



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60797905 II. NHẬN ĐỊNH: 
2. Luật lựa chọn chỉ được áp dụng để giải quyết các quan hệ về quyền và nghĩa 
vụ của hợp đồng.  Nhận định sai. 
CSPL: khoản 1 Điều 683; Điều 686; Điều 687 và khoản 2 Điều 678 BLDS  2015. 
Giải thích: Hệ thuộc Luật do các bên lựa chọn là pháp luật của nước do các bên thỏa 
thuận lựa chọn sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, không phải luật lựa chọn chỉ được áp 
dụng đối với quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mà còn được áp dụng 
giải quyết trong một số trường hợp khác như: thực hiện công việc không có ủy 
quyền; bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; quyền sở hữu động sản trên đường vận 
chuyển. Phạm vi luật lựa chọn được áp dụng mở rộng không chỉ trong giải quyết các 
quan hệ về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng nhằm đề cao sự tự do thỏa 
thuận giữa các bên, tuy nhiên phải đáp ứng điều kiện chọn luật theo quy định. 
Ngoài ra, tồn tại một số ngoại lệ đối luật lựa chọn được áp dụng giữa các bên 
khi liên quan đến hợp đồng có đối tượng về bất động sản thì thực hiện theo pháp luật 
của nước nơi có bất động sản (khoản 4 Điều 683 BLDS 2015); hợp đồng lao động, 
hợp đồng tiêu dùng có ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động, người 
tiêu dùng Việt Nam thì áp dụng theo pháp luật Việt Nam (khoản 5 Điều 683 BLDS 
2015). Do đó, tuy vào từng trường hợp cụ thể mà luật lựa chọn của các bên có được 
áp dụng để giải quyết hay không. 
3. Chỉ khi nào quy phạm xung đột được áp dụng thì mới có xung đột pháp luật  phát sinh. 
Khi XĐPL phát sinh rồi thì mới phát sinh quy phạm xung đột chứ không 
phải quy phạm xung đột pháp luật mới phát sinh XĐPL Nhận định sai. 
Giải thích: Xung đột pháp luật phát sinh trên cơ sở có tồn tại quan hệ dân sự 
theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài và có sự khác nhau về nội dung cụ thể giữa 
pháp luật của các nước về cùng một vấn đề. Vì vậy căn cứ vào nguyên nhất phát sinh 
xung đột phát luật thì chỉ khi nào xung đột pháp luật phát sinh thì mới có quy phạm  pháp luật xung đột. 
Ví dụ: Để hình thành nên một điều ước quốc tế chứa quy phạm xung đột, thì 
trước đó đã có quy phạm xung đột hiện hữu, sau đó các quốc gia mới mới thỏa thuận 
nên điều ước quốc tế để thống nhất giải quyết vấn đề liên quan đó. 
5. Quy phạm xung đột một bên là quy phạm xung đột mệnh lệnh. 
QPXĐ 1 bên là áp dụng quy phạm của chính quốc gia ban hành quy phạm =>  Mệnh lệnh, bắt buộc.  QPXĐ mệnh lệnh. 
QPXĐ mệnh lệnh không phải là QPXĐ 1 bên mà nó còn có thể là 2 bên.      lOMoAR cPSD| 60797905 Nhận định đúng 
Giải thích: Căn cứ vào hình thức của quy phạm pháp luật xung đột, quy phạm 
xung đột một bên là quy phạm chỉ ra trong trường hợp cụ thể đó pháp luật nước nào 
cần được áp dụng. Tức là quy phạm xung đột một bên quy định phải áp dụng pháp 
luật của nước ban hành ra quy phạm, không dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài. 
Đồng thời, quy phạm xung đột một bên cũng được xem là quy phạm xung đột mệnh 
lệnh do loại quy phạm có tính chất bắt buộc các bên có liên quan phải tuân thủ theo 
nội dung mà quy phạm quy định, không được quyền lựa chọn khác. Do đó, quy phạm 
xung đột một bên là quy phạm xung đột mệnh lệnh. 
6. Sự tồn tại của quy phạm xung đột thực chất trong ĐƯQT làm mất đi hiện 
tượng xung đột pháp luật.  Nhận định sai. 
Giải thích: Điều kiện để phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật: 
- Khi quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại và tố tụng dân sự có 
yếu tố nước ngoài không được điều chỉnh bằng quy phạm thực chất thống nhất. - Có 
sự khác nhau trong việc giải thích và áp dụng những quy định giống nhau về mặt 
hình thức; sự khác nhau về nội dung trong pháp luật của các nước. 
Như vậy có thể thấy, hiện tượng xung đột pháp luật mất đi khi không có đủ điều kiện 
làm phát sinh xung đột. Sự tồn tại của quy phạm xung đột thực chất trong ĐƯQT 
không làm mất đi hiện tượng xung đột mà căn cứ theo đó để loại trừ việc phải chọn 
luật và áp dụng luật nước ngoài, thay vào đó là việc áp dụng ngay các quy phạm  ĐƯQT. 
7. Chỉ cần áp dụng một hệ thuộc trong việc giải quyết xung đột pháp luật.  Nhận định sai 
Giải thích: Mỗi hệ thuộc luật chỉ có một phạm vi áp dụng nhất định (Hệ thuộc 
luật nhân thân: pháp luật của nước mà các bên mang quốc tịch, cư trú sẽ được áp 
dụng; Hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân: pháp luật của nước mà pháp nhân 
mang quốc tịch; Hệ thuộc luật lựa chọn: pháp luật của nước do các bên thỏa 
thuận,…) nên khi giải quyết xung đột pháp luật, nó cần phải áp dụng nhiều hệ thuộc 
luật khác nhau chứ không phải chỉ áp dụng một hệ thuộc luật đối với những vấn đề  phức tạp. 
VÍ DỤ: K7 ĐIỀU 683 HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC 
Chẳng hạn như trong hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các thương nhân Việt 
Nam và thương nhân nước ngoài, ta phải dùng cả hệ thuộc luật quốc tịch của pháp 
nhân và hệ thuộc luật lựa chọn thì mới có thể lựa chọn được pháp luật áp dụng khi 
xác định quốc tịch của pháp nhân và khi lựa chọn pháp luật để điều chỉnh hợp đồng  mua bán hàng hóa. 
8. Khi các bên trong hợp đồng thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng để điều      lOMoAR cPSD| 60797905
chỉnh quan hệ hợp đồng của họ thì pháp luật đó đương nhiên được áp dụng.  Nhận định sai. 
Giải thích: Khi các bên trong hợp đồng thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng để 
điều chỉnh quan hệ hợp đồng thì pháp luật đó không đương nhiên được áp dụng. Để 
lựa chọn pháp luật trên cơ sở sự thỏa thuận, pháp luật đó phải thỏa thuận điều kiện  sau:  - 
ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam ghi nhận về 
quyềnchọn luật (khoản 2 Điều 664 BLDS 2015).  - 
Hậu quả của việc áp dụng pháp luật không trái với nguyên tắc cơ bản 
củapháp luật Việt Nam (Điều 666, Điều 670 BLDS 2015; Điều 5 LTM 2005; ...).  - 
Luật do các bên lựa chọn chỉ được áp dụng quy phạm thực chất trực 
tiếpđiều chỉnh quyền và nghĩa vụ các bên, không bao gồm quy phạm xung đột (khoản  4 Điều 668 BLDS 2015).  - 
Luật được chọn không nhằm lẩn tránh pháp luật. 
