II. Nhận xét về quá trình CNH, HĐH ớc ta
Trong nhiều thập niên qua, công nghiệp hóa, hiện đại hóa xu hướng phát triển chung
của nhiều nước trên thế giới. Đối với Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới, việc thực hiện các
chủ trương, đường lối về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan trọng trong quá trình
phát triển, đưa đất nước thoát nghèo lạc hậu, nâng cao mức sống của người dân. Đánh giá
chung về thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam thể khái quát trên một số nét
như sau:
1. Nhận xét về mặt thành tựu
Về bản, từ năm 1991 đến nay, Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân
khá. Trong đó, giai đoạn 2006 - 2010 đạt bình quân 6,32%/năm, giai đoạn 2011 2015 bình
quân khoảng 5,82%/năm, giai đoạn 2015-2019 đạt bình quân 6,64%/năm.
cấu các ngành kinh tế đã sự dịch chuyển tích cực theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Trong cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất của công nghiệp khai khoáng giảm
dần, trong khi tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến tăng. Các ngành dịch vụ phát triển đa
dạng, từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất đời sống. Trong đó, các ngành dịch vụ
gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa như dịch vụ tài chính, ngân hàng, vấn pháp lý, bưu
chính viễn thông... phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP.
cấu lao động đã sự chuyển đổi tích cực.
Gắn liền với quá trình chuyển dịch cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu CNH, HĐH.
Tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh còn 38% năm 2019, tỷ trọng lao động
ngành công nghiệp - xây dựng dịch vụ tăng liên tục.
Hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh.
Việt Nam đã tham gia hội nhập trên tất cả các cấp độ, từng bước tham gia vào mạng sản xuất
chuỗi giá trị cung ứng, đưa hoạt động của doanh nghiệp nền kinh tế vào môi trường cạnh
tranh toàn cầu. Xuất khẩu tăng nhanh động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. cấu
hàng xuất khẩu đã sự chuyển dịch theo hướng tăng sản phẩm chế biến, nguyên vật liệu, linh
kiện phụ tùng cho sản xuất, giảm tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng thô tài nguyên. Trong khi
đó, cấu hàng nhập khẩu chuyển dịch theo hướng ưu tiên phục vụ sản xuất để xuất khẩu đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ công bằng hội.
Cùng với thúc đẩy tăng trưởng, Việt Nam cũng đã giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ công bằng hội. Công tác giải
quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo vượt mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. GDP bình quân đầu
người tăng mạnh, từ 113 USD năm 1991 lên 1.273 USD năm 2010 đến năm 2019 đạt khoảng
2.786 USD. Người dân cũng đã điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với các dịch vụ
công bản, trong đó đáng kể dịch vụ y tế, giáo dục. Tỷ lệ hộ nghèo giảm rệt qua các năm,
kể cả khu vực nông thôn thành thị. Tỷ lệ hộ nghèo tính theo chuẩn nghèo năm 2019 đã giảm
còn dưới 4%.
2. Nhận xét về mặt còn tồn tại, hạn chế
Kinh tế phát triển chưa bền vững.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp so với tiềm năng thấp hơn nhiều nước trong khu vực thời
kỳ đầu công nghiệp hóa. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào các ngành công
nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn lao động. Vai trò của khoa học
công nghệ, của tính sáng tạo trong tăng trưởng kinh tế còn thấp. Yêu cầu về thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng rút ngắn đứng trước nhiều thách thức. Kể từ khi bắt đầu
thực hiện công nghiệp hóa, tốc độ tăng trưởng bình quân trong 25 năm sau đó của Hàn Quốc
7,79% (giai đoạn 1961 - 1985), của Thái Lan 7,11% (giai đoạn 1961 - 1985), của Ma-lai-xi-a
7,66% (giai đoạn 1961 - 1985) của Trung Quốc 9,63% (1979 - 2003). Trong khi đó, tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam kể từ khi thực hiện đổi mới đến nay chỉ khoảng
6,5%:
Nguy tụt hậu so với các nước trong khu vực đang hiện hữu.
