lOMoARcPSD| 57855709
1. Quan hệ tư pháp quốc tế phải là một quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có cùng lúc ba yếu
tố nước ngoài (chủ thể của quan hệ là người nước ngoài, đối tượng của quan hệ tổn tại ở nước
ngoài, cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ xảy ra ở nước ngoài).Sai. Vì quan hệ tư pháp quốc tế
chỉ cần có ít nhất một yếu tố nước ngoài trong số ba yếu tố nêu trên.
2. Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế Việt Nam là quan hệ nhân thân và tài sản phát
sinh từ các lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình... có yếu tố nước
ngoài.Đúng. Vì đó là cách diễn đạt khác về quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước
ngoài.
3. Trong tư pháp quốc tế, áp dụng phương pháp xung đột phức tạp hơn phương pháp thực
chất.Đúng. Vì áp dụng phương pháp xung đột cần phải lựa chọn hệ thống pháp luật phù hợp
trước khi sử dụng hệ thống pháp luật được lựa chọn đó để giải quyết quan hệ phát sinh. Trong
khi đó, nếu áp dụng phương pháp thực chất thì quan hệ phát sinh sẽ được giải quyết ngay mà
không phải thông qua bước lựa chọn pháp luật trung gian như phương pháp xung đột.
4. Theo quan điểm chính thống ở Việt Nam hiện nay, tư pháp quốc tế là một ngành luật liên
hệ thống, nằm giữa hệ thống pháp luật quốc gia và hệ thống pháp luật quốc tế.Sai. Vì tư pháp
quốc tế là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc gia, có đối tượng điều chỉnh,
phương pháp điều chỉnh và nguồn riêng.
5. Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế là nguồn của công pháp quốc tế cũng sẽ là nguồn
của tư pháp quốc tế.Sai. Vì chỉ những điều ước quốc tế, tập quán quốc tế có chứa đựng quy
phạm, nguyên tắc tư pháp quốc tế mới có thể là nguồn của tư pháp quốc tế.
6. Hiện nay, pháp luật quốc gia mới là nguồn điều chỉnh chủ yếu của tư pháp quốc tế Việt
Nam.Đúng. Vì các quy phạm, nguyên tắc của tư pháp quốc tế tập trung chủ yếu trong loại nguồn
này. Có thể thấy rất rõ sự tập trung của quy phạm, nguyên tắc của tư pháp quốc tế trong Hiến
pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2015 (Phần thứ năm), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
(Phần thứ bảy, Phần thứ tám), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Chương VIII)..., các văn
bản dưới luật...
1. Xung đột pháp luật nảy sinh trong mọi quan hệ có yêu tố nước ngoài.Sai. Vì xung đột pháp
luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể điều
lOMoARcPSD| 57855709
chỉnh một quan hệ, đồng ý có xung đột pháp luật tức là đồng ý có thể áp dụng pháp luật nước
ngoài.
Trong khẳng định trên có cụm từ “mọi quan hệ có yếu tố nước ngoài", cụm từ này cho phép hiểu
là bất kỳ quan hệ nào có yếu tố nước ngoài, không chỉ là các quan hệ dân sự mà còn cả các quan
hệ hình sự, hành chính, nếu có yếu tố nước ngoài đều có hiện tượng xung đột pháp luật xảy ra.
Như vậy, khẳng định này là sai vì trong các quan hệ hình sự, hành chính nói riêng hay các quan
hệ luật công nói chung không thể có việc áp dụng pháp luật nước ngoài, hay các quan hệ luật
công có yếu tố nước ngoài cũng không có xung đột pháp luật.Vì vậy, khẳng định xung đột pháp
luật nảy sinh trong mọi quan hệ có yếu tố nước ngoài là sai.
2. Quy phạm xung đột là loại quy phạm duy nhất xác định pháp luật áp dụng.Đúng. Bởi tất cả
các quy phạm pháp luật khác hoặc là quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia
quan hệ trực tiếp điều chỉnh nội dung quan hệ hoặc là các quy phạm quy định trình tự, thủ tục
điều chỉnh quan hệ tố tụng, không có quy phạm nào quy định vấn để xác định pháp luật áp
dụng như quy phạm xung đột.
3. Quy phạm xung đột nằm trong điều ước quốc tế và quy phạm xung đột nằm trong luật quốc
gia dẫn chiếu luật đều là dẫn chiếu đến quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
quan hệ.Sai. Quy phạm xung đột thống nhất nằm trong điều ước quốc tế dẫn chiếu luật là dẫn
chiếu đến phần quy định về quyền và nghĩa vụ, còn quy phạm xung đột thông thường nằm
trong luật quốc gia dẫn chiếu luật là dẫn chiếu đến cả phần quy định về xác định pháp luật áp
dụng. Nên khẳng định trên rằng cả hai loại quy phạm này dẫn chiếu chỉ là dẫn chiếu đến phần
quy định quyền và nghĩa vụ là sai.
4. Bảo lưu trật tự công là phủ nhận việc áp dụng pháp luật nước ngoài.
Sai. Thực chất bảo lưu trật tự công là cơ quan có thẩm quyền không áp dụng pháp luật nước
ngoài nếu hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam. Như vậy, bảo lưu trật tự công không phải là phủ nhận áp dụng pháp luật nước ngoài,
mà cơ quan có thẩm quyền vẫn áp dụng luật nước ngoài, nhưng khi áp dụng mà dẫn đến hậu quả
trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam mới không áp dụng pháp luật nước ngoài. Còn
nếu không có hậu quả trái nguyên tắc cơ
lOMoARcPSD| 57855709
5. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, pháp luật nước ngoài sẽ chỉ được áp dụng
trong trường hợp quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hoặc các bên có lựa chọn.Sai. Ngoài hai
trường hợp trên còn một trường hợp nữa pháp luật nước ngoài cũng được áp dụng nếu quy
phạm chỉ tới áp dụng luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất và cơ quan có thẩm quyền xác
định luật nước ngoài chính là pháp luật có mối liên hệ gắn bó nhất thì luật nước ngoài cũng
được áp dụng.
6. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài có quyền lựa chọn áp dụng tập quán quốc tế.Đúng. Bộ luật Dân sự năm 2015 đặc
biệt đề cao nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên trong quan hệ, vì vậy hệ thuộc luật lựa
chọn (Lex Voluntatis) cũng được quy định trong nhiều quy phạm xung đột. Sự tự do thỏa
thuận không chỉ giới hạn ở sự cho phép các bên được quyền chọn hệ thống luật áp dụng mà
còn thể hiện ở phạm vi của sự lựa chọn, Điều 666 Bộ luật Dân sự năm 2015 còn cho phép các
bên có thể thỏa thuận áp dụng cả tập quán quốc tế mà không nhất thiết phải là pháp luật của
các quốc gia.
7. Tập quán quốc tế sẽ được áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nếu
điềuước quốc tế, luật quốc gia không quy định và các bên không thỏa thuận chọn luật áp
dụng.Sai. Điều 666 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tập quán quốc tế sẽ được áp dụng khi
được các bên thỏa thuận.bản của pháp luật Việt Nam thì pháp luật nước ngoài sẽ phải được áp
dụng.Sai, khẳng định này trước đây là đúng nêu theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005
(Điều 3).
8. Phạm vi pháp luật được các bên thỏa thuận lựa chọn chỉ bao gồm quy định về quyền và nghĩa
vụ mà thôi.Đúng. Điều này được quy định tại khoản 4 Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cơ
sở để quy định như vậy là để đảm bảo tôn trọng sự thỏa thuận của các bên và pháp luật được
áp dụng chính là pháp luật các bên mong muốn được áp dụng, không thể xảy ra hiện tượng
dẫn chiếu ngược hoặc dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba - là pháp luật mà các bên
không thỏa thuận lựa chọn.
9. Trong một số trường hợp, luật nước ngoài sẽ không được áp dụng ngay cả khi không trái
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.Đúng. Luật nước ngoài sẽ được áp dụng trong một
số trường hợp, ví dụ quy phạm xung đột dẫn chiếu đến, các bên thỏa thuận lựa chọn... nhưng
lOMoARcPSD| 57855709
kể cả trong những trường hợp đó vẫn có ngoại lệ đó là các trường hợp được quy định tại Điều
670 Bộ luật Dân sự năm 2015 (Trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài), khi việc áp
dụng pháp luật nước ngoài gây hậu quả trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hoặc
nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần
thiết theo quy định của pháp luật tố tụng.
10. Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp luật nước ngoài cho Tòa án trong trường hợp đương
sự được quyền lựa chọn pháp luật nước ngoài áp dụng.Đúng. Theo quy định tại khoản 1 Điều
481 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài để Tòa án
áp dụng trong việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài), đây là nghĩa vụ của đương
sự. Sở dĩ như vậy bởi yêu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài là của các đương sự, họ có quyền
chọn pháp luật nước ngoài thì cũng có nghĩa vụ cung cấp pháp luật nước ngoài. Quyền và
nghĩa vụ đi đôi với nhau mới đảm bảo sự công bằng cho cả các đương sự lẫn các cơ quan áp
dụng pháp luật. Hơn nữa quy định này còn đảm bảo tăng tính trách nhiệm của các đương sự
khi yêu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài, giảm bớt áp lực phải tìm hiểu pháp luật nước ngoài
cho cơ quan thực thi. Thực tế đây cũng không phải yêu cầu gây khó khăn cho các đương sự vì
khi lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài các đương sự đã phải có những hiểu biết nhất định
về pháp luật sẽ được áp dụng với quan hệ của mình, nay phải cung cấp pháp luật nước ngoài là
hoàn toàn có thể thực hiện được.
1. Trong một số trường hợp các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế không
có sự tham gia của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài nhưng có sự tham gia của người
Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn được xem là quan hệ có yếu tố nước ngoài về mặt chủ
thể.Đúng. Theo khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì quan hệ hôn nhân và
gia đình nếu cả hai bên chủ thể đều là công dân Việt Nam nhưng một hoặc hai bên là người Việt
Nam định cư ở nước ngoài được xem là quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
4. Pháp nhân nước ngoài khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam luôn
được xem là pháp nhân mang quốc tịch Việt Nam.Sai. Theo Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2015,
quốc tịch của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân thành lập. Pháp
nhân thành lập tại quốc gia nào sẽ căn cứ vào pháp luật của quốc gia đó để xác định quốc tịch
pháp nhân.
lOMoARcPSD| 57855709
5. Tất cả các chủ thể của tư pháp quốc tế khi tham gia vào các quan hệ của tư pháp quốc tế
đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ.Sai. Khác với cá nhân và pháp nhân, quốc gia là
chủ thể đặc biệt, khi tham gia vào quan hệ tư pháp quốc tế sẽ được hưởng quyền miễn trừ tư
pháp.
Điều này tạo ra sự không bình đẳng giữa cá nhân và pháp nhân với quốc gia khi tham gia quan
hệ của tư pháp quốc tế.
6. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Nhà nước Việt Nam được quyền từ bỏ quyền
miễn trừtư pháp để chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự do mình xác lập với Nhà nước, pháp
nhân, cá nhân nước ngoài.Đúng. Theo quy định khoản 1 Điều 100 Bộ luật Dân sự năm 2015,
Nhà nước Việt Nam được từ bỏ quyền miễn trừ trong các trường hợp sau:
a) Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về việc
từ bỏ quyền miễn trừ;
b) Các bên trong quan hệ dân sự có thỏa thuận từ bỏ quyền miễn trừ;
c) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa
phương từ bỏ quyền miễn trừ.
7. Khi tham gia vào các quan hệ tư pháp quốc tế, Nhà nước Việt Nam có thể bị khởi kiện ra các
cơ quan tài phán.Đúng. Đây là các trường hợp Nhà nước Việt Nam đã khước từ quyền miễn trừ
tư pháp. Hầu hết các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam với các nước,
Chính phủ Việt Nam đã tự nguyện khước từ quyền miễn trừ tư pháp bằng việc cam kết sẽ giải
quyết các tranh chấp phát sinh giữa Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ với các đối tác nước
ngoài thông qua các cơ quan tài phán, hoặc các thiết chế tương đương theo quy định của điều
ước quốc tế. Đối với pháp luật trong nước, khoản 4 Điều 14 Luật Đầu tư năm 2020 của Việt Nam
đã quy định rõ: “Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua
Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam,...".
lOMoARcPSD| 57855709
1. Nguyên nhân phát sinh xung đột thẩm quyền là do pháp luật các nước có quy định khác
nhau về dấu hiệu xác định thẩm quyền.Sai. Do pháp luật các nước có quy định về dấu hiệu xác
định thẩm quyền chung giống nhau (quốc tịch, nơi cư trú...), khi vụ việc phát sinh, các bên
đương sự có thể đồng thời nộp đơn khởi kiện tại Tòa án của nhiều nước nên các cơ quan này đều
có thể có thẩm quyền dẫn đến xung đột thẩm quyền.
2. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ
quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam có thể trở thành bi đơn dân sự trong một vụ kiện.sai. Căn
cứ điểm b khoản 1 Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền
giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có chi nhánh,
văn phòng đại diện tại Việt Nam đối với các vụ việc liên quan đến hoạt động của chi nhánh văn
phòng đại diện của cơ quan, tổ chức đó tại Việt Nam. Như vậy, bị đơn là cơ quan, tổ chức có chi
nhánh, văn phòng đại diện chứ không phải chi nhánh, văn phòng đại diện là bị đơn.
3. Công nhận hiệu lực bản án của Tòa án nước ngoài là xét xử lại vụ việc xem Tòa án nước
ngoàigiải quyết có đúng luật không.Sai. Công nhận hiệu lực bản án của a án nước ngoài là
không xét xử lại nội dung vụ việc, Tòa án nước được yêu cầu công nhận chỉ xem xét Tòa án
nước ngoài có vi phạm về trình tự thủ tục của nước nơi ra phán quyết hay trái trật tự công nước
mình hay không, nhằm đảm bảo các quyền của đương sự trong bản án (Điều 439 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015).
4. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của tổ chức quốc tế được xác định theo điều ước quốc
tế và quy chế hoạt động của tổ chức đó.Đúng. Vì theo quy định tại khoản 2 Điều 467 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 thì: Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của tổ chức quốc tế, cơ quan đại
diện của tổ chức quốc tế được xác định trên cơ sở điều ước quốc tế là căn đự để thành lập tổ
chức đó, quy chế hoạt động của tổ chức quốc tế hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên.
5. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, Tòa án Việt Nam chỉ xem xét công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài.Sai. Còn cả
quyết định về nhân thân, hôn nhân và gia đình của các cơ quan khác có thẩm quyền của nước
ngoài theo quy định tại khoản 2 Điều 423 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
lOMoARcPSD| 57855709
6. Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa
án nước ngoài có thể được gửi đến Bộ Tư pháp hoặc Tòa án Việt Nam có thẩm quyền.Đúng.
Theo quy định của Điều 432 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, cơ quan nhận đơn yêu cầu công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài là Bộ
pháp hoặc a án có thẩm quyền.
7. Chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam của cơ quan, tổ chức nước ngoài có quyền
trực tiếp khởi kiện đến Tòa án Việt Nam để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.Sai. Vì theo Điều 465 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, văn phòng đại diện hoặc chi
nhánh chỉ có thể khởi kiện nếu có ủy quyền của cơ quan, tổ chức nước ngoài.
1. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết do
Trọng tài Việt Nam và trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.Sai. Theo khoản 12
Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, phán quyết của trọng tài nước ngoài là phân quyết
do trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải
quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn. Như vậy, phán quyết của trọng tài nước ngoài
phải là phán quyết do trọng tài nước ngoài tuyên chứ không phải phán quyết do trọng tài Việt
Nam tuyên. Do đó, khẳng định trên là sai.
2. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, trọng tài quốc tế là trọng tài được thành lập theo quy
địnhcủa pháp luật trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết
tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam.Sai. Trọng tài quốc tế là
trọng tài giải quyết các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Trọng tài đó có thể là trọng tài
được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc theo quy định của pháp luật trọng
tài nước ngoài. Vì vậy, khẳng địnhtrên là sai.
3. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước khi tranh chấp
phát sinh hoặc sau khi tranh chấp phát sinh. Đúng. Theo khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài thương
mại năm 2010, thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài
tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh. Vì vậy, các bên có thể thỏa thuận giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài trước khi có tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Do đó, khẳng
định trên là đúng.
lOMoARcPSD| 57855709
4. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, mọi quyết định của trọng tài nước ngoài mà nước đó và
Việt Nam cùng là thành viên của Điều ước quốc tế về công nhận và cho thì hành phán quyết
của trọng tài nước ngoài hoặc trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại đều có thể được xem xét công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam.Sai. Theo khoản 2 Điều 424 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015, chỉ những phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ
tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và có hiệu lực thi hành mới có thể được Tòa án Việt
Nam xem xét công nhận và cho thi hành. Vì vậy, không phải mọi quyết định của trọng tài
nước ngoài đều có thể được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
5. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài được giải quyết
tại Việt Nam, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài là tiếng Anh.Sai. Theo khoản 2 Điều 10
Luật Trọng tài thương mại năm 2010, đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, tranh chấp mà
ít nhất một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng
trọng tài do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên không có thỏa thuận thì ngôn ngữ sử
dụng trong tố tụng trọng tài do Hội đồng trọng tài quyết định. Như vậy, ngôn ngữ sử dụng
trong tố tụng trọng tài không bắt buộc phải là tiếng Anh mà có thể là bất kỳ ngôn ngữ nào do
các bên thỏa B Anh hoặc do Hội đồng trọng tài quyết định (nếu các bên khoản có thỏa thuận).
6. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, trong trường
hợp các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng, Hội đồng trọng tài sẽ quyết định áp dụng
pháp luật Việt Nam. Sai. Theo khoản 2 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, đối với
tranh chấp có yếu tố nước ngoài, nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội
đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất. Như
vậy, khi các bên không có thỏa thuận luật áp dụng, Hội đồng trọng tài có thể lựa chọn luật áp
dụng là điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, pháp luật của một quốc gia cụ thể hoặc pháp luật
Việt Nam chứ không phải luôn là pháp luật Việt Nam. Do đó, khẳng định trên là sai.
7. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, khi xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành, Tòa
án Việt Nam không được quyền xét xử lại tranh chấp đã được trọng tài nước ngoài ra phán
quyết.Đúng. Theo khoản 4 Điều 458 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, khi xem xét đơn yêu
lOMoARcPSD| 57855709
cầu công nhận và cho thi hành, Hội đồng không được xét xử lại tranh chấp đã được trọng tài
nước ngoài ra phán quyết. Như vậy, khẳng định trên là đúng.
8. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, phán quyết của trọng tài nước ngoài được thi hành tại
Việt Nam ngay sau khi Tòa án Việt Nam ra quyết định công nhận và cho thi hành.Sai. Theo
khoản 3 Điều 427 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, phán quyết của trọng tài nước ngoài chỉ
được thì hành tại Việt Nam sau khi quyết định của Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành
phán quyết của trọng tài nước ngoài đó có hiệu lực pháp luật.
9. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, trường hợp đại diện Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp
vắng mặt trong phiên họp xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài
nước ngoài thì Tòa án phải hoãn phiên họp.Sai. Theo khoản 2 Điều 458 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp
Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.
1. Theo pháp luật Việt Nam, quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài là quan hệ sở hữu phải có
người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia.Sai Theo khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự
năm 2015, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong ba trường hợp
sau:
- Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài,
- Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay
đổi,thực hiện hoặc châm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
- Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ
dân sự đó ở nước ngoài.
Như vậy, quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài có thể là quan hệ sở hữu có các bên tham gia đều
là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đối, thực hiện hoặc chấm
dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài hoặc đối tượng của quan hệ đó ở nước ngoài. Ví dụ trường
hợp công dân Việt Nam mua và sở hữu nhà ở tại Mỹ. Do đó, quan hệ sở hữu có yếu tố nước
lOMoARcPSD| 57855709
ngoài không bắt buộc phải có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài là một bên tham gia quan
hệ. Vì thế, nhận định trên là sai.
2. Theo tư pháp quốc tế Việt Nam, nguyên tắc luật nói có tài sản được sử dụng để điều chỉnh tất
cả các quan hệ sẽ hữu tài sản có yếu tố nước ngoài.Sai. Nguyên tắc luật nơi có tài sản được sử
dụng để điều chỉnh hầu hết các vấn đề liên quan đến quan hệ sở hữu tài sản. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp, hệ thuộc luật nơi có tài sản không được áp dụng. Ví dụ: Theo khoản 2
Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản
trên đường vận chuyển sẽ phải tuân theo luật do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật của nước
nơi động sản được chuyển đên. Do đó, nhận định nguyên tắc luật nơi có tài sản được sử dụng
để điều chỉnh tất cả các quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài là sai.
3. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, hệ thuộc luật nơi có tài sản không phải là
hệthuộc luật duy nhất được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ sở hữu có yêu tố nước
ngoài.Đúng. Trong một số trường hợp, quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài sẽ được điều
chỉnh bởi luật do các bên thỏa thuận hoặc luật nước nơi động sản được chuyển đến hoặc luật
quốc tịch của tàu bay, tàu biển. Ví dụ: theo khoản 2 Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền
sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển sẽ thỏa thuận hoặc
pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến. Hoặc, theo khoản 1 Điều 4 Luật Hàng
không dân dụng Viêt Nam năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014 quy định: “Pháp luật
của quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp dụng (...) để xác đình các quyền đối với tàu
bay”. Vì vậy, khẳng định hệ thuộc luật nơi có tài sản không phải là hệ thuộc luật duy nhất
được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài là đúng.
4. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, quyền sở hữu đối với động sản đang trên
đường vận chuyển luôn được xác định theo pháp luật nước nơi tài sản được chuyển đến.Sai.
Theo khoản 2 Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 2015: "Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài
sản là động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản
được chuyển đến, trừ trường hợp có thỏa thuận khác". Như vậy, quyền sở hữu đối với động
sản đang trên đường vận chuyển có thể được xác định theo hệ thống pháp luật mà các bên thỏa
thuận (có thể là pháp luật nước nơi động sản được chuyển đi, pháp luật của nước thứ ba hoặc
điều ước quốc tế, tập quán quốc tế). Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì quyền
lOMoARcPSD| 57855709
sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản đang trên đường vận chuyển mới xác định
theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến. Chính vì vậy, khẳng định trên là sai.
5. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tất cả các cá nhân nước ngoài được phép nhập cảnh vào
Việt Nam đều có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam.Sai. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều
159 và khoản 3 Điều 160 Luật Nhà ở năm 2014, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt
Nam phải thỏa mãn hai điều kiện là: “được phép nhập cảnh vào Việt Nam” và “không thuộc diện
được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự theo quy định của pháp luật”. Do đó,
không phải tất cả các cá nhân nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam đều có quyền sở
hữu nhà ở tại Việt Nam.
6. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, luật nước nơi có tài sản luôn được áp dụng để xác
định nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.Sai.
Theo quy định tại Điều 685 Bộ luật Dân sự năm 2015, nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng,
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật được xác định theo pháp luật của nước nơi thực
hiện việc chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc nơi phát sinh lợi ích được hưởng mà không có căn cứ
pháp luật.
7. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam định
cư ở nước ngoài sẽ có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam giống như công dân Việt Nam.Đúng.
Theo đoạn 2 điểm c khoản 2 Điều 161 Luật Nhà ở năm 2014: “Trường hợp cá nhân nước ngoài
kết hôn với công dân Việt Nam hoặc kết hôn với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì được
sở hữu nhà ở ổn định, lâu dài và có các quyền của chủ sở hữu nhà ở như công dân Việt Nam".
Như vậy, khi người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam định cư ở nước ngoài sẽ có quyền sở
hữu nhà ở tại Việt Nam như công dân Việt Nam.
8. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, người nước ngoài chỉ được sở hữu nhà ở tại Việt
Nam trong thời hạn tối đa là 50 năm.Sai. Theo điểm c khoản 2 Điều 161 Luật Nhà ở năm 2014:
"Đối với cá nhân nước ngoài thì được sở hữu nhà ở theo thỏa thuận (...) nhưng tối đa không quá
50 năm, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận và có thể được gia hạn thêm theo quy định của
Chính phủ nếu có nhu cầu". Như vậy, thời hạn sở hữu nhà ở của người nước ngoài có thể được
lOMoARcPSD| 57855709
gia hạn nếu có nhu cầu. Do đó, khẳng định người nước ngoài chỉ được sở hữu nhà ở tại Việt
Nam trong thời hạn tối đa là 50 năm là sai.
9. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, quyền sở hữu đối với tàu bay sẽ được xác định theo
pháp luật của nước mà chủ sở hữu tàu bay có quốc tịch.Sai. Theo khoản 1 Điều 4 Luật Hàng
không dân dụng Việt Nam năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014: dụng (...) để xác định
các quyền đối với tàu bay". Như vậy, “Pháp luật của quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp
chiếm hữu tàu bay) sẽ được xác định theo pháp luật của nước nơi đăng ký quốc tịch tàu bay chứ
không phải pháp luật của nước mà chủ sở hữu tàu bay có quốc tịch. Do đó, nhận định trên là sai.
1. Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định trong trường hợp thừa kế theo pháp luật có yếu tố
nước ngoài, nếu di sản thừa kế là bất động sản thì phải áp dụng pháp luật của nước nơi có di sản
thừa kế để giải quyết toàn bộ quan hệ thừa kế. Sai. Vì xác định pháp luật giải quyết quan hệ thừa
kế theo pháp luật phải dựa vào khoản 1 Điều 680 Bộ luật Dân sự năm 2015, theo đó phải áp
dụng pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết. Tuy
nhiên, nếu di sản thừa kế là bất động sản thì việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản
được xác định theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.
2. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có đủ quy định xác định pháp luật áp dụng đối với thừa
kế theo di chúc bao gồm: năng lực chủ thể lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc; hình thức di chúc; nội
dung di chúc.Sai. Vì nếu căn cứ vào Điều 681 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì điều luật này mới chỉ
đưa ra quy tắc xác định pháp luật điều chỉnh năng lực chủ thể lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc; hình
thức di chúc.
3. Theo pháp luật Việt Nam, di sản không người thừa kế thuộc về Nhà nước nơi di sản thừa
kế tổn tại. Sai. Vì pháp luật Việt Nam xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế nói chung
theo khoản 1 Điều 680 Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong trường hợp pháp luật Việt Nam được áp
dụng, căn cứ vào Điều 622 Bộ luật Dân sự năm 2015, di sản không người thừa kế sẽ thuộc về
Nhà nước, nhưng không chỉ rõ đó là Nhà nước nào. ngoài trong pháp luật Việt Nam và trong các
hiệp định
lOMoARcPSD| 57855709
4. Các quy định về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nướn tương trợ tư pháp song phương
Việt Nam ký kết với nước ngoài có nội dung tương tự như nhau.Sai. Vì căn cứ vào Điều 680
Bộ luật Dân sự năm 2015 thì nguyên tắc chung xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế
theo pháp luật là “Luật quốc tịch” trong khi đó một số hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam
đã ký kết với nước ngoài (khoản 1 Điều 34 Hiệp định với Cuba, khoản 1 Điều 43 Hiệp định với
Hungari, khoản 1 Điều 33 Hiệp định với Bungari, khoản 1 Điều 41 Hiệp định với Ba Lan, khoản
1 Điều 36 Hiệp định với Lào, khoản 1 Điều 39 Hiệp định với Liên bang Nga, khoản 1 Điều 34
Hiệp định với Ucraina, khoản 1 Điều 34 Hiệp định với Mông Cổ, khoản 1 Điều 42 Hiệp định với
Bêlarút) sử dụng nguyên tắc “Luật quốc tịch” để xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế
đối với di sản thừa kế là động sản, nguyên tắc “Luật nơi có tài sản” nếu di sản thừa kế là bất
động sản.
5. Pháp luật Việt Nam chưa có quy định phân biệt di sản thừa kế là động sản hay bất động
sản trong một quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.Sai. Vì đã có Điều 677 Bộ luật Dân sự năm
2015 về phân loại tài sản áp dụng cho cả tài sản là di sản thừa kế.
6. Các hiệp định tương trợ tư pháp song phương mà Việt Nam đã ký kết với nước ngoài có
khuynh hướng mở rộng khả năng có hiệu lực đôi với hình thức của di chúc bằng cách quy định
nhiều hệ thuộc điều chỉnh hình thức di chúc trong một quy phạm pháp luật xung đột. Đúng. Vì
căn cứ vào khoản 2 Điều 36 Hiệp định với Cuba, khoản 2 Điều 45 Hiệp định với Hungari, khoản
2 Điều 35 Hiệp định với Bungari...
1. Quyền tác giả chỉ có thể được bảo hộ ở nước ngoài thông qua điều ước quốc tế.Sai.
ngoài điều ước quốc tế các tác giả còn có thể được bảo hộ quyền của mình tại nước ngoài theo
pháp luật quốc gia đó, ví dụ tác phẩm xuất bản lần đầu tiên tại nước ngoài, nước đó và nước mà
tác giả là công dân chưa cùng tham gia điều ước quốc tế về quyền tác giả thì tác giả này vẫn có
thể được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình nếu pháp luật nước ngoài có căn cứ
bảo hộ là nơi xuất bản đầu tiên.
2. Theo quy định của Công ước Berne năm 1886, quyền tác giả được bảo hộ ngay cả khi
không đăng ký?
lOMoARcPSD| 57855709
Đúng. Công ước Berne xác định ba nguyên tắc cơ bản trong bảo hộ quyền tác giả. Một trong các
nguyên tắc đó là nguyên tắc bảo hộ tự động (khoản 2 Điều 5 Công ước Berne), tức là quyền tác
giả tự động phát sinh khi tác phẩm được hình thành, không cần thủ tục đăng ký hay công bố.
3. Sau ngày Việt Nam tham gia Công ước Berne năm 1886, tác giả là công dân Việt Nam có
tác phẩm xuất bản lần đầu tiên tại Việt Nam được bảo hộ tại Việt Nam theo quy định của pháp
luật Việt Nam và các quy định của Công ước Berne.Sai. Tác giả là công dân Việt Nam, xuất bản
lần đầu tiên tác phẩm của mình trên lãnh thổ Việt Nam thì Việt Nam là nước gốc tác phẩm. Căn
cứ vào nguyên tắc đối xử quốc gia được quy định tại khoản 1 Điều 5 Công ước Berne thì tác giả
trên chỉ được bảo hộ quyền tác giả của họ ở Việt Nam bằng các quy định của pháp luật Việt Nam
mà không bằng các quy định của công ước Berne.
4. Công dân nước chưa tham gia Công ước Berne vẫn có thể được bảo hộ quyền tác giả tại
các nước thành viên của Công ước Berne.Đúng. Vì Công ước Berne quy định các căn cứ bảo hộ
dựa vào các tiêu chí, dấu hiệu khác nhau, không chỉ là công dân nước thành viên, đó còn là nơi
xuất bản đầu tiên hoặc nơi cư trú. Vậy nếu một tác giả là công dân nước chưa tham gia công ước
nhưng xuất bản tác phẩm lần đầu tiên trên lãnh thổ nước thành viên Công ước thì cũng được bảo
hộ ở tất cả các nước thành viên khác của Công ước.
5. Theo quy định của Công ước Berne việc bảo hộ tác phẩm tại nước gốc và các nước thành
viên là độc lập.Đúng. Công ước Berne có ba nguyên tắc cơ bản, nguyên tác bảo hộ độc lập là
một trong ba nguyên tắc đó. Theo nguyên tắc bảo hộ độc lập thì việc hưởng và thực hiện các
quyền theo quy định của Công ước là độc lập với những gì được hưởng tại nước xuất xứ. Như
vậy, mặc dù một tác phẩm có thể không được bảo hộ tại nước xuất xứ nhưng vẫn hoàn toàn có
thể được bảo hộ tại các nước thành viên của Công ước.
6. Công ước Berne đặt ra các căn cứ bảo hộ bao gồm: quốc tịch, nơi xuất bản đầu tiên và
trú.Đúng. Các căn cứ này được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 3 Công ước Berne. Các quy
định này nhằm tạo điều kiện cho các tác giả có cơ hội được bảo hộ tại các nước thành viên Công
ước ngay cả khi quốc gia họ mang quốc tịch chưa tham gia Công ước. Hay để được hưởng lợi từ
Công ước thì sự cố gắng và nỗ lực của cá nhân cũng có vai trò quyết định tmà không hẳn chỉ dựa
vào sự tham gia hay không của Nhà nước vào Công ước.
lOMoARcPSD| 57855709
1. Các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) có mối liên quan mật thiết với các quy định của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO).Đúng. Điều ước quốc tế đa phương về sở hữu trí tuệ được ký trong khuôn khổ của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) là Hiệp định TRIPS. Hiệp định TRIPS là sự kế thừa và phát
triển quy định trong các điều ước quốc tế đa phương về sở hữu trí tuệ được ký kết trong khuôn
khổ của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), bao gồm: Công ước Paris (1967); Công ước
Berne (1971), Công ước Rome (1961), Hiệp ước về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp
(1989). Cụ thể, theo quy định tại khoản 3 Điều 1 của Hiệp định TRIPS các quốc gia thành viên
của WTO phải có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của các Hiệp định trên như thế là thành viên
của chính các điều ước quốc tế đó,
2 Sáng chế đã được một nước là thành viên của Công the Paris bảo hộ thì các quốc gia thành
viên khác của Công ước cũng có nghĩa vụ phải bảo hộ.Sai. Muốn bảo hộ tại các nước thành viên
khác thì chủ sở hữu sáng chế phải nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ nộp đến cơ quan có thẩm
quyền của quốc gia thành viên đó. Việc bảo hộ hay không bảo hộ là hoàn toàn phụ thuộc vào quy
định của các quốc gia thành viên.
3. Hiệp định TRIPS không đặt ra nghĩa vụ thiết lập một hệ thông riêng để thực thi quyền sở
hữu trí tuệ độc lập với hệ thông xét xử của các quốc gia thành viên.Đúng. Vì khoản 5 Điều 41
Hiệp định quy định các quốc gia thành viên không có nghĩa vụ thiết lập một hệ thống tư pháp
riêng để thực thi các quyền sở hữu trí tuệ tách biệt với hệ thống tư pháp để thực thi luật nói
chung. Các quốc gia thành viên hoàn toàn chủ động trong việc tổ chức, điều hành hệ thống các
cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
4. Hệ thống Madrid quy định về trình tự thủ tục cấp văn bằng bảo hộ quốc tế đối với nhân
hiệu.Sai. Không có khái niệm văn bằng bảo hộ quốc tế nhân hiệu. Việc cấp văn bằng bảo hộ đối
với nhãn hiệu là do các quốc gia thành viên thực hiện trên cơ sở các đăng ký quốc tế đã được
nộp cho Văn phòng quốc tế của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới.
5. Biện pháp hình sự được áp dụng đối với tất cả các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ theoquy định của Hiệp định TRIPS.Sai. Điều 61 Hiệp định TRIPS quy định biện pháp hình
sự áp dụng chủ yếu đối với các hành vi cố tỉnh giả mạo nhân hiệu hàng hoá hoặc xâm phạm bản
quyền với quy mô thương mại.
lOMoARcPSD| 57855709
6. Người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài, muốn được bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp tại Việt Nam trong mọi trường hợp đều phải nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ tại cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam.Sai. Đối với một số đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ tại
Việt Nam không cần phải nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ như bí mật thương mại, nhãn hiệu
nổi tiếng. Các đối tượng này sẽ được bảo hộ tại Việt Nam khi đáp ứng các điều kiện do pháp luật
quy định.
1. Quan hệ hợp đồng dân sự phát sinh giữa hai bên đều là pháp nhân mang quốc tịch Việt
Nam không thể là đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế.Sai. Vì căn cứ theo Điều 663 Bộ luật
Dân sự năm 2015 thì quan hệ hợp đồng dân sự có thể phát sinh giữa các bên đều là cá nhân,
pháp nhân Việt Nam nhưng chứa đựng những yếu tố khác như tài sản liên quan đến quan hệ đó ở
nước ngoài hoặc có căn cứ pháp lý xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài
thì quan hệ đó vẫn được coi là quan hệ hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài và thuộc đối tượng
điều chỉnh của tư pháp quốc tế.