Ngoài ra, sẽ có các trường hợp ngoại lệ của việc thỏa thuận lựa chọn pháp luật 
áp dụng. Cụ thể, trường hợp hợp đồng có đối tượng là bất động sản thì thỏa thuận 
lựa chọn pháp luật giữa các quốc gia sẽ không được áp dụng mà pháp luật áp dụng 
sẽ là nơi có bất động sản đối với việc chuyển giao quyền sở hữu, quyền khác đối với 
tài sản là bất động sản, thuê bất động sản hoặc việc sử dụng bất động sản để bảo đảm  thực hiện nghĩa vụ. 
10. Phương pháp xung đột là phương pháp giải quyết xung đột pháp luật một 
cách trực tiếp .   Nhận định đúng. 
Giải thích: Nhiệm vụ cơ bản nhất đặt ra khi có hiện tượng xung đột pháp luật 
là xác định được hệ thống pháp luật được áp dụng để giải quyết. Và phương pháp 
xung đột đã làm được nhiệm vụ này khi nó chỉ ra nguyên tắc chọn luật. Vấn đề chỉ 
thực sự giải quyết triệt để khi cơ quan có thẩm quyền theo dẫn chiếu của quy phạm 
xung đột. Ở đây, chức năng của quy phạm xung đột là dẫn chiếu đến pháp luật cụ 
thể cần áp dụng, còn phương pháp xung đột là phương pháp giải quyết trực tiếp xung 
đột pháp luật khi chỉ ra hệ thống pháp luật cần áp dụng. 
11. Chỉ khi nào quy phạm xung đột được áp dụng thì mới có xung đột 
phápluật phát sinh.  Nhận định sai. 
Giải thích: Bởi vì xung đột pháp sinh khi có đồng thời hai nguyên nhân xảy 
ra là có tồn tại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và có sự khác nhau về nội dung 
cụ thể giữa pháp luật các nước về cùng một vấn đề. Vì vậy, khi có hai nguyên nhân 
này đồng thời xuất hiện thì xung đột pháp luật sẽ phát sinh chứ không phải khi áp 
dụng quy phạm xung đột sẽ làm phát sinh xung đột pháp luật.      lOMoAR cPSD| 60797905
12. Tòa án Việt Nam chỉ áp dụng pháp luật nước ngoài khi có ít nhất một 
trong các đương sự là người nước ngoài. 
Chỉ áp dụng pháp luật nước ngoài thì dựa vào Điều 664. Còn ít nhất một 
trong các đương sự là người nước ngoài thì không phải là trường hợp của việc 
áp dụng pháp luật nước ngoài.   Nhận định sai. 
CSPL: Điều 664 và Điều 670 BLDS 2015. 
Giải thích: Không phải khi có ít nhất một trong các đương sự là người nước 
ngoài thì Tòa án Việt nam sẽ chỉ áp dụng pháp luật nước ngoài. Bởi lẽ, pháp luật 
nước ngoài chỉ được áp dụng trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nếu điều 
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam cho phép các bên được 
quyền thỏa thuận lựa chọn áp dụng, sau đó các bên lựa chọn áp dụng pháp luật nước 
ngoài và đáp ứng được điều kiện chọn luật. 
Trường hợp pháp luật không cho phép các bên được quyền lựa chọn áp dụng 
pháp luật nước ngoài hoặc các bên thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài nhưng 
việc áp dụng sẽ gây hậu quả trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam 
thì không được áp dụng pháp luật nước ngoài. Ngoài ra, nếu đã áp dụng các biện 
pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng mà vẫn không thể xác định được 
nội dung của pháp luật nước ngoài thì cũng thể áp dụng pháp luật nước ngoài. Trường 
hợp trên thì điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc pháp luật Việt Nam sẽ 
được áp dụng. Tóm lại, việc có ít nhất một bên trong các đương sự là người nước 
ngoài không phài là điều kiện để áp dụng pháp luật nước ngoài. 
13. Tòa án luôn luôn có nghĩa vụ xác định nội dung pháp luật nước ngoài cần  áp dụng.  Nhận định sai. 
CSPL: khoản 1 Điều 481, khoản 1 Điều 418 BLTTDS 2015, khoản 2 Điều  664 BLDS 2015. 
Giải thích: Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 481 BLTTDS 2015 tại khoản 1 quy 
định nếu đương sự được quyền chọn pháp luật áp dụng và đã chọn pháp luật áp dụng 
là pháp luật nước ngoài thì lúc này các đương sự là người có nghĩa vụ xác định nội 
dung pháp luật cần áp dụng. Để có quyền chọn luật áp dụng, các bên phải thỏa mãn 
điều kiện chọn luật quy định tại Điều 664 khoản 2 BLDS 2015. Theo đó, để có thể 
thỏa thuận chọn luật thì điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
là thành viên hoặc luật Việt Nam phải quy định rằng các bên có quyền lựa chọn luật 
áp dụng. Lúc này các bên mới có quyền chọn luật. Và theo Điều 418 khoản 1 
BLTTDS 2015 quy định trường hợp các bên đương sự có quyền chọn luật và đã chọn 
pháp luật áp dung là pháp luật nước ngoài thì các bên đương sự có nghĩa vụ xác định      lOMoAR cPSD| 60797905
nội dung pháp luật nước ngoài cần áp dụng, Tòa án không có nghĩa vụ xác định nội 
dung pháp luật nước ngoài cần áp dụng trong trường hợp này. 
15. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật được hiểu là các quy phạm thực chất 
trong pháp luật luật Việt Nam. 
Nhận định đúng. => ko phải mọi quy phạm thực chất cũng đều là nguyên 
tắc cơ bản của pháp luật.   Giải thích: 
Nguyên tắc cơ bản của pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo cơ bản, mang tính 
xuất phát điểm, định hướng, chịu sự quy định của những quy luật khách quan của xã 
hội, xuyên suốt nội dung, hình thức pháp luật, toàn bộ thực tiễn pháp luật, hoạt động 
xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, hành vi pháp luật, ý thức pháp luật. 
Quy phạm thực chất là quy phạm định sẵn các quyền, nghĩa vụ, biện pháp chế 
tài đối với các chủ thể tham gia quan hệ tư pháp quốc tế xảy ra, nếu có sẵn quy phạm 
thực chất để áp dụng thì các đương sự cũng như cơ quan có thẩm quyền căn cứ ngay 
vào quy phạm để giải quyết vấn đề. 
Với nguyên tắc cơ bản thì không trực tiếp giải quyết vấn đề mà chỉ định 
hướng cách giải quyết nên nguyên tắc cơ bản không phải là quy phạm thực  chất. 
16. Mục đích của việc bảo lưu trật tự công cộng là nhằm giúp các Toà án tránh 
việc áp dụng pháp luật nước ngoài. 
Nhận định sai. => giúp cơ quan có thẩm quyền bảo vệ trật tự công của 
quốc gia đó (đối với VN là các nguyên tắc cơ bản của QG đó) Giải thích: 
Bảo lưu trật tự công cộng là việc các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có 
thẩm quyền không áp dụng luật nước ngoài khi vận dụng và thực hiện các quy phạm 
xung đột nếu việc áp dụng đó chống lại trật tự công cộng của nước mình. 
