lẫn lộn, những luận điệu được ngụy
tạo tinh vi, sử dụng ngôn từ hấp dẫn có thể khiến giới trẻ bị nhiễu loạn nhận thức, hoài nghi
về lịch sử dân tộc, hồ về lý tưởng con đường đi lên của đất nưc. Gieo rắc lối sống
thực dụng, vị kỷ: Các luận điệu này thường đi kèm với việc cổ xúy lối sống nhân chủ
nghĩa cực đoan, thực dụng, xem nhẹ các giá trị cộng đồng, dân tộc. Chúng ớng thanh
niên xa rời các trách nhiệm hội, phai nhạt lòng yêu nước tưởng cống hiến. Bào
mòn sức mạnh kế thừa: Một thế hệ trẻ mất phương hướng, thiếu niềm tin và lý tưởng sẽ là
một tổn thất to lớn cho ơng lai của dân tộc. Đây là một hình thức "xâm lược mềm", bào
mòn sức mạnh khả năng kế thừa sự nghiệp cách mạng của các thế hệ đi trước, đe dọa
đến sự phát triển bền vững của quốc gia trong tương lai.
CHƯƠNG 3: PHÊ PHÁN VÀ BÁC BỎ QUAN ĐIỂM
3.1 Tính tất yếu khách quan của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
(CNTB) lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là một giai đoạn tất yếu. Bất cứ một quốc gia nào,
dù phát triển hay chưa phát triển, đều phải trải qua thời kỳ lịch sử đặc biệt này khi đi lên
CNXH. Đối với Việt Nam, con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta lựa chọn chính là con đường rút ngắn, th
eo phương thức quá độ gián tiếp. Đây không chỉ là sự lựa chọn chủ quan của một đảng ch
ính trị, mà còn là sự lựa chọn tất yếu khách quan, hợp quy luật, xuất phát từ cả bối cảnh q
uốc tế lẫn thực tiễn cách mạng Việt Nam.
lOMoARcPSD| 45740413
Tớc hết, lựa chọn này bắt nguồn từ bối cảnh lịch sử thế giới lúc bấy giờ. Giữa th
ế kỷ XX, CNTB đã bộc lộ rõ sự lỗi thời về mặt lịch sử. Xã hội tư bản không thể giải quyế
t được mâu thuẫn cơ bản giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa với quan hệ sản x
uất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân. Những cuộc khủng hoảng kinh tế, sự phân
hóa gi àu nghèo, áp bức và chiến tranh đế quốc đã chứng minh rằng CNTB không phải là
tương lai của loài người. Ngược lại, CNXH mà nhân loại đang vươn tới được xem là hình
thái k inh tế – xã hội cao hơn, mang tính nhân văn, giải phóng con người và phát triển tự
do, toà n diện. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, CNXH đã trở thành xu thế
của th ời đại, lôi cuốn nhiều dân tộc đi theo. Do đó, khi Việt Nam lựa chọn đi thẳng lên
CNXH l
à đồng nghĩa với việc đi theo dòng chảy tiến bộ của nhân loại, phù hợp với quy luật
khác h quan của lịch sử.
Bên cạnh bối cảnh quốc tế, tính tất yếu khách quan của con đường này còn bắt ngu
ồn từ yêu cầu lịch sử của chính dân tộc Việt Nam. Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định rõ con đường phát triển của dân tộc là độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta đã thoát khỏi ác
h đô hộ thực dân, phong kiến, nhưng đất nước vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu, giai cấp tư sản
dân tộc yếu ớt, không đủ khả năng lãnh đạo đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa. K
hi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công, nhân dân ta đã thoát khỏi “một cổ hai
tròng”, đồng thời đặt ra hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị cấp bách. Tuy nhiên, nh
ững vấn đề đó chỉ có thể được giải quyết triệt để thông qua việc xây dựng CNXH. Chính
vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong Hội nghị cán bộ văn hóa năm 1958 rằ
ng: “Miền Bắc tiến lên CNXH để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nướ
c nhà.”
Từ cả bối cảnh quốc tế và yêu cầu lịch sử dân tộc, có thể thấy rằng việc Việt Nam
lựa chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn tất yế
u, hợp quy luật, không phải sự áp đặt chủ quan. Đây là sự lựa chọn phù hợp nhất để vừa đ
ảm bảo độc lập dân tộc, vừa mang lại hạnh phúc, lợi ích thực sự cho toàn thể nhân dân. C
ũng chính vì lẽ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và sẽ tiếp tục lãnh đạo toàn thể nhân dân
đi theo con đường CNXH – con đường duy nhất đúng đắn cho sự nghiệp phát triển và tiế
n bộ của đất nước.
3.2 Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN
3.2.1. Một quốc gia có chế độ chính trị độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và tự quyết
định con đường phát triển của mình.
lOMoARcPSD| 45740413
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi đã mở ra bước ngoặt vĩ đại tron g
lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự kiện ngày 2/9/1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã chấm dứt vĩnh vi
ễn chế độ phong kiến, kết thúc hơn 80 năm bị đô hộ. Từ đây, dân tộc Việt Nam bước vào
kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tiếp nối thắng lợi ấy, ngày 06/01/1946, cuộc Tổng Tuyển cử toàn quốc lần đầu tiê
n được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, với 333 đại biểu Quốc hội được nhân dâ
n cả nước tín nhiệm bầu ra. Quốc hội khóa I thông qua Hiến pháp năm 1946 xác lập nền t
ảng pháp lý nhà nước kiểu mới, khẳng định chính quyền của Nhân dân, do Nhân dân và v
ì Nhân dân - có đầy đủ tư cách đại diện cho đất nước trên trường quốc tế.
Sau ba thập kỷ tiếp tục trường kỳ kháng chiến, đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân
m 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối. Hội nghị Trung ương
24 (tháng 9/1975) xác định nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước. N
gày 25/4/1976, hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số) tham gia Tổng Tuyển cử bầu Quốc hội
chung của cả nước. Tại kỳ họp đầu tiên, Quốc hội quyết nghị đặt tên nước là Cộng hòa X
HCN Việt Nam, Quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là “Tiến quân ca”, Quốc huy
mang dòng chữ “Cộng hòa XHCN Việt Nam”, quyết định Hà Nội là Thủ đô và đổi tên
Thành p hố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Việc hoàn tất thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo điều kiện chính trị căn b
ản để huy động, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, mở đường cho sự nghiệp xây dựng và b
ảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới; khẳng định quyền tự quyết của Nhân dân Việt Nam trê
n con đường kiên định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước g
iàu mạnh, văn minh, hùng cường.
3.2.2 .Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày c
àng sáng tỏ.
Ngay từ khi ra đời tháng 2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định con đườn
g XHCN. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được Hội nghị thành lập Đảng thông qua, nêu mụ
c tiêu chiến lược “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” để “tiến tới xã hội cộng sả
n”. Tiếp đó, Luận cương chính trị tháng 10/1930 chỉ rõ: Cách mạng Việt Nam “bỏ qua gi
ai đoạn tư bản, trực tiếp tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã xóa bỏ á
ch thực dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
kỷ nguyên mà Nhân dân làm chủ xã hội và chính cuộc sống của mình.
