Nhận thức rõ quan điểm của V.I.Lênin về vật chất, liên hệ vào nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong tình hình mới | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin

Bắt đầu từ thời kỳ cổ đại (ở phương Đông lẫn phương Tây) đến thời kỳ cận đại ở Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII, các nhà triết học đã đưa ra nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau về phạm trù “vật chất”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
Điểm: …………………………
KÝ TÊN
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………
2
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bắt đầu từ thời kỳ cổ đại (ở phương Đông lẫn phương Tây) đến thời kỳ cận đại
Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII, các nhà triết học đã đưa ra nhiều quan niệm, cách hiểu
khác nhau về phạm trù “vật chất”. Song, định nghĩa vật chất được V.I.Lênin đưa ra
một định nghĩa hoàn chỉnh nhất, trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật
biện chứng. Định nghĩa đã khắc phục toàn bộ sai lầm của các nhà triết học duy tâm,
siêu hình khi bàn về vật chất, chỗ họ thường đồng nhất vật chất với dạng biểu hiện
cụ thể của vật chất “vật thể”. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, việc nhận thức
quan điểm của V.I.Lênin về vật chất việc làm cần thiết, giúp chúng ta đấu tranh
chống lại những quan điểm sai trái phủ nhận, xuyên tạc quan điểm của V.I.Lênin về
vật chất nói riêng, bảo vệ quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa Mác Lênin nói chung
góp phần vào nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong tình hình mới.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc chính xác những
khái niệm về Zt chất, phương thức hình thức tồn tại của Zt chất sau đó liên hệ
thực tiễn đến đất nước Việt Nam ta.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KH+I QU+T CHUNG VỀ TRI.T HỌC M+C – LÊNIN VÀ C+C
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG THỨC, HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT
1.1 Bối cảnh cho sự ra đời định nghĩa Vật chất của V.I.Lênin.
Vật chất với tính cách là phạm trù triết học ra đời trong triết học Hy Lạp ở thời kỳ
cổ đại, chứng kiến cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa hai trường phái duy vật
và duy tâm xoay quanh vấn đề bản nguyên của thế giới với các đại biểu như: Heraclit,
Anaximen, Talet, Paton... Xung quanh khái niệm vật chất, trong lịch sử triết học đã
xuất hiện cuộc tranh luận rất gay gắt giữa hai đường lối “Democrit” và “Platon”, trung
tâm điển hình của cuộc tranh luận là vấn đề bản nguyên của thế giới, “thế giới bắt đầu
từ đâu và quay trở về đâu? Nhìn chung các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều đồng nhất
vật chất với một dạng cụ thể của vật chất (lửa, nước, không khí,...), nổi bật học
thuyết nguyên tử của Democrit (nguyên tử nhỏ nhất không phân chia được), mãi
cho đến thời kỳ cận đại, các nhà triết học vẫn đinh ninh rằng như thế cho đến khi phát
hiện ra electron.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX diễn ra cuộc khủng hoảng vật lý học, trước bối cảnh
đó, V.I.Lênin bắt đầu tìm hiểu các phát minh khoa học, nhất trong lĩnh vực vật lý,
bản chất và ý nghĩa của đối với tiến bộ hội, cũng như những khó khăn nan giải
của vật học trong quá trình giải thích thế giới. Việc giải quyết khủng hoảng này,
được xem như một cuộc cách mạng, đã làm thay đổi những quan niệm về thế giới
vật chất? V.I.Lênin viết: “Thực chất của cuộc khủng hoảng của vật lý học hiện đại là ở
sự đảo lộn của những quy luật những nguyên bản, sự gạt bỏ thực tại
khách quan ở bên ngoài ý thức, tức làsự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa
duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri. “Vật chất đã tiêu tan”, - người ta có thể dùng câu nói
đó để diễn đạt cái khó khăn bản điển hình đối với nhiều vấn đề riêng biệt, khó
khăn đã gây ra cuộc khủng hoảng ấy” [
1
].
Nguồn gốc sâu xa của cuộc khủng hoảng thế giới quan là ở cách lý giải vật chất, cách
đặt vấn đề về “viên gạch đầu tiên” của vũ trụ, về cái bản nguyên, và đồng nhất thế giới
1 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb tiến bộ Mát-xcơ-va, 1980.
4
vật chất với cái bản nguyên đại diện cho khoa học của mỗi thời đại tìm ra. Như vậy,
sai lầm chính của chủ nghĩa Makhơ, cũng như vật lý học mới, theo V.I.Lênin, là ở chỗ
không tính đến luận điểm của chủ nghĩa duy vật về tính chất cơ bản nhất của vật chất,
sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật siêu hình chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chính vì lẽ đó, để kết thúc cho việc tranh luận rất dài xoay quan vấn đề khủng hoảng
vật lý học với những người theo chủ nghĩa Makhơ, đã gợi ra vấn đề cực kỳ quan trọng
– xác lập một cách hiểu khác với trước đây về phạm trù “vật chất” để tránh những nan
giải sự bế tắc trước những thay đổi trong khoa học về thực tại vật chất. Theo ông,
Phạm trù vật chất phải phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng nhất, cho đến nay,
nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được”. Định nghĩa vật chất bằng cách đối lập
với ý thức, xác định “là cái khi tác động lên giác quan của chúng ta thì gây ra
cảm giác”. V.I.Lênin khẳng định vật chất không nghĩa khác hơn “thực tại
khách quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người được ý thức con người phản
ánh”.
1.2 Các quan điểm về vật chất.
Phạm trù vật chất xuất hiện ngay từ khi triết học mới ra đời trong thời kỳ cổ đại,
dưới chế độ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên nội dung của phạm trù này không phải bất
biến mà luôn luôn biến đổi và phát triển.
Khuynh hướng chung của các nhà triết học duy vật thời cổ đại đi tìm một thực thể
ban đầu nào đó coi yếu tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng khác nhau của
thế giới, tất cả đều bắt nguồn từ đó cuối cùng đều tan biến trong đó. Tức họ
muốn tìm một thực thể chung, sở bất biến của toàn bộ tồn tại, cái được bảo
toàn trong sự vật trạng thái thuộc tính của sự vật có biến đổi được gọi vật
chất (tiếng Latin materia). Trong lịch sử triết học cổ đại, các nhà triết học duy vật
cũng quan niệm vật chất rất khác nhau. Thales (624-547 trước Công nguyên) coi vật
chất nước, Anaximenes (585-524 trước Công nguyên) coi vật chất không khí,
Heraclitus (540-480 trước Công nguyên) coi vật chất lửa, Democritus (460-370
trước Công nguyên) coi vật chất là các nguyên tử... Nói chung các nhà triết học cổ đại
quan niệm vật chất dưới dạng cảm tính quy vật chất thành một thực thể cụ thể, cố
5
định. Mặc những hạn chế về mặt lịch sử, song những quan niệm trên lại ý
nghĩa tích cực trong việc đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm thời bấy giờ.
Đến thời kỳ cận đại, khoa học phát hiện ra sự tồn tại của nguyên tử, cho nên quan
niệm của thuyết nguyên tử về cấu tạo của vật chất ngày càng được khẳng định. Trong
giai đoạn thế kỷ 17 - thế kỷ 18, mặc đã những bước phát triển, đã xuất hiện
những tư tưởng biện chứng nhất định trong quan niệm về vật chất, song quan niệm đó
các nhà triết học duy vật thời kỳ này về bản vẫn mang tính chất giới, đó
khuynh hướng đồng nhất vật chất với nguyên tử hoặc với khối lượng. Quan niệm này
chịu ảnh hưởng khá mạnh bởi học cổ điển của Newton, một lĩnh vực của vật
được coi là phát triển hoàn thiện nhất thời bấy giờ. Cơ học cổ điển coi khối lượng của
vật thể đặc trưng bản bất biến của vật chất; thế giới bao gồm những vật thể
lớn nhỏ khác nhau, cái nhỏ nhất không thể phân chia nhỏ hơn các nguyên tử; đặc
trưng cơ bản của mọi vật thể là khối lượng; tính tất yếu khách quan trong hiện thực
tính tất yếu khách quan được thể hiện qua các định luật cơ học của Newton; vật chất,
vận động, không gian và thời gian là những thực thể khác nhau cùng tồn tại chứ không
quan hệ ràng buộc nội tại với nhau. Quan niệm này tồn tại được các nhà triết
học duy vật cũng như các nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng sử dụng cho đến tận cuối
thế kỷ 19.