Như vậy mục đích của việc bảo lưu trật tự công cộng là đảm bảo trật tự công 
cộng của nước Việt Nam không bị ảnh hưởng khi vận dụng và thực hiện quy phạm 
xung đột. Đôi khi trong thực tế xuất hiện việc áp dụng pháp luật nước ngoài nhưng 
pháp luật đó lại có nội dung trái với các nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và của 
pháp luật nướcViệt Nam. 
Ví dụ: pháp luật HNGĐ Việt Nam chỉ thừa nhận nguyên tắc hôn nhân một vợ, 
một chồng tuy nhiên khi sử dụng quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật của 
nước mà thừa nhận chế độ nhiều vợ như Irac, khi áp dụng pháp luật nước đó sẽ làm 
xáo trộn trật tự công cộng tại Việt Nam. Như vậy để đảm bảo trật tự công cộng của 
nước Việt Nam nên các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có quyền áp dụng bảo 
lưu trật tự công cộng.      lOMoAR cPSD| 60797905
17. Trong trường hợp không thể xác định được nội dung của pháp luật 
nướcngoài cần áp dụng, Toà án Việt Nam sẽ áp dụng luật quốc tịch của đương  sự.  Nhận định sai. 
CSPL: khoản 2 Điều 670 BLDS 2015. 
Giải thích: Căn cứ theo điểm b khoản 2 Điều 60 BLDS thì khi nội dung của việc áp 
dụng pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp 
cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng thì pháp luật nước ngoài sẽ không được 
áp dụng mà thay vào đó sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết quan hệ 
dân sự có yếu tố nước ngoài, chứ không phải là áp dụng luật quốc tịch của  đương sự. 
K2 ĐIỀU 481 BLTTDS 2015 => ÁP DỤNG PL VN 
18. Khi áp dụng pháp luật nước ngoài, Tòa án Việt Nam có nghĩa vụ giải 
thíchpháp luật nước ngoài theo nguyên tắc của pháp luật Việt Nam.  Nhận định sai.  CSPL: Điều 667 BLDS 2015. 
Giải thích: Căn cứ quy định tại Điều 667 BLDS 2015 “Trường hợp pháp luật 
nước ngoài được áp dụng nhưng có cách hiểu khác nhau thì việc áp dụng phải 
theo sự giải thích của cơ quan có thẩm quyền tại nước đó”. Theo quy định nêu 
trên của BLDS, thì trong trường hợp có cách hiểu khác nhau về nội dung pháp luật 
nước ngoài cụ thể, thì việc áp dụng nội dung đó của pháp luật nước ngoài phải tuân 
theo sự giải thích của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ban hành. Như vậy, 
khi áp dụng pháp luật nước ngoài, Tòa án Việt Nam không phải giải thích pháp luật 
nước ngoài theo nguyên tắc của pháp luật Việt Nam, mà cơ quan có thẩm quyền 
của nước đó sẽ giải thích trong trường hợp có cách hiểu khác nhau. 
19. Nguyên nhân của hiện tượng dẫn chiếu là do các quốc gia quy định 
khácnhau khi điều chỉnh một vấn đề cụ thể.  Nhận định sai. 
Giải thích: Hiện tượng dẫn chiếu xuất hiện khi một vấn đề pháp lý xảy ra, thuộc phần 
phạm vi của các quy phạm xung đột có phần hệ thuộc khác nhau, tức là có sự quy 
định khác nhau trong các quy phạm xung đột của các nước về nguyên tắc chọn luật 
áp dụng cho cùng một vấn đề đó. 
Có sự khác biệt trong phần hệ thuộc của hệ thống pháp luật quốc gia. Do 
các QG chấp nhận hiện tượng dẫn chiếu 
Như vậy, nguyên nhân của hiện tượng dẫn chiếu phải là sự khác biệt trong quy phạm 
xung đột của các bên khi điều chỉnh một vấn đề cụ thể.      lOMoAR cPSD| 60797905
Ví dụ: Ông A, quốc tịch nước X, sang thành phố HCM làm việc và cư trú. Sau đó 
ông kết hôn với chị B có quốc tịch Việt Nam. 
Nếu căn cứ theo khoản 1 Điều 126 Luật HN&GĐ 2014 “Trong việc kết hôn giữa 
công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của 
nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà 
nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy 
định của Luật này về điều kiện kết hôn” thì trong trường hợp trên, ông A phải đáp 
ứng điều kiện kết hôn theo quy định của nước X và pháp luật Việt Nam. Nhưng giả 
sử theo pháp luật X, vấn đề này được điều chỉnh bởi pháp luật nơi cư trú (hệ thuộc 
luật nơi cư trú). Vì vậy điều kiện kết hộn của ông A được pháp luật nước X dẫn 
ngược trở lại pháp luật Việt Nam. 
20. Theo pháp luật Việt Nam, khi dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba, Tòa 
án sẽ áp dụng các quy phạm xung đột trong pháp luật nước này.  Nhận định sai. 
CSPL: khoản 3 Điều 668 BLDS 2015. 
Giải thích: Dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba có nghĩa là hiện tượng pháp luật 
nước được dẫn chiếu lại dẫn chiếu đến pháp luật của một nước khác. Tuy nhiên, để 
tránh tình trạng kéo dài sự việc và tạo điều kiện giải quyết vụ việc được nhanh chóng 
và hiệu quả, khoản 3 Điều 668 BLDS 2015 chỉ cho phép dẫn chiếu đến phần quy 
phạm thực chất (bao gồm quyền và nghĩa vụ) của hệ thống pháp luật nước đó chứ 
không bao gồm việc dẫn chiếu đến các quy phạm xung đột của nước này. Ví dụ: Cơ 
quan có thẩm quyền của nước A áp dụng quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp 
luật nước ngoài (nước B), nhưng pháp luật nước B lại quy định vấn đề phải được 
giải quyết theo pháp luật của một nước thứ ba (nước C). Tuy nhiên, sự dẫn chiếu này 
chỉ là dẫn chiếu đến quyền và nghĩa vụ của các bên (quy phạm thực chất) khi tham 
gia quan hệ dân sự được định trong hệ thống pháp luật của nước C chứ không dẫn 
chiếu đến quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật của nước C  đó. 
22. Khi các bên chọn pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ hợp đồng mà 
luật đó dẫn chiếu ngược trở lại pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được 
áp dụng. => PL Nước ngoài phải là luật thực chất trong PLNN, ko bao gồm các  quy phạm xung đột.   Nhận định sai. 
CSPL: khoản 2 Điều 664 và khoản 4 Điều 668 BLDS 2015. 
Giải thích: Đối với trường hợp ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt 
Nam cho phép các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được quyền lựa 
chọn pháp luật áp dụng là pháp luật nước ngoài theo khoản 2 Điều 664 BLDS 2015 
phải được hiểu là các bên đang lựa chọn áp dụng quy định về quyền, nghĩa vụ của      lOMoAR cPSD| 60797905
họ khi tham gia quan hệ dân sự, không bao gồm quy định về xác định pháp luật áp  dụng. 
Như vậy, nếu trong quan hệ hợp đồng mà các bên lựa áp dụng pháp luật nước 
ngoài đồng nghĩa với việc đang thỏa thuận áp dụng quyền và nghĩa vụ của các bên 
trong hợp đồng (quy phạm thực chất) chứ không bao gồm việc áp dụng quy phạm 
xung đột trong hệ thống pháp luật nước ngoài đó. 