2. Quan hệ hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài luôn luôn phải có ít nhất một trong các
bên chủ thể là người nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài. Sai Cách giải thích tương tự câu
khẳng định trên.
3 Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam thì các bên trong quan hệ hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài cố thể thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hình thức hợp
đồng.Đúng. Căn cứ theo quy định tại Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì các bên có thể lựa
chọn luật để áp dụng điều chỉnh quan hệ hợp đồng phát sinh và luật đó đồng thời cũng sẽ được
dùng để xác định tính hợp pháp đối với hình thức của hợp đồng.
4. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trong mọi trường hợp việc mua bán
hàng hóa quốc tế phải được thể hiện bằng hình thức hợp đồng bằng văn bản mới được coi là có
giá trị pháp lý.Đúng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại năm 2005 thì “Mua
bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức
khác có giá trị pháp lý tương đương".
5. Trong mọi trường hợp, nếu các bên tham gia ký kết hợp đồng đã có thỏa thuận với nhau
về lựachọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng thì pháp luật đó sẽ được áp dụng để điều chỉnh
quan hệ phát sinh. Sai. Mặc dù pháp luật tôn trọng và cho phép các bên được thỏa thuận với
lOMoARcPSD| 57855709
nhau để lựa chọn luật áp dụng đối với hợp đồng nhưng không phải trong mọi trường hợp, sự lựa
chọn đó đều sẽ đương nhiên được áp dụng. Trường hợp pháp luật do các bên lựa chọn là pháp
luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài đó sẽ không được áp dụng nếu thuộc trường hợp được
quy định tại Điều 670 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hoặc theo quy định mới của Bộ luật Dân sự
năm 2015, một số trường hợp ngoại lệ sẽ không áp dụng pháp luật do các bên thỏa thuận lựa
chọn nếu là hợp đồng liên quan đến bất động sản, hợp đồng tiêu dùng, hợp đồng lao động được
quy định tại các khoản 4, 5, 6 Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015.
1. Bồi thường thiệt hại trong tư pháp quốc tế chỉ là quan hệ bồi thường thiệt hại được quy
định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng có yếu tố nước ngoài.Sai. Vì bồi thường thiệt hại
trong tư pháp quốc tế còn bao gồm các quan hệ bồi thường thiệt hại mang bản chất dân sự được
quy định trong nhiều đạo luật chuyên ngành khác mà có yếu tố nước ngoài.
2. Nếu một bên trong quan hệ bồi thường thiệt hạ quốc gia nước ngoài và bên còn lại là
công dân, pháp nhân Viêt Nam thì quan hệ bồi thường thiệt hại đó sẽ thuộc đ
ối tượng điều
chỉnh của tư pháp quốc tế Việt Nam.Đúng. Quốc gia cũng là một chủ thể đặc biệt của t pháp
quốc tế, nên quan hệ bồi thường thiệt hại có quốc gia tham gia cũng thuộc đối tượng điều chỉnh
của tư pháp quốc tế.
3. Về nguyên tắc các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài được phép thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng. Đúng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 687
Bộ luật Dân sự năm 2015 thì các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. trừ trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư
trú, đối với cá nhân hoặc nơi thành lập, đối với pháp nhân tại cùng một nước. Nên ngoại trừ một
số quan hệ bối thường thiệt hại đặc biệt như trường hợp nêu trên hoặc liên quan đến tàu bay, tàu
biển thi các bên được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng
4. Các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yêu tô nước ngoài được
phép thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng cho mọi quan hệ bồi thường thiệt hại.Sai. Có nhiều trường
hợp ngoại lệ mà trong đó không cho phép sự thỏa thuận của các bên về luật áp dụng. Ví dụ
trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư trú, đối với cá nhân hoặc nơi thành lập,
đối với pháp nhân tại cùng một nước (khoản 2 Điều 687 Bộ luật Dân sự năm 2015), trường hợp
quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xảy ra trên tàu biển khi tàu đang ở vùng biển quốc
lOMoARcPSD| 57855709
tế thì áp dụng pháp luật của quốc gia mà tàu biển mang cò quốc tịch (Điều 3 Bộ luật Hàng hải
năm 2015), Pháp luật của quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp dụng đối với quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trong tàu bay đang bay. Pháp luật của quốc gia nơi xảy
ra tai nạn do tàu bay va chạm hoặc gây cản trở nhau, do tàu bay đang bay gây thiệt hại cho người
thứ ba ở mặt đất được áp dụng đối với việc bồi thường thiệt hại (khoản 1, khoản 4 Điều 4 Luật
Hàng không dân dụng năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014)...
5. Tòa án luôn phải áp dụng pháp luật do các bên thỏa thuận để giải quyết quan hệ bồi
thường thiệt hại có yếu tố nước ngoài nếu các bên đã thỏa thuận điều đó.Sai. Có nhiều trường
hợp ngoại lệ mà trong đó không cho phép sự thỏa thuận của các bên về luật áp dụng nên dù các
bên có thỏa thuận chọn luật thì Tòa án cũng sẽ chỉ áp dụng theo đúng sự chỉ dẫn của quy phạm
xung đột có liên quan. Giải thích như câu 4 trên.
6. Khi các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
không thỏa thuận chọn luật áp dụng Tòa án sẽ áp dụng luật của nước nơi xảy ra sự kiện gây thiệt
hại.Sai. Căn cứ khoản 1 Điều 687 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì nếu các bên không có thỏa thuận
thì về nguyên tắc sẽ p dụng pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự biên gây thiệt hại
(lex loci damni) chứ không phải nước nơi xảy ra sự kiện gây thiệt hại (lex loci delicti).
7. Tai nạn đâm và giữa hai tàu biển nước ngoài xảy ra trong lãnh hải Việt Nam sẽ được giải
quyết theo pháp luật nước nơi tàu biển mang cờ.Sai. Căn cứ khoản 3 Điều 3 Bộ luật Hàng hải
năm 2015 thị trường hợp quan hệ pháp luật liên quan đến tai nạn đâm mu, tiến công cứu hộ, trục
vớt tài sản chìm đắm xảy ra tại nội thủy hoặc lãnh hải của quốc gia nào thì áp dụng pháp huật
của quốc gia đó. Nên nếu hai tàu biển nước ngoài đâm va trong lãnh hải Việt Nam thì pháp luật
áp dụng với quan hệ bồi thường thiệt hại đó sẽ là pháp luật Việt Nam.
8. Nếu tàu bay gây thiệt hại cho người thứ ba ở mặt đất sẽ áp dụng pháp luật của nước nơi
đăng ký tàu bay.Sai. Căn cứ khoản 4 Điều 4 Luật Hàng không dân dụng năm 2006 thì: Pháp luật
của quốc gia nơi xảy ra tai nạn do thu hay va chạm hoặc gây cản trở nhau, do tàu bay đang hay
gây thiệt hại cho người thứ ba ở mặt đất được áp dụng đối với việc bồi thường thiệt hại. Do đó,
nếu tàu bay gây thiệt hại cho người thứ ba ở mặt đất sẽ áp dụng pháp luật của nước nơi xảy ra tai
nạn chứ không phải pháp luật của nước nơi đăng ký tàu bay.
lOMoARcPSD| 57855709
9. Mọi quan hệ bối thường thiệt hại giữa các pháp nhân nước ngoài có cùng quốc tịch sẽ
theo pháp luật của nước nơi các pháp nhân đó mang quốc tịch. Sai. Căn cứ khoản 2 Điều 687 Bộ
luật Dân sự năm 2015 thì trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư trú đối với cá
nhân hoặc nơi thành lập đối với pháp nhân tại cũng một nước, thì pháp luật của nước đó được áp
dụng. Tức dấu hiệu được đưa ra xem xét ở đây là nơi thành lập chứ không phải quốc tịch của
pháp nhân. Khoản này không đề cập đến việc các bên là pháp nhân có cùng quốc tịch hay không
mà chỉ xem xét nếu cả pháp nhân gây thiệt hại và pháp nhân bị thiệt hại cùng thành lập ở một
nước thì pháp luật nước đó được áp dụng. Phần lớn các trường hợp khi thành lập cùng một nước
thì các pháp nhân sẽ có cùng quốc tịch, nhưng điều đó không có nghĩa là cứ thành lập cũng một
nước các pháp nhân sẽ có quốc tịch như nhau hoặc cứ cũng quốc tịch là thành lập cùng một
nước. Ví dụ nếu các pháp nhân có trụ sở tại cũng một nước nhưng thành lập tại các nước khác
nhau mà các nước này đều quy định pháp nhân có trụ sở ở đâu thì có quốc tịch ở đó thì khi đó
các pháp nhân khác nơi thành lập nhưng vẫn có cùng quốc tịch.
1. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, người nước ngoài khi kết hôn với công
dân Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, điều kiện kết hôn của họ chỉ cần tuân
thủ pháp luật của nước mà họ là công dân.Sai. Theo khoản 1 Điều 126 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014: ...nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt
Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam về điều kiện kết hôn.
2. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, quan hệ hôn nhân và gia đình có ít nhất
mộtbên tham gia là người Việt Nam định cư ở nước ngoài là quan hệ hồn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài. Đúng. Theo khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
3. Theo quy định của các Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam ký kết với nước ngoài, điều
kiệnkết hôn giữa công dân các nước ký kết chỉ được xác định theo pháp luật của nước mà người
đó mang quốc tịch. Sai. Hiệp định Việt Nam - Nga; Việt Nam - Séc; Việt Nam - Xlôvakia, còn
quy định: các bên còn phải tuân thủ pháp luật của nước nơi tiến hành kết hôn về các trường hợp
cấm kết hôn.
4. Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đã được giải quyết tại cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài có thể được công nhận tại Việt Nam nếu việc
lOMoARcPSD| 57855709
kết hôn đó không đáp ứng điều kiện kết hôn do pháp luật Việt Nam quy định. đúng. Theo khoản
2 Điều 34 Nghị định số 123/2015/ND-CP quy định về điều kiện ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn
của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước
ngoài “nếu vào thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, việc kết hôn không
đáp ứng điều kiện kết hôn, nhưng không vi phạm điều cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và
gia đình, nhưng vào thời điểm yêu cầu ghi vào Số hộ tịch việc kết hôn, hậu quả đã được khắc
phục hoặc việc ghi chú kết hôn là nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam và trẻ em, thì
việc kết hôn cũng được ghỉ vào Số hộ tịch". Như vậy, nếu công dân Việt Nam kết hồn ở nước
ngoài mà không đáp ứng điều kiện kết hôn, nhưng không vi phạm điều cấm theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì việc kết hôn đó vẫn được công nhận tại Việt Nam nếu
tuân thủ theo một trong hai điều kiện:
- Hoặc vào thời điểm yêu cầu công nhận việc kết hôn hậu quả của sự vi phạm đó đã được khắc
phục;
- Hoặc việc công nhận kết hôn đó là có lợi để bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam và trẻ em.
5. Trẻ em Việt Nam khi được nhận làm con nuôi người nước ngoài sẽ cắt đứt hoàn toàn quan hệ
nhân thân cũng như quan hệ tài sản với cha mẹ đẻ.Sai. Theo khoản 1 Điều 37 Luật Quốc tịch
Việt Nam năm 2008: “Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi
thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam". Theo Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, về mặt dân
sự, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp
luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.
Nhưng còn về vấn đề quốc tịch (quan hệ nhân thân) trẻ em vẫn mang quốc tịch Việt Nam (quốc
tịch của cha mẹ đẻ) đến năm 18 tuổi. Đủ 18 tuổi, con nuôi có quyền lựa chọn quốc tịch hoặc
quốc tịch của cha mẹ nuôi hoặc quốc tịch quốc gia khác do người con nuôi đó lựa chọn.
1. Tất cả người lao động nước ngoài khi muốn làm việc tại Việt Nam đều phải xin giấy phép
lao động? Sai. Căn cứ vào Điều 154 Bộ luật Lao động năm 2019, có 9 trường hợp người lao
động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động.
2. Trong một số trường hợp, người sử dụng lao động muốn sử dụng lao động nước ngoài tại
Việt Nam không phải chứng minh nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài của mình trước khi
thông báo tuyển dụng. Đúng. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 4 Nghị định số 152/2020/ND-CP

Preview text:

lOMoAR cPSD| 57855709 1.