Mặc đã đạt được các kết quả tích cực về phát triển kinh tế, song đến nay, thu nhập bình
quân đầu người của Việt Nam vẫn còn thấp, chênh lệch khá lớn so c nước trong khu vực. GDP
bình quân đầu người của Thái Lan năm 1996 3.026 USD thì đến năm 2014 5.550 USD
của Trung Quốc năm 1996 728 USD thì đến năm 2014 7.572 USD, trong khi con số tương
ứng của Việt Nam chỉ tăng từ mức 337 USD lên 2.072 USD. GDP bình quân đầu người của Việt
Nam năm 2014 chỉ ngang bằng mức GDP bình quân đầu người của Trung Quốc năm 2006, In-
đô-nê-xi-a năm 2007, Thái Lan năm 1993. Chuyển dịch cấu kinh tế bao gồm cả cấu ngành,
cấu lao động đã“chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm sự điều chỉnh phù hợp.
Các ngành dịch vụ thâm dụng tri thức, khoa học công nghệ phát triển còn chậm.
Nếu như trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cấu kinh tế tốc
độ chuyển dịch khá, cấu ngành nông nghiệp trong GDP giảm mạnh, từ mức 38% năm 1986
xuống 27% năm 1995 19,3% năm 2005, thì từ năm 2006 đến nay, tỷ trọng ngành nông nghiệp
trong GDP giảm không đáng kể. Năm 2014, ngành nông nghiệp vẫn chiếm hơn 18% GDP, cao
hơn đáng kể so với tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP của các nước xung quanh (tỷ trọng
ngành nông nghiệp trong GDP của Trung Quốc 10,1%, của In-đô-nê-xi-a 14,4%, của Ma-
lai-xi-a 10,1% của Thái Lan 12,3%). vậy, năm 2019, tỷ trọng ngành nông nghiệp
cũng đã giảm xuống còn 13,69% trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp dịch vụ không quá
nhiều sự thay đổi.
Sự hợp tác, liên kết trong phát triển công nghiệp còn yếu, CNHT phát triển còn chậm,
sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên, phụ liệu…
Sức cạnh tranh nền kinh tế còn thấp, năng suất lao động khoảng cách lớn so với
nhiều nước chậm được cải thiện.
Theo số liệu từ Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2018 - 2019 của Diễn đàn Kinh tế Thế
giới, nền kinh tế Việt Nam đứng thứ 67 trong số 148 quốc gia trong bảng xếp hạng, ng 10 bậc
so với thứ hạng 77 trong năm 2012 - 2013. Việt Nam luôn nằm trong nhóm các quốc gia gần
thuộc nửa cuối bảng xếp hạng, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực Đông Nam Á (Ma-
lai-xi-a đứng thứ 27, Thái Lan đứng thứ 40, In-đô-nê-xi-a đứng thứ 50, Phi-líp-pin đứng thứ 64)
còn một khoảng cách rất xa so khu vực Đông Á (Hàn Quốc, Nhật Bản).
Mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn
rất hạn chế.
Việt Nam đã thực hiện cải cách mở cửa trong gần 30 năm, xuất khẩu liên tục được mở
rộng nhưng mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn
rất hạn chế. Hàm lượng GTGT của xuất khẩu còn thấp. Các mặt hàng lợi thế so sánh cao vẫn
thuộc các nhóm sử dụng nhiều nguyên liệu, tài nguyên lao động rẻ như nhóm hàng công
nghiệp nhẹ (da giầy, thủ công mỹ nghệ…), nhóm nông sản, thủy sản.
KẾT LUẬN
Sau hơn 30 năm đổi mới thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đã
thu được nhiều thành tựu to lớn, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá,
thúc đẩy công tác xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, quá
trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua cũng đang bộc lộ những hạn chế nhất
định như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, cấu kinh tế chuyển dịch
chậm, năng lực cạnh tranh so với các nước trong khu vực còn thấp, chất lượng nhân lực chưa
cao, hệ thống kết cấu hạ tầng còn chậm phát triển.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan rộng ra toàn cầu như hiện nay, Việt
Nam muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải thực hiện những giải
pháp mang tính đồng bộ, phải quyết liệt chuyển đổi hình kinh tế, nâng cao hiệu quả huy động
sử dụng vốn; chú trọng quá trình tái cấu nền kinh tế, góp phần phát huy khả năng cạnh
tranh cấp độ quốc gia, địa phương, ngành, sản phẩm. Bên cạnh đó, cần chú ý nâng cao vai trò
định hướng của Nhà nước trong đầu phát triển kinh tế - hội gắn với thu hút đầu của khu
vực nhân; tạo các chế tài chính, hình thành các chính sách phù hợp khuyến khích đầu tư.
Chỉ khi thực hiện được cái giải pháp một cách hợp lý, đồng bộ hiệu quả thì quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa mới càng được đẩy mạnh phát triển, đóng góp quan trọng cho việc xây
dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác Lênin.