Vì không được phép áp dụng quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật 
nước ngoài mà các bên đã thỏa thuận nên không làm phát sinh hiện tượng dẫn chiếu 
ngược trở lại áp dụng pháp luật Việt Nam, do đó trường hợp này pháp luật được áp 
dụng là phần quy phạm thực chất (quyền và nghĩa vụ) của các bên trong hệ thống 
pháp luật nước mà các bên đã thỏa thuận chứ không phải áp dụng pháp luật Việt  Nam. 
23. Phải giải quyết xung đột khi các bên trong quan hệ dân sự có quốc tịch khác  nhau.  Nhận định sai. 
Giải thích: Giải quyết xung đột về nguyên tắc là tìm ra được 01 hệ thống pháp 
luật được áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khi quan hệ đó có 
thể áp dụng 02 hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. 
Như vậy trong trường hợp các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 
có quốc tịch khác nhau nhưng đối với quan hệ đó pháp luật một nước không thừa 
nhận việc xung đột pháp luật hoặc trường hợp hệ thống pháp luật của các bên lại có 
quy định không xung đột nhau về quan hệ đó thì không phải giải quyết xung đột (do 
không xảy xa sự xung đột). 
=> VÌ PHẢI CÓ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT MỚI GIẢI QUYẾT XĐPL, 
TRONG TRƯỜNG HỢP NÀY CHƯA CHẮC CÓ XUNG ĐỘT.  
24. Phải giải quyết xung đột pháp luật khi nội dung pháp luật của các nước 
khác nhau trong các lĩnh vực dân sự.  Nhận định sai. 
Giải thích: Mặc dù đối với từng quan hệ pháp luật nhất định, nội dung trong hệ thống 
pháp luật của một nước có thể xung đột với những nước khác nhưng xung đột đó có 
thể không cần giải quyết. Việc giải quyết xung đột pháp luật chỉ đặt ra khi có đủ hai  điều kiện sau: 
- Quan hệ phát sinh giữa các bên là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. 
- Phải có sự khác biệt về nội dung cụ thể giữa các hệ thống pháp luật có liên quanđối 
với quan hệ đang phát sinh của các bên. 
Như vậy, nếu chỉ tồn tại sự khác biệt trong nội dung pháp luật của các nước khác 
nhau nhưng trên thực tế không có các chủ thể làm phát sinh quan hệ dân sự có yếu      lOMoAR cPSD| 60797905
tố nước ngoài thì sự khác biệt trên chỉ được xem xét trên phương diện lý thuyết chứ 
vấn đề giải quyết xung đột pháp luật không đặt ra. 
Ví dụ: A là người nước ngoài (nước D) là nhưng cư trú, làm việc tại Việt Nam. Sau 
đó, A bị TNGT và chết tại VN, có để lại di sản nên làm phát sinh việc thừa kế. Việc 
thừa kế được xác định theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước 
D có sự xung đột nhau. Cụ thể, căn cứ khoản 1 Điều 680 BLDS 2015 quy đinh: 
“Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có 
quốc tịch ngay trước khi chết.” Tuy nhiên, pháp luật nước D lại quy định thừa kế 
được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế cư trú trước 
khi chết. Như vậy, là có sự xung đột về nội dung pháp luật giữa hai nước quy định 
về thừa kế. Tuy nhiên, sự xung đột trên chỉ được đưa ra giải quyết khi có sự kiện A 
chết, nghĩa là tồn tại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cần giải quyết. Nếu A 
không chết, việc thừa kế sẽ không được đặt ra nên mặc dù có sự khác biệt về nội 
dung quy định nhưng không cần phải giải quyết xung đột pháp luật. 
I. CÂU HỎI TỰ LUẬN: 
3. Hãy nêu những vấn đề pháp lý làm phát sinh xung đột pháp luật trong quan 
hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. 
Những vấn đề pháp lý làm phát sinh xung đột pháp luật trong quan hệ thừa kế 
có yếu tố nước ngoài: 
Thứ nhất, tồn tại quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. 
Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài được xác định tương tự với quan hệ dân sự có 
yếu tố nước ngoài tại khoản 2 Điều 663 BLDS 2015:  - 
Về chủ thể: Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân  nướcngoài.  - 
Về sự kiện pháp lý: Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân 
ViệtNam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra  ở nước ngoài.  - 
Về khách thể: Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt 
Namnhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài. 
Thứ hai, các hệ thống pháp luật có liên quan về quan hệ thừa kế có yếu tố 
nước ngoài quy định khác nhau.  - 
Trên thực tế, mỗi nước có điều kiện cơ sở hạ tầng khác nhau, bởi vậy pháp 
luậtcủa các nước được xây dựng trên các nền tảng đó cũng có sự khác nhau.      lOMoAR cPSD| 60797905 - 
Các điều kiện khác nhau về chính trị, kinh tế – xã hội phong tục tập quán, 
truyềnthống lịch sử thậm chí là sự khác nhau về đặc điểm thể chất, tâm lý của công 
dân cũng dẫn đến sự khác nhau trong các quy định pháp luật cùng điều chỉnh một  vấn đề.  5. 
Có quan điểm cho rằng: “Di sản không có người thừa kế sẽ chịu sự 
điềuchỉnh của hệ thống pháp luật nơi có di sản đó”. Theo anh/chị nhận định 
này đúng hay sai? Giải thích vì sao?  
“Di sản không có người thừa kế sẽ chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật 
nơi có di sản đó” là nhận định sai. Vì nguyên tắc, di sản không có người thừa kế có 
yếu tố nước ngoài thì di sản sẽ thuộc về Nhà nước, căn cứ Điều 40 Hiệp định TTTP 
giữa Việt Nam và Liên Bang Nga và Điều 680, 622 BLDS 2015. 
- Theo Hiệp định TTTP VN – LBNga (Điều 40): Định danh tài sản 
theokhoản 3 Điều 39 Hiệp định “Việc phân biệt di sản là động sản hay bất 
động sản được xác định theo pháp luật của Bên ký kết nơi có di sản đó”. Đối 
với di sản là động sản, thừa kế sẽ thuộc về Nhà nước của Bên ký kết mà người 
để lại thừa kế là công dân vào thời điểm chết. Đối với di sản là bất động sản, 
thừa kế sẽ thuộc về Nhà nước của Bên ký kết nơi có bất động sản. Như vậy, 
theo Hiệp định, di sản không có người thừa kế sẽ chịu sự điều chỉnh của hệ 
thống pháp luật nơi có di sản đó khi di sản đó là bất động sản và nơi người để 
lại thừa kế là công dân vào thời điểm chết khi di sản đó là động sản. 
- Theo PLVN (Điều 680, 622 BLDS): Theo PLVN, tại Điều 680 BLDS 
năm2015: quy định hoàn toàn khác với Hiệp định TTTP VN – LBNga. Quy 
định tại Điều 680 BLDS không quan tâm di sản là bất động sản hay động sản, 
kết hợp Điều 622 BLDS 2015 “Trường hợp không có người thừa kế theo di 
chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối 
nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà 
không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước” thì Nhà nước mà người để 
lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết sẽ có quyền thừa kế đối với 
tất cả di sản được để lại. 
Khoản 2 Điều 680 BLDS năm 2015 chỉ có hiệu lực trong phạm vi thực hiện 
quyền thừa kế đối với di sản là bất động sản, chứ không là căn cứ để xác định thừa  kế.  6. 