Quan hệ tư pháp quốc tế phải là một quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có cùng lúc ba yếu
tố nước ngoài (chủ thể của quan hệ là người nước ngoài, đối tượng của quan hệ tổn tại ở nước
ngoài, cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ xảy ra ở nước ngoài).Sai. Vì quan hệ tư pháp quốc tế
chỉ cần có ít nhất một yếu tố nước ngoài trong số ba yếu tố nêu trên. 2.
Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế Việt Nam là quan hệ nhân thân và tài sản phát
sinh từ các lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình... có yếu tố nước
ngoài.Đúng. Vì đó là cách diễn đạt khác về quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài. 3.
Trong tư pháp quốc tế, áp dụng phương pháp xung đột phức tạp hơn phương pháp thực
chất.Đúng. Vì áp dụng phương pháp xung đột cần phải lựa chọn hệ thống pháp luật phù hợp
trước khi sử dụng hệ thống pháp luật được lựa chọn đó để giải quyết quan hệ phát sinh. Trong
khi đó, nếu áp dụng phương pháp thực chất thì quan hệ phát sinh sẽ được giải quyết ngay mà
không phải thông qua bước lựa chọn pháp luật trung gian như phương pháp xung đột. 4.
Theo quan điểm chính thống ở Việt Nam hiện nay, tư pháp quốc tế là một ngành luật liên
hệ thống, nằm giữa hệ thống pháp luật quốc gia và hệ thống pháp luật quốc tế.Sai. Vì tư pháp
quốc tế là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc gia, có đối tượng điều chỉnh,
phương pháp điều chỉnh và nguồn riêng. 5.
Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế là nguồn của công pháp quốc tế cũng sẽ là nguồn
của tư pháp quốc tế.Sai. Vì chỉ những điều ước quốc tế, tập quán quốc tế có chứa đựng quy
phạm, nguyên tắc tư pháp quốc tế mới có thể là nguồn của tư pháp quốc tế. 6.
Hiện nay, pháp luật quốc gia mới là nguồn điều chỉnh chủ yếu của tư pháp quốc tế Việt
Nam.Đúng. Vì các quy phạm, nguyên tắc của tư pháp quốc tế tập trung chủ yếu trong loại nguồn
này. Có thể thấy rất rõ sự tập trung của quy phạm, nguyên tắc của tư pháp quốc tế trong Hiến
pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2015 (Phần thứ năm), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
(Phần thứ bảy, Phần thứ tám), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Chương VIII)..., các văn bản dưới luật...
1. Xung đột pháp luật nảy sinh trong mọi quan hệ có yêu tố nước ngoài.Sai. Vì xung đột pháp
luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể điều lOMoAR cPSD| 57855709
chỉnh một quan hệ, đồng ý có xung đột pháp luật tức là đồng ý có thể áp dụng pháp luật nước ngoài.
Trong khẳng định trên có cụm từ “mọi quan hệ có yếu tố nước ngoài", cụm từ này cho phép hiểu
là bất kỳ quan hệ nào có yếu tố nước ngoài, không chỉ là các quan hệ dân sự mà còn cả các quan
hệ hình sự, hành chính, nếu có yếu tố nước ngoài đều có hiện tượng xung đột pháp luật xảy ra.
Như vậy, khẳng định này là sai vì trong các quan hệ hình sự, hành chính nói riêng hay các quan
hệ luật công nói chung không thể có việc áp dụng pháp luật nước ngoài, hay các quan hệ luật
công có yếu tố nước ngoài cũng không có xung đột pháp luật.Vì vậy, khẳng định xung đột pháp
luật nảy sinh trong mọi quan hệ có yếu tố nước ngoài là sai.
2. Quy phạm xung đột là loại quy phạm duy nhất xác định pháp luật áp dụng.Đúng. Bởi tất cả
các quy phạm pháp luật khác hoặc là quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia
quan hệ trực tiếp điều chỉnh nội dung quan hệ hoặc là các quy phạm quy định trình tự, thủ tục
điều chỉnh quan hệ tố tụng, không có quy phạm nào quy định vấn để xác định pháp luật áp
dụng như quy phạm xung đột.
3. Quy phạm xung đột nằm trong điều ước quốc tế và quy phạm xung đột nằm trong luật quốc
gia dẫn chiếu luật đều là dẫn chiếu đến quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
quan hệ.Sai. Quy phạm xung đột thống nhất nằm trong điều ước quốc tế dẫn chiếu luật là dẫn
chiếu đến phần quy định về quyền và nghĩa vụ, còn quy phạm xung đột thông thường nằm
trong luật quốc gia dẫn chiếu luật là dẫn chiếu đến cả phần quy định về xác định pháp luật áp
dụng. Nên khẳng định trên rằng cả hai loại quy phạm này dẫn chiếu chỉ là dẫn chiếu đến phần
quy định quyền và nghĩa vụ là sai.
4. Bảo lưu trật tự công là phủ nhận việc áp dụng pháp luật nước ngoài.
Sai. Thực chất bảo lưu trật tự công là cơ quan có thẩm quyền không áp dụng pháp luật nước
ngoài nếu hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam. Như vậy, bảo lưu trật tự công không phải là phủ nhận áp dụng pháp luật nước ngoài,
mà cơ quan có thẩm quyền vẫn áp dụng luật nước ngoài, nhưng khi áp dụng mà dẫn đến hậu quả
trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam mới không áp dụng pháp luật nước ngoài. Còn
nếu không có hậu quả trái nguyên tắc cơ lOMoAR cPSD| 57855709
5. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, pháp luật nước ngoài sẽ chỉ được áp dụng
trong trường hợp quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hoặc các bên có lựa chọn.Sai. Ngoài hai
trường hợp trên còn một trường hợp nữa pháp luật nước ngoài cũng được áp dụng nếu quy
phạm chỉ tới áp dụng luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất và cơ quan có thẩm quyền xác
định luật nước ngoài chính là pháp luật có mối liên hệ gắn bó nhất thì luật nước ngoài cũng được áp dụng.
6. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài có quyền lựa chọn áp dụng tập quán quốc tế.Đúng. Bộ luật Dân sự năm 2015 đặc
biệt đề cao nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên trong quan hệ, vì vậy hệ thuộc luật lựa
chọn (Lex Voluntatis) cũng được quy định trong nhiều quy phạm xung đột. Sự tự do thỏa
thuận không chỉ giới hạn ở sự cho phép các bên được quyền chọn hệ thống luật áp dụng mà
còn thể hiện ở phạm vi của sự lựa chọn, Điều 666 Bộ luật Dân sự năm 2015 còn cho phép các
bên có thể thỏa thuận áp dụng cả tập quán quốc tế mà không nhất thiết phải là pháp luật của các quốc gia.
7. Tập quán quốc tế sẽ được áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nếu
điềuước quốc tế, luật quốc gia không quy định và các bên không thỏa thuận chọn luật áp
dụng.Sai. Điều 666 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tập quán quốc tế sẽ được áp dụng khi
được các bên thỏa thuận.bản của pháp luật Việt Nam thì pháp luật nước ngoài sẽ phải được áp
dụng.Sai, khẳng định này trước đây là đúng nêu theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 3).
8. Phạm vi pháp luật được các bên thỏa thuận lựa chọn chỉ bao gồm quy định về quyền và nghĩa
vụ mà thôi.Đúng. Điều này được quy định tại khoản 4 Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cơ
sở để quy định như vậy là để đảm bảo tôn trọng sự thỏa thuận của các bên và pháp luật được
áp dụng chính là pháp luật các bên mong muốn được áp dụng, không thể xảy ra hiện tượng
dẫn chiếu ngược hoặc dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba - là pháp luật mà các bên
không thỏa thuận lựa chọn.
9. Trong một số trường hợp, luật nước ngoài sẽ không được áp dụng ngay cả khi không trái
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.Đúng. Luật nước ngoài sẽ được áp dụng trong một
số trường hợp, ví dụ quy phạm xung đột dẫn chiếu đến, các bên thỏa thuận lựa chọn... nhưng lOMoAR cPSD| 57855709
kể cả trong những trường hợp đó vẫn có ngoại lệ đó là các trường hợp được quy định tại Điều
670 Bộ luật Dân sự năm 2015 (Trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài), khi việc áp
dụng pháp luật nước ngoài gây hậu quả trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hoặc
nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần
thiết theo quy định của pháp luật tố tụng. 10.
Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp luật nước ngoài cho Tòa án trong trường hợp đương
sự được quyền lựa chọn pháp luật nước ngoài áp dụng.Đúng. Theo quy định tại khoản 1 Điều
481 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài để Tòa án
áp dụng trong việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài), đây là nghĩa vụ của đương
sự. Sở dĩ như vậy bởi yêu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài là của các đương sự, họ có quyền
chọn pháp luật nước ngoài thì cũng có nghĩa vụ cung cấp pháp luật nước ngoài. Quyền và
nghĩa vụ đi đôi với nhau mới đảm bảo sự công bằng cho cả các đương sự lẫn các cơ quan áp
dụng pháp luật. Hơn nữa quy định này còn đảm bảo tăng tính trách nhiệm của các đương sự
khi yêu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài, giảm bớt áp lực phải tìm hiểu pháp luật nước ngoài
cho cơ quan thực thi. Thực tế đây cũng không phải yêu cầu gây khó khăn cho các đương sự vì
khi lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài các đương sự đã phải có những hiểu biết nhất định
về pháp luật sẽ được áp dụng với quan hệ của mình, nay phải cung cấp pháp luật nước ngoài là
hoàn toàn có thể thực hiện được.
1. Trong một số trường hợp các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế không
có sự tham gia của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài nhưng có sự tham gia của người
Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn được xem là quan hệ có yếu tố nước ngoài về mặt chủ
thể.Đúng. Theo khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì quan hệ hôn nhân và
gia đình nếu cả hai bên chủ thể đều là công dân Việt Nam nhưng một hoặc hai bên là người Việt
Nam định cư ở nước ngoài được xem là quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. 4.
Pháp nhân nước ngoài khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam luôn
được xem là pháp nhân mang quốc tịch Việt Nam.Sai. Theo Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2015,
quốc tịch của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân thành lập. Pháp
nhân thành lập tại quốc gia nào sẽ căn cứ vào pháp luật của quốc gia đó để xác định quốc tịch pháp nhân. lOMoAR cPSD| 57855709 5.
Tất cả các chủ thể của tư pháp quốc tế khi tham gia vào các quan hệ của tư pháp quốc tế
đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ.Sai. Khác với cá nhân và pháp nhân, quốc gia là
chủ thể đặc biệt, khi tham gia vào quan hệ tư pháp quốc tế sẽ được hưởng quyền miễn trừ tư pháp.
Điều này tạo ra sự không bình đẳng giữa cá nhân và pháp nhân với quốc gia khi tham gia quan
hệ của tư pháp quốc tế. 6.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Nhà nước Việt Nam được quyền từ bỏ quyền
miễn trừtư pháp để chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự do mình xác lập với Nhà nước, pháp
nhân, cá nhân nước ngoài.Đúng. Theo quy định khoản 1 Điều 100 Bộ luật Dân sự năm 2015,
Nhà nước Việt Nam được từ bỏ quyền miễn trừ trong các trường hợp sau:
a) Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về việc
từ bỏ quyền miễn trừ;
b) Các bên trong quan hệ dân sự có thỏa thuận từ bỏ quyền miễn trừ;
c) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa
phương từ bỏ quyền miễn trừ.
7. Khi tham gia vào các quan hệ tư pháp quốc tế, Nhà nước Việt Nam có thể bị khởi kiện ra các
cơ quan tài phán.Đúng. Đây là các trường hợp Nhà nước Việt Nam đã khước từ quyền miễn trừ
tư pháp. Hầu hết các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam với các nước,
Chính phủ Việt Nam đã tự nguyện khước từ quyền miễn trừ tư pháp bằng việc cam kết sẽ giải
quyết các tranh chấp phát sinh giữa Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ với các đối tác nước
ngoài thông qua các cơ quan tài phán, hoặc các thiết chế tương đương theo quy định của điều
ước quốc tế. Đối với pháp luật trong nước, khoản 4 Điều 14 Luật Đầu tư năm 2020 của Việt Nam
đã quy định rõ: “Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua
Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam,...". lOMoAR cPSD| 57855709 1.