Karl Marx Friedrich Engels nêu lên sự đối lập giữa vật chất với ý thức, về tính
thống nhất vật chất của thế giới, về tính khái quát của phạm trù vật chất sự tồn tại
của vật chất dưới các dạng cụ thể. Theo Engels thì cần phân biệt các dạng tồn tại
khách quan của vật chất khái niệm về vật chất. Vật chất với cách một phạm
trù triết học không tồn tại cảm tính khác với các đối tượng vật chất cụ thể. Theo
ông "Những từ như vật chất vận động chỉ sự tóm tắt trong đó chúng ta tập hợp
theo những thuộc tính của chúng, rất nhiều sự vật khác nhau thể cảm biết được
bằng giác quan" [ ]. Engels đặc biệt nhấn mạnh phê phán quan điểm đem quy vật chất
2
về nguyên tử, về những hạt nhỏ đồng nhất hoàn toàn giống nhau về chất, chỉ khác
nhau về lượng, ông coi đó siêu hình, mang tính cơ giới, qua đó ông nêu lên tính
hạn và vô tận, tính không thể sáng tạo và không thể tiêu diệt được của vật chất và các
2 P. Ăng- ghen: Biện chứng của tự nhiên, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1971, tr. 36.
6
hình thức tồn tại của nó không gian thời gian.[ ] Ở đây cần phân biệt quan niệm
3
vật chất với cách một phạm trù triết học với quan niệm của vật học các
khoa học khác về vật chất. Lenin định nghĩa vật chất:
"...vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánhtồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác" [
4
].
1.3 Phương thức tồn tại của vật chất.
Ăngghen định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu
một phương thức tồn tại của vật chất, một thuộc tính cố hưữ của vật chất thì bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi mọi quá trình diễn ra trong trụ, kể từ sự thay đổi vị
trí đơn giản cho đến tư duy [
5
]”
Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong
không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông
qua vận động các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình;
vận động của vật chất là tự thân vận động; và, sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với
vật chất.
Dựa trên thành tựu khoa học trong thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động
thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận
động sinh học và vận động xã hội.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương ứng
với trình dộ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song
chúng không tồn tại biệt lập mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình
thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong
những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật thể
3 Triết học Mác – Lênin, chương trình cao cấp, tập II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1994, tr. 6.
4 V. I. Lênin, "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán", tập I, tr. 14.
5 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, năm 1994, tập XX, tr. 519.
7
có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng
bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Bằng việc phân loại các hình thức vận động bản, Ăngghen đã đặt sở cho việc
phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. tưởng về sự thống nhất nhưng khác
nhau về chất của các hình thức vận động bản còn sở để chống lại khuynh
hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình
thức vận động khác trong quá trình nhận thức.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của
vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định vận động vĩnh viễn. Điều
này không nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng;
song đứng im, cân bằng chỉ hiện tượng tương đối, tạm thời thực chất đứng im,
cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định
chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình
thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động. Đứng im
tam thời đứng im không phải cái tồn tại vĩnh viễn chỉ tồn tại trong một thời
gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im
vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
Đứng im trạng thái đặc biệt của vận động, đó vận động trong thế cân bằng, ổn
định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự
vật.
1.4Hình thức thức tồn tại của vật chất.
- Khái niệm không gian, thời gian
+ Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại,
trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau.
+ Thời gian hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự
kế tiếp của các quá trình.
8
+ Các hình thức vận động phải tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất;
các hình thức vận độngmối liên hệ phát sinh, nghĩa là hình thức vận động cao nảy
sinh trên sở của những hình thức vận động thấp bao hàm hình thức vận động
thấp; hình thức vận động cao khác về chất so với hình thức vận động thấp không
thể quy về hình thức vận động thấp.
- Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động
+ Không không gian thời gian thuần tuý tách rời vật chất vận động. V.I.Lênin
viết: “Trong thế giới không ngoài vật chất đang vận động vật chất đang vận
động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian” [
6
].
+ Không gian thời gian hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật
chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau.
+ Không sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian lại không một quá
trình diễn biến của nó.
+ Cũng không thể có sự vật, hiện tượng nào có thời gian tồn tại mà lại không có quảng
tính, kết cấu nhất định. Tính chất của không gian sự biến đổi của bao giờ cũng
gắn liền với tính chấtsự biến đổi của thời gian và ngược lại. Do đó, không gian
thời gian, về thực chất là một thể thống nhất không - thời gian.
+ Vật chất có ba chiều không gian (chiều dài, chiều rộng, chiều cao) và một chiều thời
gian (từ quá khứ tới tương lai).
+ Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi lẫn tính
chất.
1.5 Tính thống nhất vật chất của thế giới.
6 Sách giáo khoa về triết học Mác – Lênin, tập XII, tr.209-210.
9
Thế giới vật chất thể hiện hết sức phong phú đa dạng, song những dạng biểu hiện
của thế giới vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới và thống nhất với nhau.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:
– Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước, tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
– Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không mất đi.
– Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở
chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn
gốc vật chất, do vật chất sinh ra cùng chịu sự chi phối của những qui luật khách
quan, phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không khác ngoài
những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên
nhân và kết quả của nhau.
Bản chất vật chất tính thống nhất vật chất của thế giới kết luận được rút ra từ
việc khái quát những thành tựu của khoa học, được khoa học cuộc sống hiện thực
của con người kiểm nghiệm. không chỉ định hướng cho con người giải thích về
tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho con người tiếp tục nhận thức về tính
đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp qui luật.Quan điểm Marxist cho rằng chỉ
một thế giới duy nhất thống nhất thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại
khách quan có trước và độc lập với ý thức con người.
1.6Nội dung quan điểm của V.I.Lênin về vật chất.
Khắc phục những sai lầm được phân tích ở trên, V.I. Lênin nhận thấy phần lớn các
nhà duy vật đồng nhất vật chất với vật thể, tức những biểu hiện cụ thể của tồn tại vật
chất, mà không đạt tới cách hiểu hệ thốngmang tính khái quát cao về vật chất. Kết
quả họ luôn bị rơi vào trạng thái hụt hẫng mỗi khi khoa học tự nhiên khám phá ra
những vấn đề mới của thế giới. V.I.Lênin viết: “Vật chất một phạm trù triết học,
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
10
chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác [ ]”. đây cần thấy rằng,
7
phạm trù vật chất phạm trù trung tâm trong luận nhận thức (hiểu theo nghĩa
rộng). Thế giới vật chất hạn bao gồm các quá trình khác nhau của vật chất,
nhưng các quá trình những dạng biểu hiện khác nhau của vật chất. Do đó không
nên lẫn lộn học thuyết khoa học cụ thể về cấu tạo vật chất, các thuộc tính, các hình
thức của với quan niệm triết học về vật chất, bởi lẽ đây khái niệm chung nhất,
không phân tích chi tiết, mang tính chuyên biệt như các khoa học cụ thể khác.
định nghĩa này, Lênin chỉ rõ, khi vật chất đối lập với ý thức trong nhận thức luận,
cái quan trọng để nhận biết nó chínhthuộc tính khách quan. Khách quan, theo ông,
đó “cái đang tồn tại độc lập với loài người với cảm giác của con người” đó
quan điểm của khoa học tự nhiên. Trong đời sống hội, “khách quan không phải
theo ý nghĩa một hội những sinh vật ý thức, những con người, thể tồn tại
phát triển không phụ thuộc vào sự tồn tại của những sinh vật ý thức(...),
khách quan theo ý nghĩa tồn tại hội không phụ thuộc vào ý thức hội của con
người”. “Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất khôngý nghĩa gì khác hơn:
thực tại khách quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người và được ý thức con người
phản ánh”.