Tại Đại hội II (tháng 2/1951), Luận cương cách mạng Việt Nam lần đầu tiên trình
bày những điều kiện và phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua hai thập kỷ
chiến tranh giải phóng và kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, nhận thức đó tiếp tục được củng c
lOMoARcPSD| 45740413
ố và phát triển. Bước ngoặt đổi mới toàn diện do Đại hội VI (tháng 12/1986) khởi xướng
đã được lý luận hóa bằng việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, cùng tổng kết thực tiễn cách mạng trong nước, đã tạo nền tảng cho tư duy mới
về thời kỳ quá độ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hộ
i VII (tháng 6/1991) thông qua và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại h
ội XI phê chuẩn, là những mốc quan trọng đánh dấu quá trình hoàn thiện về lý luận. Tám
đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triể
n năm 2011) giúp Đảng nhận thức sâu sắc hơn về dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm ch
ủ của Nhân dân; về mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, coi chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế là trung tâm; về con người và văn hóa là nền tảng tinh thần, ng
uồn lực nội sinh của phát triển; về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với mở rộng q
uan hệ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Từ Đại hội VII đến Đại hội XIII, đường lối đổi mới được bổ sung, hoàn thiện, tiếp
tục khẳng định: Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư t
ưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu đổi mới đồng bộ, t
oàn diện trên mọi lĩnh vực, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thành quả đổi mới gần bốn thập kỷ qua chứng minh tính đúng đắn và sáng tạo của
con đường XHCN ở Việt Nam: kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, đời sống Nhân
dân được cải thiện rõ rệt, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước không ngừng nâng cao. Nh
ững kết quả ấy khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế phát triển của thời đại, đồng thời minh chứng cho sự phát triển ngày càng
sáng tỏ của nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.2.3. Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, kém phát triển, trở th
ành nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Giai đoạn 1945 - 1954 là thời kỳ đầu tiên xây dựng nền kinh tế mới ở Việt Nam, đ
ồng thời cũng là giai đoạn gian khổ nhất trong lịch sử phát triển đất nước. Trong bối cảnh
vừa giành được chính quyền, lại phải bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực d
ân Pháp, nhiệm vụ xây dựng và cải tạo nền kinh tế được triển khai trong điều kiện hết sức
khó khăn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã từng bước chuyển đổi nền kinh tế tàn
dư của chế độ thực dân, phong kiến vốn lạc hậu, lệ thuộc, thành một nền kinh tế dân chủ,
độc lập, phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Từ năm 1955 - 1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai mô hình kinh tế - x
ã hội khác nhau. Ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo thực hiện các
nhiệm vụ k inh tế phù hợp với từng thời kỳ, từ khôi phục và hàn gắn vết thương chiến
lOMoARcPSD| 45740413
tranh (1955 - 1 957), đến hoàn thành cải cách ruộng đất, cải tạo quan hệ sản xuất theo
định hướng XHCN (1958 - 1960), rồi chuyển sang phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với
nhiệm vụ xây dựng hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam trong điều kiện chiến tranh
khốc liệt (1961 - 19 75).
Giai đoạn 1976 - 1985, sau khi đất nước thống nhất, cả nước cùng tiến lên chủ ngh
ĩa xã hội. Đây là thời kỳ mà công cuộc cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế được xác đị
nh là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nhân dân cả nước tích
cực triển khai kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) và kế hoạch 5 năm lần thứ ba (19
81 - 1985). Tuy đã đạt được một số kết quả bước đầu trong khôi phục sản xuất và xây dự
ng cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhưng nhìn chung nền kinh tế vẫn còn nhiều yếu kém. Nhữn
g hạn chế của cơ chế quản lý tập trung, bao cấp kéo dài, cùng những khó khăn từ bên ngo
ài đã khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, mất cân đối, thậm chí có những biểu hiện
của khủng hoảng nghiêm trọng.
Tớc yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, từ năm 1986, Đảng ta khởi xướng và lãnh đ
ạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Với việc từ
ng bước xóa bỏ cơ chế bao cấp, phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành cơ chế thị tr
ường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta
đã có những chuyển biến tích cực. Đến năm 1995, các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm (1991
- 1995) đều hoàn thành và vượt mức, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã h
ội, tạo đà chuyển sang giai đoạn phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh bao
vây, cấm vận, Việt Nam từng bước vươn lên trở thành một quốc gia đang phát triển có th u
nhập trung bình. Tính đến năm 2024, quy nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 32 thế giới,
thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại thu hút đầu nước ngoài. Thành
quả ấy minh chứng sinh động cho tầm vóc, trí tuệ bản lĩnh của Đảng, Nhà nước
Nhân dân ta trong hành trình vượt qua khó khăn, khơi dậy nội lực, tranh thủ thời cơ, hội n
hập sâu rộng và phát triển bền vững.
3.2.4. Văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, dân tộc, khoa học, đại chúng trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành nguồn lực phát triển đất nước.
Nhận thức của Đảng và Nhà nước, của Nhân dân về vai trò của văn hóa trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đầy đủ và nâng cao. Sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng. Tư duy
lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toà
n dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của Nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới
được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; c

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HTTTKT & TMĐT
-------- -------- BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC ĐỀ
TÀI:
Nhận diện và phê phán luận điểm cho rằng
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lịch sử Học phần:
Chủ nghĩa xã hội khoa học Lớp học phần:
251 _HCMI0121_ 09
Giảng viên hướng dẫn: Khuất Thị Nga Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Hà Nội, tháng 09 năm 2025 MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 45740413
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................................................0
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................................0
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN...............................................................................................................0
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con đường đi lên CNXH................................................0
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam................................................2
1.3. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa......................5
CHƯƠNG 2: NHẬN DIỆN LUẬN ĐIỂM CHO RẰNG “VIỆT NAM ĐI LÊN CNXH LÀ SAI LẦM
LỊCH SỬ”..................................................................................................................................................0
2.1. Nguồn gốc và cơ sở hình thành luận điểm........................................................................................0
2.2. Mục đích của luận điểm...................................................................................................................1
2.3. Nội dung và lập luận của quan điểm “Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lịch sử"....1
2.4. Tác động, hệ quả xã hội của luận điểm ............................................................................................ 14
CHƯƠNG 3: PHÊ PHÁN VÀ BÁC BỎ QUAN
ĐIỂM..........................................................................63.1 Tính tất yếu khách quan của con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam ...................................................................................................................................... 16
3.2 Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN .. 17
3.3. Phê phán bản chất sai lầm trong lập luận phủ nhận con đường CNXH ở Việt Nam ........................ 23
CHƯƠNG 4: KHẲNG ĐỊNH TÍNH ĐÚNG ĐẮN..................................................................................0
4.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam................................................................................0
4.2. Thành quả và định hướng phát triển bền vững.................................................................................3
4.3. Ý nghĩa đối với dân tộc và thời đại...................................................................................................8
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN.......................................................................................................................11
5.1. Tóm tắt vấn đề................................................................................................................................11
5.2. Khẳng định tính đúng đắn khoa học và thực tiễn............................................................................11
5.3. Đề xuất, kiến nghị nâng cao nhận thức, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái..............................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO..................................................................................................0 LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện bài thảo luận này, tập thể
nhóm chúng em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và hỗ trợ vô cùng quý báu từ nhiều cá
nhân và tập thể. Trước hết, chúng em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám
hiệu nhà trường – những người luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao và tạo mọi điều kiện thuận
lợi để sinh viên có môi trường học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện bản thân một cách
toàn diện. Chính trong môi trường ấy, chúng em có cơ hội được tiếp cận, tìm hiểu, thảo
luận về những vấn đề lớn lao, có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, trong đó có chủ
đề thảo luận lần này. lOMoAR cPSD| 45740413
Tiếp đó, chúng em xin gửi lời tri ân chân thành đến quý thầy cô trong tổ bộ môn,
những người đã truyền đạt cho chúng em không chỉ kiến thức chuyên ngành mà còn cả tinh
thần học thuật nghiêm túc, thái độ nghiên cứu khách quan và phương pháp tư duy khoa
học. Kiến thức mà chúng em tiếp nhận được không chỉ dừng lại ở sách vở mà còn được
mở rộng qua những bài giảng sinh động, những gợi mở sắc bén và những kinh nghiệm quý
báu được đúc kết từ thực tiễn công tác của thầy cô. Đây là hành trang quan trọng giúp
chúng em vững tin hơn trong quá trình thực hiện đề tài.