Nguyên nhân phát sinh xung đột thẩm quyền là do pháp luật các nước có quy định khác
nhau về dấu hiệu xác định thẩm quyền.Sai. Do pháp luật các nước có quy định về dấu hiệu xác
định thẩm quyền chung giống nhau (quốc tịch, nơi cư trú...), khi vụ việc phát sinh, các bên
đương sự có thể đồng thời nộp đơn khởi kiện tại Tòa án của nhiều nước nên các cơ quan này đều
có thể có thẩm quyền dẫn đến xung đột thẩm quyền. 2.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ
quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam có thể trở thành bi đơn dân sự trong một vụ kiện.sai. Căn
cứ điểm b khoản 1 Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền
giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có chi nhánh,
văn phòng đại diện tại Việt Nam đối với các vụ việc liên quan đến hoạt động của chi nhánh văn
phòng đại diện của cơ quan, tổ chức đó tại Việt Nam. Như vậy, bị đơn là cơ quan, tổ chức có chi
nhánh, văn phòng đại diện chứ không phải chi nhánh, văn phòng đại diện là bị đơn. 3.
Công nhận hiệu lực bản án của Tòa án nước ngoài là xét xử lại vụ việc xem Tòa án nước
ngoàigiải quyết có đúng luật không.Sai. Công nhận hiệu lực bản án của Tòa án nước ngoài là
không xét xử lại nội dung vụ việc, Tòa án nước được yêu cầu công nhận chỉ xem xét Tòa án
nước ngoài có vi phạm về trình tự thủ tục của nước nơi ra phán quyết hay trái trật tự công nước
mình hay không, nhằm đảm bảo các quyền của đương sự trong bản án (Điều 439 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). 4.
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của tổ chức quốc tế được xác định theo điều ước quốc
tế và quy chế hoạt động của tổ chức đó.Đúng. Vì theo quy định tại khoản 2 Điều 467 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 thì: Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của tổ chức quốc tế, cơ quan đại
diện của tổ chức quốc tế được xác định trên cơ sở điều ước quốc tế là căn đự để thành lập tổ
chức đó, quy chế hoạt động của tổ chức quốc tế hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên. 5.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, Tòa án Việt Nam chỉ xem xét công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài.Sai. Còn cả
quyết định về nhân thân, hôn nhân và gia đình của các cơ quan khác có thẩm quyền của nước
ngoài theo quy định tại khoản 2 Điều 423 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. lOMoAR cPSD| 57855709 6.
Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa
án nước ngoài có thể được gửi đến Bộ Tư pháp hoặc Tòa án Việt Nam có thẩm quyền.Đúng.
Theo quy định của Điều 432 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, cơ quan nhận đơn yêu cầu công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài là Bộ Tư
pháp hoặc Tòa án có thẩm quyền. 7.
Chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam của cơ quan, tổ chức nước ngoài có quyền
trực tiếp khởi kiện đến Tòa án Việt Nam để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.Sai. Vì theo Điều 465 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, văn phòng đại diện hoặc chi
nhánh chỉ có thể khởi kiện nếu có ủy quyền của cơ quan, tổ chức nước ngoài.
1. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết do
Trọng tài Việt Nam và trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.Sai. Theo khoản 12
Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, phán quyết của trọng tài nước ngoài là phân quyết
do trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải
quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn. Như vậy, phán quyết của trọng tài nước ngoài
phải là phán quyết do trọng tài nước ngoài tuyên chứ không phải phán quyết do trọng tài Việt
Nam tuyên. Do đó, khẳng định trên là sai.
2. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, trọng tài quốc tế là trọng tài được thành lập theo quy
địnhcủa pháp luật trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết
tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam.Sai. Trọng tài quốc tế là
trọng tài giải quyết các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Trọng tài đó có thể là trọng tài
được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc theo quy định của pháp luật trọng
tài nước ngoài. Vì vậy, khẳng địnhtrên là sai.
3. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước khi tranh chấp
phát sinh hoặc sau khi tranh chấp phát sinh. Đúng. Theo khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài thương
mại năm 2010, thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài
tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh. Vì vậy, các bên có thể thỏa thuận giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài trước khi có tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Do đó, khẳng định trên là đúng. lOMoAR cPSD| 57855709
4. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, mọi quyết định của trọng tài nước ngoài mà nước đó và
Việt Nam cùng là thành viên của Điều ước quốc tế về công nhận và cho thì hành phán quyết
của trọng tài nước ngoài hoặc trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại đều có thể được xem xét công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam.Sai. Theo khoản 2 Điều 424 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015, chỉ những phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ
tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và có hiệu lực thi hành mới có thể được Tòa án Việt
Nam xem xét công nhận và cho thi hành. Vì vậy, không phải mọi quyết định của trọng tài
nước ngoài đều có thể được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
5. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài được giải quyết
tại Việt Nam, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài là tiếng Anh.Sai. Theo khoản 2 Điều 10
Luật Trọng tài thương mại năm 2010, đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, tranh chấp mà
ít nhất một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng
trọng tài do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên không có thỏa thuận thì ngôn ngữ sử
dụng trong tố tụng trọng tài do Hội đồng trọng tài quyết định. Như vậy, ngôn ngữ sử dụng
trong tố tụng trọng tài không bắt buộc phải là tiếng Anh mà có thể là bất kỳ ngôn ngữ nào do
các bên thỏa B Anh hoặc do Hội đồng trọng tài quyết định (nếu các bên khoản có thỏa thuận).
6. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, trong trường
hợp các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng, Hội đồng trọng tài sẽ quyết định áp dụng
pháp luật Việt Nam. Sai. Theo khoản 2 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, đối với
tranh chấp có yếu tố nước ngoài, nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội
đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất. Như
vậy, khi các bên không có thỏa thuận luật áp dụng, Hội đồng trọng tài có thể lựa chọn luật áp
dụng là điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, pháp luật của một quốc gia cụ thể hoặc pháp luật
Việt Nam chứ không phải luôn là pháp luật Việt Nam. Do đó, khẳng định trên là sai.
7. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, khi xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành, Tòa
án Việt Nam không được quyền xét xử lại tranh chấp đã được trọng tài nước ngoài ra phán
quyết.Đúng. Theo khoản 4 Điều 458 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, khi xem xét đơn yêu lOMoAR cPSD| 57855709
cầu công nhận và cho thi hành, Hội đồng không được xét xử lại tranh chấp đã được trọng tài
nước ngoài ra phán quyết. Như vậy, khẳng định trên là đúng.
8. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, phán quyết của trọng tài nước ngoài được thi hành tại
Việt Nam ngay sau khi Tòa án Việt Nam ra quyết định công nhận và cho thi hành.Sai. Theo
khoản 3 Điều 427 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, phán quyết của trọng tài nước ngoài chỉ
được thì hành tại Việt Nam sau khi quyết định của Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành
phán quyết của trọng tài nước ngoài đó có hiệu lực pháp luật.
9. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, trường hợp đại diện Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp
vắng mặt trong phiên họp xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài
nước ngoài thì Tòa án phải hoãn phiên họp.Sai. Theo khoản 2 Điều 458 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp
Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.
1. Theo pháp luật Việt Nam, quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài là quan hệ sở hữu phải có
người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia.Sai Theo khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự
năm 2015, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong ba trường hợp sau:
- Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài,
- Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay
đổi,thực hiện hoặc châm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
- Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ
dân sự đó ở nước ngoài.
Như vậy, quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài có thể là quan hệ sở hữu có các bên tham gia đều
là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đối, thực hiện hoặc chấm
dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài hoặc đối tượng của quan hệ đó ở nước ngoài. Ví dụ trường
hợp công dân Việt Nam mua và sở hữu nhà ở tại Mỹ. Do đó, quan hệ sở hữu có yếu tố nước lOMoAR cPSD| 57855709
ngoài không bắt buộc phải có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài là một bên tham gia quan
hệ. Vì thế, nhận định trên là sai.
2. Theo tư pháp quốc tế Việt Nam, nguyên tắc luật nói có tài sản được sử dụng để điều chỉnh tất
cả các quan hệ sẽ hữu tài sản có yếu tố nước ngoài.Sai. Nguyên tắc luật nơi có tài sản được sử
dụng để điều chỉnh hầu hết các vấn đề liên quan đến quan hệ sở hữu tài sản. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp, hệ thuộc luật nơi có tài sản không được áp dụng. Ví dụ: Theo khoản 2
Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản
trên đường vận chuyển sẽ phải tuân theo luật do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật của nước
nơi động sản được chuyển đên. Do đó, nhận định nguyên tắc luật nơi có tài sản được sử dụng
để điều chỉnh tất cả các quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài là sai.
3. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, hệ thuộc luật nơi có tài sản không phải là
hệthuộc luật duy nhất được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ sở hữu có yêu tố nước
ngoài.Đúng. Trong một số trường hợp, quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài sẽ được điều
chỉnh bởi luật do các bên thỏa thuận hoặc luật nước nơi động sản được chuyển đến hoặc luật
quốc tịch của tàu bay, tàu biển. Ví dụ: theo khoản 2 Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền
sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển sẽ thỏa thuận hoặc
pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến. Hoặc, theo khoản 1 Điều 4 Luật Hàng
không dân dụng Viêt Nam năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014 quy định: “Pháp luật
của quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp dụng (...) để xác đình các quyền đối với tàu
bay”. Vì vậy, khẳng định hệ thuộc luật nơi có tài sản không phải là hệ thuộc luật duy nhất
được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài là đúng.
4. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, quyền sở hữu đối với động sản đang trên
đường vận chuyển luôn được xác định theo pháp luật nước nơi tài sản được chuyển đến.Sai.
Theo khoản 2 Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 2015: "Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài
sản là động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản
được chuyển đến, trừ trường hợp có thỏa thuận khác". Như vậy, quyền sở hữu đối với động
sản đang trên đường vận chuyển có thể được xác định theo hệ thống pháp luật mà các bên thỏa
thuận (có thể là pháp luật nước nơi động sản được chuyển đi, pháp luật của nước thứ ba hoặc
điều ước quốc tế, tập quán quốc tế). Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì quyền lOMoAR cPSD| 57855709
sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản đang trên đường vận chuyển mới xác định
theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến. Chính vì vậy, khẳng định trên là sai.
5. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tất cả các cá nhân nước ngoài được phép nhập cảnh vào
Việt Nam đều có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam.Sai. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều
159 và khoản 3 Điều 160 Luật Nhà ở năm 2014, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt
Nam phải thỏa mãn hai điều kiện là: “được phép nhập cảnh vào Việt Nam” và “không thuộc diện
được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự theo quy định của pháp luật”. Do đó,
không phải tất cả các cá nhân nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam đều có quyền sở
hữu nhà ở tại Việt Nam. 6.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, luật nước nơi có tài sản luôn được áp dụng để xác
định nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.Sai.
Theo quy định tại Điều 685 Bộ luật Dân sự năm 2015, nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng,
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật được xác định theo pháp luật của nước nơi thực
hiện việc chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc nơi phát sinh lợi ích được hưởng mà không có căn cứ pháp luật. 7.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam định
cư ở nước ngoài sẽ có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam giống như công dân Việt Nam.Đúng.
Theo đoạn 2 điểm c khoản 2 Điều 161 Luật Nhà ở năm 2014: “Trường hợp cá nhân nước ngoài
kết hôn với công dân Việt Nam hoặc kết hôn với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì được
sở hữu nhà ở ổn định, lâu dài và có các quyền của chủ sở hữu nhà ở như công dân Việt Nam".