Từ định nghĩa trên, có thể đề cập mấy đặc trưng sau:
Đặc trưng thứ nhất, vật chất một phạm trù triết học. Đặc trưng rất quan trọng đối
với việc giải quyết cho thắc mắc, bất cập trong bài viết này. Bởi lẽ, nếu không hiểu
thấu được ý này sẽ không triển khai được nó trong thực tiễn.
Trước tiên, cần hiểu đây “phạm trù” (là những khái niệm chung nhất, rộng nhất,
phán ánh những mặt, những mối liên hệ bản chất của các sự vật trọng tự nhiên, hội
và tư duy). Là một khái niệm rộng nhất trong những khái niệm rộng của các khoa học
cụ thể. Chẳng hạn như: rộng hơn cả khái niệm toán học bao gồm nhiều khái niệm
như tích phân, đạo hàm, đoạn thẳng, hình tam giác...Vì thế nên, không nên đánh đồng
với một kết cấu vật chất của khoa học cụ thể. Theo đó, vật chất với cách một
7 V.I. Lênin. Toàn tập, tập XVIII. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 151.
11
phạm trù của triết học sẽ khác với một dạng vật chất thông thường tồn tại trong xã hội,
tự nhiên hay duy. Đây vật chất nói chung, trừu tượng mang tính khái quát cao.
Chính theo V.I.Lênin, “rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà cho đến nay, nhận thức luận
vẫn chưa vượt qua được”. Cái mà chúng ta thấy hằng ngày, cảm tính hàng ngày gọi là
“vật thể” mà thôi.
Đặc trưng thứ hai, thừa nhận rằng một thực tại khách quan, được đem đến cho
chúng ta trong cảm giác; không và không thể cái nào khác ngoài thực tại khách
quan ấy. Tức tồn tại độc lập, tương đối với ý thức con người, đối lập với chủ quan,
chúng ta có thể nhận thức được chúng thông qua sự phản ánh “chép lại, chụp lại” một
cách năng động, sáng tạo của ý thức thông qua hệ thống các giác quan của con người.
Tức những tồn tại một cách chủ quan, bên ngoài ý thức của con người, con người
không thể nhận thức được, thì đó không được gọi vật chất. Mặc khác, phải được
thông qua sự phản ánh năng động sáng tạo của hệ thống các giác quan của con người
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp mới tạo ra quá trình nhận thức đúng đắn về sự vật và
hiện tượng.
Đặc trưng thứ ba, khẳng định rằng, nói đến vật chất nói đến thực tại tồn tại bên
ngoài chúng ta không lệ thuộc vào chúng ta. Chỉ ra rằng vật chất, được đem đến
cho chúng ta trong cảm giác, các cảm giác là nguồn gốc của nhận thức.
Đặc trưng thứ tư, qua cách hiểu về vật chất, V.I.Lênin đến kết luận về tính có thể nhận
thức được của thế giới, qua đó chống lại thuyết bất khả tri. Điều cần lưu ý đây,
không phải mọi hiện tượng vật chất tác động lên giác quan của con người đều được
con người nhận biết một cách trực tiếp. Trong tự nhiên có khá nhiều quá trình vật chất
con người chỉ nhận biết được thông qua các công cụ các phương pháp đặc thù
của các khoa học.
Như vậy, Định nghĩa vật chất đơn giản là sự thể hiện việc giải quyết trên cơ sở duy vật
vấn đề cơ bản của triết học, và rằng sẽ vô nghĩa nếu đòi hỏi từ các nhà lý luận “một sự
định nghĩa vật chất không quy về việc lặp lại cái trước cái sau”. Để khắc
họa thêm định nghĩa vật chất, trong tác phẩm, Lênin còn đề cập đến vai trò của vật
12
chất đối với ý thức, cũng như tính độc lập tương đối của ý thức đối với vật chất, thể
hiện tính biện chứng sâu sắc. Cũng theo Lênin, vật chất phải được tồn tại trong một
khoảng không gian nhất định một khoảng thời gian xác định. Khi bác bỏ những
quan điểm sai lầm và vô lý của phái Makhơ – không gian và thời gian chỉ là hình thức
trực quan của con người, sự của cảm thức không gian thời gian xét từ góc độ thời
tính của sự tồn tại của con người, “không gian thời giannhững hệ thống...trật tự
của các chuổi cảm giác”, “theo Makhơ thì không phải con người với những cảm giác
của mình, tồn tại trong không gian và thời gian, mà chính không gian và thời gian tồn
tại trong con người, lệ thuộc vào con người do con người sinh ra”. đây, Makhơ
đã rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, duy tâm, khái niệm không gian được rút ra từ kinh
nghiệm chứ không phản ánh đúng thực tại khách quan, chính thực tại mặt hàng
triệu năm trước khi con người. V.I.Lênin nhấn mạnh tính chất của không gian
tính ba chiều, ông viết: “khoa học tự nhiên không nghi ngờ rằng vật chất
nghiên cứu chỉ tồn tại trong không gian ba chiều thôi, và do đó, những phần tử của vật
chất đó dù nhỏ bé đến mức ta không thể nhìn thấy được, cũng vẫn tồn tại một cách tất
yếu trong cái không gian ba chiều đó [ ]”. Thuyết tương đối thế kỷ XX đã chứng minh
8
cho tính chất lệ thuộc của không gian và thời gian vào vật chất đang vận độngmối
liên hệ giữa chúng, thời gian không tách khỏi không gian, thể hiện tính tận, vĩnh
viễn bao gồm tính gián đoạn và liên tục.
1.6 Ý nghĩa phương pháp luận.
- Phát hiện vật chất có trước và ý thức có sau.
Có thể thấy với các vận động và phát triển của ý thức mới thấy được vật chất dang tồn
tại. Bởi vậy các nhà duy tâm cho rằng ý thức trước. Nhưng thực tế từ khi
nhận thức được thì họ mới thấy được các tồn tại của vật chất. Bản chất phải là vật chất
có trước khi hình thành ý thức.
Vật chất nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức con người. Tuy nhiên vẫn
mang đến các tính chất tồn tại song song và tác động lẫn nhau. Khi con ngườinhu
cầu ăn, ở, mặc,… con người đã dùng ý thức để sử dụng vật chất. Từ đó vật chất
8 V.I.Lênin, Toàn tập, tập XVIII, Nxb tiến bộ Mát-xcơ-va, 1980.
13
chính nguồn gốc sâu xa dẫn đến các phát triển nền tảng của ý thức. Phải các cơ
sở đó mới có ý thức của con người vận động.
Ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Với cơ sở và nền tảng từ
những cảm giác đối với vật chất. Con người có khả năng nhận thức thế giới. Từ đó mà
phát triển nhận thức cũng như mang đến các ứng dụng đối với vật chất sẵn có. Dần
dần họ sử dụng vật chất cho các nhu cầu cao hơn của mình.
- Bác bỏ quan điểm duy tâm.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất với
sự phát hiện vật chất trước, ý thức sau. Vật chất nguồn gốc của ý thức
nguồn gốc khách quan của cảm giác. Khi mà quan điểm duy tâm mang đến các khẳng
định cho sự xuất hiện tác động của ý thức đến vật chất. Tất cả sai về mặt bản
chất khi giải thích đối với nguồn gốc theo các nghiên cứu khoa học. Với các cơ sở như
thế nào, ý thức phải dựa trên nền tảng của vật chất làm cơ sở. Từ đó mà hình thành các
nhu cầu cao hơn đối với tồn tại của vật chất.
Với định nghĩa vật chất, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó
vật chất cái trước, ý thức cái sau, vật chất quyết định ý thức. Đó con
người có thể nhận thức được thế giới khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại, phản
ánh của con người đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã tạo
cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về xã hội.
- Khắc phục hạn chế trong quan điểm đưa ra của các nhà khoa học trước đó.