Theo quan điểm anh/chị, pháp luật Việt Nam quy định hình thức của di 
chúc có thể tuân theo một trong nhiều hệ thống pháp luật như nơi lập di chúc, 
nơi người lập di chúc cư trú, người lập di chúc có quốc tịch, nơi có tài sản đối 
với bất động sản thì có ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đến quá trình giải quyết 
quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài?      lOMoAR cPSD| 60797905
Việc pháp luật Việt Nam quy định hình thức của di chúc có thể tuân theo một 
trong nhiều hệ thống pháp luật như vậy có những ảnh hưởng tích cực như sau: - Về 
thừa kế theo di chúc thì ý chí là quan trọng nên xác định theo nhiều nơi khác nhau 
để tôn trọng ý chí và nguyện vọng của người lập di chúc. Ví dụ trường hợp người 
Việt Nam ra nước ngoài làm ăn sinh sống lập di chúc. 
- Pháp luật của các bên luôn tạo điều kiện hết mức, đưa ra nhiều lựa chọn để tạo 
thuận lợi để ý chí của người lập di chúc có hiệu lực trên thực tế. Ví dụ trường hợp 
ra văn phòng nơi đang cư trú để lập cũng có hiệu lực không chỉ là nơi có quốc tịch. 
Bên cạnh đó, việc quy định như vậy cũng thể hiện mặt tiêu cực: đó là tạo ra sự không 
thống nhất trong việc giải quyết quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài của Tòa án và 
sự xung đột, chồng chéo trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đồng thời, việc quy 
định tuân theo pháp luật nơi có bất động sản sẽ gây khó khăn cho người lập di chúc 
vì phải phân biệt di sản là động sản và bất động sản trong khi đó “các phạm trù động 
sản và bất động sản không phải đã được hiểu một cách thống nhất trong các hệ thống 
pháp luật hiện nay trên thế giới”.  II. NHẬN ĐỊNH:  2. 
Theo pháp luật Việt Nam, hệ thuộc luật nhân thân bao gồm luật nơi cư 
trúvà luật nơi quốc tịch có thể được áp dụng để điều chỉnh cho quan hệ thừa 
kế có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.  Nhận định đúng. 
Giải thích: Luật nơi cư trú được áp dụng đối với một số trường hợp giải quyết 
xung đột pháp luật về hình thức như áp dụng pháp luật nước nơi người lập di chúc 
cư trú tại thời điểm lập di chúc theo điểm a khoản 2 Điều 681 BLDS 2015. Luật nơi 
quốc tịch được áp dụng đối với việc xác định thừa kế theo Điều 680 BLDS 2015 hay 
xác định năng lực lập di chúc, thay đổi hoặc huỷ bỏ di chúc và hình thức của di chúc 
đối với trường hợp thừa kế theo di chúc. 
Như vậy, hệ thuộc luật nhân thân bao gồm luật nơi cư trú và luật nơi quốc tịch có thể 
được áp dụng để điều chỉnh cho quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.  3. 
Trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, xung đột pháp luật chỉ xảy 
rađối với vấn đề xác định hàng thừa kế.  Nhận định sai. 
Giải thích: Xung đột pháp luật ngoài xảy ra đối với vấn đề xác định hàng thừa 
kế, còn xảy ra đối với vấn đề phân chia di sản thừa kế đối với thừa kế theo pháp luật. 
Về năng lực lập di chúc, thay đổi hoặc huỷ bỏ di chúc, hình thức của di chúc nếu là 
thừa kế theo di chúc theo Điều 681 BLDS 2015.      lOMoAR cPSD| 60797905 4. 
Xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc là xung đột về hình thức của  dichúc.  Nhận định sai. 
Giải thích: Theo khoản 1 Điều 681 BLDS 2015 thì ngoài XĐPL về hình thức 
của di chúc thì xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc còn là xung đột về năng 
lực lập di chúc, thay đổi hoặc huỷ bỏ di chúc và hình thức di chúc thì tuân theo quy 
định pháp luật nước mà người lập di chúc có quốc tịch (áp dụng hệ thuộc luật quốc 
tịch); về quyền đối với động sản áp dụng theo pháp luật nước người lập di chúc có 
quốc tích còn quyền đối với bất động sản thì phải tuân theo pháp luật của nước nơi  có bất động sản đó.  5. 
Để giải quyết xung đột pháp luật về hình thức di chúc, pháp luật các 
nướcluôn áp dụng luật của nước nơi lập di chúc?   Nhận định sai. 
CSPL: khoản 2 Điều 681 BLDS 2015. 
Giải thích: Để giải quyết xung đột pháp luật về hình thức di chúc, ngoài việc áp dụng 
luật của nước nơi lập di chúc thì pháp luật Việt Nam khoản 2 Điều 681 BLDS 2015 
còn quy định áp dụng pháp luật nước nơi người lập di chúc cư trú, nước nơi người 
lập di chúc mang quốc tịch và pháp luật nước nơi có bất động sản. Như vậy, để giải 
quyết xung đột về hình thức di chúc, ngoài việc áp dụng luật của nước nơi lập di 
chúc thì pháp luật các nước còn áp dụng nhiều nguyên tắc giải quyết xung đột khác  nhau. 
7. Để giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế, pháp luật của các nước đều chia 
di sản thành động sản và bất động sản và áp dụng các nguyên tắc giải quyết 
xung đột pháp luật khác nhau.   Nhận định đúng. 
CSPL: khoản 2 Điều 25 Bộ luật dân sự Đức. 
Giải thích: Trong lĩnh vực thừa kế tài sản có yếu tố nước ngoài, đa số các nước 
có cách giải quyết theo dòng tư tưởng pháp lí cơ bản tương tự nhau. Theo đó, khối 
di sản thừa kế được chia thành động sản và bất động sản đề từ đó có giải pháp điều 
chỉnh pháp luật phù hợp cho từng loại di sản. Quy định đối với thừa kế bất động sản 
được xác định theo pháp luật nơi có bất động sản, thừa kế đối với động sản thì giải 
quyết theo pháp luật của nước mà người để lại động sản thừa kế có nơi cư trú cuối 
cùng. Tuy vậy, khoản 2 Điều 25 Luật mở đầu Bộ luật dân sự Đức quy định, đối với 
di sản thừa kế là bất động sản nằm tại nước Đức ngoài việc xác định theo pháp luật 
nơi có bất động sản, người để lại di sản thừa kế có thể lập di chúc để chọn pháp luật 
Cộng hòa Liên bang Đức cho việc giải quyết thừa kế bất động sản đó.      lOMoAR cPSD| 60797905
9. Không có hiện tượng xung đột pháp luật xảy ra trong quan hệ di sản không 
có người thừa kế.   Nhận định sai. 
Di sản ko người thừa kế thuộc về nhà nước, có YTNN thì có thể có Nhà nước 
khác. Mà quan hệ giữa hai quốc gia là công pháp. => Không có xung đột PL 
Di sản ko người thừa kế => QHDS, có YTNN thì thuộc về Nhà nước nào, Nhà 
nước nào được hưởng. => Sự giải thích sẽ có xung đột pháp luật, BĐS và ĐS. Quốc 
gia nào được hưởng, nghĩa vụ tài sản này được xử lý như thế nào. 
Giải thích: Trong nhiều trường hợp, di sản không người thừa kế có yếu tố nước 
được quy định sẽ thuộc về nhà nước có quan hệ gắn bó nhất với tài sản đó. Nhà nước 
đó có thể là nước mà người để lại di sản có quốc tịch vào thời điểm chết hoặc nhà 
nước đó có thể là nơi có di sản thừa kế. Vì vậy, khi di sản không có người thừa kế sẽ 
được giải quyết theo luật mà người có mang quốc tịch trước khi chết hoặc luật nơi 
có tài sản, nếu mỗi quốc gia quy định áp dụng nguyên tắc giải quyết khác nhau thì 
vẫn xảy ra xung đột pháp luật. 