Như vậy, khi người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam định cư ở nước ngoài sẽ có quyền sở
hữu nhà ở tại Việt Nam như công dân Việt Nam. 8.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, người nước ngoài chỉ được sở hữu nhà ở tại Việt
Nam trong thời hạn tối đa là 50 năm.Sai. Theo điểm c khoản 2 Điều 161 Luật Nhà ở năm 2014:
"Đối với cá nhân nước ngoài thì được sở hữu nhà ở theo thỏa thuận (...) nhưng tối đa không quá
50 năm, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận và có thể được gia hạn thêm theo quy định của
Chính phủ nếu có nhu cầu". Như vậy, thời hạn sở hữu nhà ở của người nước ngoài có thể được lOMoAR cPSD| 57855709
gia hạn nếu có nhu cầu. Do đó, khẳng định người nước ngoài chỉ được sở hữu nhà ở tại Việt
Nam trong thời hạn tối đa là 50 năm là sai. 9.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, quyền sở hữu đối với tàu bay sẽ được xác định theo
pháp luật của nước mà chủ sở hữu tàu bay có quốc tịch.Sai. Theo khoản 1 Điều 4 Luật Hàng
không dân dụng Việt Nam năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014: dụng (...) để xác định
các quyền đối với tàu bay". Như vậy, “Pháp luật của quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp
chiếm hữu tàu bay) sẽ được xác định theo pháp luật của nước nơi đăng ký quốc tịch tàu bay chứ
không phải pháp luật của nước mà chủ sở hữu tàu bay có quốc tịch. Do đó, nhận định trên là sai. 1.
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định trong trường hợp thừa kế theo pháp luật có yếu tố
nước ngoài, nếu di sản thừa kế là bất động sản thì phải áp dụng pháp luật của nước nơi có di sản
thừa kế để giải quyết toàn bộ quan hệ thừa kế. Sai. Vì xác định pháp luật giải quyết quan hệ thừa
kế theo pháp luật phải dựa vào khoản 1 Điều 680 Bộ luật Dân sự năm 2015, theo đó phải áp
dụng pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết. Tuy
nhiên, nếu di sản thừa kế là bất động sản thì việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản
được xác định theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó. 2.
Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có đủ quy định xác định pháp luật áp dụng đối với thừa
kế theo di chúc bao gồm: năng lực chủ thể lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc; hình thức di chúc; nội
dung di chúc.Sai. Vì nếu căn cứ vào Điều 681 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì điều luật này mới chỉ
đưa ra quy tắc xác định pháp luật điều chỉnh năng lực chủ thể lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc; hình thức di chúc. 3.
Theo pháp luật Việt Nam, di sản không người thừa kế thuộc về Nhà nước nơi di sản thừa
kế tổn tại. Sai. Vì pháp luật Việt Nam xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế nói chung
theo khoản 1 Điều 680 Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong trường hợp pháp luật Việt Nam được áp
dụng, căn cứ vào Điều 622 Bộ luật Dân sự năm 2015, di sản không người thừa kế sẽ thuộc về
Nhà nước, nhưng không chỉ rõ đó là Nhà nước nào. ngoài trong pháp luật Việt Nam và trong các hiệp định lOMoAR cPSD| 57855709 4.
Các quy định về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nướn tương trợ tư pháp song phương
mà Việt Nam ký kết với nước ngoài có nội dung tương tự như nhau.Sai. Vì căn cứ vào Điều 680
Bộ luật Dân sự năm 2015 thì nguyên tắc chung xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế
theo pháp luật là “Luật quốc tịch” trong khi đó một số hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam
đã ký kết với nước ngoài (khoản 1 Điều 34 Hiệp định với Cuba, khoản 1 Điều 43 Hiệp định với
Hungari, khoản 1 Điều 33 Hiệp định với Bungari, khoản 1 Điều 41 Hiệp định với Ba Lan, khoản
1 Điều 36 Hiệp định với Lào, khoản 1 Điều 39 Hiệp định với Liên bang Nga, khoản 1 Điều 34
Hiệp định với Ucraina, khoản 1 Điều 34 Hiệp định với Mông Cổ, khoản 1 Điều 42 Hiệp định với
Bêlarút) sử dụng nguyên tắc “Luật quốc tịch” để xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế
đối với di sản thừa kế là động sản, nguyên tắc “Luật nơi có tài sản” nếu di sản thừa kế là bất động sản. 5.
Pháp luật Việt Nam chưa có quy định phân biệt di sản thừa kế là động sản hay bất động
sản trong một quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.Sai. Vì đã có Điều 677 Bộ luật Dân sự năm
2015 về phân loại tài sản áp dụng cho cả tài sản là di sản thừa kế. 6.
Các hiệp định tương trợ tư pháp song phương mà Việt Nam đã ký kết với nước ngoài có
khuynh hướng mở rộng khả năng có hiệu lực đôi với hình thức của di chúc bằng cách quy định
nhiều hệ thuộc điều chỉnh hình thức di chúc trong một quy phạm pháp luật xung đột. Đúng. Vì
căn cứ vào khoản 2 Điều 36 Hiệp định với Cuba, khoản 2 Điều 45 Hiệp định với Hungari, khoản
2 Điều 35 Hiệp định với Bungari... 1.
Quyền tác giả chỉ có thể được bảo hộ ở nước ngoài thông qua điều ước quốc tế.Sai. Vì
ngoài điều ước quốc tế các tác giả còn có thể được bảo hộ quyền của mình tại nước ngoài theo
pháp luật quốc gia đó, ví dụ tác phẩm xuất bản lần đầu tiên tại nước ngoài, nước đó và nước mà
tác giả là công dân chưa cùng tham gia điều ước quốc tế về quyền tác giả thì tác giả này vẫn có
thể được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình nếu pháp luật nước ngoài có căn cứ
bảo hộ là nơi xuất bản đầu tiên. 2.
Theo quy định của Công ước Berne năm 1886, quyền tác giả được bảo hộ ngay cả khi không đăng ký? lOMoAR cPSD| 57855709
Đúng. Công ước Berne xác định ba nguyên tắc cơ bản trong bảo hộ quyền tác giả. Một trong các
nguyên tắc đó là nguyên tắc bảo hộ tự động (khoản 2 Điều 5 Công ước Berne), tức là quyền tác
giả tự động phát sinh khi tác phẩm được hình thành, không cần thủ tục đăng ký hay công bố. 3.
Sau ngày Việt Nam tham gia Công ước Berne năm 1886, tác giả là công dân Việt Nam có
tác phẩm xuất bản lần đầu tiên tại Việt Nam được bảo hộ tại Việt Nam theo quy định của pháp
luật Việt Nam và các quy định của Công ước Berne.Sai. Tác giả là công dân Việt Nam, xuất bản
lần đầu tiên tác phẩm của mình trên lãnh thổ Việt Nam thì Việt Nam là nước gốc tác phẩm. Căn
cứ vào nguyên tắc đối xử quốc gia được quy định tại khoản 1 Điều 5 Công ước Berne thì tác giả
trên chỉ được bảo hộ quyền tác giả của họ ở Việt Nam bằng các quy định của pháp luật Việt Nam
mà không bằng các quy định của công ước Berne. 4.
Công dân nước chưa tham gia Công ước Berne vẫn có thể được bảo hộ quyền tác giả tại
các nước thành viên của Công ước Berne.Đúng. Vì Công ước Berne quy định các căn cứ bảo hộ
dựa vào các tiêu chí, dấu hiệu khác nhau, không chỉ là công dân nước thành viên, đó còn là nơi
xuất bản đầu tiên hoặc nơi cư trú. Vậy nếu một tác giả là công dân nước chưa tham gia công ước
nhưng xuất bản tác phẩm lần đầu tiên trên lãnh thổ nước thành viên Công ước thì cũng được bảo
hộ ở tất cả các nước thành viên khác của Công ước. 5.
Theo quy định của Công ước Berne việc bảo hộ tác phẩm tại nước gốc và các nước thành
viên là độc lập.Đúng. Công ước Berne có ba nguyên tắc cơ bản, nguyên tác bảo hộ độc lập là
một trong ba nguyên tắc đó. Theo nguyên tắc bảo hộ độc lập thì việc hưởng và thực hiện các
quyền theo quy định của Công ước là độc lập với những gì được hưởng tại nước xuất xứ. Như
vậy, mặc dù một tác phẩm có thể không được bảo hộ tại nước xuất xứ nhưng vẫn hoàn toàn có
thể được bảo hộ tại các nước thành viên của Công ước. 6.
Công ước Berne đặt ra các căn cứ bảo hộ bao gồm: quốc tịch, nơi xuất bản đầu tiên và cư
trú.Đúng. Các căn cứ này được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 3 Công ước Berne. Các quy
định này nhằm tạo điều kiện cho các tác giả có cơ hội được bảo hộ tại các nước thành viên Công
ước ngay cả khi quốc gia họ mang quốc tịch chưa tham gia Công ước. Hay để được hưởng lợi từ
Công ước thì sự cố gắng và nỗ lực của cá nhân cũng có vai trò quyết định tmà không hẳn chỉ dựa
vào sự tham gia hay không của Nhà nước vào Công ước. lOMoAR cPSD| 57855709
1. Các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) có mối liên quan mật thiết với các quy định của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO).Đúng. Điều ước quốc tế đa phương về sở hữu trí tuệ được ký trong khuôn khổ của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) là Hiệp định TRIPS. Hiệp định TRIPS là sự kế thừa và phát
triển quy định trong các điều ước quốc tế đa phương về sở hữu trí tuệ được ký kết trong khuôn
khổ của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), bao gồm: Công ước Paris (1967); Công ước
Berne (1971), Công ước Rome (1961), Hiệp ước về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp
(1989). Cụ thể, theo quy định tại khoản 3 Điều 1 của Hiệp định TRIPS các quốc gia thành viên
của WTO phải có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của các Hiệp định trên như thế là thành viên
của chính các điều ước quốc tế đó,
2 Sáng chế đã được một nước là thành viên của Công the Paris bảo hộ thì các quốc gia thành
viên khác của Công ước cũng có nghĩa vụ phải bảo hộ.Sai. Muốn bảo hộ tại các nước thành viên
khác thì chủ sở hữu sáng chế phải nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ nộp đến cơ quan có thẩm
quyền của quốc gia thành viên đó. Việc bảo hộ hay không bảo hộ là hoàn toàn phụ thuộc vào quy
định của các quốc gia thành viên. 3.
Hiệp định TRIPS không đặt ra nghĩa vụ thiết lập một hệ thông riêng để thực thi quyền sở
hữu trí tuệ độc lập với hệ thông xét xử của các quốc gia thành viên.Đúng. Vì khoản 5 Điều 41
Hiệp định quy định các quốc gia thành viên không có nghĩa vụ thiết lập một hệ thống tư pháp
riêng để thực thi các quyền sở hữu trí tuệ tách biệt với hệ thống tư pháp để thực thi luật nói
chung. Các quốc gia thành viên hoàn toàn chủ động trong việc tổ chức, điều hành hệ thống các
cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ. 4.
Hệ thống Madrid quy định về trình tự thủ tục cấp văn bằng bảo hộ quốc tế đối với nhân
hiệu.Sai. Không có khái niệm văn bằng bảo hộ quốc tế nhân hiệu. Việc cấp văn bằng bảo hộ đối
với nhãn hiệu là do các quốc gia thành viên thực hiện trên cơ sở các đăng ký quốc tế đã được
nộp cho Văn phòng quốc tế của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới. 5.
Biện pháp hình sự được áp dụng đối với tất cả các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ theoquy định của Hiệp định TRIPS.Sai. Điều 61 Hiệp định TRIPS quy định biện pháp hình
sự áp dụng chủ yếu đối với các hành vi cố tỉnh giả mạo nhân hiệu hàng hoá hoặc xâm phạm bản
quyền với quy mô thương mại. lOMoAR cPSD| 57855709 6.
Người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài, muốn được bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp tại Việt Nam trong mọi trường hợp đều phải nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ tại cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam.Sai. Đối với một số đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ tại
Việt Nam không cần phải nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ như bí mật thương mại, nhãn hiệu
nổi tiếng. Các đối tượng này sẽ được bảo hộ tại Việt Nam khi đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định. 1.
Quan hệ hợp đồng dân sự phát sinh giữa hai bên đều là pháp nhân mang quốc tịch Việt
Nam không thể là đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế.Sai. Vì căn cứ theo Điều 663 Bộ luật
Dân sự năm 2015 thì quan hệ hợp đồng dân sự có thể phát sinh giữa các bên đều là cá nhân,
pháp nhân Việt Nam nhưng chứa đựng những yếu tố khác như tài sản liên quan đến quan hệ đó ở
nước ngoài hoặc có căn cứ pháp lý xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài
thì quan hệ đó vẫn được coi là quan hệ hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài và thuộc đối tượng
điều chỉnh của tư pháp quốc tế. 2.