Chúng em đặc biệt xin gửi lời cảm ơn đến giảng viên trực tiếp giảng dạy và hướng
dẫn chúng em trong học phần này. Chính sự tận tâm, sự chỉ bảo cặn kẽ và tinh thần trách
nhiệm cao của thầy cô đã tạo động lực để nhóm chúng em nghiêm túc tìm hiểu, lựa chọn
phương pháp tiếp cận phù hợp và nỗ lực hoàn thiện bài thảo luận. Những nhận xét, góp ý
và định hướng của thầy cô đã giúp chúng em nhìn nhận vấn đề một cách hệ thống, tránh
được lối suy nghĩ phiến diện, đồng thời khai mở nhiều khía cạnh mới trong quá trình nghiên cứu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm hiểu, phân tích và trình bày vấn đề, song
do giới hạn về thời gian, kiến thức và kinh nghiệm, bài thảo luận khó tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế. Chúng em kính mong nhận được những góp ý quý báu từ thầy cô và các
bạn để bài làm của nhóm ngày càng hoàn thiện hơn, đồng thời cũng để chúng em có cơ hội
rèn luyện thêm kỹ năng nghiên cứu, tư duy phản biện và phương pháp trình bày khoa học. LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam hiện đại, vấn đề lựa chọn con đường phát triển luôn
gắn liền với những bước ngoặt lớn lao. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
dân tộc ta giành được độc lập, mở ra kỷ nguyên mới – kỷ nguyên tự do và tự quyết. Trong
bối cảnh ấy, việc lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam không chỉ là một định hướng chính trị, mà còn là một quyết định mang tính lịch
sử, gắn liền với khát vọng độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Tuy nhiên, cùng với tiến trình lịch sử, đã xuất hiện không ít quan điểm hoài nghi,
phủ nhận. Một trong những luận điểm thường được nhắc đến là: “Việt Nam đi lên chủ
nghĩa xã hội là một sai lầm lịch sử”. Đây là nhận định phiến diện, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Tuy nhiên, khi nhìn lại toàn bộ chặng đường cách mạng của dân tộc, chúng ta thấy
rằng sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là sự áp đặt chủ quan, mà
là kết quả của quá trình lịch sử, phù hợp với khát vọng của nhân dân và xu thế tiến bộ của
thời đại. Chính sự lựa chọn ấy đã giúp Việt Nam giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến
chống xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, và tiếp tục đạt được những thành tựu
to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hơn ba thập kỷ qua. lOMoAR cPSD| 45740413
Đặt trong bối cảnh hiện nay, việc nhận diện và phê phán những luận điểm sai trái
phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu vừa mang tính học thuật, vừa mang
ý nghĩa thực tiễn cấp thiết. Nó giúp chúng ta củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng,
khẳng định tính tất yếu khách quan của con đường đã lựa chọn, đồng thời phản bác những
quan điểm phiến diện, thiếu cơ sở khoa học. Đây cũng là cách để thế hệ trẻ tiếp nối truyền
thống kiên định, đồng thời giữ vững niềm tin, ý chí và trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc.
Chính vì vậy, nhóm chúng em lựa chọn đề tài: “Nhận diện và phê phán luận điểm
cho rằng Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lịch sử”. Qua bài thảo luận này,
chúng em mong muốn đóng góp một góc nhìn khoa học, khách quan; đồng thời khẳng định
niềm tin, trách nhiệm và quyết tâm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Bằng việc phân
tích lý luận, đối chiếu với thực tiễn phát triển của đất nước, chúng em hy vọng có thể làm
sáng rõ sự đúng đắn, tất yếu và giá trị của con đường mà dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con đường đi lên CNXH
1.1.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen
Trong học thuyết của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, chủ nghĩa xã hội được xác định là g
iai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, bắt nguồn từ sự phát triển nội tại của phư
ơng thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hai ông chỉ ra rằng, sự ra đời và mở rộng của nền đại
công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã tạo ra mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa tính chất xã hộ
i hóa cao của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu th
uẫn này không thể giải quyết trong khuôn khổ chế độ cũ, mà tất yếu dẫn đến sự thay thế b
ằng một hình thái kinh tế - xã hội mới: chủ nghĩa xã hội, rồi cao hơn là chủ nghĩa cộng sả n.
Ở giai đoạn đầu, Mác và Ăngghen cho rằng cách mạng vô sản chỉ có thể giành thắ
ng lợi đồng thời ở một số nước tư bản phát triển nhất. Lý do là tại đây, giai cấp vô sản đã
trưởng thành cả về số lượng lẫn ý thức chính trị, đồng thời mâu thuẫn giai cấp biểu hiện r
õ rệt và gay gắt. Bên cạnh đó, tính quốc tế của nền sản xuất tư bản khiến cách mạng xã hộ
i chủ nghĩa khó có thể chỉ diễn ra biệt lập trong phạm vi một quốc gia.
Tuy nhiên, trước sự vận động thực tiễn của xã hội Nga và một số quốc gia Đông Â
u thế kỷ XIX, Mác và Ăng-ghen dần điều chỉnh nhận thức. Các ông cho rằng cách mạng
xã hội chủ nghĩa hoàn toàn có thể bùng nổ ở một nước hoặc một nhóm nước, kể cả nước
kém phát triển, với điều kiện: (i) tồn tại những yếu tố truyền thống như hình thức sở hữu
công cộng (ví dụ công xã nông thôn Nga), (ii) có sự liên hệ, hỗ trợ từ phong trào công nh
ân ở phương Tây. Điều này mở ra khả năng đa dạng hơn cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. lOMoAR cPSD| 45740413
Một luận điểm xuyên suốt và có tính chất nền tảng trong tư tưởng Mác – Ăng-ghe
n là sự cần thiết phải trải qua thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng s
ản, mà hình thức chính trị tất yếu là chuyên chính vô sản. Theo các ông, chỉ có
thiết chế chính trị này mới đủ khả năng đập tan bộ máy nhà nước tư sản, xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật mới, và bảo vệ thành quả cách mạng trong bối cảnh đấu tranh giai cấp
còn tiếp d iễn. Đây là một trong những phát hiện lý luận then chốt, vừa phản ánh tính tất
yếu khách quan của sự phát triển, vừa chỉ ra cơ chế thực hiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin
Trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển sa
ng giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, với những đặc trưng như tập trung sản xuất và tư bản tài
chính, độc quyền, phân chia thị trường thế giới. V.I.Lênin đã phân tích và chỉ ra rằng, đây
chính là giai đoạn “tột cùng” và “giãy chết” của chủ nghĩa tư bản, đồng thời cũng là thời
kỳ “đêm trước” của cách mạng vô sản.
Từ đó, Lênin bổ sung và phát triển học thuyết Mác bằng một luận điểm có tính bư
ớc ngoặt: cách mạng xã hội chủ nghĩa không nhất thiết phải nổ ra đồng loạt ở tất cả
các nước tư bản phát triển
, mà có thể giành thắng lợi trước tiên ở một quốc gia riêng
lẻ
, kể cả ở nước lạc hậu như Nga. Điều kiện quyết định để thực hiện điều này chính là sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản – đội tiên phong chính trị của giai cấp vô sản – cù
ng với sự đoàn kết, ủng hộ của phong trào cách mạng quốc tế.
Lênin đồng thời khẳng định, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mang tính đa dạng,
không rập khuôn, phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, trình độ phát triển kinh tế – xã hội c
ủa từng quốc gia. Trong giai đoạn quá độ, theo ông, không thể bỏ qua những nấc thang tr
ung gian. Chính vì vậy, Lênin đã nhấn mạnh sự cần thiết phải thừa nhận tính tất yếu của
nền kinh tế nhiều thành phần
, trong đó có cả chủ nghĩa tư bản nhà nước. Việc này kh
ông đi ngược lại mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là phương thức để phát triển lực lượng sả
n xuất, tích lũy cơ sở vật chất – kỹ thuật, chuẩn bị điều kiện khách quan cho việc xây dựn g xã hội mới.
Một minh chứng thực tiễn tiêu biểu cho sự sáng tạo lý luận của Lênin chính là Chí
nh sách Kinh tế mới (NEP) được ban hành ở nước Nga sau nội chiến. Chính sách này c
ho phép khôi phục sản xuất hàng hóa, lưu thông tiền tệ, mở cửa thương mại và hợp tác vớ
i tư bản nước ngoài. Trên thực tế, NEP đã giúp nền kinh tế Nga thoát khỏi khủng hoảng,
khôi phục sản xuất và từng bước tạo ra tiền đề vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩ a xã hội.
Như vậy, với những bổ sung lý luận quan trọng, Lênin đã chứng minh tính khả thi
của việc đi lên chủ nghĩa xã hội từ một quốc gia lạc hậu, đồng thời chỉ ra con đường quá lOMoAR cPSD| 45740413
độ phải vừa có nguyên tắc, vừa có sự linh hoạt. Đóng góp này đã phát triển học thuyết M
ác lên một tầm cao mới, hình thành nên hệ thống lý luận hoàn chỉnh – chủ nghĩa Mác – L
ênin – trở thành nền tảng cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thế kỷ XX.