Cách giải thích của khác: Khi xảy ra trường hợp di sản không có người thừa kế thì 
việc giải quyết vấn đề này được quy định cụ thể trong các hiệp định tương trợ tư 
pháp giữa VN và các nước khác. Tức là có hiện tượng xung đột pháp luật giữa Việt 
Nam với các nước khác và phải áp dụng hiệp định tương trợ tư pháp để giải quyết. 
Khi đó, nhà nước VN đc nhận số động sản do công dân VN để lại ở nước ngoài sau 
khi qua đời mà không có người thừa kế. Đồng thời nhà nước VN cũng nhận số bất 
động sản có ở VN do công dân của nước ngoài để lại sau khi qua đời mà không có  người thừa kế. 
10. Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước, di 
sảnkhông người thừa kế luôn được chuyển giao cho quốc gia nơi có di sản đó.  Nhận định sai 
CSPL: Điều 36 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Nga 
Giải thích: Theo Điều 36 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Nga 
thì di sản là bất động sản sẽ giao cho nước nơi có bất động sản, nếu di sản là động 
sản thì sẽ thuộc về nước mà người thừa kế là công dân khi chết. Vì vậy không phải 
trong mọi trường hợp, trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các 
nước thì di sản không có người thừa kế luôn được chuyển giao cho quốc gia nơi có 
di sản đó mà trong Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Nga quy định nếu 
di sản không có người thừa kế là động sản thì di sản này sẽ thuộc về quốc gia nơi 
người chết có quốc tịch khi chết chứ không phải là quốc gia nơi có di sản.      lOMoAR cPSD| 60797905
11. Trong các Hiệp định định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các 
nước,nguyên tắc luật quốc tịch luôn được áp dụng để giải quyết xung đột pháp  luật về thừa kế  Nhận định sai 
Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 35 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam - Nga 
Giải thích: Không phải mọi Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các 
nước đều áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch để giải quyết xung đột pháp luật về thừa 
kế. Theo khoản 2 Điều 35 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Nga, nếu 
di sản là bất động sản thì sẽ áp dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản để giải quyết xung  đột pháp luật. 
12. Theo pháp luật Việt Nam, giải quyết quan hệ thừa kế theo pháp luật 
cóyếu tố nước ngoài là phụ thuộc vào tính chất của di sản là động sản hay bất  động sản.  Nhận định đúng  NHẬN ĐỊNH SAI  CSPL: Điều 680 BLDS 2015 
Giải thích: Theo quy định tại Điều 680 BLDS 2015 thì nếu di sản là bất động 
sản sẽ được giải quyết theo pháp luật nơi có bất động sản, nếu di sản là động sản thì 
sẽ áp dụng pháp luật của nước mà người để lại di sản có quốc tịch trước khi chết. Từ 
đó có thể hiểu việc giải quyết quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài 
sẽ phụ thuộc vào tính chất của động sản, phụ thuộc vào việc di sản là động sản hay 
bất động sản để lựa chọn luật áp dụng giải quyết quan hệ thừa kế cho phù hợp.  III. BÀI TẬP: 
Bài tập 3: Bà Lệ (quốc tịch Việt Nam) kết hôn với ông Ngọc (quốc tịch Việt Nam). 
Hai vợ chồng định cư tại Hoa Kỳ. Năm 2016, ông Ngọc bị tại nạn bất ngờ và qua 
đời. Di sản của ông Ngọc để lại bao gồm: một căn biệt thự tại Hoa Kỳ, hai căn hộ 
chung cư tại Quận 2, TP HCM, một tài khoản tại ngân hàng của Hoa Kỳ. Tranh chấp 
phát sinh giữa bà Lệ và ông Jack (con riêng của ông Ngọc).  a. 
Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên hay không?  Vìsao? 
 Toà án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa bà Lệ và 
ông Jack. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 470 BLTTDS 2015 thì Vụ án dân 
sự đó có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt 
Nam thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam. Trong tình huống trên, di 
sản của ông Ngọc để lại có hai căn hộ chung cư tại Quận 2, TP HCM, đây là bất      lOMoAR cPSD| 60797905
động sản có trên lãnh thổ Việt Nam nên sẽ thuộc thẩm quyền riêng biệt của Toà án  Việt Nam. 
Tài khoản tại ngân hàng hoa kỳ => thẩm quyền có thể thuộc TA Việt Nam. 
Biệt thự tại Hoa Kỳ, thì TA VN sẽ trả lại đơn và thuộc thẩm quyền của TA  Hoa Kỳ  b. 
Giả sử Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết. Trước khi chết, 
ôngNgọc lập di chúc tại Hoa Kỳ để định đoạt di sản của mình. Hãy xác định 
pháp luật áp dụng để điều chỉnh tính hợp pháp của di chúc nói trên?  
Pháp luật áp dụng để điều chỉnh tính hợp pháp của di chúc mà ông Ngọc lập tại 
Hoa Kỳ để định đoạt tài sản của mình là: 
Thứ nhất, về năng lực lập di chúc được xác định theo pháp luật của nước mà 
người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập, như vậy năng lực lập di chúc của 
ông Ngọc sẽ được xác định theo pháp luật Việt Nam. 
Thứ hai, về hình thức của di chúc được xác định theo pháp luật của nơi nước 
nơi di chúc được lập, trong tình huống trên, ông Ngọc lập di chúc tại Hoa Kỳ nên 
pháp luật Hoa kỳ sẽ được áp dụng về hình thức của di chúc. Ngoài ra pháp luật Việt 
Nam cũng được áp dụng, theo điểm b khoản 2 Điều 681 BLDS 2015 nước nơi người 
lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập di chúc được áp dụng, ông Ngọc có quốc 
tịch Việt Nam nên pháp luật Việt Nam cũng sẽ được áp dụng để điều chỉnh hình thức 
của di chúc, hơn nữa, tại điểm c khoản 2 Điều 681 BLDS 2015 thì nước nơi có bất 
động sản được áp dụng, theo đó di sản thừa kế có hai căn hộ chung cư tại Quận 2, 
TP HCM là bất động sản tại Việt Nam nên pháp luật Việt Nam được áp dụng. Ngoài 
ra, ông Ngọc còn có một căn biệt thự tại Hoa Kỳ nên pháp luật Hoa Kỳ được áp dụng 
theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 681 BLDS 2015. 
Như vậy, pháp luật áp dụng để điều chỉnh tính hợp pháp của di chúc trong tình 
huống trên là pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ. 
c. Giả sử Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết. Ông Ngọc chết không để 
lại di chúc. Hãy xác định pháp luật áp dụng để phân chia số di sản trên. 
Theo khoản 1 Điều 680 BLDS 2015 thì pháp luật của nước mà người để lại di 
sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết. Theo đó, ông Ngọc chết không để lại 
di chúc thì pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng để phân chia số di sản của ông Ngọc. 
Ngoài ra, việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được xác định theo 
pháp luật của nước nơi có bất động sản đó, ông Ngọc có hai căn hộ chung cư tại 
Quận 2, TP HCM, đây là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam nên sẽ áp dụng 
pháp luật Việt Nam để thực hiện quyền thừa kế với hai căn hộ trên. Việc thực hiện 
quyền thừa kế với căn biệt thự tại Hoa Kỳ sẽ do pháp luật Hoa Kỳ điều chỉnh. 