Định nghĩay khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất
của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Khi các nội dung trong chủ nghĩa duy vật cũng
chưa đưa ra nguồn gốc, tính chất và dạng tồn tại của vật chất. Cùng với sự tồn tại độc
lập và có trước của vật chất so với ý thức.
Bằng việc chỉ ra thuộc tính bản nhất, phổ biến nhất thuộc tính tồn tại khách
quan. Đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật chất
với cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành. Từ đó khắc phục được hạn
14
chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó. Cung cấp căn cứ khoa học để
xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
- Tính đúng đắn.
Bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy vật (CNDV) tầm thường về vật chất, coi ý thức
là một dạng vật chất. Bởi về bản chất, ý thức có các tồn tại độc lập, với tính chất riêng.
Không thỏa mãn cho khái niệm vật chất được Lênin kết luận.
Định nghĩa này đã liên kết CNDV biện chứng với CNDV lịch sử thành một thể thống
nhất. Khẳng định đối với dạng tồn tại vận động của vật chất. Vật chất trong tự
nhiên, vật chất trong xã hội đều là những dạng cụ thể của vật chất mà thôi, đều là thực
tại khách quan.
1.7 Kết luận.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin ra đời chấm dứt quá trình khủng hoảng của vật lý
học thế kỷ XX, có tác dụng định hướng đối với các nhà khoa học tự nhiên trên cơ sở
nhận thức luận duy vật biện chứng. Với định nghĩa vật chất, một lần nữa, Lênin đã
khắc phục toàn bộ sai lầm của các nhà triết học trước Mác, siêu hình lẫn duy tâm về
vật chất và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Xoay quanh vấn đề vật chất, Lênin đã
thể hiện tinh thần mácxít khi đã bày tỏ những quan điểm chính xác của mình để đấu
tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm vật lý học
đứng đầu là chủ nghĩa Makhơ, góp phần bảo vệ, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác.
Tóm lại, nghiên cứu định nghĩa vật chất của V.I.Lênin trong tác phẩm “chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, giúp chúng ta khắc sâu và sáng tỏ hơn trong
việc nghiên cứu học tập và giảng dạy triết học hiện nay, trong bối cảnh thế giới và
trong nước có những diễn biến mới, đối với việc tiếp tục nghiên cứu bổ sung lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin sao cho phù hợp với thực tế Việt Nam.
15
CHƯƠNG II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NỀN KINH
T. THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
TCCS - Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sự đột phá trong tư duy
thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây vấn đề
luận thực tiễn mới mẻ hết sức phức tạp, gắn giữa việc nhận thức quy luật
khách quan với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng, Nhà nước và nhân dân
Việt Nam; kết quả một quá trình tìm tòi, thể nghiệm lâu dài, từ chưa đầy đủ đến
ngày càng đầy đủ, từ chưa sâu sắc đến ngày càng sâu sắc hơn.
1.1 Vấn đề lý luận.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường
định hướng hội chủ nghĩa, coi đó hình tổng quát, đường lối chiến lược
nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến nay, đặc trưng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày
càng sâu sắc.
1.2 Mục tiêu.
Về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa: Phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng sở vật chất cho chủ nghĩa hội, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. “Mục đích của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”[
9
].
1.2 Các đặc trưng cơ bản.
- Đặc trưng về sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở
hữu về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể). Từ khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận
trên thực tế nhiều hình thức sở hữu về liệu sản xuất, bao gồm cả công
hữu và tư hữu.
- Đặc trưng vềcấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác bộ
phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
- Đặc trưng về phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, mức đóng góp vốn các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các
nguyên tắc của chế thị trường sự quản của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà
nước chủ thể quyết định phân phối chuyển dần sang xác định thị trường
quyết định phân phối lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối lại.
9 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 25.
16
1.3 Cơ chế vận hành.
Kết hợp giữa chế thị trường với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tại Hội nghị
Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008, Đảng ta khẳng định, nền kinh tế thị trường định
hướng hội chủ nghĩa Việt Nam nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị
trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩahội các yếu
tố bảo đảm tính định hướng hội chủ nghĩa. Đây cũng nền kinh tế tổ chức,
kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sự quản của Nhà
nước hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa vừa phát huy
những ưu thế của kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch, vừa loại bỏ những khuyết tật
của hai nền kinh tế đó, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - hội. Nhà nước quản bằng chính
sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng chế thị trường để giải phóng sức
sản xuất. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm định hướng
tạo môi trường pháp lý cho sự phát triển các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không phải thị trường điều
tiết hoàn toàn mà còn có sự điều chỉnh, quản lý của Nhà nước để đạt các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, khắc phục những bất cập, khuyết tật của cơ chế thị trường.
1.4 Phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như một công cụ,
phương tiện, một động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế vận hành của kinh tế
thị trường một chế mở, bị điều tiết bởi các quy luật kinh tế bản: giá trị, cạnh
tranh, cung cầu nên kinh tế thị trường tạo ra khả năng kết nối hình thành chuỗi giá trị
cho nền sản xuất toàn cầu.
Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhận định: “Nhận thức về
nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống
pháp luật, chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng
nền kinh tế thị trường hiện đại hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường các loại
thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực thế giới” [
10
].
“Thể chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện
10 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 59.
17
theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập” [ ]. Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với
11
yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất hội, thúc đẩy nền kinh tế
của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rệt. Nhờ
vậy, sau 35 năm đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, ý nghĩa
lịch sử, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - hội, trở thành nướcthu nhập
trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho
nền kinh tế.
Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu
nhập trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng
trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% [ ], thì giai đoạn 1991 - 1995, tăng
12
trưởng GDP bình quân đã đạt 8,2%/năm. Các giai đoạn sau đó đều mức tăng
trưởng khá cao, riêng giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8 [ ]. Liên tiếp
13
trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao
nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất [ ]. Đặc biệt, trong
14
năm 2020, trong khi phần lớn các nướcmức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái
suy thoái do tác động của đại dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng
2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5 năm (2016 - 2020) tăng trung bình 5,9%/năm,
thuộc nhóm nước tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực thế giới. Quy nền
kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD thì đến năm 2020 đã đạt
khoảng 343 tỷ USD [ ]. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh
15
thần, năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 3.500 USD. Các cân đối lớn
của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng, tiết kiê Zm - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao
đô Zng - viê Zc làm… tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh
tế vĩ mô. Tính theo chuẩn nghèo chung, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% năm 1990
xuống còn dưới 6% năm 2018 [ ]; hơn 45 triệu người thoát nghèo trong giai đoạn từ
16
năm 2002 đến năm 2018. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020
được xếp thứ 42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia cùng mức thu nhập [
17
].
Xếp hạng về phát triển bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49
năm 2020 [ ], cao hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
18
11 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 31.
12 Võ Hồng Phúc: “Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986 - 2005)”, in trong sách: Việt
Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 141, 143.
13 http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Kinh-te-Viet-Nam-20162019-va-dinh-huong-2020/385934.vgp
14 https://nhandan.com.vn/nhan-dinh/vi-the-va-co-do-kinh-te-viet-nam-631311/
15 “Kinh tế Việt Nam 2020: một năm tăng trưởng đầy bản lĩnh”, http:/ww.gso.gov.vn
16 Dẫn theo Ngân hàng thế giới tại Việt Nam: https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview
17 http://baochinhphu.vn/Khoa-hoc-Cong-nghe/Viet-Nam-giu-thu-hang-cao-ve-Chi-so-Doi-moi-sang-tao-toan-
cau/405951.vgp
18 http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Phat-trien-ben-vung-la-viec-phai-lam/416696.vgp
18
1.5 Hạn chế.
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận
hành của kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự
thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán những bất cập trong quá trình hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để
phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường hội chưa
được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm
năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động
thấp, khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí,
chưa công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo,
bất bình đẳng hội, tệ nạn hội chiều hướng gia tăng; đời sống vật
chất tinh thần của một bộ phân dân cư, nhất nông dân nông thôn,
vùng sâu, vùng xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng
trưởng chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần,
đạo đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của
chủ nghĩa vị kỷ, nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo
lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
1.6 Định hướng, giải pháp để phát triển.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ hiệu quả hình
tăng trưởng, cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền
tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây
dựng, hoàn thiện đồng bộ thế chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội
chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập” [ ]. “Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ,
19
chất lượng tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, chế, chính sách nhằm tạo
lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới
sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất
là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng
cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu hiệu”.