→ Tóm lại, các nhà kinh điển Mác - Lênin đã luận giải khoa học về tính tất yếu củ
a chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chỉ ra tính quy luật chung cần p
hải kiên định, đồng thời nhấn mạnh tính đặc thù của xây dựng chủ nghĩa xã hội trong từn
g điều kiện lịch sử cụ thể ở từng quốc gia dân tộc, từ đó tạo cơ sở khoa học cho không ng
ừng bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo đối với các thế hệ sau.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng sản Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ đó phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách
mạng Việt Nam. Đó là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Để đạt mục tiêu đó, con đường phát triển của dân tộc
Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu và con đường này đúng
theo lý luận Mác-Lênin; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự
quản lý của Nhà nước cách mạng; xác định lực lượng cách mạng là toàn thể nhân dân Việt
Nam yêu nước, xây dựng con người Việt Nam có năng lực và phẩm chất đạo đức cách
mạng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trên cơ sở quan hệ quốc tế hòa
bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển; với phương pháp cách mạng phù hợp…
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng
sản. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội không còn áp bức,
bóc lột, xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau. Vận
dụng học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác để nghiên cứu về tiến trình lịch sử,
Hồ Chí Minh cho rằng: "Cách sản xuất và sức sản xuất phát triển và biến đổi mãi, do đó
mà tư tưởng của người, chế độ xã hội, v.v., cũng phát triển và biến đổi. Chúng ta đều biết
từ đời xưa đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành cây, búa đá đã phát triển dần đến
máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy
đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một
nửa loài người đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát
triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được". Tuy nhiên, ngay từ năm 1953 Hồ Chí Minh
đã nhận thấy: Tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có
nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân
chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta. lOMoAR cPSD| 45740413
Người giải thích: Chế độ dân chủ mới là chế độ dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp
công nhân, nhân dân đã đánh đổ đế quốc và phong kiến; trên nền tảng công nông liên minh,
nhân dân lao động làm chủ, nhân dân dân chủ chuyên chính theo tư tưởng của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu
tuân theo những quy luật khách quan, trước hết là những quy luật trong sản xuất vật chất;
song, tùy theo bối cảnh cụ thể mà thời gian, phương thức tiến lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi
quốc gia sẽ diễn ra một cách khác nhau; trong đó, những nước đã qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa sẽ "đi thẳng" lên chủ nghĩa xã hội. Những nước chưa qua giai đoạn phát
triển này có thể đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi đã "đánh đổ để quốc và phong kiến" dưới
sự lãnh đạo của Đảng vô sản và được tư tưởng Mác-Lênin dẫn đường. Với nhận định trên,
Hồ Chí Minh đã cho thấy tính chất chung của các quy luật phát triển xã hội và tính đặc thù
trong sự thể hiện các quy luật đó ở những quốc gia cụ thể, trong những điều kiện cụ thể.
Đối với Việt Nam, hàng nghìn năm dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến, thực
dân, nhiều khuynh hướng cứu dân, cứu nước đã được thử nghiệm nhưng đều không đem
lại kết quả cuối cùng mà dân tộc khát khao đạt được. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là nguồn
gốc của tự do, bình đẳng, bác ái, xóa bỏ những bức tường dài ngăn cản con người yêu đoàn
kết, yêu thương nhau. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân loại nói chung, của Việt
Nam nói riêng vừa là một tất yếu của lịch sử, vừa đáp ứng được khát vọng của những lực
lượng tiến bộ xã hội trong quá trình đấu tranh tự giải phóng mình.
Với Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định Đảng “như người cầm
lái” cho con thuyền trong suốt cả quá trình cách mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam là một tất yếu, vai trò lãnh đạo của Đảng cũng là một tất yếu - điều đó xuất
phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam. Thực tế quá trình cách mạng Việt Nam
vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đã nói lên rằng , sự bảo đảm, phát huy vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình phát triển của đất nước theo
mục tiêu chủ nghĩa xã hội là một nguyên tắc vận hành của xã hội Việt Nam từ khi có Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là một đảng chính trị tồn
tại và phát triển theo những quan điểm của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Hồ Chí Minh cho rằng: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Như vậy, so với
học thuyết Mác - Lênin thì Hồ Chí Minh đưa thêm vào, yếu tố thứ ba nữa, đó là phong trào
yêu nước.Quan điểm của Hồ Chí Minh trên đây là hoàn toàn phù hợp với xã hội thuộc địa
và phong kiến như Việt Nam, khi mọi giai cấp, tầng lớp, trừ tư sản mại bản và đại địa chủ,
còn đều có mâu thuẫn dân tộc. Đó là mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể nhân dân Việt Nam
với các thế lực đế quốc và tay sai. Trong thực tế, những phong trào đấu tranh của công nhân
đã kết hợp được rất nhuần nhuyễn với phong trào yêu nước. Đảng Cộng sản Việt Nam ra lOMoAR cPSD| 45740413
đời, tồn tại và phát triển chính là do nhu cầu tất yếu của xã hội Việt Nam từ đầu năm 1930
trở đi. Đảng đã được toàn dân tộc trao cho sứ mệnh lãnh đạo đất nước trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhận đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Ngay từ khi ra đời, "thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng đã đề ra đường lối
cách mạng đúng đắn... Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn
chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản,
hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không
ngừng củng cố và tăng cường".
Đường lối cách mạng của Đảng là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách về
mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam, Đường lối cách
mạng của Đảng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị...
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tùy theo nội dung, tính chất, phạm
vi và thời gian... Đảng đề ra đường lối cách mạng theo các cấp độ khác nhau. Có đường lối
chính trị chung, xuyên suốt cả quá trình cách mạng như: đường lối độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Có đường lối cách mạng trong thời kỳ lịch sử như: đường lối cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân; đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa. Có đường lối vạch
ra trong từng giai đoạn như: Từ khi ra đời (1930), Đảng đã đề ra đường lối đúng đắn về
giải phóng dân tộc, coi nhiệm vụ hàng đầu là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành độc
lập dân tộc và chính quyền về tay nhân dân. Đường lối đó đã dẫn dắt phong trào cách mạng
đi đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc. Trong giai đoạn kháng chiến và kiến
quốc (1945-1975), đường lối của Đảng tiếp tục thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo khi xác
định vừa kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, vừa xây dựng chính quyền dân
chủ nhân dân, phát triển kinh tế, văn hóa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Chính
đường lối ấy đã đưa dân tộc Việt Nam đến thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975, hoàn
thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bước sang giai đoạn sau 1975,
Đảng xác định nhiệm vụ trung tâm là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi
cả nước, tập trung xây dựng và phát triển kinh tế, thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và bối cảnh quốc tế phức tạp,
nền kinh tế - xã hội nước ta lâm vào nhiều khó khăn, khủng hoảng. Trước yêu cầu đó, tại lOMoAR cPSD| 45740413
Đại hội VI (1986), Đảng đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là
đổi mới về kinh tế, chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đồng thời tiếp tục đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Từ đó đến nay, đường
lối đổi mới được khẳng định là sự lựa chọn đúng đắn, góp phần đưa Việt Nam thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước hội nhập quốc tế, đạt được nhiều thành tựu quan
trọng trên các lĩnh vực. Như vậy, qua từng thời kỳ, đường lối của Đảng luôn là kim chỉ
nam, đảm bảo cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi và phát triển bền vững.
Đường lối cách mạng của Đảng chỉ có giá trị chỉ đạo thực tiễn khi nắm bắt đúng quy
luật vận động khách quan.Vì vậy trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng, Đảng phải
thường xuyên chủ động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, phát
triển đường lối, thậm chí nếu thấy đường lối không còn phù hợp với sự vận động của thực
tiễn thì phải thay đổi. Đường lối đúng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng, quyết định vị trí, uy tín của Đảng đối với quốc gia dân tộc. Vì vậy, để tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng trước hết phải xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn. Nghĩa
là, đường lối của Đảng phải được hoạch định trên cơ sở kết hợp sáng tạo quan điểm lý luận
khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin; tri thức tiên tiến của nhân loại; đặc điểm, yêu cầu,
nhiệm vụ của thực tiễn cách mạng Việt Nam và đặc điểm, xu thế quốc tế. Đường lối đó
phải nhằm phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đường lối đúng sẽ đi vào đời sống, soi
sáng thực tiễn và trở thành ngọn cờ thức tỉnh, động viên và tập hợp quần chúng nhân dân
tham gia tự giác phong trào cách mạng một cách hiệu quả nhất. Ngược lại, nếu sai lầm về
đường lối thì cách mạng sẽ bị tổn thất, thậm chí bị thất bại. Để hoạch định đường lối cách
mạng đúng đắn Đảng phải nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn vận động của đất nước và thời đại, tìm tòi nghiên
cứu để nắm bắt những quy luật khách quan, chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, chủ quan, duy ý chí.