Như vậy, pháp luật áp dụng để phân chia số di sản của ông Ngọc nếu ông Ngọc 
chết không để lại di chúc là pháp luật Việt Nam.      lOMoAR cPSD| 60797905
Bài tập 4: Tòa án nước H giải quyết vụ tranh chấp di sản thừa kế giữa công dân A 
mang quốc tịch Việt Nam và công dân B mang quốc tịch nước M. Di sản thừa kế 
nằm tại nước K. Theo pháp luật của nước H thì việc giải quyết các vấn đề về di sản 
thừa kế sẽ áp dụng theo hệ thuộc “Luật nơi có tài sản”. Tuy nhiên, sau khi xem xét 
nội dung vụ việc, Tòa án nước H không áp dụng “Luật nơi có tài sản” để giải quyết 
mà áp dụng luật nước mình (nước H).  Theo anh (chị) thì: 
a. Trong trường hợp nào việc áp dụng pháp luật của Tòa án nước H là chính  xác? Tại sao? 
Thứ nhất, cần định danh di sản thừa kế nằm tại nước K là động sản hay bất 
động sản. Căn cứ Điều 677 BLDS thì việc xác định tài sản là động sản hay bất động 
sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản. 
 Thứ hai, trên cơ sở định danh tài sản, việc xác định pháp luật áp dụng được 
giải quyết như sau theo Điều 680 BLDS. 
Nếu di sản thừa kế là động sản thì pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp được 
xác định theo nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết 
dựa trên hệ thuộc luật nhân thân. 
Nếu di sản là thừa kế là bất động sản thì pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp 
được xác định theo nước nơi có bất động sản đó. Cụ thể trong trường hợp này pháp 
luật nước K sẽ được áp dụng. 
Ngoài ra, pháp luật của nước nơi có bất động sản sẽ không được áp dụng nếu: - Hậu 
quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp  luật Việt Nam; 
- Nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các 
biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng. 
Như vậy, nếu việc áp dụng pháp luật của nước nơi có tài sản là nước K mà dẫn 
đến trái các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước H thì nhằm bảo lưu trật tự công 
cộng, Tòa án nước H có quyền không áp dụng “Luật nơi có tài sản” để giải quyết mà 
thay vào đó sẽ áp dụng pháp luật của chính nước H để giải quyết. 
b. Giả sử nước H là Việt Nam, C (công dân Việt Nam, cư trú tại Việt Nam) là 
người để lại di sản đã có di chúc hợp pháp chia di sản cho cả A và B. Tuy nhiên, 
cả A và B đều bị tước quyền hưởng thừa kế theo quy định của hệ thống pháp 
luật được áp dụng. Hãy cho biết số phận pháp lý của khối di sản nói trên.  
Theo dữ liệu đề bài, trong trường hợp C là người để lại di sản lại là công dân 
Việt Nam và hiện cư trú tại Việt Nam. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 680 
BLDS 2015: “Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản 
thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết”. Trong tình huống, C là công dân Việt Nam      lOMoAR cPSD| 60797905
nên có quốc tịch Việt Nam, C cũng cư trú tại Việt Nam nên thì khối di sản này sẽ 
được áp dụng pháp luật của Việt Nam để giải quyết. 
Trường hợp A và B đều bị tước quyền hưởng thừa kế thì theo pháp luật Việt 
Nam, khối di sản nói trên sẽ thuộc quyền sở hữu của Nhà nước khi tài sản không có 
người nhận thừa kế. Cụ thể, căn cứ quy định tại Điều 622 BLDS 2015: “Trường hợp 
không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được 
quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa 
vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước”. Như vậy, trường 
hợp A và B đều bị tước quyền hưởng thừa kế dẫn đến việc khối di sản của ông C do 
không có ai thừa hưởng thì khối di sản sẽ thuộc sở hữu của Nhà nước Việt Nam.  MỤC LỤC 
I. CÂU HỎI TỰ LUẬN:  1 
Câu 2: Xung đột pháp luật có xảy ra trong hệ thống pháp luật của quốc gia hay  không? 1 
Câu 5: Anh (chị) hãy trình bày chế tài của hiện tượng lẩn tránh pháp luật  1 
Câu 8: Khi áp dụng điều ước quốc tế để giải quyết xung đột pháp luật thì có thể 
coi rằng hiện tượng xung đột pháp luật đã bị triệt tiêu không? Vì sao? 2 Câu 9: Khi 
pháp luật được dẫn chiếu có nhiều hơn một hệ thống pháp luật thì áp dụng pháp  luật như thế nào? 3 
II. NHẬN ĐỊNH: 4 
2. Luật lựa chọn chỉ được áp dụng để giải quyết các quan hệ về quyền và nghĩavụ  của hợp đồng.4 
3. Chỉ khi nào quy phạm xung đột được áp dụng thì mới có xung đột pháp  luậtphát sinh. 4 
5. Quy phạm xung đột một bên là quy phạm xung đột mênh lệnh.  4 
6. Sự tồn tại của quy phạm xung đột thực chất trong ĐƯQT làm mất đi hiệntượng  xung đột pháp luật. 5 
7. Chỉ cần áp dụng một hệ thuộc trong việc giải quyết xung đột pháp luật. 5 
8. Khi các bên trong hợp đồng thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng để điều 
chỉnhquan hệ hợp đồng của họ thì pháp luật đó đương nhiên được áp dụng. 5 
10. Phương pháp xung đột là phương pháp giải quyết xung đột pháp luật mộtcách  trực tiếp. 6      lOMoAR cPSD| 60797905
11. Chỉ khi nào quy phạm xung đột được áp dụng thì mới có xung đột pháp  luậtphát sinh. 6 
12. Tòa án Việt Nam chỉ áp dụng pháp luật nước ngoài khi có ít nhất một trongcác 
đương sự là người nước ngoài. 6 
13. Tòa án luôn luôn có nghĩa vụ xác định nội dung pháp luật nước ngoài cần  ápdụng. 7 
15. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật được hiểu là các quy phạm thực chất 
trongpháp luật luật Việt Nam. 7 
16. Mục đích của việc bảo lưu trật tự công cộng là nhằm giúp các Toà án tránhviệc 
áp dụng pháp luật nước ngoài. 8 
17. Trong trường hợp không thể xác định được nội dung của pháp luật nướcngoài 
cần áp dụng, Toà án Việt Nam sẽ áp dụng luật quốc tịch của đương sự. 8 
18. Khi áp dụng pháp luật nước ngoài, Tòa án Việt Nam có nghĩa vụ giải 
thíchpháp luật nước ngoài theo nguyên tắc của pháp luật Việt Nam. 8 
19. Nguyên nhân của hiện tượng dẫn chiếu là do các quốc gia quy định khácnhau 
khi điều chỉnh một vấn đề cụ thể. 9 
20. Theo pháp luật Việt Nam, khi dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba, Tòaán 
sẽ áp dụng các quy phạm xung đột trong pháp luật nước này. 9 
22. Khi các bên chọn pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ hợp đồng màluật 
đó dẫn chiếu ngược trở lại pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp  dụng 9 
23. Phải giải quyết xung đột khi các bên trong quan hệ dân sự có quốc tịch  khácnhau. 10 
24. Phải giải quyết xung đột pháp luật khi nội dung pháp luật của các nước 
khácnhau trong các lĩnh vực dân sự. 10 
Chương 2 XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT LUẬT  NƯỚC NGOÀI 
I. CÂU HỎI TỰ LUẬN: 
Câu 2: Xung đột pháp luật có xảy ra trong hệ thống pháp luật của quốc gia hay  không?  Trả lời: 
Xung đột pháp luật là một hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật 
khác nhau nhưng cùng được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố  nước ngoài.      lOMoAR cPSD| 60797905
Thông thường, xung đột phát luật xảy ra giữa hệ thống pháp luật của các quốc gia 
khác nhau cùng quy định một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. 