19 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr. 37, 43, 53-54, 128, 223.
19
Để hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, cần tập trung vào những nội dung sau:
- Thống nhất nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội”. Đó nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản của Nhà nước
pháp quyền hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm
định hướnghội chủ nghĩa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế
nhân một động lực quan trọng; kinh tế vốn đầu nước ngoài được
khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch kế hoạch phát
triển kinh tế - hội. Kinh tế nhà nước công cụ, lực lượng vật chất quan
trọng đế Nhà nước ổn định kinh tế mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc
đẩy phát triển kinh tế, hội, khắc phục các khuyết tật của chế thị trường.
Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển đất nước bản được phân bổ theo chế thị
trường.
- Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây
dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi
nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến
khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, hình kinh doanh mới.
Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển
kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy
quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân nâng cao
trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành
- “Phát triển đầy đủ đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất các thị
trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm đầy đủ quyền tự do,
an toàn trong hoạt động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các
nguồn lực theo nguyên tắc thị trường”. Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp
lý, thử nghiệm chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số,
kinh tế số, phát triển các hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo, cung cấp
dịch vụ công, quản bảo vệ môi trường... Nhà nước thực hiện tốt chức
năng xây dựng quản thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chế,
chính sách, phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài
20
| 1/23

Preview text:

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
Điểm: ………………………… KÝ TÊN 1 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………… 2 MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bắt đầu từ thời kỳ cổ đại (ở phương Đông lẫn phương Tây) đến thời kỳ cận đại ở
Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII, các nhà triết học đã đưa ra nhiều quan niệm, cách hiểu
khác nhau về phạm trù “vật chất”. Song, định nghĩa vật chất được V.I.Lênin đưa ra là
một định nghĩa hoàn chỉnh nhất, trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật
biện chứng. Định nghĩa đã khắc phục toàn bộ sai lầm của các nhà triết học duy tâm,
siêu hình khi bàn về vật chất, ở chỗ họ thường đồng nhất vật chất với dạng biểu hiện
cụ thể của vật chất là “vật thể”. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, việc nhận thức rõ
quan điểm của V.I.Lênin về vật chất là việc làm cần thiết, giúp chúng ta đấu tranh
chống lại những quan điểm sai trái phủ nhận, xuyên tạc quan điểm của V.I.Lênin về
vật chất nói riêng, bảo vệ quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung
góp phần vào nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong tình hình mới.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác những
khái niệm về vâ Zt chất, phương thức và hình thức tồn tại của vâ Zt chất sau đó liên hệ
thực tiễn đến đất nước Việt Nam ta. 3 NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KH+I QU+T CHUNG VỀ TRI.T HỌC M+C – LÊNIN VÀ C+C
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG THỨC, HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT
1.1 Bối cảnh cho sự ra đời định nghĩa Vật chất của V.I.Lênin.
Vật chất với tính cách là phạm trù triết học ra đời trong triết học Hy Lạp ở thời kỳ
cổ đại, chứng kiến cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa hai trường phái duy vật
và duy tâm xoay quanh vấn đề bản nguyên của thế giới với các đại biểu như: Heraclit,
Anaximen, Talet, Paton... Xung quanh khái niệm vật chất, trong lịch sử triết học đã
xuất hiện cuộc tranh luận rất gay gắt giữa hai đường lối “Democrit” và “Platon”, trung
tâm điển hình của cuộc tranh luận là vấn đề bản nguyên của thế giới, “thế giới bắt đầu
từ đâu và quay trở về đâu? Nhìn chung các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều đồng nhất
vật chất với một dạng cụ thể của vật chất (lửa, nước, không khí,...), nổi bật là học
thuyết nguyên tử của Democrit (nguyên tử nhỏ bé nhất không phân chia được), mãi
cho đến thời kỳ cận đại, các nhà triết học vẫn đinh ninh rằng như thế cho đến khi phát hiện ra electron.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX diễn ra cuộc khủng hoảng vật lý học, trước bối cảnh
đó, V.I.Lênin bắt đầu tìm hiểu các phát minh khoa học, nhất là trong lĩnh vực vật lý,
bản chất và ý nghĩa của nó đối với tiến bộ xã hội, cũng như những khó khăn nan giải
của vật lý học trong quá trình giải thích thế giới. Việc giải quyết khủng hoảng này,
được xem như một cuộc cách mạng, nó đã làm thay đổi những quan niệm về thế giới
vật chất? V.I.Lênin viết: “Thực chất của cuộc khủng hoảng của vật lý học hiện đại là ở
sự đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý cơ bản, ở sự gạt bỏ thực tại
khách quan ở bên ngoài ý thức, tức là ở sự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa
duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri. “Vật chất đã tiêu tan”, - người ta có thể dùng câu nói
đó để diễn đạt cái khó khăn cơ bản và điển hình đối với nhiều vấn đề riêng biệt, khó
khăn đã gây ra cuộc khủng hoảng ấy” [1].
Nguồn gốc sâu xa của cuộc khủng hoảng thế giới quan là ở cách lý giải vật chất, cách
đặt vấn đề về “viên gạch đầu tiên” của vũ trụ, về cái bản nguyên, và đồng nhất thế giới
1 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb tiến bộ Mát-xcơ-va, 1980. 4
vật chất với cái bản nguyên đại diện cho khoa học của mỗi thời đại tìm ra. Như vậy,
sai lầm chính của chủ nghĩa Makhơ, cũng như vật lý học mới, theo V.I.Lênin, là ở chỗ
không tính đến luận điểm của chủ nghĩa duy vật về tính chất cơ bản nhất của vật chất,
sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chính vì lẽ đó, để kết thúc cho việc tranh luận rất dài xoay quan vấn đề khủng hoảng
vật lý học với những người theo chủ nghĩa Makhơ, đã gợi ra vấn đề cực kỳ quan trọng
– xác lập một cách hiểu khác với trước đây về phạm trù “vật chất” để tránh những nan
giải và sự bế tắc trước những thay đổi trong khoa học về thực tại vật chất. Theo ông,
Phạm trù vật chất phải là phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà cho đến nay,
nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được”. Định nghĩa vật chất bằng cách đối lập nó
với ý thức, xác định nó “là cái mà khi tác động lên giác quan của chúng ta thì gây ra
cảm giác”. V.I.Lênin khẳng định vật chất không có nghĩa gì khác hơn là “thực tại
khách quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh”.
1.2 Các quan điểm về vật chất.
Phạm trù vật chất xuất hiện ngay từ khi triết học mới ra đời trong thời kỳ cổ đại,
dưới chế độ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên nội dung của phạm trù này không phải là bất
biến mà luôn luôn biến đổi và phát triển.
Khuynh hướng chung của các nhà triết học duy vật thời cổ đại là đi tìm một thực thể
ban đầu nào đó và coi nó là yếu tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng khác nhau của
thế giới, tất cả đều bắt nguồn từ đó và cuối cùng đều tan biến trong đó. Tức là họ
muốn tìm một thực thể chung, là cơ sở bất biến của toàn bộ tồn tại, là cái được bảo
toàn trong sự vật dù trạng thái và thuộc tính của sự vật có biến đổi và được gọi là vật
chất (tiếng Latin là materia). Trong lịch sử triết học cổ đại, các nhà triết học duy vật
cũng quan niệm vật chất rất khác nhau. Thales (624-547 trước Công nguyên) coi vật
chất là nước, Anaximenes (585-524 trước Công nguyên) coi vật chất là không khí,
Heraclitus (540-480 trước Công nguyên) coi vật chất là lửa, Democritus (460-370
trước Công nguyên) coi vật chất là các nguyên tử... Nói chung các nhà triết học cổ đại
quan niệm vật chất dưới dạng cảm tính và quy vật chất thành một thực thể cụ thể, cố 5
định. Mặc dù có những hạn chế về mặt lịch sử, song những quan niệm trên lại có ý
nghĩa tích cực trong việc đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm thời bấy giờ.