1.3. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
1.3.1. Điều kiện lịch sử – xã hội của Việt Nam khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Việt Nam bước vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh vừa có t
huận lợi vừa có nhiều khó khăn, thách thức. Xuất phát điểm của đất nước là một xã hội th
uộc địa, nửa phong kiến, với lực lượng sản xuất hết sức thấp kém. Hậu quả của nhiều thậ
p kỷ chiến tranh ác liệt để lại rất nặng nề, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, tàn dư của c
hế độ thực dân, phong kiến còn nhiều, trong khi các thế lực thù địch luôn tìm cách phá ho
ại độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, bối cảnh quốc tế cũng có ảnh hưởng sâu sắc. Cuộc cách mạng khoa h
ọc và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các quốc gia ở mức độ kh lOMoAR cPSD| 45740413
ác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội ngày càng mang tính quốc tế hóa sâu sắ
c, vừa mở ra thời cơ phát triển nhanh, vừa đặt ra thách thức gay gắt. Thời đại ngày nay, d
ù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ, song xét về bản chất, vẫn là t
hời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các quốc gia với chế độ xã hội v
à trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa cạnh tranh, đấu tranh
gay gắt vì lợi ích dân tộc. Trong dòng chảy đó, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội vẫn tiếp tục, khẳng định xu thế tất
yếu loài ngư ời sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội.
1.3.2. Tính tất yếu khách quan của con đường bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nh
ất đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Ngay từ Cương lĩnh năm 1930, Đảng ta đã xác địn
h sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sẽ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là sự lựa chọn dứt khoát và khoa học, phù hợp với quy luật phát triển khách qua
n của cách mạng Việt Nam, đồng thời đáp ứng nguyện vọng thiết tha của nhân dân và ph
ản ánh xu thế tiến bộ của thời đại.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: con đường đi lên của nước ta là sự phát t
riển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Bỏ qua ở đây không có
nghĩa là phủ định sạch trơn mọi yếu tố tư bản, mà là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị củ
a quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Đồng thời, con đường này
đòi hỏi phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa t
ư bản, đặc biệt là về khoa học, công nghệ và quản lý xã hội, để phát triển lực lượng sản x
uất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
1.1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đườn
g cách mạng tất yếu khách quan, phản ánh quy luật phát triển phù hợp với điều kiện lịch s
ử cụ thể của Việt Nam. Đây là định hướng chiến lược của toàn Đảng và toàn dân trong qu
á trình xây dựng đất nước.
Thứ hai, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có nghĩa là trong thời kỳ quá độ, nền kinh
tế vẫn tồn tại nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu khác nhau, nhưng quan hệ sản xu
ất và thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa không giữ vai trò thống trị. Trong cơ chế phân
phối, phân phối theo lao động giữ vai trò chủ đạo, song vẫn tồn tại phân phối theo mức đ
ộ đóng góp và thông qua quỹ phúc lợi xã hội. Điều này phản ánh tính phức tạp và đa dạn
g trong thời kỳ quá độ, đồng thời cho thấy mâu thuẫn giữa cũ và mới còn tồn tại.
Thứ ba, quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải tiếp thu có chọn lọc nh
ững thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chủ nghĩa tư bản. Đặc biệt, phải tận dụng các t lOMoAR cPSD| 45740413
hành tựu khoa học, công nghệ, cũng như kinh nghiệm quản lý xã hội hiện đại, để
phục vụ sự phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế tri thức và hội
nhập với xu thế toàn cầu.
Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một quá trìn
h lâu dài, khó khăn, phức tạp và đầy thử thách. Đây là sự biến đổi mang tính chất cách m
ạng, làm thay đổi toàn diện và triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thự
c hiện thành công, cần có quyết tâm chính trị cao và khát vọng lớn của toàn Đảng, toàn d
ân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và bản lĩnh vững vàng trước những biến động
của thời đại, từ đó hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
CHƯƠNG 2: NHẬN DIỆN LUẬN ĐIỂM CHO RẰNG “VIỆT NAM ĐI LÊN
CNXH LÀ SAI LẦM LỊCH SỬ”
2.1. Nguồn gốc và cơ sở hình thành luận điểm
Luận điểm cho rằng Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lịch sử xuất
hiện chủ yếu từ các quan điểm phản bác con đường xã hội chủ nghĩa sau Chiến tranh Lạnh,
khi nhiều quốc gia theo mô hình này lâm vào khủng hoảng hoặc sụp đổ. Nguồn gốc của
luận điểm này bắt nguồn từ sự so sánh phiến diện giữa thành tựu phát triển kinh tế của các
nước tư bản chủ nghĩa phương Tây với những khó khăn, hạn chế của các quốc gia xã hội
chủ nghĩa trong giai đoạn đầu xây dựng. Sau năm 1991, sự tan rã của Liên Xô và các nước
Đông Âu trở thành cái cớ để nhiều thế lực thù địch và các học giả mang định kiến tư tưởng
cho rằng mọi con đường xã hội chủ nghĩa đều thất bại tất yếu, từ đó áp đặt lên Việt Nam
quan điểm rằng lựa chọn này là một “sai lầm lịch sử”.
Cơ sở hình thành luận điểm này còn xuất phát từ những khó khăn nội tại của Việt
Nam trong thời kỳ trước đổi mới: kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp dẫn đến
khủng hoảng, lạm phát, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, khiến một bộ phận trong
và ngoài nước nghi ngờ khả năng thành công của con đường xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh
đó, sự thiếu hiểu biết hoặc cố tình bỏ qua bối cảnh lịch sử dân tộc Việt Nam – một đất nước
vừa trải qua chiến tranh giải phóng dân tộc lâu dài, cần có một con đường phát triển độc
lập, tự chủ, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể – đã góp phần củng cố luận điểm sai lệch
này. Một số thế lực phản động và truyền thông phương Tây cũng sử dụng các phương tiện
tuyên truyền, viện dẫn các khó khăn trước mắt để phủ nhận tính tất yếu và chính đáng của sự lựa chọn này.
Thực chất, việc Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là một sự áp đặt ngẫu
nhiên mà được hình thành trên cơ sở quy luật phát triển lịch sử của dân tộc, kế thừa tư
tưởng Hồ Chí Minh và sự lựa chọn của nhân dân qua các thời kỳ cách mạng. Từ sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, mục tiêu giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội và lOMoAR cPSD| 45740413
con người, đặt nền móng cho con đường xã hội chủ nghĩa. Sau năm 1975, thống nhất đất
nước đòi hỏi một mô hình phát triển vừa bảo đảm độc lập dân tộc, vừa phù hợp với xu thế
thời đại, và lựa chọn xã hội chủ nghĩa là kết quả của quá trình đấu tranh lịch sử chứ không
phải một quyết định mang tính thử nghiệm.
2.2. Mục đích của luận điểm
Mục đích của luận điểm cho rằng Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một sai lầm
lịch sử xuất phát từ nhiều động cơ khác nhau, trong đó chủ yếu nhằm phục vụ lợi ích chính
trị, tư tưởng và chiến lược của các thế lực đối lập với con đường xã hội chủ nghĩa. Một
trong những mục đích chính là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
làm suy yếu niềm tin của nhân dân đối với con đường xã hội chủ nghĩa mà đất nước đã lựa
chọn. Bằng cách gắn nhãn “sai lầm lịch sử”, họ muốn gieo rắc hoài nghi, gây chia rẽ trong
xã hội và kích động xu hướng rời bỏ nền tảng tư tưởng hiện tại để chuyển sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.
Luận điểm này còn nhằm làm giảm uy tín quốc tế của Việt Nam, biến những thành
tựu chưa toàn diện hoặc khó khăn trong quá trình phát triển thành bằng chứng chống lại
chế độ. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đây là một công cụ để gây sức ép chính trị và kinh tế,
ép buộc Việt Nam phải chấp nhận những mô hình phát triển phụ thuộc vào các nước lớn
hoặc đi theo con đường mà các thế lực bên ngoài mong muốn. Mục tiêu sâu xa hơn là từng
bước làm mất ổn định chính trị, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và tiến tới thay đổi chế
độ chính trị theo hướng có lợi cho họ.