Quan hệ hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài luôn luôn phải có ít nhất một trong các
bên chủ thể là người nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài. Sai Cách giải thích tương tự câu khẳng định trên.
3 Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam thì các bên trong quan hệ hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài cố thể thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hình thức hợp
đồng.Đúng. Căn cứ theo quy định tại Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì các bên có thể lựa
chọn luật để áp dụng điều chỉnh quan hệ hợp đồng phát sinh và luật đó đồng thời cũng sẽ được
dùng để xác định tính hợp pháp đối với hình thức của hợp đồng. 4.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trong mọi trường hợp việc mua bán
hàng hóa quốc tế phải được thể hiện bằng hình thức hợp đồng bằng văn bản mới được coi là có
giá trị pháp lý.Đúng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại năm 2005 thì “Mua
bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức
khác có giá trị pháp lý tương đương". 5.
Trong mọi trường hợp, nếu các bên tham gia ký kết hợp đồng đã có thỏa thuận với nhau
về lựachọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng thì pháp luật đó sẽ được áp dụng để điều chỉnh
quan hệ phát sinh. Sai. Mặc dù pháp luật tôn trọng và cho phép các bên được thỏa thuận với lOMoAR cPSD| 57855709
nhau để lựa chọn luật áp dụng đối với hợp đồng nhưng không phải trong mọi trường hợp, sự lựa
chọn đó đều sẽ đương nhiên được áp dụng. Trường hợp pháp luật do các bên lựa chọn là pháp
luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài đó sẽ không được áp dụng nếu thuộc trường hợp được
quy định tại Điều 670 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hoặc theo quy định mới của Bộ luật Dân sự
năm 2015, một số trường hợp ngoại lệ sẽ không áp dụng pháp luật do các bên thỏa thuận lựa
chọn nếu là hợp đồng liên quan đến bất động sản, hợp đồng tiêu dùng, hợp đồng lao động được
quy định tại các khoản 4, 5, 6 Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015. 1.
Bồi thường thiệt hại trong tư pháp quốc tế chỉ là quan hệ bồi thường thiệt hại được quy
định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng có yếu tố nước ngoài.Sai. Vì bồi thường thiệt hại
trong tư pháp quốc tế còn bao gồm các quan hệ bồi thường thiệt hại mang bản chất dân sự được
quy định trong nhiều đạo luật chuyên ngành khác mà có yếu tố nước ngoài. 2.
Nếu một bên trong quan hệ bồi thường thiệt hạ quốc gia nước ngoài và bên còn lại là
công dân, pháp nhân Viêt Nam thì quan hệ bồi thường thiệt hại đó sẽ thuộc đ ̣ ối tượng điều
chỉnh của tư pháp quốc tế Việt Nam.Đúng. Quốc gia cũng là một chủ thể đặc biệt của t pháp
quốc tế, nên quan hệ bồi thường thiệt hại có quốc gia tham gia cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. 3.
Về nguyên tắc các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài được phép thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng. Đúng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 687
Bộ luật Dân sự năm 2015 thì các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. trừ trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư
trú, đối với cá nhân hoặc nơi thành lập, đối với pháp nhân tại cùng một nước. Nên ngoại trừ một
số quan hệ bối thường thiệt hại đặc biệt như trường hợp nêu trên hoặc liên quan đến tàu bay, tàu
biển thi các bên được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng 4.
Các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yêu tô nước ngoài được
phép thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng cho mọi quan hệ bồi thường thiệt hại.Sai. Có nhiều trường
hợp ngoại lệ mà trong đó không cho phép sự thỏa thuận của các bên về luật áp dụng. Ví dụ
trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư trú, đối với cá nhân hoặc nơi thành lập,
đối với pháp nhân tại cùng một nước (khoản 2 Điều 687 Bộ luật Dân sự năm 2015), trường hợp
quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xảy ra trên tàu biển khi tàu đang ở vùng biển quốc lOMoAR cPSD| 57855709
tế thì áp dụng pháp luật của quốc gia mà tàu biển mang cò quốc tịch (Điều 3 Bộ luật Hàng hải
năm 2015), Pháp luật của quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp dụng đối với quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trong tàu bay đang bay. Pháp luật của quốc gia nơi xảy
ra tai nạn do tàu bay va chạm hoặc gây cản trở nhau, do tàu bay đang bay gây thiệt hại cho người
thứ ba ở mặt đất được áp dụng đối với việc bồi thường thiệt hại (khoản 1, khoản 4 Điều 4 Luật
Hàng không dân dụng năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014)... 5.
Tòa án luôn phải áp dụng pháp luật do các bên thỏa thuận để giải quyết quan hệ bồi
thường thiệt hại có yếu tố nước ngoài nếu các bên đã thỏa thuận điều đó.Sai. Có nhiều trường
hợp ngoại lệ mà trong đó không cho phép sự thỏa thuận của các bên về luật áp dụng nên dù các
bên có thỏa thuận chọn luật thì Tòa án cũng sẽ chỉ áp dụng theo đúng sự chỉ dẫn của quy phạm
xung đột có liên quan. Giải thích như câu 4 trên. 6.
Khi các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
không thỏa thuận chọn luật áp dụng Tòa án sẽ áp dụng luật của nước nơi xảy ra sự kiện gây thiệt
hại.Sai. Căn cứ khoản 1 Điều 687 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì nếu các bên không có thỏa thuận
thì về nguyên tắc sẽ Áp dụng pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự biên gây thiệt hại
(lex loci damni) chứ không phải nước nơi xảy ra sự kiện gây thiệt hại (lex loci delicti). 7.
Tai nạn đâm và giữa hai tàu biển nước ngoài xảy ra trong lãnh hải Việt Nam sẽ được giải
quyết theo pháp luật nước nơi tàu biển mang cờ.Sai. Căn cứ khoản 3 Điều 3 Bộ luật Hàng hải
năm 2015 thị trường hợp quan hệ pháp luật liên quan đến tai nạn đâm mu, tiến công cứu hộ, trục
vớt tài sản chìm đắm xảy ra tại nội thủy hoặc lãnh hải của quốc gia nào thì áp dụng pháp huật
của quốc gia đó. Nên nếu hai tàu biển nước ngoài đâm va trong lãnh hải Việt Nam thì pháp luật
áp dụng với quan hệ bồi thường thiệt hại đó sẽ là pháp luật Việt Nam. 8.
Nếu tàu bay gây thiệt hại cho người thứ ba ở mặt đất sẽ áp dụng pháp luật của nước nơi
đăng ký tàu bay.Sai. Căn cứ khoản 4 Điều 4 Luật Hàng không dân dụng năm 2006 thì: Pháp luật
của quốc gia nơi xảy ra tai nạn do thu hay va chạm hoặc gây cản trở nhau, do tàu bay đang hay
gây thiệt hại cho người thứ ba ở mặt đất được áp dụng đối với việc bồi thường thiệt hại. Do đó,
nếu tàu bay gây thiệt hại cho người thứ ba ở mặt đất sẽ áp dụng pháp luật của nước nơi xảy ra tai
nạn chứ không phải pháp luật của nước nơi đăng ký tàu bay. lOMoAR cPSD| 57855709 9.
Mọi quan hệ bối thường thiệt hại giữa các pháp nhân nước ngoài có cùng quốc tịch sẽ
theo pháp luật của nước nơi các pháp nhân đó mang quốc tịch. Sai. Căn cứ khoản 2 Điều 687 Bộ
luật Dân sự năm 2015 thì trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư trú đối với cá
nhân hoặc nơi thành lập đối với pháp nhân tại cũng một nước, thì pháp luật của nước đó được áp
dụng. Tức dấu hiệu được đưa ra xem xét ở đây là nơi thành lập chứ không phải quốc tịch của
pháp nhân. Khoản này không đề cập đến việc các bên là pháp nhân có cùng quốc tịch hay không
mà chỉ xem xét nếu cả pháp nhân gây thiệt hại và pháp nhân bị thiệt hại cùng thành lập ở một
nước thì pháp luật nước đó được áp dụng. Phần lớn các trường hợp khi thành lập cùng một nước
thì các pháp nhân sẽ có cùng quốc tịch, nhưng điều đó không có nghĩa là cứ thành lập cũng một
nước các pháp nhân sẽ có quốc tịch như nhau hoặc cứ cũng quốc tịch là thành lập cùng một
nước. Ví dụ nếu các pháp nhân có trụ sở tại cũng một nước nhưng thành lập tại các nước khác
nhau mà các nước này đều quy định pháp nhân có trụ sở ở đâu thì có quốc tịch ở đó thì khi đó
các pháp nhân khác nơi thành lập nhưng vẫn có cùng quốc tịch. 1.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, người nước ngoài khi kết hôn với công
dân Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, điều kiện kết hôn của họ chỉ cần tuân
thủ pháp luật của nước mà họ là công dân.Sai. Theo khoản 1 Điều 126 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014: ...nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt
Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam về điều kiện kết hôn. 2.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, quan hệ hôn nhân và gia đình có ít nhất
mộtbên tham gia là người Việt Nam định cư ở nước ngoài là quan hệ hồn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài. Đúng. Theo khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. 3.
Theo quy định của các Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam ký kết với nước ngoài, điều
kiệnkết hôn giữa công dân các nước ký kết chỉ được xác định theo pháp luật của nước mà người
đó mang quốc tịch. Sai. Hiệp định Việt Nam - Nga; Việt Nam - Séc; Việt Nam - Xlôvakia, còn
quy định: các bên còn phải tuân thủ pháp luật của nước nơi tiến hành kết hôn về các trường hợp cấm kết hôn. 4.
Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đã được giải quyết tại cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài có thể được công nhận tại Việt Nam nếu việc lOMoAR cPSD| 57855709
kết hôn đó không đáp ứng điều kiện kết hôn do pháp luật Việt Nam quy định. đúng. Theo khoản
2 Điều 34 Nghị định số 123/2015/ND-CP quy định về điều kiện ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn
của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước
ngoài “nếu vào thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, việc kết hôn không
đáp ứng điều kiện kết hôn, nhưng không vi phạm điều cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và
gia đình, nhưng vào thời điểm yêu cầu ghi vào Số hộ tịch việc kết hôn, hậu quả đã được khắc
phục hoặc việc ghi chú kết hôn là nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam và trẻ em, thì
việc kết hôn cũng được ghỉ vào Số hộ tịch". Như vậy, nếu công dân Việt Nam kết hồn ở nước
ngoài mà không đáp ứng điều kiện kết hôn, nhưng không vi phạm điều cấm theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì việc kết hôn đó vẫn được công nhận tại Việt Nam nếu
tuân thủ theo một trong hai điều kiện:
- Hoặc vào thời điểm yêu cầu công nhận việc kết hôn hậu quả của sự vi phạm đó đã được khắc phục;
- Hoặc việc công nhận kết hôn đó là có lợi để bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam và trẻ em.
5. Trẻ em Việt Nam khi được nhận làm con nuôi người nước ngoài sẽ cắt đứt hoàn toàn quan hệ
nhân thân cũng như quan hệ tài sản với cha mẹ đẻ.Sai. Theo khoản 1 Điều 37 Luật Quốc tịch
Việt Nam năm 2008: “Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi
thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam". Theo Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, về mặt dân
sự, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp
luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.
Nhưng còn về vấn đề quốc tịch (quan hệ nhân thân) trẻ em vẫn mang quốc tịch Việt Nam (quốc
tịch của cha mẹ đẻ) đến năm 18 tuổi. Đủ 18 tuổi, con nuôi có quyền lựa chọn quốc tịch hoặc
quốc tịch của cha mẹ nuôi hoặc quốc tịch quốc gia khác do người con nuôi đó lựa chọn. 1.
Tất cả người lao động nước ngoài khi muốn làm việc tại Việt Nam đều phải xin giấy phép
lao động? Sai. Căn cứ vào Điều 154 Bộ luật Lao động năm 2019, có 9 trường hợp người lao
động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động. 2.
Trong một số trường hợp, người sử dụng lao động muốn sử dụng lao động nước ngoài tại
Việt Nam không phải chứng minh nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài của mình trước khi
thông báo tuyển dụng. Đúng. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 4 Nghị định số 152/2020/ND-CP