


Preview text:
Câu 2: Trình bày nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính? Ví dụ?
Nhận thức cảm tính: Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, gắn liền với thực tiễn.
Phản ánh trực tiếp khách thể thông qua các giác quan, diễn ra dưới ba hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất, được nảy sinh do sự tác động trực tiếp
của khách thể lên các giác quan của con người hình thành tri thức giản đơn nhất về
một thuộc tính riêng lẻ của sự vật. Lênin viết: “Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Ví dụ: nhìn vào mặt trời, ta thấy chói (thị giác); truyện thầy bói xem voi, mỗi thầy
bói chỉ sờ vào 1 phần của con voi nên cảm giác mỗi người về nó là khác nhau (xúc giác)
• Tri giác là một hình thức nhận thức của giai đoạn trực quan sinh động.Tri giác là kết
quả của sự tác động trực tiếp của sự vật đồng thời lên nhiều giác quan của con người.
Do đó có thể nói tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác.
Ví dụ: ta nhận định món ăn đó ngon vì ngửi thấy nó thơm và nhìn thấy nó trông
đẹp mắt và ăn vào rất vừa miệng (khứu giác+thính giác+vị giác)
• Biểu tượng là hình thức cao nhất và phức tập nhất của nhận thức cảm tính. Khác với
cảm giác và tri giác, biểu tượng là hình ảnh sự vật được tái hiện trong óc. Là khâu
trung gian chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính.
Ví dụ: A sống xa gia đình, nhưng khi nhắc đến bố mẹ thì có thể hình dung ra ngay hình ảnh của họ;
Nhận thức lý tính: Bắt nguồn từ trực quan sinh động, thông qua tư duy trừu tượng, con
người phản ánh sự vật một cách gián tiếp, khái quát và đầy đủ hơn dưới các hình thức: khái
niệm, phán đoán và suy lý.
• Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản
chất của sự vật. Là kết quả của sự tổng hợp, khái quát biện chứng những tài liệu thu
nhận được trong thực tiễn. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính
chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển.
Ví dụ: khái niệm côn trùng, khi nói đến côn trùng là đã bao gồm những đặc điểm
chung như là sâu bọ, có 6 chân, cơ thể có 3 phần,. .;
• Phán đoán là hình thức tư duy trừu tượng, bằng cách liên kết các khái niệm với nhau
để khẳng định hay phủ định một thuộc tính nào đó của sự vật.
Ví dụ: Cá voi là động vật: hai khái niệm liên kết là “cá voi” và “động vật”;
• Suy lý (suy luận) là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau
để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Ví dụ 1:
- Động vật sống dị dưỡng là cần chất dinh dưỡng để tồn tại, phát triển và sinh
sản, tiêu hóa thức ăn trong cơ thể
- Hải quỳ cũng cần chất dinh dưỡng để tồn tại, phát triển và sinh sản, tiêu hóa thức ăn trong cơ thể
⇨ Hải quỳ là động vật Ví dụ 2:
- Tiêu cực ảnh hưởng sức khỏe
- Thức khuya ảnh hưởng sức khỏe
- Ăn uống không đều độ ảnh hưởng sức khỏe
- Tiêu cực, thức khuya, ăn uống không đều độ là lối sống không lành mạnh
⇨ Lối sống không lành mạnh ảnh hưởng sức khỏe
Câu 4: Phân biệt nhận thức khoa học, nhận thức thường ngày, nhận thức nghệ thuật? Ví dụ?
Nhận thức thường ngày (nhận thức tiền khoa học)
Là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng
ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết,
cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính
phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế nó có
vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội.
Ví dụ: từ xưa, qua quan sát, ông bà ta đã có câu “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa bay
cao thì nắng bay vừa thì râm”
Nhận thức khoa học
Là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm
bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới
dạng trừu tượng lôgic là các khái niệm, các quy luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có
tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân
thực. Nó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông
thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng trong
nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn,
đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại.
Ví dụ: Pháp luật là công cụ để nhà nước quản lý xã hội, mọi người dân nhận thức được
tầm quan trọng của Pháp luật, nếu vi phạm sẽ bị Nhà nước trừng phạt. Do đó, người dân sẽ
luôn sống và làm việc tuân theo pháp luật của nhà nước.
Nhận thức nghệ thuật
Là nhận thức bằng hình tượng, bằng cảm xúc, cảm nghĩ của con người về phương diện trí
tuệ, đạo đức, thẩm mỹ luôn gắn liền với những hình tượng khác trong trí nhớ cảm quan, nên
nhận thức nghệ thuật không chỉ với tư cách một loại trí nhớ, mà là một loại trí nhớ xã hội - trí
nhớ của sự liên tưởng, có khả năng tổng hợp và phát triển các năng lực trí nhớ trong hoạt
động nhận thức của con người.
Ví dụ: Truyện cổ tích đều có những nhân vật thiện và ác, những câu chuyện đó cho ta
thấy hình tượng thế nào là tốt, là xấu, việc gì nên hay không nên làm;
Document Outline
- Câu 2: Trình bày nhận thức cảm tính, nhận thức lý
- Câu 4: Phân biệt nhận thức khoa học, nhận thức thư
- Nhận thức thường ngày (nhận thức tiền khoa học)
- Nhận thức khoa học
- Nhận thức nghệ thuật