2.3. Nội dung và lập luận của quan điểm “Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là
một sai lầm lịch sử"
Các quan điểm phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thường dựa trên mộ
t số nhóm lập luận chính sau đây:
Thứ nhất, các thế lực thù địch tuyệt đối hóa sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên
Xô và Đông Âu để phủ nhận tính đúng đắn của học thuyết Mác-Lênin. Chúng rêu rao rằn
g “sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô chính là sự cáo chung, là cái chết của chủ ng
hĩa xã hội”, “nếu Việt Nam vẫn cứ tiếp tục đi theo chủ nghĩa xã hội thì cũng sẽ theo vết x
e đổ của Liên Xô, sẽ tất yếu dẫn tới sự sụp đổ, đó là tương lai nhìn thấy trước”, “chủ nghĩ
a xã hội ngày nay đã vào giờ thứ 25 trên phạm vi toàn cầu”. Có thể nói, đây là những luậ
n điệu được các thế lực thù địch sử dụng chống phá từ ngay sau khi hệ thống xã hội chủ n
ghĩa theo mô hình của Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trên thực tế đã bị bác bỏ cả về lý luận và thực tiễn.
Có thể thấy thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu không phải là do chủ nghĩa Mác – Lênin sai lầm mà chính là do các Đảng Cộng sản ở lOMoAR cPSD| 45740413
những quốc gia này đã nhận thức và vận dụng sai chủ nghĩa Mác – Lênin, thậm chí đòi x
ét lại, phản bội, xa rời những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, nhiều quốc gia trên thế giới vẫn đang coi chủ nghĩa x
ã hội là mục tiêu của mình và đang chứng minh chủ nghĩa xã hội sẽ là tương lai của loài n gười.
Lập luận này cố tình đánh đồng sự sụp đổ của một mô hình Xô Viết với sự thất bạ
i của cả một học thuyết khoa học và cách mạng, bỏ qua những nguyên nhân chủ quan, kh
ách quan dẫn đến sự khủng hoảng đó.
Thứ hai, họ cho rằng Việt Nam không có đủ tiền đề, điều kiện để đi lên CNXH. D
ựa trên lý luận về việc CNXH chỉ có thể ra đời ở các nước tư bản phát triển cao, các quan
điểm này cho rằng Việt Nam, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triể
n tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên CNXH là hành động "đốt cháy giai đoạn", duy ý chí.
Những kẻ cơ hội, phản động lớn tiếng suy diễn rằng, nếu không theo con đường đi lên ch
ủ nghĩa xã hội thì rất có thể đất Việt Nam đã trở thành con rồng, con hổ như Hàn Quốc, S
ingapore… Tuy nhiên, đây thực chất là những luận điệu của những kẻ có dụng tâm
xấu. Thực tiễn Việt Nam đã bác bỏ những luận điệu này. Ai đã từng sống qua hai thời kỳ
trướ c đổi mới và đổi mới ở Việt Nam đều thấy rõ những thay đổi lớn lao, những bước
chuyển mình, tiến bộ thực sự của cả một dân tộc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hó a, quốc phòng – an ninh, đối ngoại …
Không chỉ chúng ta mà cộng đồng quốc tế cũng đánh giá cao sự phát triển của Việ t
Nam. Báo chí thế giới dùng nhiều mỹ từ để nói về những thay đổi tích cực ở Việt Nam
như: “Điều kỳ diệu Việt Nam”, “Việt Nam – ngôi sao đang nổi trên bản đồ kinh tế thế giớ
i”, “Việt Nam – điểm sáng kinh tế thế giới”, Việt Nam được coi là “tấm gương với nhiều
nước đang phát triển trên thế giới”. Chúng vin vào thực tế khó khăn, nền kinh tế bị tàn ph
á sau chiến tranh để lập luận rằng lựa chọn con đường XHCN đã làm Việt Nam tụt hậu so
với các quốc gia có cùng xuất phát điểm trong khu vực nhưng lại phát triển theo con đườ ng tư bản.
Thứ ba, họ khoét sâu vào những sai lầm, yếu kém trong một giai đoạn lịch sử nhất
định để phủ nhận toàn bộ quá trình xây dựng CNXH. Lập luận này tập trung phê phán m ô
hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp trước thời kỳ Đổi mới. Họ chỉ ra
những hậu quả như kinh tế trì trệ, lạm phát, đời sống nhân dân khó khăn để khẳng định đ
ó là bản chất của CNXH. Ngay cả với mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện
nay, họ vẫn cho rằng đó là một khái niệm mâu thuẫn, mơ hồ, thực chất là "kinh tế tư bản
nhà nước" trá hình, nhằm phủ nhận vai trò kiến tạo, định hướng của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa và những thành tựu vượt bậc của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác – L
ênin đã khẳng định: “Xây dựng tòa lâu đài của chủ nghĩa xã hội từ những viên gạch của c lOMoAR cPSD| 45740413
hủ nghĩa tư bản, chứ không phải từ hư vô, từ mảnh đất trống không, phải dùng cả
hai tay mà nắm bắt lấy những thành tựu của chủ nghĩa tư bản”. Kế thừa là quy luật phát
triển, xâ y dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kế thừa nhiều giá trị của chủ nghĩa tư bản là
tất yếu lịc h sử. Do vậy, việc dựa vào những điểm tương đồng giữa các nước xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa để ngụy biện, đánh tráo, biến cái không bản chất thành cái bản
chất rồi cho rằng Việt Nam đang đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hoặc là thiếu hiểu
biết hoặc là cố tình xuyên tạc.
Cuối cùng, các thế lực thù địch tuyên truyền rằng “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ
có thể từ những nước tư bản chủ nghĩa đã phát triển; Việt Nam xác định đi lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là trái quy luật, “chưa học bò đã lo họ
c chạy”, cuối cùng sẽ chỉ là con đường vòng đến chủ nghĩa tư bản mà thôi”.
Tuy nhiên, đây là sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin. Bên cạnh khả năng quá độ
trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản phát triển lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng
đã chỉ ra khả năng quá độ gián tiếp từ một nước tiền tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội và chỉ
ra những điều kiện cần thiết để thực hiện sự quá độ gián tiếp này. C.Mác nhận định rằng,
loài người xét trên phạm vi rộng và thời gian dài, sẽ trải qua 5 hình thái kinh tế – xã hội,
nhưng ở một xã hội cụ thể, có thể bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế – xã hội nào đ
ó trong quá trình phát triển thì vẫn là quá trình lịch sử – tự nhiên, vẫn là hợp quy luật.
Ngoài ra, các thế lực thù địch, phản động không ngớt lời ca ngợi, “tô son, trát phấ
n” rằng “chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, việc cho rằng chủ nghĩa tư bản là bóc lột
chỉ đúng ở thế kỷ XIX trong giai đoạn đầu, hiện nay chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ ng
hĩa tư bản nhân dân, đã vì người lao động. Ngày nay, công nhân đã có cổ phần, cổ phiếu,
đã trở thành ông chủ, không bị bóc lột nữa. Những điều mà chủ nghĩa xã hội mong muốn
thì chủ nghĩa tư bản hiện nay đã thực hiện rồi, chủ nghĩa tư bản có thể hội tụ với chủ nghĩ
a xã hội trong thời đại hậu công nghiệp, văn minh tin học hiện nay. Việt Nam nói đi lên c
hủ nghĩa xã hội chỉ là nói về cái hư vô, không có thật”.
2.4. Tác động, hệ quả xã hội của luận điểm
2.4.1. Về Tư tưởng - Chính trị: Xói mòn nền tảng tư tưởng, làm suy giảm niềm tin
Đây là tác động thâm độc và nguy hiểm nhất. Mục tiêu hàng đầu của các luận điệu
này là tấn công trực diện vào nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tư
ởng Hồ Chí Minh. Bằng cách xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu và khoét sâu vào nhữ
ng khó khăn, yếu kém, chúng gieo rắc sự hoài nghi, làm lung lay niềm tin của một bộ phậ
n cán bộ, đảng viên và nhân dân vào con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Khi niề
m tin – yếu tố nền tảng của mọi xã hội – bị xói mòn, sẽ dẫn đến mất phương hướng, khủn
g hoảng lý tưởng. Thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa": Từ sự dao động về tư tưởng,
một bộ phận cán bộ, đảng viên có thể phai nhạt lý tưởng cách mạng, suy thoái về tư tưởn lOMoAR cPSD| 45740413
g chính trị, đạo đức, lối sống. Đây chính là mối nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" t
ừ bên trong nội bộ, một trong những thách thức lớn nhất đối với sự vững mạnh của Đảng và chế độ.