2. Số liệu từ Tổng cục Thống kê, Viện Chiến lược chính sách tài chính,…
3. Wikipedia.
4. Thông tin từ website Bộ Công Thương Việt Nam.

Preview text:

II.
Nhận xét về quá trình CNH, HĐH ở nước ta
Trong nhiều thập niên qua, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển chung
của nhiều nước trên thế giới. Đối với Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới, việc thực hiện các
chủ trương, đường lối về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan trọng trong quá trình
phát triển, đưa đất nước thoát nghèo và lạc hậu, nâng cao mức sống của người dân. Đánh giá
chung về thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam có thể khái quát trên một số nét như sau:
1. Nhận xét về mặt thành tựu
Duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá.
Về cơ bản, từ năm 1991 đến nay, Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân
khá. Trong đó, giai đoạn 2006 - 2010 đạt bình quân 6,32%/năm, giai đoạn 2011 – 2015 bình
quân khoảng 5,82%/năm, giai đoạn 2015-2019 đạt bình quân 6,64%/năm. 
Cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất của công nghiệp khai khoáng giảm
dần, trong khi tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến tăng. Các ngành dịch vụ phát triển đa
dạng, từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Trong đó, các ngành dịch vụ
gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa như dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý, bưu
chính viễn thông... phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP. 
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực.
Gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu CNH, HĐH.
Tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh còn 38% năm 2019, tỷ trọng lao động
ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng liên tục. 
Hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh.
Việt Nam đã tham gia hội nhập trên tất cả các cấp độ, từng bước tham gia vào mạng sản xuất
và chuỗi giá trị cung ứng, đưa hoạt động của doanh nghiệp và nền kinh tế vào môi trường cạnh
tranh toàn cầu. Xuất khẩu tăng nhanh và là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu
hàng xuất khẩu đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng sản phẩm chế biến, nguyên vật liệu, linh
kiện và phụ tùng cho sản xuất, giảm tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng thô và tài nguyên. Trong khi
đó, cơ cấu hàng nhập khẩu chuyển dịch theo hướng ưu tiên phục vụ sản xuất để xuất khẩu và đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. 
Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Cùng với thúc đẩy tăng trưởng, Việt Nam cũng đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Công tác giải
quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo vượt mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. GDP bình quân đầu
người tăng mạnh, từ 113 USD năm 1991 lên 1.273 USD năm 2010 và đến năm 2019 đạt khoảng
2.786 USD. Người dân cũng đã có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với các dịch vụ
công cơ bản, trong đó đáng kể là dịch vụ y tế, giáo dục. Tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt qua các năm,
kể cả khu vực nông thôn và thành thị. Tỷ lệ hộ nghèo tính theo chuẩn nghèo năm 2019 đã giảm còn dưới 4%.
2. Nhận xét về mặt còn tồn tại, hạn chế
Kinh tế phát triển chưa bền vững.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp so với tiềm năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực thời
kỳ đầu công nghiệp hóa. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào các ngành công
nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Vai trò của khoa học
– công nghệ, của tính sáng tạo trong tăng trưởng kinh tế còn thấp. Yêu cầu về thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng rút ngắn đứng trước nhiều thách thức. Kể từ khi bắt đầu
thực hiện công nghiệp hóa, tốc độ tăng trưởng bình quân trong 25 năm sau đó của Hàn Quốc là
7,79% (giai đoạn 1961 - 1985), của Thái Lan là 7,11% (giai đoạn 1961 - 1985), của Ma-lai-xi-a
là 7,66% (giai đoạn 1961 - 1985) và của Trung Quốc là 9,63% (1979 - 2003). Trong khi đó, tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam kể từ khi thực hiện đổi mới đến nay chỉ khoảng 6,5%: 
Nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực đang hiện hữu.
Mặc dù đã đạt được các kết quả tích cực về phát triển kinh tế, song đến nay, thu nhập bình
quân đầu người của Việt Nam vẫn còn thấp, chênh lệch khá lớn so các nước trong khu vực. GDP
bình quân đầu người của Thái Lan năm 1996 là 3.026 USD thì đến năm 2014 là 5.550 USD và
của Trung Quốc năm 1996 là 728 USD thì đến năm 2014 là 7.572 USD, trong khi con số tương
ứng của Việt Nam chỉ tăng từ mức 337 USD lên 2.072 USD. GDP bình quân đầu người của Việt
Nam năm 2014 chỉ ngang bằng mức GDP bình quân đầu người của Trung Quốc năm 2006, In-
đô-nê-xi-a năm 2007, Thái Lan năm 1993. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành,
cơ cấu lao động đã“chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có sự điều chỉnh phù hợp. 