Đến thời kỳ cận đại, khoa học phát hiện ra sự tồn tại của nguyên tử, cho nên quan
niệm của thuyết nguyên tử về cấu tạo của vật chất ngày càng được khẳng định. Trong
giai đoạn thế kỷ 17 - thế kỷ 18, mặc dù đã có những bước phát triển, đã xuất hiện
những tư tưởng biện chứng nhất định trong quan niệm về vật chất, song quan niệm đó
ở các nhà triết học duy vật thời kỳ này về cơ bản vẫn mang tính chất cơ giới, đó là
khuynh hướng đồng nhất vật chất với nguyên tử hoặc với khối lượng. Quan niệm này
chịu ảnh hưởng khá mạnh bởi cơ học cổ điển của Newton, một lĩnh vực của vật lý
được coi là phát triển hoàn thiện nhất thời bấy giờ. Cơ học cổ điển coi khối lượng của
vật thể là đặc trưng cơ bản và bất biến của vật chất; thế giới bao gồm những vật thể
lớn nhỏ khác nhau, cái nhỏ nhất không thể phân chia nhỏ hơn là các nguyên tử; đặc
trưng cơ bản của mọi vật thể là khối lượng; tính tất yếu khách quan trong hiện thực là
tính tất yếu khách quan được thể hiện qua các định luật cơ học của Newton; vật chất,
vận động, không gian và thời gian là những thực thể khác nhau cùng tồn tại chứ không
có quan hệ ràng buộc nội tại với nhau. Quan niệm này tồn tại và được các nhà triết
học duy vật cũng như các nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng sử dụng cho đến tận cuối thế kỷ 19.
Karl Marx và Friedrich Engels nêu lên sự đối lập giữa vật chất với ý thức, về tính
thống nhất vật chất của thế giới, về tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại
của vật chất dưới các dạng cụ thể. Theo Engels thì cần phân biệt các dạng tồn tại
khách quan của vật chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm
trù triết học không có tồn tại cảm tính khác với các đối tượng vật chất cụ thể. Theo
ông "Những từ như vật chất và vận động chỉ là sự tóm tắt trong đó chúng ta tập hợp
theo những thuộc tính của chúng, rất nhiều sự vật khác nhau có thể cảm biết được bằng giác quan" [ ]. Engels 2
đặc biệt nhấn mạnh phê phán quan điểm đem quy vật chất
về nguyên tử, về những hạt nhỏ đồng nhất hoàn toàn giống nhau về chất, chỉ khác
nhau về lượng, ông coi đó là siêu hình, mang tính cơ giới, qua đó ông nêu lên tính vô
hạn và vô tận, tính không thể sáng tạo và không thể tiêu diệt được của vật chất và các
2 P. Ăng- ghen: Biện chứng của tự nhiên, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1971, tr. 36. 6
hình thức tồn tại của nó là không gian và thời gian.[ ]
3 Ở đây cần phân biệt quan niệm
vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với quan niệm của vật lý học và các
khoa học khác về vật chất. Lenin định nghĩa vật chất:
"...vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác" [4].
1.3 Phương thức tồn tại của vật chất.
Ăngghen định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, – tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hưữ của vật chất – thì bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị
trí đơn giản cho đến tư duy [5]”
Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong
không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông
qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình;
vận động của vật chất là tự thân vận động; và, sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất.
Dựa trên thành tựu khoa học trong thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động
thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận
động sinh học và vận động xã hội.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương ứng
với trình dộ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song
chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình
thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong
nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể
3 Triết học Mác – Lênin, chương trình cao cấp, tập II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1994, tr. 6.
4 V. I. Lênin, "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán", tập I, tr. 14.
5 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, năm 1994, tập XX, tr. 519. 7
có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng
bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc
phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác
nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh
hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình
thức vận động khác trong quá trình nhận thức.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của
vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều
này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng;
song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im,
cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định
chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình
thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động. Đứng im là
tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời
gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im
vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn
định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
1.4 Hình thức thức tồn tại của vật chất.
- Khái niệm không gian, thời gian
+ Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại,
trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau.
+ Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự
kế tiếp của các quá trình. 8
+ Các hình thức vận động phải tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất;
các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh, nghĩa là hình thức vận động cao nảy
sinh trên cơ sở của những hình thức vận động thấp và bao hàm hình thức vận động
thấp; hình thức vận động cao khác về chất so với hình thức vận động thấp và không
thể quy về hình thức vận động thấp.
- Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động
+ Không có không gian và thời gian thuần tuý tách rời vật chất vận động. V.I.Lênin
viết: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận
động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian” [6].
+ Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật
chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau.
+ Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà lại không có một quá
trình diễn biến của nó.
+ Cũng không thể có sự vật, hiện tượng nào có thời gian tồn tại mà lại không có quảng
tính, kết cấu nhất định. Tính chất của không gian và sự biến đổi của nó bao giờ cũng
gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại. Do đó, không gian và
thời gian, về thực chất là một thể thống nhất không - thời gian.
+ Vật chất có ba chiều không gian (chiều dài, chiều rộng, chiều cao) và một chiều thời
gian (từ quá khứ tới tương lai).
+ Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi lẫn tính chất.
1.5 Tính thống nhất vật chất của thế giới.
6 Sách giáo khoa về triết học Mác – Lênin, tập XII, tr.209-210. 9
Thế giới vật chất thể hiện hết sức phong phú đa dạng, song những dạng biểu hiện
của thế giới vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới và thống nhất với nhau.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:
– Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước, tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
– Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không mất đi.
– Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở
chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn
gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những qui luật khách
quan, phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài
những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên
nhân và kết quả của nhau.
Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút ra từ
việc khái quát những thành tựu của khoa học, được khoa học và cuộc sống hiện thực
của con người kiểm nghiệm. Nó không chỉ định hướng cho con người giải thích về
tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho con người tiếp tục nhận thức về tính
đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp qui luật.Quan điểm Marxist cho rằng chỉ
có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại
khách quan có trước và độc lập với ý thức con người.
1.6 Nội dung quan điểm của V.I.Lênin về vật chất.
Khắc phục những sai lầm được phân tích ở trên, V.I. Lênin nhận thấy phần lớn các
nhà duy vật đồng nhất vật chất với vật thể, tức những biểu hiện cụ thể của tồn tại vật
chất, mà không đạt tới cách hiểu hệ thống và mang tính khái quát cao về vật chất. Kết
quả là họ luôn bị rơi vào trạng thái hụt hẫng mỗi khi khoa học tự nhiên khám phá ra
những vấn đề mới của thế giới. V.I.Lênin viết: “Vật chất là một phạm trù triết học,
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, 10
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác [ ]”. 7
Ở đây cần thấy rằng,
phạm trù vật chất là phạm trù trung tâm trong lý luận nhận thức (hiểu theo nghĩa
rộng). Thế giới vật chất là vô hạn bao gồm các quá trình khác nhau của vật chất,
nhưng các quá trình là những dạng biểu hiện khác nhau của vật chất. Do đó không
nên lẫn lộn học thuyết khoa học cụ thể về cấu tạo vật chất, các thuộc tính, các hình
thức của nó với quan niệm triết học về vật chất, bởi lẽ đây là khái niệm chung nhất,
không phân tích chi tiết, mang tính chuyên biệt như các khoa học cụ thể khác.
Ở định nghĩa này, Lênin chỉ rõ, khi vật chất đối lập với ý thức trong nhận thức luận,
cái quan trọng để nhận biết nó chính là thuộc tính khách quan. Khách quan, theo ông,
đó là “cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người” – đó là
quan điểm của khoa học tự nhiên. Trong đời sống xã hội, “khách quan không phải
theo ý nghĩa là một xã hội những sinh vật có ý thức, những con người, có thể tồn tại
và phát triển không phụ thuộc vào sự tồn tại của những sinh vật có ý thức(...), mà
khách quan theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con
người”. “Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có ý nghĩa gì khác hơn:
thực tại khách quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh”.