2.4.2. Về Kinh tế - Xã hội: Phủ nhận thành tựu, gây chia rẽ và làm trì trệ sự phát t riển
Các luận điệu sai trái tác động tiêu cực đến môi trường xã hội và động lực phát triể
n kinh tế của đất nước. Chúng cố tình vẽ nên một bức tranh u ám về kinh tế - xã hội Việt
Nam, xem nhẹ hoặc phủ nhận sạch trơn những thành tựu vượt bậc về tăng trưởng kinh tế,
xóa đói giảm nghèo, hội nhập quốc tế mà cả thế giới đã công nhận. Điều này gây ra tâm l
ý bi quan, chán nản, làm suy giảm động lực lao động, sáng tạo và cống hiến của người dâ
n. Làm rạn nứt khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng cách kích động các vấn đề nhạy cảm
như dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, hay khoét sâu vào khoảng cách giàu nghèo, c
ác luận điệu này nhằm tạo ra mâu thuẫn xã hội, gây chia rẽ giữa nhân dân với Đảng và N
hà nước. Sự mất đoàn kết là nguy cơ làm suy yếu sức mạnh nội sinh của dân tộc, tạo điều
kiện cho các thế lực bên ngoài can thiệp.
2.4.3. Về An ninh Quốc gia: Tạo cớ cho sự can thiệp và gây mất ổn định
Đây là mục tiêu cuối cùng mà các thế lực thù địch hướng tới thông qua việc lan tru
yền các luận điệu sai trái.
• Là công cụ của chiến lược "diễn biến hòa bình": Các quan điểm sai trái này chính l
à "vũ khí" tư tưởng, là phương tiện đắc lực để các thế lực thù địch thực hiện chiến
lược "diễn biến hòa bình". Chúng tạo ra "lý do", "cái cớ" để vu cáo Việt Nam vi p
hạm dân chủ, nhân quyền, từ đó can thiệp vào công việc nội bộ, gây sức ép trên cá c diễn đàn quốc tế.
• Tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn chính trị: Việc lan truyền các thông tin sai lệch, kích đ
ộng có thể dẫn đến các hành vi quá khích, tụ tập đông người trái phép, gây rối an n
inh trật tự. Nếu không được ngăn chặn kịp thời, đây có thể trở thành ngòi nổ cho c
ác điểm nóng chính trị, đe dọa trực tiếp đến sự ổn định và an toàn của quốc gia.
2.4. 4. Làm sai lệch hình ảnh quốc gia, gây trở ngại cho công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế
Ngoài các tác động trong nước, các luận điệu sai trái còn là công cụ để các thế lực
bên ngoài làm sai lệch, bóp méo hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng được
khuếch đại, trích dẫn bởi các cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí để biên soạn các báo cáo, ph
úc trình thiếu khách quan, vu cáo Việt Nam "vi phạm dân chủ, nhân quyền". Điều này gâ
y ra những hệ quả trực tiếp có thể kể đến như tạo ra nhận thức sai lệch: Nó khiến một bộ
phận dư luận quốc tế, thậm chí cả một số chính giới nước ngoài, có cái nhìn phiến diện, s lOMoAR cPSD| 45740413
ai lệch về bản chất chế độ và tình hình thực tế tại Việt Nam. Gây khó khăn cho công tác n
goại giao: Những thông tin sai lệch này tạo ra những trở ngại, gây sức ép không đáng có t
rong các quan hệ song phương và đa phương, trong các cuộc đối thoại về những
vấn đề m à hai bên cùng quan tâm. Nó làm giảm hiệu quả của công tác ngoại giao nhân
dân và nỗ l ực quảng bá hình ảnh một Việt Nam hòa bình, ổn định và phát triển.BÊn cạnh
đó còn ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, hợp tác: Một hình ảnh quốc gia bị bóp méo theo
hướng tiê u cực về chính trị có thể gây ra tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư, du khách nước
ngoài, từ đó ảnh hưởng gián tiếp đến quá trình thu hút đầu tư, phát triển du lịch và hội nhập kinh tế quốc tế.
2.4.5. "Đầu độc" nhận thức, lý tưởng của thế hệ trẻ, bào mòn tương lai của dân tộ c
Thế hệ trẻ, với đặc tính năng động, nhạy bén và là người sử dụng chủ yếu không
gian mạng, chính là đối tượng trọng điểm mà các luận điệu sai trái nhắm tới. Tác động đến
tầng lớp này mang tính chiến lược và vô cùng nguy hiểm như gây nhiễu loạn thông tin, làm
mơ hồ về giá trị: Giữa một "ma trận" thông tin thật giả lẫn lộn, những luận điệu được ngụy
tạo tinh vi, sử dụng ngôn từ hấp dẫn có thể khiến giới trẻ bị nhiễu loạn nhận thức, hoài nghi
về lịch sử dân tộc, mơ hồ về lý tưởng và con đường đi lên của đất nước. Gieo rắc lối sống
thực dụng, vị kỷ: Các luận điệu này thường đi kèm với việc cổ xúy lối sống cá nhân chủ
nghĩa cực đoan, thực dụng, xem nhẹ các giá trị cộng đồng, dân tộc. Chúng hướng thanh
niên xa rời các trách nhiệm xã hội, phai nhạt lòng yêu nước và lý tưởng cống hiến. Bào
mòn sức mạnh kế thừa: Một thế hệ trẻ mất phương hướng, thiếu niềm tin và lý tưởng sẽ là
một tổn thất to lớn cho tương lai của dân tộc. Đây là một hình thức "xâm lược mềm", bào
mòn sức mạnh và khả năng kế thừa sự nghiệp cách mạng của các thế hệ đi trước, đe dọa
đến sự phát triển bền vững của quốc gia trong tương lai.
CHƯƠNG 3: PHÊ PHÁN VÀ BÁC BỎ QUAN ĐIỂM
3.1 Tính tất yếu khách quan của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
(CNTB) lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là một giai đoạn tất yếu. Bất cứ một quốc gia nào,
dù phát triển hay chưa phát triển, đều phải trải qua thời kỳ lịch sử đặc biệt này khi đi lên
CNXH. Đối với Việt Nam, con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta lựa chọn chính là con đường rút ngắn, th
eo phương thức quá độ gián tiếp. Đây không chỉ là sự lựa chọn chủ quan của một đảng ch
ính trị, mà còn là sự lựa chọn tất yếu khách quan, hợp quy luật, xuất phát từ cả bối cảnh q
uốc tế lẫn thực tiễn cách mạng Việt Nam. lOMoAR cPSD| 45740413
Trước hết, lựa chọn này bắt nguồn từ bối cảnh lịch sử thế giới lúc bấy giờ. Giữa th
ế kỷ XX, CNTB đã bộc lộ rõ sự lỗi thời về mặt lịch sử. Xã hội tư bản không thể giải quyế
t được mâu thuẫn cơ bản giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa với quan hệ sản x
uất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân. Những cuộc khủng hoảng kinh tế, sự phân
hóa gi àu nghèo, áp bức và chiến tranh đế quốc đã chứng minh rằng CNTB không phải là
tương lai của loài người. Ngược lại, CNXH mà nhân loại đang vươn tới được xem là hình
thái k inh tế – xã hội cao hơn, mang tính nhân văn, giải phóng con người và phát triển tự
do, toà n diện. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, CNXH đã trở thành xu thế
của th ời đại, lôi cuốn nhiều dân tộc đi theo. Do đó, khi Việt Nam lựa chọn đi thẳng lên CNXH l
à đồng nghĩa với việc đi theo dòng chảy tiến bộ của nhân loại, phù hợp với quy luật
khác h quan của lịch sử.
Bên cạnh bối cảnh quốc tế, tính tất yếu khách quan của con đường này còn bắt ngu
ồn từ yêu cầu lịch sử của chính dân tộc Việt Nam. Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định rõ con đường phát triển của dân tộc là độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta đã thoát khỏi ác
h đô hộ thực dân, phong kiến, nhưng đất nước vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu, giai cấp tư sản
dân tộc yếu ớt, không đủ khả năng lãnh đạo đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa. K
hi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công, nhân dân ta đã thoát khỏi “một cổ hai
tròng”, đồng thời đặt ra hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị cấp bách. Tuy nhiên, nh
ững vấn đề đó chỉ có thể được giải quyết triệt để thông qua việc xây dựng CNXH. Chính
vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong Hội nghị cán bộ văn hóa năm 1958 rằ
ng: “Miền Bắc tiến lên CNXH để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nướ c nhà.”