Các ngành dịch vụ thâm dụng tri thức, khoa học công nghệ phát triển còn chậm.
Nếu như trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cơ cấu kinh tế có tốc
độ chuyển dịch khá, cơ cấu ngành nông nghiệp trong GDP giảm mạnh, từ mức 38% năm 1986
xuống 27% năm 1995 và 19,3% năm 2005, thì từ năm 2006 đến nay, tỷ trọng ngành nông nghiệp
trong GDP giảm không đáng kể. Năm 2014, ngành nông nghiệp vẫn chiếm hơn 18% GDP, cao
hơn đáng kể so với tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP của các nước xung quanh (tỷ trọng
ngành nông nghiệp trong GDP của Trung Quốc là 10,1%, của In-đô-nê-xi-a là 14,4%, của Ma-
lai-xi-a là 10,1% và của Thái Lan là 12,3%). Dù vậy, năm 2019, tỷ trọng ngành nông nghiệp
cũng đã giảm xuống còn 13,69% trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ không có quá nhiều sự thay đổi. 
Sự hợp tác, liên kết trong phát triển công nghiệp còn yếu, CNHT phát triển còn chậm,
sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên, phụ liệu… 
Sức cạnh tranh nền kinh tế còn thấp, năng suất lao động có khoảng cách lớn so với
nhiều nước và chậm được cải thiện.
Theo số liệu từ Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2018 - 2019 của Diễn đàn Kinh tế Thế
giới, nền kinh tế Việt Nam đứng thứ 67 trong số 148 quốc gia trong bảng xếp hạng, tăng 10 bậc
so với thứ hạng 77 trong năm 2012 - 2013. Việt Nam luôn nằm trong nhóm các quốc gia gần
thuộc nửa cuối bảng xếp hạng, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực Đông Nam Á (Ma-
lai-xi-a đứng thứ 27, Thái Lan đứng thứ 40, In-đô-nê-xi-a đứng thứ 50, Phi-líp-pin đứng thứ 64)
và còn một khoảng cách rất xa so khu vực Đông Á (Hàn Quốc, Nhật Bản). 
Mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn rất hạn chế.
Việt Nam đã thực hiện cải cách và mở cửa trong gần 30 năm, xuất khẩu liên tục được mở
rộng nhưng mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn
rất hạn chế. Hàm lượng GTGT của xuất khẩu còn thấp. Các mặt hàng có lợi thế so sánh cao vẫn
thuộc các nhóm sử dụng nhiều nguyên liệu, tài nguyên và lao động rẻ như nhóm hàng công
nghiệp nhẹ (da giầy, thủ công mỹ nghệ…), nhóm nông sản, thủy sản. KẾT LUẬN
Sau hơn 30 năm đổi mới và thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đã
thu được nhiều thành tựu to lớn, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá,
thúc đẩy công tác xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, quá
trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua cũng đang bộc lộ những hạn chế nhất
định như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
chậm, năng lực cạnh tranh so với các nước trong khu vực còn thấp, chất lượng nhân lực chưa
cao, hệ thống kết cấu hạ tầng còn chậm phát triển.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan rộng ra toàn cầu như hiện nay, Việt
Nam muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải thực hiện những giải
pháp mang tính đồng bộ, phải quyết liệt chuyển đổi mô hình kinh tế, nâng cao hiệu quả huy động
và sử dụng vốn; chú trọng quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, góp phần phát huy khả năng cạnh
tranh ở cấp độ quốc gia, địa phương, ngành, sản phẩm. Bên cạnh đó, cần chú ý nâng cao vai trò
định hướng của Nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội gắn với thu hút đầu tư của khu
vực tư nhân; tạo các cơ chế tài chính, hình thành các chính sách phù hợp khuyến khích đầu tư.
Chỉ khi thực hiện được cái giải pháp một cách hợp lý, đồng bộ và hiệu quả thì quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa mới càng được đẩy mạnh phát triển, đóng góp quan trọng cho việc xây
dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin.
2. Số liệu từ Tổng cục Thống kê, Viện Chiến lược và chính sách tài chính,… 3. Wikipedia.
4. Thông tin từ website Bộ Công Thương Việt Nam.