 Từ định nghĩa trên, có thể đề cập mấy đặc trưng sau:
Đặc trưng thứ nhất, vật chất là một phạm trù triết học. Đặc trưng rất quan trọng đối
với việc giải quyết cho thắc mắc, bất cập trong bài viết này. Bởi lẽ, nếu không hiểu
thấu được ý này sẽ không triển khai được nó trong thực tiễn.
Trước tiên, cần hiểu đây là “phạm trù” (là những khái niệm chung nhất, rộng nhất,
phán ánh những mặt, những mối liên hệ bản chất của các sự vật trọng tự nhiên, xã hội
và tư duy). Là một khái niệm rộng nhất trong những khái niệm rộng của các khoa học
cụ thể. Chẳng hạn như: nó rộng hơn cả khái niệm toán học bao gồm nhiều khái niệm
như tích phân, đạo hàm, đoạn thẳng, hình tam giác...Vì thế nên, không nên đánh đồng
nó với một kết cấu vật chất của khoa học cụ thể. Theo đó, vật chất với tư cách là một
7 V.I. Lênin. Toàn tập, tập XVIII. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 151. 11
phạm trù của triết học sẽ khác với một dạng vật chất thông thường tồn tại trong xã hội,
tự nhiên hay tư duy. Đây là vật chất nói chung, trừu tượng mang tính khái quát cao.
Chính theo V.I.Lênin, “rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà cho đến nay, nhận thức luận
vẫn chưa vượt qua được”. Cái mà chúng ta thấy hằng ngày, cảm tính hàng ngày gọi là “vật thể” mà thôi.
Đặc trưng thứ hai, thừa nhận rằng có một thực tại khách quan, được đem đến cho
chúng ta trong cảm giác; không có và không thể có cái nào khác ngoài thực tại khách
quan ấy. Tức tồn tại độc lập, tương đối với ý thức con người, đối lập với chủ quan,
chúng ta có thể nhận thức được chúng thông qua sự phản ánh “chép lại, chụp lại” một
cách năng động, sáng tạo của ý thức thông qua hệ thống các giác quan của con người.
Tức những gì tồn tại một cách chủ quan, bên ngoài ý thức của con người, con người
không thể nhận thức được, thì đó không được gọi là vật chất. Mặc khác, phải được
thông qua sự phản ánh năng động sáng tạo của hệ thống các giác quan của con người
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp mới tạo ra quá trình nhận thức đúng đắn về sự vật và hiện tượng.
Đặc trưng thứ ba, khẳng định rằng, nói đến vật chất là nói đến thực tại tồn tại bên
ngoài chúng ta và không lệ thuộc vào chúng ta. Chỉ ra rằng vật chất, được đem đến
cho chúng ta trong cảm giác, các cảm giác là nguồn gốc của nhận thức.
Đặc trưng thứ tư, qua cách hiểu về vật chất, V.I.Lênin đến kết luận về tính có thể nhận
thức được của thế giới, qua đó chống lại thuyết bất khả tri. Điều cần lưu ý ở đây,
không phải mọi hiện tượng vật chất tác động lên giác quan của con người đều được
con người nhận biết một cách trực tiếp. Trong tự nhiên có khá nhiều quá trình vật chất
mà con người chỉ nhận biết được thông qua các công cụ và các phương pháp đặc thù của các khoa học.
Như vậy, Định nghĩa vật chất đơn giản là sự thể hiện việc giải quyết trên cơ sở duy vật
vấn đề cơ bản của triết học, và rằng sẽ vô nghĩa nếu đòi hỏi từ các nhà lý luận “một sự
định nghĩa vật chất mà không quy về việc lặp lại cái có trước – cái có sau”. Để khắc
họa thêm định nghĩa vật chất, trong tác phẩm, Lênin còn đề cập đến vai trò của vật 12
chất đối với ý thức, cũng như tính độc lập tương đối của ý thức đối với vật chất, thể
hiện tính biện chứng sâu sắc. Cũng theo Lênin, vật chất phải được tồn tại trong một
khoảng không gian nhất định và một khoảng thời gian xác định. Khi bác bỏ những
quan điểm sai lầm và vô lý của phái Makhơ – không gian và thời gian chỉ là hình thức
trực quan của con người, sự của cảm thức không gian – thời gian xét từ góc độ thời
tính của sự tồn tại của con người, “không gian và thời gian là những hệ thống...trật tự
của các chuổi cảm giác”, “theo Makhơ thì không phải con người với những cảm giác
của mình, tồn tại trong không gian và thời gian, mà chính không gian và thời gian tồn
tại trong con người, lệ thuộc vào con người và do con người sinh ra”. Ở đây, Makhơ
đã rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, duy tâm, khái niệm không gian được rút ra từ kinh
nghiệm chứ không phản ánh đúng thực tại khách quan, chính thực tại có mặt hàng
triệu năm trước khi có con người. V.I.Lênin nhấn mạnh tính chất của không gian có
tính ba chiều, ông viết: “khoa học tự nhiên không nghi ngờ gì rằng vật chất mà nó
nghiên cứu chỉ tồn tại trong không gian ba chiều thôi, và do đó, những phần tử của vật
chất đó dù nhỏ bé đến mức ta không thể nhìn thấy được, cũng vẫn tồn tại một cách tất
yếu trong cái không gian ba chiều đó [ ]”. Thuyết tương đối thế kỷ XX 8 đã chứng minh
cho tính chất lệ thuộc của không gian và thời gian vào vật chất đang vận động và mối
liên hệ giữa chúng, thời gian không tách khỏi không gian, thể hiện tính vô tận, vĩnh
viễn bao gồm tính gián đoạn và liên tục.
1.6 Ý nghĩa phương pháp luận. -
Phát hiện vật chất có trước và ý thức có sau.
Có thể thấy với các vận động và phát triển của ý thức mới thấy được vật chất dang tồn
tại. Bởi vậy mà các nhà duy tâm cho rằng ý thức có trước. Nhưng thực tế là từ khi
nhận thức được thì họ mới thấy được các tồn tại của vật chất. Bản chất phải là vật chất
có trước khi hình thành ý thức.
Vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức con người. Tuy nhiên vẫn
mang đến các tính chất tồn tại song song và tác động lẫn nhau. Khi con người có nhu
cầu ăn, ở, mặc,… con người đã dùng ý thức để sử dụng vật chất. Từ đó mà vật chất
8 V.I.Lênin, Toàn tập, tập XVIII, Nxb tiến bộ Mát-xcơ-va, 1980. 13
chính là nguồn gốc sâu xa dẫn đến các phát triển nền tảng của ý thức. Phải có các cơ
sở đó mới có ý thức của con người vận động.
Ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Với cơ sở và nền tảng từ
những cảm giác đối với vật chất. Con người có khả năng nhận thức thế giới. Từ đó mà
phát triển nhận thức cũng như mang đến các ứng dụng đối với vật chất sẵn có. Dần
dần họ sử dụng vật chất cho các nhu cầu cao hơn của mình. -
Bác bỏ quan điểm duy tâm.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất với
sự phát hiện vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc của ý thức là
nguồn gốc khách quan của cảm giác. Khi mà quan điểm duy tâm mang đến các khẳng
định cho sự xuất hiện và tác động của ý thức đến vật chất. Tất cả là sai về mặt bản
chất khi giải thích đối với nguồn gốc theo các nghiên cứu khoa học. Với các cơ sở như
thế nào, ý thức phải dựa trên nền tảng của vật chất làm cơ sở. Từ đó mà hình thành các
nhu cầu cao hơn đối với tồn tại của vật chất.
Với định nghĩa vật chất, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó là
vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là con
người có thể nhận thức được thế giới khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại, phản
ánh của con người đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã tạo
cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về xã hội. -
Khắc phục hạn chế trong quan điểm đưa ra của các nhà khoa học trước đó.
Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất
của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Khi mà các nội dung trong chủ nghĩa duy vật cũng
chưa đưa ra nguồn gốc, tính chất và dạng tồn tại của vật chất. Cùng với sự tồn tại độc
lập và có trước của vật chất so với ý thức.
Bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại khách
quan. Đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật chất
với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành. Từ đó khắc phục được hạn 14
chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó. Cung cấp căn cứ khoa học để
xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất. - Tính đúng đắn.
Bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy vật (CNDV) tầm thường về vật chất, coi ý thức
là một dạng vật chất. Bởi về bản chất, ý thức có các tồn tại độc lập, với tính chất riêng.
Không thỏa mãn cho khái niệm vật chất được Lênin kết luận.
Định nghĩa này đã liên kết CNDV biện chứng với CNDV lịch sử thành một thể thống
nhất. Khẳng định đối với dạng tồn tại và vận động của vật chất. Vật chất trong tự
nhiên, vật chất trong xã hội đều là những dạng cụ thể của vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan. 1.7 Kết luận.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin ra đời chấm dứt quá trình khủng hoảng của vật lý
học thế kỷ XX, có tác dụng định hướng đối với các nhà khoa học tự nhiên trên cơ sở
nhận thức luận duy vật biện chứng. Với định nghĩa vật chất, một lần nữa, Lênin đã
khắc phục toàn bộ sai lầm của các nhà triết học trước Mác, siêu hình lẫn duy tâm về
vật chất và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Xoay quanh vấn đề vật chất, Lênin đã
thể hiện tinh thần mácxít khi đã bày tỏ những quan điểm chính xác của mình để đấu
tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm vật lý học
đứng đầu là chủ nghĩa Makhơ, góp phần bảo vệ, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác.
Tóm lại, nghiên cứu định nghĩa vật chất của V.I.Lênin trong tác phẩm “chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, giúp chúng ta khắc sâu và sáng tỏ hơn trong
việc nghiên cứu học tập và giảng dạy triết học hiện nay, trong bối cảnh thế giới và
trong nước có những diễn biến mới, đối với việc tiếp tục nghiên cứu bổ sung lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin sao cho phù hợp với thực tế Việt Nam. 15
CHƯƠNG II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NỀN KINH
T. THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
TCCS - Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự đột phá trong tư duy và
thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là vấn đề lý
luận và thực tiễn mới mẻ và hết sức phức tạp, gắn bó giữa việc nhận thức quy luật
khách quan với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng, Nhà nước và nhân dân
Việt Nam; là kết quả một quá trình tìm tòi, thể nghiệm lâu dài, từ chưa đầy đủ đến
ngày càng đầy đủ, từ chưa sâu sắc đến ngày càng sâu sắc hơn.

1.1 Vấn đề lý luận.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình tổng quát, là đường lối chiến lược
nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến nay, đặc trưng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày càng sâu sắc. 1.2 Mục tiêu.
Về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. “Mục đích của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”[9].
1.2 Các đặc trưng cơ bản.
- Đặc trưng về sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở
hữu về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể). Từ khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận
trên thực tế có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu và tư hữu.
- Đặc trưng về cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ
phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
- Đặc trưng về phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các
nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà
nước là chủ thể quyết định phân phối chuyển dần sang xác định thị trường
quyết định phân phối lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối lại.
9 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 25. 16
1.3 Cơ chế vận hành.
Kết hợp giữa cơ chế thị trường với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tại Hội nghị
Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008, Đảng ta khẳng định, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị
trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu
tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là nền kinh tế có tổ chức, có
kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phát huy
những ưu thế của kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch, vừa loại bỏ những khuyết tật
của hai nền kinh tế đó, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước quản lý bằng chính
sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức
sản xuất. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm định hướng và
tạo môi trường pháp lý cho sự phát triển các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không phải thị trường điều
tiết hoàn toàn mà còn có sự điều chỉnh, quản lý của Nhà nước để đạt các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, khắc phục những bất cập, khuyết tật của cơ chế thị trường.
1.4 Phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như một công cụ,
phương tiện, một động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế vận hành của kinh tế
thị trường là một cơ chế mở, bị điều tiết bởi các quy luật kinh tế cơ bản: giá trị, cạnh
tranh, cung cầu nên kinh tế thị trường tạo ra khả năng kết nối hình thành chuỗi giá trị
cho nền sản xuất toàn cầu.
Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhận định: “Nhận thức về
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng
nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại
thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới” [10].
“Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện
10 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 59. 17
theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập” [ ]. Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với 11
yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế
của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhờ
vậy, sau 35 năm đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có thu nhập
trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế.
Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu
nhập trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng
trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% [ ], 12
thì giai đoạn 1991 - 1995, tăng
trưởng GDP bình quân đã đạt 8,2%/năm. Các giai đoạn sau đó đều có mức tăng
trưởng khá cao, riêng giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8 [ ]. 13 Liên tiếp
trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao
nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất [ ]. 14 Đặc biệt, trong
năm 2020, trong khi phần lớn các nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái
suy thoái do tác động của đại dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng
2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5 năm (2016 - 2020) tăng trung bình 5,9%/năm,
thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới. Quy mô nền
kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 343 tỷ USD [ ]. 15
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh
thần, năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 3.500 USD. Các cân đối lớn
của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng, tiết kiê Zm - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao
đô Zng - viê Zc làm… tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh
tế vĩ mô. Tính theo chuẩn nghèo chung, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% năm 1990
xuống còn dưới 6% năm 2018 [ ];
16 hơn 45 triệu người thoát nghèo trong giai đoạn từ
năm 2002 đến năm 2018. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020
được xếp thứ 42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập [17].
Xếp hạng về phát triển bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49
năm 2020 [ ], cao hơn nhiều so với các nước có 18
cùng trình độ phát triển kinh tế.
11 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 31.
12 Võ Hồng Phúc: “Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986 - 2005)”, in trong sách: Việt
Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 141, 143.
13 http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Kinh-te-Viet-Nam-20162019-va-dinh-huong-2020/385934.vgp
14 https://nhandan.com.vn/nhan-dinh/vi-the-va-co-do-kinh-te-viet-nam-631311/
15 “Kinh tế Việt Nam 2020: một năm tăng trưởng đầy bản lĩnh”, http:/ww.gso.gov.vn
16 Dẫn theo Ngân hàng thế giới tại Việt Nam: https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview
17 http://baochinhphu.vn/Khoa-hoc-Cong-nghe/Viet-Nam-giu-thu-hang-cao-ve-Chi-so-Doi-moi-sang-tao-toan- cau/405951.vgp
18 http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Phat-trien-ben-vung-la-viec-phai-lam/416696.vgp 18 1.5 Hạn chế.
• Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận
hành của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự
thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán và những bất cập trong quá trình hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để
phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa
được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
• Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm
năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động
thấp, khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
• Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí,
chưa công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo,
bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật
chất và tinh thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn,
vùng sâu, vùng xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng
trưởng chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần,
đạo đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của
chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo
lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
1.6 Định hướng, giải pháp để phát triển.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền
tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây
dựng, hoàn thiện đồng bộ thế chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập” [ ].
19 “Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có
chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo
lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới
sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất
là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng
cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu hiệu”.
19 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr. 37, 43, 53-54, 128, 223. 19
Để hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế và phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, cần tập trung vào những nội dung sau:

- Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội”. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được
khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan
trọng đế Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc
đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường.
Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường.
- Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây
dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi
nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến
khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới.
Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển
kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy
quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao
trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành
- “Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là các thị
trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm đầy đủ quyền tự do,
an toàn trong hoạt động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các
nguồn lực theo nguyên tắc thị trường”. Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp
lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số,
kinh tế số, phát triển các mô hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo, cung cấp
dịch vụ công, quản lý và bảo vệ môi trường... Nhà nước thực hiện tốt chức
năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế,
chính sách, phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài 20