Nhưng trong một số trường hợp đặc biệt, xung đột pháp luật còn xảy ra trong hệ 
thống pháp luật của một quốc gia cụ thể như các nhà nước liên bang như: Hoa Kỳ, 
Úc, Canada... Các nhà nước này không tồn tại một hệ thống pháp luật duy nhất mà 
họ còn có hệ thống pháp luật của liên bang và hệ thống pháp luật của các tiểu bang. 
Nhà nước liên bang này và các tiểu bang xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật 
riêng, quy định không giống nhau. Khi một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu 
tố phát sinh thì nhiều hệ thống pháp luật như hệ thống pháp luật liên bang và hệ 
thống pháp luật tiểu bang đều có khả năng áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự 
này. Vì vậy, trong cùng hệ thống pháp luật của một quốc gia nhưng xung đột pháp 
luật vẫn có thể xảy ra giữa các bang với nhau hoặc xảy ra xung đột pháp luật giữa 
luật của liên bang và luật của tiểu bang. Khi xung đột pháp luật xảy ra giữa các bang, 
tiểu bang với nhau thì cơ quan có thẩm của quốc gia giải quyết xung đột đó bằng 
nguyên tắc chọn luật của tư pháp quốc tế. 
Ngoài ra, ở nhà nước đơn nhất như Trung Quốc cũng phát sinh xung đột phát luật 
trong hệ thống pháp luật của quốc gia. Xung đột pháp luật phát sinh giữa hệ thống 
pháp luật của Trung Quốc và hệ thống pháp luật của đặc khu hành chính Macao, Đài  Loan. 
Như vậy, xung đột pháp luật không chỉ phát sinh giữa các quốc gia trên thế giới mà 
còn có thể phát sinh trong hệ thống pháp luật của quốc gia ở các nhà nước có nhiều 
hệ thống pháp luật cùng tồn tại. 
Câu 5: Anh (chị) hãy trình bày chế tài của hiện tượng lẩn tránh pháp luật.  Trả lời: 
Mỗi một quốc gia đều có hệ thống pháp luật riêng. Chính vì vậy, tuy cùng một 
vụ việc nhưng cách giải quyết của mỗi quốc gia sẽ khác nhau. Khi nhận thấy nếu áp 
dụng luật nước này có thể đem lại thuận lợi thì các đương sự rất muốn để được áp 
dụng pháp luật nước đó và tìm mọi các để không bị áp dụng luật nước khác có quy 
định gây bất lợi với mình. Đây chính là cơ sở làm phát sinh hiện tượng “lẩn tránh  pháp luật”. 
- Khái niệm “lẩn tránh pháp luật”: là hiện tượng đương sự sử dụng những biệnpháp 
cũng như thủ đoạn để thoát khỏi hệ thống pháp luật đáng nhẽ phải được áp dụng 
để điều chỉnh các quan hệ của họ và nhắm tới một hệ thống pháp luật khác có lợi 
hơn cho mình. Các biện pháp, thủ đoạn: di chuyển trụ sở, thay đổi nơi cư trú, thay  đổi quốc tịch,… 
Ví dụ: Vợ chồng ông A có quốc tịch Canada, bà B quốc tịch Việt Nam. Hai ông bà 
cư trú tại Việt Nam. Nay họ muốn ly hôn, họ biết rằng khi TA Việt Nam giải quyết 
ly hôn sẽ căn cứ vào khoản 1 Điều 127 Luật HNGĐ 2014 và ông A cũng biết nếu áp      lOMoAR cPSD| 60797905
dụng pháp luật Việt Nam sẽ không có lợi cho ông. Trong khi đó, luật nước A mang 
quốc tịch lại cũng có quy phạm xung đột quy định giải quyết ly hôn có yếu tố nước 
ngoài sẽ tuân theo luật nơi nước cư trú chung của vợ chồng, đồng thời có lợi hơn 
cho A. Do đó, A và B đã thay đổi nơi cư trú, sang nước mà A mang quốc tịch để cư 
trú và giải quyết thủ tục ly hôn. Trong trường hợp này, A đã lẩn tránh pháp luật Việt 
Nam, cụ thể là quy phạm xung đột (Điều 127 Luật HNGĐ 2014) đáng ra phải được  áp dụng. 
- Chế tài của hiện tượng lẫn tránh pháp luật: 
Theo pháp luật của một số quốc gia thì hành vi lẩn tránh pháp luật không được công 
nhận. Pháp luật không cho rằng hiện tượng lẩn tránh pháp luật là một hành vi bất 
hợp pháp. Ở nước ta, hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trong tư pháp quốc tế hầu như 
chưa có, nhưng trong các văn bản đã từng ban hành có những quy định cấm các 
trường hợp lẩn tránh. Chẳng hạn, theo khoản 4 Điều 6 Pháp lệnh về Hôn nhân và gia 
đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài năm 1993, thì “Việc kết hôn của 
công dân Việt Nam với người nước ngoài được tiến hành ở nước ngoài và tuân theo 
pháp luật nước đó về nghi thức kết hôn thì được công nhận tại Việt Nam, trừ trường 
hợp việc kết hôn đó có ý định rõ ràng là để lẩn tránh các quy định của pháp luật 
Việt Nam về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn”. Tuy đã hết hiệu lực nhưng đây cũng 
có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam cũng không chấp nhận hiện tượng lẩn tránh 
pháp luật. Tuy nhiên, quy định này chỉ giới hạn ở lĩnh vực kết hôn có yếu tố nước 
ngoài, chưa rõ hậu quả của việc lẩn tránh sẽ như thế nào. 
Do đó có thể kết luận, pháp luật nước ta chưa có một cơ sở pháp lý nào để điều chỉnh 
hiện tượng “lẩn tránh pháp luật”. Nếu “lẩn tránh pháp luật” không được ngăn chặn 
và giải quyết kịp thời thì mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia có thể sẽ bất đồng, 
mâu thuẫn. Chính vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật để xử lý hiện tượng 
“lẩn tránh pháp luật” rất cần thiết. 
Câu 8: Khi áp dụng điều ước quốc tế để giải quyết xung đột pháp luật thì có  
thể coi rằng hiện tượng xung đột pháp luật đã bị triệt tiêu không? Vì sao?  Trả lời: 
Khi áp dụng điều ước quốc tế để giải quyết xung đột pháp luật thì không thể 
coi rằng hiện tượng xung đột pháp luật đã bị triệt tiêu. 
Xung đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác 
nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng 
có yếu tố nước ngoài. Bản thân nội tại các hệ thống pháp luật luôn tồn tại sẵn các 
yếu tố tạo nên sự khác biệt. Vì vậy, để giải quyết các quan hệ phức tạp này bằng một 
loại quy phạm quy định rõ quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia quan hệ, 
vẫn đảm bảo sự chấp nhận được của hai/nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, các