Từ cả bối cảnh quốc tế và yêu cầu lịch sử dân tộc, có thể thấy rằng việc Việt Nam
lựa chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn tất yế
u, hợp quy luật, không phải sự áp đặt chủ quan. Đây là sự lựa chọn phù hợp nhất để vừa đ
ảm bảo độc lập dân tộc, vừa mang lại hạnh phúc, lợi ích thực sự cho toàn thể nhân dân. C
ũng chính vì lẽ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và sẽ tiếp tục lãnh đạo toàn thể nhân dân
đi theo con đường CNXH – con đường duy nhất đúng đắn cho sự nghiệp phát triển và tiế n bộ của đất nước.
3.2 Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN
3.2.1. Một quốc gia có chế độ chính trị độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và tự quyết
định con đường phát triển của mình. lOMoAR cPSD| 45740413
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi đã mở ra bước ngoặt vĩ đại tron g
lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự kiện ngày 2/9/1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã chấm dứt vĩnh vi
ễn chế độ phong kiến, kết thúc hơn 80 năm bị đô hộ. Từ đây, dân tộc Việt Nam bước vào
kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tiếp nối thắng lợi ấy, ngày 06/01/1946, cuộc Tổng Tuyển cử toàn quốc lần đầu tiê
n được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, với 333 đại biểu Quốc hội được nhân dâ
n cả nước tín nhiệm bầu ra. Quốc hội khóa I thông qua Hiến pháp năm 1946 xác lập nền t
ảng pháp lý nhà nước kiểu mới, khẳng định chính quyền của Nhân dân, do Nhân dân và v
ì Nhân dân - có đầy đủ tư cách đại diện cho đất nước trên trường quốc tế.
Sau ba thập kỷ tiếp tục trường kỳ kháng chiến, đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân nă
m 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối. Hội nghị Trung ương
24 (tháng 9/1975) xác định nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước. N
gày 25/4/1976, hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số) tham gia Tổng Tuyển cử bầu Quốc hội
chung của cả nước. Tại kỳ họp đầu tiên, Quốc hội quyết nghị đặt tên nước là Cộng hòa X
HCN Việt Nam, Quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là “Tiến quân ca”, Quốc huy
mang dòng chữ “Cộng hòa XHCN Việt Nam”, quyết định Hà Nội là Thủ đô và đổi tên
Thành p hố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Việc hoàn tất thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo điều kiện chính trị căn b
ản để huy động, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, mở đường cho sự nghiệp xây dựng và b
ảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới; khẳng định quyền tự quyết của Nhân dân Việt Nam trê
n con đường kiên định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước g
iàu mạnh, văn minh, hùng cường.
3.2.2 .Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày c àng sáng tỏ.
Ngay từ khi ra đời tháng 2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định con đườn
g XHCN. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được Hội nghị thành lập Đảng thông qua, nêu mụ
c tiêu chiến lược “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” để “tiến tới xã hội cộng sả
n”. Tiếp đó, Luận cương chính trị tháng 10/1930 chỉ rõ: Cách mạng Việt Nam “bỏ qua gi
ai đoạn tư bản, trực tiếp tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã xóa bỏ á
ch thực dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
kỷ nguyên mà Nhân dân làm chủ xã hội và chính cuộc sống của mình.
Tại Đại hội II (tháng 2/1951), Luận cương cách mạng Việt Nam lần đầu tiên trình
bày những điều kiện và phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua hai thập kỷ
chiến tranh giải phóng và kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, nhận thức đó tiếp tục được củng c lOMoAR cPSD| 45740413
ố và phát triển. Bước ngoặt đổi mới toàn diện do Đại hội VI (tháng 12/1986) khởi xướng
đã được lý luận hóa bằng việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, cùng tổng kết thực tiễn cách mạng trong nước, đã tạo nền tảng cho tư duy mới về thời kỳ quá độ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hộ
i VII (tháng 6/1991) thông qua và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại h
ội XI phê chuẩn, là những mốc quan trọng đánh dấu quá trình hoàn thiện về lý luận. Tám
đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triể
n năm 2011) giúp Đảng nhận thức sâu sắc hơn về dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm ch
ủ của Nhân dân; về mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, coi chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế là trung tâm; về con người và văn hóa là nền tảng tinh thần, ng
uồn lực nội sinh của phát triển; về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với mở rộng q
uan hệ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Từ Đại hội VII đến Đại hội XIII, đường lối đổi mới được bổ sung, hoàn thiện, tiếp
tục khẳng định: Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư t
ưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu đổi mới đồng bộ, t
oàn diện trên mọi lĩnh vực, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thành quả đổi mới gần bốn thập kỷ qua chứng minh tính đúng đắn và sáng tạo của
con đường XHCN ở Việt Nam: kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, đời sống Nhân
dân được cải thiện rõ rệt, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước không ngừng nâng cao. Nh
ững kết quả ấy khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế phát triển của thời đại, đồng thời minh chứng cho sự phát triển ngày càng
sáng tỏ của nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.2.3. Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, kém phát triển, trở th
ành nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Giai đoạn 1945 - 1954 là thời kỳ đầu tiên xây dựng nền kinh tế mới ở Việt Nam, đ
ồng thời cũng là giai đoạn gian khổ nhất trong lịch sử phát triển đất nước. Trong bối cảnh
vừa giành được chính quyền, lại phải bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực d
ân Pháp, nhiệm vụ xây dựng và cải tạo nền kinh tế được triển khai trong điều kiện hết sức
khó khăn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã từng bước chuyển đổi nền kinh tế tàn
dư của chế độ thực dân, phong kiến vốn lạc hậu, lệ thuộc, thành một nền kinh tế dân chủ,
độc lập, phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Từ năm 1955 - 1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai mô hình kinh tế - x
ã hội khác nhau. Ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo thực hiện các
nhiệm vụ k inh tế phù hợp với từng thời kỳ, từ khôi phục và hàn gắn vết thương chiến lOMoAR cPSD| 45740413
tranh (1955 - 1 957), đến hoàn thành cải cách ruộng đất, cải tạo quan hệ sản xuất theo
định hướng XHCN (1958 - 1960), rồi chuyển sang phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với
nhiệm vụ xây dựng hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam trong điều kiện chiến tranh khốc liệt (1961 - 19 75).
Giai đoạn 1976 - 1985, sau khi đất nước thống nhất, cả nước cùng tiến lên chủ ngh
ĩa xã hội. Đây là thời kỳ mà công cuộc cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế được xác đị
nh là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nhân dân cả nước tích
cực triển khai kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) và kế hoạch 5 năm lần thứ ba (19
81 - 1985). Tuy đã đạt được một số kết quả bước đầu trong khôi phục sản xuất và xây dự
ng cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhưng nhìn chung nền kinh tế vẫn còn nhiều yếu kém. Nhữn
g hạn chế của cơ chế quản lý tập trung, bao cấp kéo dài, cùng những khó khăn từ bên ngo
ài đã khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, mất cân đối, thậm chí có những biểu hiện
của khủng hoảng nghiêm trọng.
Trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, từ năm 1986, Đảng ta khởi xướng và lãnh đ
ạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Với việc từ
ng bước xóa bỏ cơ chế bao cấp, phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành cơ chế thị tr
ường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta
đã có những chuyển biến tích cực. Đến năm 1995, các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm (1991
- 1995) đều hoàn thành và vượt mức, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã h
ội, tạo đà chuyển sang giai đoạn phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh và bao
vây, cấm vận, Việt Nam từng bước vươn lên trở thành một quốc gia đang phát triển có th u
nhập trung bình. Tính đến năm 2024, quy mô nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 32 thế giới,
thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Thành
quả ấy là minh chứng sinh động cho tầm vóc, trí tuệ và bản lĩnh của Đảng, Nhà nước và
Nhân dân ta trong hành trình vượt qua khó khăn, khơi dậy nội lực, tranh thủ thời cơ, hội n
hập sâu rộng và phát triển bền vững.
3.2.4. Văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, dân tộc, khoa học, đại chúng trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành nguồn lực phát triển đất nước.
Nhận thức của Đảng và Nhà nước, của Nhân dân về vai trò của văn hóa trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đầy đủ và nâng cao. Sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng. Tư duy
lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toà
n dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của Nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới
được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; c